Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Phóng
sự
Chủ đề:
GS Nguyễn Xuân Vinh
Tác giả:
Hương Kiều Loan
thực hiện
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Để đánh dấu 25 năm di cư, nhóm New Horizon/Chân Trời Mới gồm
có một số sinh viên và chuyên gia trẻ Việt Nam, với sự bảo trợ
của Asian American Studies Center tại UCLA, đã xuất bản một tập
sách gần 200 trang đề là “25 Vietnamese Americans in 25 Years,
1975–2000” để giới thiệu 25 nhân vật Việt Nam đã có những thành
tích xuất sắc trong những lãnh vực chuyên môn của mình trong
những năm qua và đã có những đóng góp đặc biệt trong công cuộc
chung xây dựng một cộng đồng người Việt thịnh vượng ở hải ngoại.
Trong cuốn sách trình bày rất mỹ thuật người đọc được thấy những
tên tuổi đã làm vẻ vang cho người Việt ở Hoa Kỳ như:
Giáo sư Đinh Đồng Phụng Việt của Trường
Luật Khoa ở Đại Học Georgetown, người vừa được Tổng Thống Geoge
W. Bush bổ nhiệm làm Phụ Tá Bộ Trưởng Tư Pháp.
Nhà đạo diễn Tony Bùi với cuốn phim
tuyệt tác “Three Seasons” đã được nhiều giải thưởng cao quý ở Hội
Mùa Điện Ảnh Sundance năm 1999.
Phi hành gia không gian, tiến sĩ Trịnh
Hữu Châu là người đã bay trên phi thuyền con thoi Columbia của
Hoa Kỳ.
Cầu
thủ bóng bầu dục Nguyễn Đạt là người Việt đầu tiên đã được tuyển
vào hội nhà nghề Dallas Cowboys chơi môn thể thao này.
Bác sĩ giáo sư y khoa Nghiêm Đạo Đại là
người đã sáng chế ra những y thuật giải phẫu tân kỳ để ghép tụy
tạng.
Học giả
Huỳnh Sanh Thông là người đã được giải thưởng bác học John D. and
Catherine T. MacArthur qua công trình giới thiệu những thơ văn cổ
điển tuyệt tác của Việt Nam tới độc giả Anh ngữ.
Nhóm New Horizon đã dựa vào một danh
sách 150 người được đề nghị để lựa chọn ra 25 nhân vật được coi
như là những người làm gương mẫu cho thế hệ sau để giới thiệu
thành tích trong cuốn sách.
Một trong những người được coi như là
những tấm gương sáng cho giới trẻ đó là Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh,
người đã thành danh từ hồi còn ở trong nước. Ông là một thiên tài
đa dạng và có thể nói là một trong những người VN kiệt xuất của
nửa hậu thế kỷ 20 và sang đầu thế kỷ 21. Là một sinh viên giã từ
nghiên bút theo việc đao cung khi nghe tiếng gọi của sơn hà trong
cơn nguy biến, thời Đệ Nhất Cộng Hoà ông đã từng giữ chức vụ Tư
Lệnh Không Quân. Nhưng binh nghiệp chỉ mang lại tên tuổi cho ông
trong quân đội mà ông được người đời biết đến qua tài văn chương
xuất chúng đã giúp ông tạo dựng được tác phẩm “Đời Phi Công” là
một áng văn trác tuyệt đã thi vị hoá nghiệp dĩ của những người
hàng ngày trải cuộc đời bay trên mây trời để lo tròn nhiệm vụ
trấn không cho non sông. Ông lại còn là một nhà khoa học và giáo
dục và trong phạm vi này công nghiệp của giáo sư Nguyễn Xuân
Vinh, kể từ ngày ông giã từ binh nghiệp để trong hơn ba mươi năm
giảng dậy và nghiên cứu về toán học không gian ở nhiều đại học
tại Hoa Kỳ và các nước tiền tiến trên thế giới, đã ghi thêm sự
đóng góp quan trọng của người Việt Nam trong giai đoạn tiến triển
vuợt bực về sự thám hiểm không gian của loài người trong thế kỷ
vừa qua.
Qua
bài phỏng vấn này Hương Kiều Loan được hân hạnh giới thiệu tới
độc giả Hồn Quê thêm nhiều chi tiết về tài năng toàn diện của
giáo sư Nguyễn Xuân Vinh.
oOo
Hương Kiều Loan (HKL):
Trước đây HKL đã
được gặp giáo sư hai lần và cũng đã có nhiều lần nói chuyện với
giáo sư qua điện thoại và HKL nhận xét thấy giáo sư ít nói về
mình. Lần này HKL hy vọng giáo sư sẽ giãi bày tâm sự hơn và kể
nhiều về cuộc đời phong phú và đầy thi vị cuả mình để độc giả
biết rõ về những đóng góp của giáo sư cho khoa học, dân tộc và
nhân loại.
GS
Nguyễn Xuân Vinh (GS NXV): Đó chỉ là một thói quen của nghề
nghiệp. Về toán học, muốn chứng minh một định đề người ta chỉ
được dùng một số tối thiểu dữ kiện. Là phi công khi bay trên mây
trời, sự liên lạc vô tuyến cũng cần phải ngắn gọn. Tuy vậy những
thông tin bao giờ cũng phải chính xác. Vì vậy tuy quen nói vắn
tắt tôi cũng sẽ trả lời thật đầy đủ những câu hỏi của Kiều Loan.
HKL:
Mới đây HKL được coi một CD Rom
nói về giáo sư của Hội Khuyến Học ở Saint Louis trong đó có nói
là giáo sư mang nặng ba nghiệp dĩ là Nghiệp Bay, Nghiệp Văn và
Nghiệp Giá. Vậy HKL xin bắt đầu hỏi là vì sao mà giáo sư lại chọn
vào Không quân để vương lấy nghiệp bay?
GS NXV: Tôi vào trong lớp những học
sinh chuyên khoa, sinh viên đại học và công chức có khả năng văn
hoá được gọi động viên năm 1951 để theo học Khoá I, những Trường
Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định và Thủ Đức. Lúc đó tôi đã học được phần
đầu của văn bằng cử nhân toán học và ước nguyện của tôi là trở
thành một toán gia vì Việt Nam có rất ít người trong ngành này.
Lúc sắp ra trường ở Thủ Đức như là một sĩ quan công binh thì tôi
được biết là sẽ phải ở trong quân đội một thời gian bất định. Vì
vậy tôi xin thi kỳ tuyển sinh viên theo học Trường Sĩ Quan Không
Quân ở Salon de Provence bên Pháp để có dịp ra nước ngoài học hỏi
thêm. Sau ba năm ở Pháp và ở Maroc, 1952–1955, tôi được huấn
luyện thành một sĩ quan phi công, có bằng lái phi cơ hai động cơ
và thẻ trắng (carte blanche) để bay trời mù theo đúng tiêu chuẩn
của Không Quân Pháp. Cũng trong thời gian ở Pháp, tôi hoàn tất
chương trình cử nhân toán ở Đại học Marseille và cũng có thêm văn
bằng cao học để chuẩn bị thi tiến sĩ toán học.
HKL:
Hương Kiều Loan được biết là sau
này giáo sư cũng có bằng tiến sĩ quốc gia toán học. Như vậy giáo
sư cũng thi ở Đại học Marseille, và như thế vào năm nào?
GS NXV: Không, sự việc không giản dị
như vậy đâu Kiều Loan. Như tất cả những người cùng lứa tuổi,
chúng tôi lớn lên ở trong thời loạn và sự học luôn luôn bị gián
đoạn, không thể nào xếp đặt chương trình theo như ý của mình. Khi
tôi thi xong chứng chỉ cao học về Hình Học Cao Cấp ở Đại Học
Marseille là nơi gần Trường Không Quân ở Salon de Provence thì
tôi được gửi đi Avord, thuộc hạt Cher, để hoàn tất phần phi huấn.
Nơi đây chỉ cách Paris có hai giờ đi xe lửa nên tôi xin chuyển hồ
sơ về Đại Học Paris để ghi danh học chương trình tiến sĩ quốc gia
toán học. Lúc đó là vào năm 1954. Năm sau đó tôi học xong chương
trình sĩ quan phi công và phải trở về Việt Nam để phục vụ trong
quân đội quốc gia. Phải đợi cho đến năm 1972 tôi mới có dịp trở
lại Đại Học Paris để nộp luận án tiến sĩ quốc gia về môn toán
học.
HKL:
Đạt
được trình độ tiến sĩ quốc gia toán học ở Đại Học Sorbonne tại
Pháp quốc là một điều khó khăn vô cùng và HKL sẽ trở lại để hỏi
thêm giáo sư về điều này. Để hỏi tiếp về nghiệp bay và cũng để
chuyển sang những câu hỏi về nghiệp văn của giáo sư, xin người
phi công và cũng là nhà văn Toàn Phong cho biết chút ít về tác
phẩm Đời Phi Công, cuốn truyện mà HKL còn nhớ vào những năm cuả
thuở trung học ngày xưa, không một cô nữ sinh Trưng Vương nào lại
không biết đến cuốn truyện đó. Thưa giáo sư tác phẩm “Đời Phi
Công” đã được thai nghén trong trường hợp nào ạ? Theo HKL nghĩ
thì thật là một sự đặc biệt mà tác phẩm đầu tay của một nhà văn
trẻ lại được chọn để trao Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc cùng
năm với những nhà văn đàn anh đã thành danh từ nhiều năm trước
như các ông Vũ Khắc Khoan và Võ Phiến.
GS NXV: Đời Phi Công là một tuyển tập
những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là
sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người
hàng ngày bay trên gió mây trời. Tôi bắt đầu viết vào năm 1959 và
đăng mỗi tuần một kỳ, vào ngày thứ Hai, trên báo Tự Do là một
nhật báo có nhiều độc giả trên toàn quốc. GS Văn Khoa Phạm Việt
Tuyền là chủ nhiệm.
Giới trẻ thời đó hay đón đọc vì ai có
một chút mơ mộng cũng có thể tưởng tượng được rằng nếu sau này
trở thành phi công thì mình cũng có thể là người viết những bức
thư tâm tình đầy thi vị như thế này.
Những bài viết này cũng không phải là
những bài đầu tiên tôi đăng báo vì trước đó gần mười năm tôi cũng
đã là một thành viên trong nhóm Thế Kỷ và cũng đã viết nhiều
truyện ngắn tình cảm cho nguyệt san này. Cuốn sách đầu tay của
tôi là cuốn “Gương Danh Tướng”, là một tập sách nhỏ chưa đến 100
trang, do Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng in ra vào
năm 1956. Tuy sách in ra tới mười ngàn cuốn nhưng dạo đó tôi đang
làm phụ tá tùy viên quân lực tại Sứ quán Việt Nam ở Hoa Thịnh
Đốn, nên chỉ nhận được mươi cuốn và đem tặng ngay các thân hữu
nên không còn giữ được một bản nào.
Tôi viết cuốn “Gương Danh Tướng” khi
mới còn đang là một đại úy để nêu lên những đức tính cần phải có
của những người lãnh đạo trong quân đội. Cũng nhằm mục đích nêu
lên tình người và tình yêu tổ quốc và không gian của những người
nặng nghiệp bay mà sau này tôi viết cuốn “Đời Phi Công”. Nhờ sự
phổ biến sâu rộng của cuốn sách này mà giới thanh niên và sinh
viên hiểu biết thêm về Không Quân Việt Nam và chúng tôi đã tuyển
mộ được nhiều thanh niên ưu tú để gửi sang theo học những khóa
huấn luyện bay những phi cơ tối tân của Không Quân và Hải Quân
Hoa Kỳ.
HKL:
Thưa
giáo sư, không những Không Quân Việt Nam đã tuyển được nhiều
thanh niên ưu tú vào nghiệp bay này, mà... rất nhiều nữ sinh thuở
đó đã mơ có người tình là một chàng không quân hào hoa đó a. Trở
lại câu chuyện về văn chương, nghe nói khi ở trong nhóm Thế Kỷ
giáo sư có quen biết với nữ sĩ Tương Phố và được bà viết tặng một
bài thơ đã đăng trên báo. Giáo sư có thể kể lại cho độc giả nghe
một vài kỷ niệm với vị nữ lưu tiền bối đáng kính này không?
GS NXV: Nhóm Thế Kỷ có những người như
các anh Bùi Xuân Uyên, Viên Phong, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phạm
Khanh, Tạ Tỵ, Trọng Bình... toàn là những người có uy tín trên
văn đàn và là công hay tư chức có địa vị trong xã hội. Bà Tương
Phố chỉ gửi bài tới toà soạn chứ không đi họp đều như chúng tôi,
mỗi tuần một lần ở quán cà phê Tùng Lâm trên bờ hồ Hoàn Kiếm ở Hà
Nội. Thỉnh thoảng các anh lại tổ chức đi ăn nhưng tôi khi đó ít
tuổi nhất và còn là một sinh viên nên không phải đóng góp gì.
Bà Tương Phố hay dịch Đường Thi nên khi
nào được đọc một bài dịch đặc sắc tôi lại viết cho bà để góp ý.
Cũng vì vậy mà bà có cảm tình đặc biệt với tôi và khi được tin
tôi nhận được giấy động viên phải lên đường nhập ngũ bà viết một
bài thơ tặng với ý khuyên nhủ là những người thật có tài năng thì
không cần phải ra binh đao trận mạc mà cũng có thể đưa lại thái
bình cho sơn hà, xã tắc.
Có một điều đặc biệt là vào dịp đó có
một nghệ sĩ, danh thủ điêu khắc Trung Hoa sang mở triển lãm ở Hà
Nội. Ông ta có tài khắc tranh và chữ nhỏ li ti trên những miếng
ngà, phải soi kính hiển vi mới đọc được. Bài thơ của nữ sĩ Tương
Phố làm theo thể thất ngôn dài 16 câu được ông khắc trên một
miếng ngà to bằng ngón tay cái và gắn trên một tấm sơn mài đen để
treo trên tường.
Mãi năm sau tôi có dịp lại thăm bà ở
Nha Trang khi đó ở cùng với người con trai lớn là giáo sư Thái
Văn Châu, cũng là một bạn đồng nghiệp dậy toán nhưng lớn tuổi hơn
tôi, và được bà cho coi bảo vật đó. Bà Tương Phố là một nữ sĩ
được nhiều người mến mộ. Bà có cho tôi coi một cuốn sổ lưu niệm
có bút ký của nhiều danh nhân Âu và Á và bảo tôi ghi lại vài
dòng. Tôi nhớ là có viết hai câu thơ
“Người là danh sĩ đế đô,
Còn tôi nặng kiếp sông hồ phải mang”.
Câu viết ngày xưa không ngờ nay lại tả
đúng cuộc đời của mình vì mấy năm sau, tôi lên đường du học ở Hoa
Kỳ và từ đó đến nay sống cuộc đời xa quê hương triền miên, là
khách thăm viếng của nhiều nước trên thế giới.
HKL:
Trong trường hợp nào mà giáo sư
lại rời chức Tư Lệnh Không Quân để du học. Nếu theo đúng nghĩa là
khách sông hồ thì giáo sư đã tới thăm những nước nào? Tự mình đi
du lịch hay được mời thăm viếng ạ?
GS NXV: Tôi được bổ nhiệm vào chức vụ
Tham Mưu Trưởng Không Quân Việt Nam vào cuối năm 1957 và sang
tháng Hai năm 1958 được giao chức vụ Tư Lệnh Không Quân. Cho đến
tháng Tám năm 1962, khi tôi lên đường du học ở Hoa Kỳ thì tổng
cộng khoảng thời gian mang trọng trách cũng là gần 5 năm trời,
một thời gian có thể nói là lâu hơn thời gian trung bình bổ nhiệm
4 năm của các Tư Lệnh Quân Chủng các nước văn minh trên thế giới.
Tôi quan niệm nhận chức vụ chỉ huy
không phải là có được quyền hành mà là mang lấy trách nhiệm. Vì
vậy tôi tự chọn lấy một nhiệm kỳ và xin với Tổng Thống Việt Nam
Cộng Hoà cho được đi nước ngoài học hỏi thêm sau khi được Không
Quân Hoa Kỳ cấp cho một học bổng đặc biệt để theo học chương
trình tiến sĩ.
Từ nhiều năm qua, là giáo sư đại học
tại Hoa Kỳ, hàng năm tôi thường tham dự và được mời thuyết trình
tại những Hội nghị về hàng không và không gian quốc tế
(International Congress of Astronautics), luân phiên được tổ chức
mỗi năm tại một nước khác nhau.
Tôi đã dự họp ở hầu hết các nước có
chương trình không gian ở Âu châu như Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hoà
Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hung Gia Lợi và Do Thái. Niên học
1974–1975 tôi được mời sang làm khảo cứu và dậy học ở Pháp. Ngoài
ra có một lần tôi được mời làm tổng thư ký cho một khóa hội thảo
về Cơ Học Phi Hành Không Gian do cơ quan NATO tổ chức ở Lục Xâm
Bảo.
Ở Mỹ châu
tôi cũng đã được mời thuyết trình ở Gia Nã Đại và Ba Tây, và tất
nhiên ở nhiều đại học khác trên Hoa Kỳ.
Ở Á châu thì tôi đã tới thuyết trình
hay giảng dậy những khoá ngắn ở nhiều đại học hay cơ quan chính
phủ ở những nuớc Nhật Bản, Trung Hoa Quốc Gia ở Đài Loan, và Đại
Hàn; còn ở Úc châu thì tôi đã tới dự Hội nghị không gian họp ở
Melbourne năm 1998 và nhân dịp đó được Đại Học Queensland mời lên
thuyết trình ở Brisbane.
Có những nước khác ở Âu châu và Bắc Phi
châu tôi không kể ra đây nhưng cũng đã có dịp tới theo bước chân
giang hồ khi còn là một sinh viên ở Pháp. Trong thời gian làm Tư
Lệnh Không Quân ở Việt Nam tôi cũng đã được mời đi nhiều nước ở
Đông Nam Á và hai lần du hành sang Hoa Kỳ để thăm viếng nhiều căn
cứ không quân bạn có liên hệ kỹ thuật với không quân mình.
HKL:
Như thế thì có thể nói là giáo sư
đã tới thăm viếng và thuyết trình ở nhiều trung tâm khoa học hay
đại học danh tiếng trên thế giới. Nhưng ngoại trừ nước Hung Gia
Lợi, mà Hương Kiều Loan nghĩ là giáo sư đã tới thủ đô Budapest ở
bên dòng sông xanh Danube, không thấy giáo sư nói gì đến những
nước ở bên kia bức màn sắt.
GS NXV: Tôi nghĩ là Kiều Loan muốn nhắc
tới những nước còn theo chế độ cộng sản như nước Nga và Trung
cộng. Những nước này cũng là hội viên của tổ chức không gian quốc
tế với danh xưng là International Federation of Astronautics
(viết tắt là IAF), và như vậy họ cũng có năm đứng ra tổ chức Hội
nghị.
Tôi nhớ
là có một lần tổ chức ở Bắc Kinh, và một năm khác hội nghị tổ
chức ở thành phố Bangalore ở Ấn Độ. Hai lần ấy tôi không tham dự
vì không có những chuyến bay tiện lợi đi từ Detroit là phi trường
phát xuất từ Michigan là nơi tôi dậy học.
Hội nghị quốc tế thường tổ chức vào
tháng Mười mỗi năm, và nếu lịch trình kể cả những ngày họp và
những ngày đi đường mà kéo dài quá mười hôm thì rất khó cho tôi
thu xếp công việc với sinh viên vì môn tôi dậy không có người
thay thế.
Tôi
cũng nhận được thư mời sang dậy những khoá ngắn ở Hoa Lục, đúng
ra là một thư mời của Viện Bách Khoa Miền Tây ở Tây An và một thư
mời của Viện Khảo Cứu Hàng Không, thuộc Trường Đại Học Nam Kinh.
Trên nguyên tắc tôi đã nhận lời mời nhưng chưa có dịp thuận tiện
để sửa soạn lịch trình thăm viếng.
Ngoài ra tôi cũng có mấy bài khảo cứu
được dịch ra Nga ngữ và đăng trên báo khoa học ở nước Nga khi còn
là Liên Sô. Tôi cũng có cộng tác với giáo sư viện sĩ V. A.
Yaroshevskii thuộc Central Aerohydrodynamic Institute (viết tắt
theo tiếng Nga là TsAGI), là viện khảo cứu về khí động lực học
quan trọng nhất ở Moscow, trong một bài viết về lý thuyết thu hồi
vệ tinh và phi thuyền không gian vào bầu khí quyển của trái đất
và các hành tinh đã đăng trên báo kỹ thuật ở Nga.
Một khoa học gia khác là tiến sĩ A.
Filatyev cũng thuộc viện này, sau khi nghe một bài thuyết trình
của tôi tại Hội nghị không gian họp năm 1994 ở Juresalem, Do
Thái, cũng đã thu xếp để giáo sư viện sĩ German I Zagainov là
Tổng Giám Đốc của viện mời tôi sang thăm viếng để có dịp gặp gỡ
và thảo luận về cơ học không gian vói các giáo sư và nghiên cứu
gia của những viện TsAGI, Moscow Institute of Physics and
Technology (MPhTI) và Moscow Aviation Institute (MAI) là những
trung tâm giáo dục và kỹ thuật hàng không và không gian hàng đầu
ở nước Nga.
Thư mời gửi cuối năm 1994, và tôi cũng đã nhận lời trên nguyên
tắc. Cho tới nay, bước sang năm 2002, lời mời có thể mất thời
gian tính và ban giám đốc có thể thay đổi, nhưng điều này thật
không quan trọng. Tài liệu khoa học về hàng không và không gian
tôi đã viết cũng được biết đến nhiều ở Đông Âu. Nối lại nhịp cầu
để sang thăm viếng những trung tâm khảo cứu về khoa học không
gian ở những nước này thật cũng dễ dàng. Còn đi như là du khách
thì chọn dịp nào cũng được.
HKL:
Theo trong phiếu tiểu sử thì giáo
sư là người đầu tiên được cấp văn bằng tiến sĩ khoa học hàng
không và không gian của Đại Học Colorado. Tại sao giáo sư lại
chọn ngành này mà không học tiếp về toán học và tại sao giáo sư
lại chọn Đại Học Colorado thay vì tới những đại học khác có tiếng
tăm hơn như Đại Học Harvard?
GS NXV: Tình thực mà nói, nếu được chọn
trường thì dạo đó tôi muốn tới Đại Học Paris để hoàn tất luận án
tiến sĩ toán học đã bỏ dở nhiều năm vì công vụ. Nhưng tôi cần có
học bổng toàn phần trong nhiều năm cho một ngân sách về tiền ăn
ở, tiền sách vở và tiền học cùng những chi phí cần thiết cho một
sinh viên bậc cao học như để tham dự những khoá hội thảo chuyên
môn và điều này chỉ có Không Quân Hoa Kỳ mới có thể chu toàn
được.
Ngân
sách huấn luyện của họ cũng chịu sự kiểm soát của Quốc Hội nên họ
chỉ có thể ghi học bổng cho tôi để theo học ngành hàng không và
không gian mà thôi chứ không thể nào chứng minh sự cấp học bổng
cho một sĩ quan đồng minh để theo học chương trình tiến sĩ về
toán học được.
Mặt khác, các sĩ quan Hoa Kỳ được cử đi
học thêm những văn bằng cao học thường được gửi tới những Đại Học
công vì những nơi đó đã có sẵn Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Trừ
Bị (gọi tắt là ROTC) để lo việc hành chánh. Một lý do nữa để tôi
chọn Đại Học Colorado là nơi đó gần Căn Cứ không Quân Lowry ở
thành phố Denver là nơi tôi có thể tới để bay duy trì khả năng,
và cũng gần Trường Sĩ Quan Không Quân ở Colorado Springs là nơi
có nhiều sĩ quan cán bộ có trình độ tiến sĩ để trao đổi kinh
nghiệm.
Colorado là một miền cao nguyên, có núi non hùng vĩ, rất hợp với
bản tính trầm lặng của tôi. Phân Khoa Hàng Không và Không Gian ở
Đại Học Colorado đã có từ lâu, nhưng chuyên nhiều về kỹ thuật và
môn khí động học.
Làm khảo cứu thực nghiệm về những môn
này đòi hỏi nhiều dụng cụ tốn kém và chuyên viên trợ giúp nên
trước tôi chưa có sinh viên nào đạt được trình độ tiến sĩ. Cùng
với năm tôi tới thì Đại Học Colorado mời được nhà bác học người
Đức là tiến sĩ Adolf Busemann là người được mệnh danh là cha đẻ
của phi cơ cánh xuôi, cũng là đồng nghiệp nhưng lớn tuổi hơn của
tiến sĩ Wernher von Braun ở Trung Tâm Hỏa Tiễn Peenemunde trong
Thế Chiến II, và hai khoa học gia trẻ vừa tốt nghiệp tiến sĩ tại
California Institute of Technology là Đại Học nổi tiếng bậc nhất
thời bấy giờ về kỹ thuật hàng không và không gian.
Một trong hai vị ấy là tiến sĩ C.
Forbes Dewey, đã cùng với giáo sư Adolf Busemann nhận bảo trợ
luận án cho tôi và sau hơn hai năm làm việc không ngừng nghỉ tôi
đã hoàn tất công trình nghiên cứu và trở thành người đầu tiên
được cấp văn bằng tiến sĩ về môn Khoa Học Hàng Không và Không
Gian của Đại Học Colorado. Sự kiện lịch sử này đã được ghi trong
cuốn sách “Proud Past, Bright Future” xuất bản năm 1966 nói về
lịch sử của Trường Kỹ Thuật của Đại Học Colorado. Trường này, vì
toạ lạc ở tỉnh Boulder là nơi có National Bureau of Standards
(viết tắt là NBS) và National Center for Atmospheric Research
(viết tắt là NCAR) là hai Trung Tâm nghiên cứu khoa học quan
trọng của Chính Phủ Liên Bang, nên cũng thu hút được nhiều nhân
tài về khoa học cho ban giảng huấn. Năm 2001 giải Nobel về vật lý
học cũng về tay một khoa học gia của NBS và một giáo sư của Đại
Học Colorado.
HKL: Sau khi tốt nghiệp, giáo sư đã được mời ở lại trong ban
giảng huấn ở Đại Học Colorado. Trong trường hợp nào giáo sư lại
tới Đại Học Michigan?
GS NXV: Trong thời gian là sinh viên
tiến sĩ ở Colorado, tôi được mời dậy một khoá về môn cơ học.
Những bài giảng của tôi in ra để phát cho sinh viên đã được giáo
sư E. V. Laitone, lúc đó là chủ nhiệm phân khoa hàng không ở Đại
Học California ở Berkeley, trong một kỳ tới Colorado để thanh tra
mỗi ngũ niên và chuẩn định trường kỹ thuật, chú ý tới vì ông cho
là những tài liệu có giá trị có thể in thành sách được.
Ông mời tôi tới hỏi chuyện và ngỏ ý
muốn mời tôi dậy ở Berkeley như là một giảng sư (Lecturer), và
cũng hứa với tôi là khi nào có ghế giảng huấn chính thức ông sẽ
đề nghị cho tôi vào ngạch giáo sư.
Làm lecturer thì mỗi năm lại phải có
giấy bổ nhiệm lại nên tôi nhận lời mời của Đại Học Colorado làm
assistant professor vì như thế ít ra cũng được hạn kỳ ba năm để
cho mình có thời gian chứng tỏ tài năng.
Theo luật lệ thì sau ba năm, nếu người
giáo sư trẻ phát triển điều hòa thì được bổ nhiệm thêm ba năm nữa
trước khi có hội đồng duyệt xét cả ba phương diện về dậy học,
khảo cứu và phục vụ để quyết định sự thăng cấp lên associate
professor.
Nếu
được thăng cấp thì sự bổ nhiệm lần tới sẽ thành vĩnh viễn. Bằng
không thì mình bắt buộc phải nghỉ việc sau khi được gia hạn thêm
một năm. Trong trường hợp của tôi thì chưa hết hạn ba năm tôi đã
được Đại Học Michigan, là một đại học rất có tiếng tăm trong và
ngoài nước mời tới làm associate professor.
Tới đó chỉ bốn năm sau, nghĩa là vào
năm 1972 tôi đã được thăng cấp giáo sư thực thụ (professor) là
ngạch cuối cùng trong ngành giảng huấn. Sự thăng cấp như vậy có
thể gọi là rất nhanh chóng. Để đáp tạ sự tri ngộ của giáo sư
Laitone, trước khi đi Michigan, vào năm 1967 tôi cũng đã tới
Berkeley để dậy một khoá học trong dịp hè. Sau đó tôi vẫn giữ
liên lạc với ông và chúng tôi đã viết chung với nhau mấy bài khảo
cứu.
HKL:
Hương Kiều Loan tuy cũng ở trong ngành giáo dục nhưng không rành
rẽ cho lắm về sự thăng thưởng ở bậc đại học. Giáo sư có thể cho
độc giả biết vì sao lại được thăng cấp nhanh chóng như vậy không?
GS NXV: Cuối năm 1998 khi tôi quyết
định về hưu để chuyển hướng hoạt động nhiều hơn về văn hoá thì
Hội Đồng Nhiếp Chính (Board of Regents) tại Đại Học Michigan đã
đồng thanh chấp thuận một bản tuyên dương công nghiệp giáo dục và
khoa học của tôi và trong đó có ghi rõ những kỳ thăng cấp. Nếu ai
đọc thì cũng thấy rằng đó là một tiến trình kỷ lục tại một trong
những đại học hàng đầu ở Hoa Kỳ. Nhưng để đạt được như vậy tôi đã
cố gắng hoạt động không ngừng nghỉ trên cả hai phương diện giáo
dục và khảo cứu. Tôi là một trong số rất ít người được tặng cả
hai giải xuất sắc về giáo dục và xuất sắc về khảo cứu của Trường
Kỹ Thuật ở Đại Học Michigan. Mỗi lần được đề nghị thăng cấp là
phải có một hội đồng gồm bốn vị giáo sư thâm niên hơn và khi lập
hồ sơ họ lấy cả ý kiến của những nhà giáo dục và khoa học gia ở
các đại học khác và trong kỹ nghệ nữa. Sau khi lấy đầy đủ mọi dữ
kiện, ba thành viên trong hội đồng sẽ viết phúc trình về ba
phương diện giáo dục, khảo cứu và phục vụ của ứng viên và đưa ra
toàn thể phân khoa gồm những giáo sư có thâm niên hơn để lấy biểu
quyết trước khi chuyển đề nghị thăng cấp lên ông khoa trưởng và
ủy ban thường vụ khoa. Sự chấp thuận của ủy ban này được coi như
là chung kết tuy rằng nghị định thăng cấp bao giờ cũng phải do
ông viện trưởng đại học đưa ra hội đồng nhiếp chính để lấy chấp
thuận. Hồ sơ đề nghị để được cấp giải giáo dục xuất sắc hay khảo
cứu xuất sắc cũng làm như vậy, nhưng quyết định là do hội đồng
khoa.
Những lề
luật về thăng cấp hay tưởng thưởng như vậy rất là dân chủ; những
người được lựa chọn bao giờ cũng xứng đáng vì đã được sự tín
nhiệm của các bạn đồng nghiệp. Mặt khác ở cạnh ông khoa trưởng có
hội đồng thường vụ do các giáo sư bầu ra và ở cạnh ông viện
trưởng có hội đồng nhiếp chính do dân chúng bầu ra. Những quyết
định quan trọng phải qua những hội đồng này chấp thuận. Vì vậy dù
có sự nâng đỡ đặc biệt của ông chủ nhiệm phân khoa hay ông khoa
trưởng chăng nữa mà tự mình không chứng tỏ được tài năng thì cũng
không đứng vững lâu được trong ngành giáo dục ở bậc đại học.
HKL:
Giáo sư là một khoa học gia đã
hoạt động trong ngành hàng không và không gian hơn ba mươi năm và
đã được mời giảng dậy tại nhiều đại học trên thế giới. Hương Kiều
Loan được đọc một bài của Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do, là một nhà
văn và cũng là một giáo sư toán, trong đó nói rằng giáo sư đã
viết được hai cuốn sách và hơn tám mươi bài khảo cứu về toán học
và khoa học không gian cùng đào tạo được nhiều sinh viên tiến sĩ
trên thế giới. Nhân dịp này giáo sư có thể kể cho độc giả biết đã
đóng góp được những gì cho cơ quan không gian Hoa Kỳ? HKL cũng
xin hỏi thêm là trong những sáng tác về khoa học, điều gì giáo sư
cho là quan trọng nhất.
GS NXV: Bài viết của giáo sư Nguyễn
Khánh Do được đăng trên cuốn “Theo Ánh Tinh Cầu” là cuốn truyện
ký sự của tôi xuất bản năm 1991. Theo bài giới thiệu thì tôi đã
viết ra hai cuốn sách về khoa học không gian với những tựa đề là
“Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics” và “Optimal
Trajectories in Atmospheric Flight”. Những cuốn sách này giờ đã
bán hết. Năm 1993 tôi có viết thêm cuốn sách với tựa đề là
“Flight Mechanics of High–Performance Aircraft”. Cuốn sách này do
nhà xuất bản Đại Học Cambridge ở Anh Quốc xuất bản và sau khi in
ra đã được nồng nhiệt đón nhận và năm 1995 nhà xuất bản lại cho
ra ấn phẩm với bìa mỏng để làm sách giáo khoa.
Trong những năm qua, khi tiếp súc với
giới trẻ ở khắp năm châu, tôi thường được hỏi là tôi đã cộng tác
thế nào với Nha Quản Trị Hàng Không và Không Gian Quốc Gia
(National Aeronautics and Space Administration, gọi tắt là NASA),
và trong quãng đời làm công tác khoa học, sáng tác nào đã làm tôi
thích thú nhất. Trong dòng họ tôi, có rất ít người ra làm quan
và, trong các tổ tiên, những người đỗ đạt dù có xuất chính rồi ít
lâu sau cũng cáo quan về nhà dậy học. Cũng vì vậy mà từ khi ra
trường tôi đã đi theo những bước chân của các bậc tiền nhân mà
chọn con đường giáo dục. Trải hương thơm theo gió, tôi muốn hoàn
trả lại bốn phương những gì tôi đã thâu thập được trong cuộc đời
tầm học, và như thế dậy học và viết những tài liệu khảo cứu là
con đường hữu hiệu nhất để thực hiện điều này.
Một khi đã quyết tâm theo ngành giáo
dục và khảo cứu, tôi cũng phải hành xử theo như các bạn đồng
nghiệp khác để được ở cùng một bình diện với họ. Ở các đại học có
một thành ngữ mà ai cũng ghi nhớ là “Publish or Perish” có nghiã
là không công bố được trên sách báo chuyên môn những sáng tác hay
những kết quả khảo cứu của mình thì sẽ bại liệt.
Tuy chính thức là ở trong ban giảng
huấn nhưng trên thực tế các giáo sư được đánh giá qua những kết
quả khảo cứu, được thể hiện bằng những bài đăng trên những báo
chuyên khoa, những cuốn sách đã xuất bản, và những lần được mời
đi thuyết trình ở các đại học trong và ngoài nước hay ở những hội
nghị tầm vóc quốc gia và quốc tế.
Muốn làm khảo cứu, tìm ra những điều
mới lạ, ở một thời đại văn minh tuyệt đỉnh, ai cũng cần có một
ngân khoản, thường thì do một cơ quan quốc gia, hay một xí nghiệp
đài thọ, và muốn xin được những tài trợ này giáo sư phải sẵn có
một uy tín trong lãnh vực của mình, nghiã là đã phải có một số
những bài khảo luận đăng trên sách báo, và muốn viết được những
bài này lại cần phải có những phuơng tiện để làm khảo cứu nghiã
là phải có ngân sách để quản lý. Trong cái vòng lẩn quẩn đó,
nhiều người không tìm ra đầu mối bắt đầu từ đâu, và đã phải giải
nghệ, nghiã là đi tìm cách tiến thân theo con đường khác.
Tôi cũng đã trải qua những năm thử
thách đó trong xã hội rất mực cạnh tranh ở Hoa Kỳ, và trong phần
vụ nghiên cứu cũng đã xin được những ngân khoản khảo cứu của các
cơ quan chính phủ và kỹ nghệ tư. Những kết quả khảo cứu, hoặc
được đăng trên các nguyệt san khoa học và kỹ thuật như những bài
khảo luận, hay dưới hình thức những bản báo cáo chuyên ngành, đều
được phổ biến qua các thư viện chuyên môn trên toàn thế giới. Một
số những báo cáo chuyên môn tôi viết ra, hoặc đứng tên một mình,
hoặc làm chung với các bạn đồng nghiệp hay các môn sinh, đã được
Không Quân Hoa Kỳ (USAF), hay NASA là những cơ quan đã trợ cấp
ngân khoản, in ra như là nhũng tài liệu chuyên môn (technical
document hay technical report).
Những tài liệu này đều có thể tìm được
ở các thư viện, hay gửi mua ở Clearinghouse for Federal
Scientific and Technical Information địa chỉ gửi về là
Springfield, Virginia 22151.
Ngoài ra một số những sinh viên tiến sĩ
do tôi đào tạo ở Đại học Michigan, nếu không đi theo đường giáo
dục cũng làm việc cho kỹ nghệ và cũng có những người làm việc
trong những phòng khảo cứu của Không Quân Hoa Kỳ (USAF) hay cơ
quan NASA. Một trong những người ấy là tiến sĩ Jennie R.
Johannessen, một nữ chuyên gia rất xuất sắc làm việc cho cơ quan
Jet Propulsion Laboratory thuộc Đại Học Caltech ở Pasadena,
California, là trung tâm điều khiển vệ tinh thám sát Thái Dương
Hệ. Bà đã là người quản nhiệm nhóm tính quỹ đạo cho vệ tinh nhân
tạo Galileo bay lên thám hiểm Mộc Tinh.
Trở lại câu hỏi là tôi thấy thích thú
nhất về sáng tác nào thì thật khó trả lời vì trong khi làm về
khoa học tôi để chen vào một chút văn nghệ tính, và giống như một
họa sĩ vẽ tranh, tôi không hay sao lại một tác phẩm nào đã thực
hiện trước đây. Vì vậy khi đọc lại bất kỳ bài viết nào đã đăng,
mỗi bài có một vẻ đẹp khác nhau làm tôi vẫn thấy hào hứng như lần
đầu tiên tìm ra được phương pháp giải bài toán này còn ở trong
vòng bí hiểm.
Tháng tám năm 1994, tại hội nghị thường niên toàn quốc về cơ học
không gian của American Institute of Aeronautics and Astronautics
họp ở Scottsdale thuộc tiểu bang Arizona, ở bữa tiệc chính có vào
khoảng một ngàn kỹ sư và khoa học gia danh tiếng tham dự, tôi
được mời lĩnh giải Mechanics and Control of Flight cho năm ấy.
Ngoài bằng tưởng lục và một nút tròn để
đeo vào ve áo, tôi được ông Chủ Tịch đương nhiệm của Viện choàng
vào cổ tấm huy chương vàng danh dự. Ở một mặt tấm huy chương có
khắc hình chiếc phi cơ cánh đôi của hai anh em ông Wright chế tạo
và vết chân đầu tiên của phi hành gia Neil Armstrong in trên mặt
trăng, những hình vẽ biểu dương cho sự phát triển khoa học hàng
không và không gian Hoa Kỳ trong thế kỷ XX. Ở mặt bên kia có khắc
tên tôi và hàng chữ tuyên dương “For outstanding contributions to
the mathematical theory of optimal control, applied to the flight
mechanics of aerospace vehicles in the atmosphere and in space”.
Được tặng giải này trước hết phải có
những đồng nghiệp đề nghị, và sau đó được một ủy ban chọn lựa và
vì mỗi năm chỉ chọn một người nên cái hy vọng nhận được huy
chương này thật không bao giờ đến với ý tưởng tôi.
HKL:
Giáo sư
đã ở trong ngành giáo dục một thời gian lâu dài, học sinh theo
học có thể tới một vài ngàn người và số sinh viên tiến sĩ được
giáo sư đào tạo cũng không phải là ít. Họ là những người ở những
quốc gia nào và trong số những người ấy có nhiều người là sinh
viên Việt Nam hay không?
GS NXV: Sự ước lượng của Kiều Loan cũng
khá đúng. Phân khoa hàng không và không gian ở Đại Học Michigan
là một phân khoa lớn, có một lịch sử lâu dài. Lấy một vài thí dụ
là cả ba phi hành gia của chuyến bay Apollo 15 lên mặt trăng, là
những đại tá không quân David R. Scott, James B. Irwin và Alfred
M. Worden đều là cựu sinh viên của Michigan. Kỹ sư Clarence L.
(Kelly) Johnson là người đã vẽ những kiểu phi cơ F–104
Starfighter, và U–2 danh tiếng của Hãng Lockheed, ông đã tốt
nghiệp kỹ sư hàng không ở Michigan năm 1932, và được bằng cao học
năm 1933. Trong những năm tôi dậy ở đây tính trung bình thì năm
nào cũng có vào khoảng từ 50 tới 60 sinh viên tốt nghiệp cấp kỹ
sư, và cũng có vài chục người được cấp bằng cao học. Như vậy trừ
những năm tôi được nghỉ để đi làm giáo sư thỉnh giảng ở những
nước khác số lượng sinh viên đã theo học những lớp tôi dậy cũng
có thể lên tới gần hai ngàn người. Dĩ nhiên là phần đông những
sinh viên là người Mỹ nhưng ở bậc cao học cũng có tới một phần tư
là những sinh viên tới từ các nước khác, thường thì là từ những
nước ở Á châu nhưng cũng có một số sinh viên tới từ Âu châu.
Cũng vì thành phần sinh viên có tính
cách quốc tế như vậy mà trong phân khoa của tôi các giáo sư hay
được mời tới thăm viếng và giảng dậy ở các đại học khác trên thế
giới. Riêng tôi, ngoài sự được mời đi giảng dậy ở nước ngoài như
đã nói ở trên, vì những sách chuyên khoa của tôi được dùng ở
nhiều nơi nên đôi khi tôi được mời chấm luận án tiến sĩ ở những
đại học khác. Lấy một vài tỷ dụ là tôi đã được mời cho ý kiến về
những luận án tiến sĩ nộp tại Đại Học Princeton ở Hoa Kỳ, Đại Học
McGill ở Montréal, Gia Nã Đại, và Viện Khoa Học Ấn Độ ở
Bangalore. Cuối năm 1997 tôi được mời sang Pháp để dự trong ban
giám khảo chấm thi tiến sĩ toán học cho một sinh viên ở Institut
National Polytechnique de Toulouse.
Tôi không nhớ hết được tên những sinh
viên người Việt ở trình độ kỹ sư đã học ở phân khoa của tôi nhưng
tôi nghĩ là vào khoảng mười người trong đó cũng có vài chị. Tôi
nhớ có cháu Nguyễn thị Hà, vì là con một người bạn, ra trường đã
lâu và làm cho Hãng Boeing ở Seattle, và được trọng dụng. Được
cấp bằng tiến sĩ có anh Brian Nguyễn, nhưng anh theo học một giáo
sư khác không cùng môn với tôi. Một sinh viên khác cũng rất xuất
sắc là chị Nguyễn Khánh Lưu, nhưng sau khi được bằng cao học thì
đuợc cấp học bổng để làm luận án tiến sĩ ở Đại Học Colorado. Nay
Khánh Lưu làm việc cho Không Quân Hoa Kỳ và rất chăm về khảo cứu
nên tôi cũng hay gặp lại ở những hội nghị hàng năm.
Những sinh viên Việt Nam theo học ở
Michigan về kỹ thuật thường học những môn dễ kiếm việc như cơ khí
hay điện tử, và nhiều người đã đạt được học vị tiến sĩ. Trường y
khoa của đại học cũng được xếp hạng trong mười trường đứng đầu ở
Hoa Kỳ nên năm nào cũng có một vài anh chị tốt nghiệp bác sĩ y
khoa. Những môn khoa học khác như vật lý hay hóa học đều có người
Việt theo học tới tột cùng.
Nói chung thì thế hệ thứ hai của những
người Việt di cư, nghĩa là những con em của chúng ta hiện nay
đang ở lớp tuổi thanh niên, các anh chị đều có những thành quả
xuất sắc ở học đường và sau khi ra đời đã có những tiến bộ đáng
kể trong xã hội. Riêng trong những ngành y, nha, dược và nhãn
khoa thì, so với thành phần dân số, tỷ lệ tốt nghiệp khá cao đối
với các sắc tộc khác.
HKL:
Theo trong bài giới thiệu của nhóm
New Horizon thì trong gia đình của giáo sư các cháu đều học thành
tài. Vậy có em nào theo gót của giáo sư và trở thành khoa học gia
hay không? Còn về tiếng Việt, HKL chắc giáo sư cũng lưu tâm đến
sự hướng dẫn con em hướng về cội nguồn và tìm đọc những tác phẩm
trác tuyệt trong văn học nước nhà.
GS NXV: Tôi đã đi nói chuyện ở nhiều
nơi và lúc nào cũng lưu ý giới trẻ Việt trân quý ngôn ngữ của nòi
giống, như những người Do Thái và những người Hoa, dù trải qua
hàng mấy mươi thế kỷ sống rải rác khắp nơi trên thế giới mà họ
vẫn giữ được tiếng nói và chữ viết truyền đời. Vì vậy tôi luôn
luôn nhắc nhở con cái phải trau dồi tiếng Việt để ít ra là cũng
nói được lưu loát khi giao thiệp với người đồng hương.
Ở Đại Học Michigan tôi đã cùng với các
sinh viên và phụ huynh vận động cho tiếng Việt được giảng dậy như
là một sinh ngữ và từ mười năm nay những lớp học ấy do một cô
giáo phụ trách lúc nào cũng thu hút được một số đông sinh viên
Việt và Mỹ theo học. Còn về sự lựa chọn ngành học tôi để các cháu
trong gia đình tự tìm lấy môn nào thích hợp với năng khiếu của
riêng mình để theo đưổi. Cháu trai lớn của chúng tôi là một
chuyên gia về văn chương miền Nam của Hoa Kỳ. Cháu trai thứ hai
là một bác sĩ y khoa. Tiếp theo chúng tôi có một cháu gái tốt
nghiệp về quản trị và kinh doanh và cháu trai út sau khi có bằng
kỹ sư điện tử thì học thêm bằng cao học về tài chánh ở Đại Học
Chicago vì theo cháu đó là khuynh hướng của lớp trẻ Âu Mỹ bây
giờ.
HKL:
Bây
giờ HKL xin hỏi giáo sư một câu chót. Qua những bài báo đã viết
về Nguyễn Xuân Vinh như là một khoa học gia, Hương Kiều Loan được
biết là giáo sư đã được bầu vào Hàn Lâm Viện Không Gian Pháp Quốc
và Hàn Lâm Viện Không Gian Quốc Tế. Xin giáo sư cho biết là muốn
là hội viên thì phải làm đơn xin gia nhập, hay là phải có người
tiến cử, và sự chọn lựa như thế nào? Có phải vì giáo sư đã có
bằng tiến sĩ toán ở Pháp mà được mời gia nhập Hàn Lâm Viện hay
không?
GS NXV:
Tôi là một hội viên ngoại quốc của Viện Hàn Lâm Quốc Gia Hàng
Không và Không Gian (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace)
của nước Pháp. Viện này mới được thành lập năm 1983 dưới sự bảo
trợ của bốn vị Tổng Trưởng Quốc Phòng, Kỹ Nghệ và Khảo Cứu, Quốc
Gia Giáo Dục và Giao Thông.
Như tất cả các viện hàn lâm khác, số
hội viên rất giới hạn và theo quy chế khi thành lập chỉ dự trù có
sáu mươi hội viên người Pháp và ba mươi hội viên ngoại quốc mà
thôi. Ông chủ tịch viện viết thư chính thức mời hội viên mới sau
khi vị này đã được ba hội viên đề nghị và được toàn thể hội đồng
họp những khoá tam cá nguyệt bỏ phiếu bầu mỗi khi có ghế trống.
Tôi là người
Á châu đầu tiên được bầu vào ngày 15/05/1984 và người thứ hai là
tiến sĩ kỹ sư Bacharuddin Habibie được bầu ngày 18/04/1985. Về
sau ông trở thành Tổng Thống của Nam Dương sau nhiệm kỳ của ông
Suharto.
Những
hội viên Pháp được bầu vào đều là những ngôi sao sáng trong các
ngành kỹ nghệ, giáo dục và khảo cứu liên hệ đến hàng không và
không gian, nhưng cũng có những chính trị gia tên tuổi như cố thủ
tướng Michel Debré, ông cũng là viện sĩ Hàn Lâm Viện Pháp
(Académie Francaise) là viện văn chương uy tín nhất chỉ gồm có
bốn mươi vị được gọi là những ông hàn bất tử.
Ngoài ra viện cũng có những nhà văn tên
tuổi như Pierre Clostermann, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Feux du
Ciel” viết về những kỷ niệm không chiến và Albert Ducrocq là một
tác giả viết rất phong phú về khoa học. Họ đều là những người xưa
nay tôi hâm mộ, và nay được là bạn đồng viện của những bậc tài
danh ấy tôi lại thấy mình càng phải cố gắng hơn nữa.
Nhiều hội viên là những giáo sư đại học
có tên tuổi ở Pháp, nên tước vị tiến sĩ quốc gia không phải là
yếu tố quan trọng trong hồ sơ của ứng viên.
Viện Hàn Lâm Không Gian Quốc Tế
(International Academy of Astronautics) thì rộng lớn hơn vì bao
trùm vào khoảng sáu mươi nước, và trụ sở đặt ở Paris. Những nước
lớn như Hoa Kỳ thì có đông đại diện, tới vào khoảng gần một trăm
người, còn những nước nhỏ như Thụy Sĩ thì chỉ có một vài người
được bầu vào. Hồ sơ đề nghị cũng phải có ba người ký tên và mỗi
năm viện đưa ra một danh sách các ứng viên có đủ điều kiện để các
hội viên từ các nước gửi phiếu bầu qua đường bưu điện. Vì số ghế
trống mỗi năm chỉ vào khoảng một phần ba số ứng viên nên có nhiều
người có thành tích lỗi lạc được đề nghị mà vẫn bị lọt sổ mấy năm
liền. Viện có một nguyệt san khoa học tên là “Acta Astronautica”
và tôi đã được đề cử làm phụ tá chủ bút chuyên về cơ học vũ trụ
(Astrodynamics) trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1999 khi tôi
nghỉ hưu.
HKL:
Từ nhiều
năm nay giáo sư hằng lưu tâm tới tương lai của giới trẻ Việt ở
hải ngoại, và cuộc đời của giáo sư cũng là một trong những gương
sáng cho thế hệ tương lai noi theo. HKL được biết là Hội Khuyến
Học ở Saint Louis, Missouri cũng đã đặt ra một giải thưởng hàng
năm lấy tên là giải thưởng Truyền Thống Nguyễn Xuân Vinh. Để kết
luận xin giáo sư ngỏ đôi lời với độc giả về kỳ vọng giáo sư đặt
vào thế hệ trẻ tương lai của đất nước.
GS NXV: Thế hệ chúng tôi được lớn lên
trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước nên không được may mắn
như các bạn trẻ bây giờ. Các bạn hiện nay như những bông hoa tươi
thắm được nở rộ trên xứ người với muôn vẻ đẹp. Tôi mong mỏi các
bạn biết đến công ơn của cha mẹ, đã vượt qua bao nhiêu khó khăn
và trở ngại để tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự thành công của
các bạn. Đối với các bạn, sự thành công của cá nhân mình là điều
đáng quý, nhưng biết hướng về cội nguồn, nghe lời chỉ dậy của cha
mẹ, gìn giữ được những nét hay vẻ đẹp để tiếng nói, chữ viết và
văn hóa của dân tộc được truyền đời mới là điều làm ta hãnh diện.
Vòng giây giữa các thế hệ phải được nối tiếp. Khối người Việt ly
hương phải được kết hợp lại thành một tập thể quốc gia, để tranh
đấu cho tự do và dân chủ được thực hiện trên quê hương xưa và
trong thế kỷ này các bạn sẽ là những người lãnh đạo. Đó là điều
tôi kỳ vọng nơi các bạn.
HKL:
Xin cám ơn giáo sư đã dành cho
buổi phỏng vấn này. HKL xin thay mặt ban biên tập kính chúc giáo
sư và gia đình một năm mới an khang thịnh vuợng.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên quan
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh và Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang
Nhà bác học Alfonso Nguyễn Xuân Vinh: một đạo sĩ đi tìm kiếm Chúa
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh và chuyến bay cuối cùng
Viết về một người sắp ra đi
Phỏng vấn GS Nguyễn Xuân Vinh
Tìm nhau từ thuở
Trang Bài viết
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trịnh Tường Vân chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, July 17,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang