Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Xã Luận
Chủ đề:
nam–bắc VN
Tác giả:
Nguyễn Văn Lục
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
“Bản chất của chế độ ngụy
là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi
thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi.
Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì
mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn
một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân
Bắc Kỳ.”
–(Nhận xét của nhà phê bình văn học Hoài Thanh, sau 1975,
Hoài Thanh và vợ dọn vào Sài Gòn ở theo lời kể lại của nhà
phê bình Vương Trí Nhàn)
Phần Một: Miền Bắc: biểu tượng của hận thù
Miền Bắc, sau 1954, được gọi là Bức màn tre do những
hoàn cảnh xã hội, chính trị khắc nghiệt, khép kín. Kinh tế
sau 1975 kiệt quệ vì nhiều lý do chủ quan và khách quan. Sau
này phải nêu khẩu hiệu xóa đói, giảm nghèo. Chính những nhà
lãnh đạo miền Bắc cũng không ai nhìn nhận những lỗi lầm tày
trời này: Dân chúng trong Nam vốn dư ăn, dư mặc nay phải ăn
bo bo, khoai mì như tầng lớp dân chúng miền Bắc. Do thông
tin một chiều, họ che đậy, giấu kín riết rồi họ không hiểu
chính họ, hoặc hiểu mà không chịu hiểu thì làm thế nào họ
hiểu nếp sống, con người miền Nam được.
Học giả
Nguyễn Mạnh Tường viết: “Aucun sentence n’est prononcé.
Les communistes ont le gout de la clandestinité. Toutes les
décisions sont prises et appliqués dans un silence de mort.”
(Không có bản án nào được công bố. Người cộng sản
thường có thói quen che giấu. Vì thế các quyết định và việc
thi hành đều tuyệt đối bí mật) –(Nguyễn Mạnh Tường. Un
Ex–Communié. Hà Nội 1954–1991. Procès d;un intellectuel,
trang 229)
Sự tử tế của miền Bắc hầu như không
thể có theo như nhận xét của nhà phê bình văn học kỳ cựu
Hoài Thanh. Hơn ai hết, ông HT đã hiểu rõ chân tướng của dân
miền Bắc cũng như chính quyền ấy. Chính quyền cộng sản chủ
trương phân biệt Bạn–Thù dứt khoát, chính tà phải phân minh
vì chủ nghĩa Marx–Lénine là chân lý sáng ngời, tuyệt đối.
Thù thì phải bôi đen, triệt tiêu, và chỉ đáng được được gọi
là Thằng.
Đó là một nửa đất nước đã bị nhồi
sọ, bị đầu độc từ trên xuống dưới lâu nó trở thành quán
tính.
• Tỉ như Bác sĩ nhi khoa Nguyễn Khắc
Viện, người đã để nửa đời người sống bên Pháp, một trí thức
hàng đầu hiểu rõ văn hóa, hiểu rõ thế nào là tự do dân chủ
của nước Pháp. Vậy mà khi viết một bài so sánh Cách Mạng và
dân Sài Gòn đăng trên báo Nhân Dân đã ví von Cách mạng là
Sen, dân Sài Gòn chỉ là Bùn và ông NKV đã bị phản ứng dữ dội
từ giới trí thức Sài Gòn. Nguyễn Trọng Văn lên tiếng trên
báo Nhân Dân, nhưng bài của NTV dĩ nhiên đã không được báo
Nhân Dân đăng...
Điều đó trước tiên bày tỏ một lập
trường rõ rệt giữa Bạn–Thù và hàm ý sự khinh miệt. Cách mạng
tốt đẹp quá, thơm tho quá! Cách mạng là SEN. Dân Sài Gòn chỉ
là bọn rác rưởi thối tha, là đĩ hoặc điếm. Vì thế Dân Sài
Gòn chỉ là Bùn.
Không có Bùn làm sao Sen nở hoa. Chỉ
nhắc nhở ông có bài thơ:
“Trong
đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại xen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá sen
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn...”
Nhưng đối với cá nhân ông bác sĩ, điều quan trọng là: Chế
giễu như thế là đi đúng đường lối của chế độ.
• Tỉ
như Đào Duy Anh, sau 1975, một học giả ăn mòn bát đĩa cộng
sản, hiểu cộng sản từ chân tơ kẽ tóc, hiểu những mánh khóe
tiểu xảo. Vậy mà khi vào miền Nam gặp các trí thức trong
Nam, ông theo thói quen quán tính vẫn gọi xách mé: thằng
Diệm. Nhiều người lảng tránh ông. Đào Duy Anh là tác giả tập
ký: Nhớ nghĩ chiều hôm. Cuốn tập ký lược thuật các công
trình biên khảo của ông viết trong nhiều năm. Trần Huy Liệu
khuyên ông: muốn sống, muốn tồn tại thì liệu viết mà lách
nữa. Ở đây, quả thực ông đã thuộc bài do Trần Huy Liệu chỉ
dẫn. Tội cho tiếng tăm một học giả. Viết mà sợ, viết mà phải
lách vì sợ bị liệt vị, bị thổi còi!!!
Có thể đây chỉ
là một sự lỡ miệng, theo thói quen. Như một Lapsus linguae.
Nhưng nó cũng chỉ ra rằng gọi thằng Diệm là đúng đường lối.
Cũng chả trách được họ. Ông Hồ, theo ông Nguyễn Minh
Cần(1928–2016) kể lại trong những buổi họp đảng, có những
đồng chí tuổi 80 vẫn bị gọi là các chú theo cái cách cá mè
một lứa.
Nghĩ lại, tôi vẫn thấy tiếc nuối cho thời kỳ
vàng son nhân hậu của cha ông để lại như thời của vua Lý
Thánh Tông, thời trước thuộc địa. Nhà tù không phải là công
cụ để trừng phạt. Do chịu ảnh hưởng của Nho giáo, lấy cái
tâm, cái đức làm đầu. Nhà vua có lòng thương người chỉ thị
cho triều thần phải phát mền, chiếu, và gạo cho tù nhân vào
năm 1055:
“Sống
trong cung điện có lồng ấp than sưởi, và mặc nhiều áo ấm, mà
trẫm còn thấy lạnh. Trẫm hiểu nỗi khổ của người tù bị gông
cùm, không đủ cơm ăn, không đủ áo mặc ấm để che thân thể,
nhiều tù nhân chết một cách oan uổng trước khi bị luận tội.
Trẫm thương cho họ.”
–(Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư, tập I. Hà Nội 1972, trg 284)
Phải nhìn nhận với nhau rằng: thật không dễ để làm người
tử tế. Còn khó hơn làm người anh hùng. Bởi vì làm người anh
hùng chỉ là việc của một thời. Còn làm người tử tế là việc
của cả một đời.
Đất nước chúng ta do thời chiến tranh
1946–1954 và nhất là 1955–1975 đã tự đánh mất đi cái lòng
thương người, mất đi cái lòng tử tế. Ngoài cuộc chiến quân
sự bạo tàn mà mạng người như cỏ rác, còn có cuộc chiến tuyên
truyền ra rả mỗi ngày, đề cao cuộc chiến giải phóng, cứu
nước thần thánh. Nhiều nhà lãnh đạo miền Bắc còn để lại các
hồi ức như:
• Trần Cung, Bùi Công Trừng, Hà Phú Hải,
Văn Tiến Dũng, Xuân Thủy. Họ từng nếm trải cơm tù như Đỗ
Mười 5 năm tù Hỏa Lò, sau trốn thoát được vào năm 1945.
Nguyễn Văn Linh, hai lần ở Côn Đảo 1930–1935 rồi 1940–1945
và nhất là Hồ Chí Minh với “Nhật Ký trong tù”. Những bài học
cay đắng trong tù, được tích lũy thành một mối Nuôi Thù.
• Nuôi Thù ấy đổ lên đầu nhân dân miền Nam vốn hiền lành
và vô tư sau 1975. Trong các hồi ký đó, sự thật là bao
nhiêu? Pha chế thêm mắm muối bao nhiêu? Nào ai biết được.
Chỉ người trong cuộc mới biết được.
• Ngoài ra, còn
những người tù không thuộc phe cộng sản đáng kính nể đời đời
ghi ơn như Nguyễn Thái Học với Đời trong ngục, 1935 tiếp
theo là những nhân sĩ như Hồ Hữu Tường, Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế. Những người tù này được xã hội
kính nể nhất trong xã hội Đông Dương. Ngô Đức Kế được tôn
xưng là chí sĩ Ngô Đức Kế. Phan Chu Trinh được chính ông
Trùm thuộc địa Marius Moutet kính nể. Huỳnh Thúc Kháng được
một người thợ may biếu tặng cụ một bộ đồ không tính tiền.
(Đọc thêm tác giả
Peter Zinoman: The Colonial Bastille. A history of
Imprisonment in Viet Nam 1862–1940)
Về phía những người lãnh đạo cộng sản sau này như Đỗ
Mười, Xuân Thủy, Nguyễn Văn Linh, Văn Tiến Dũng đều là những
người nếm trải cơm tù. Chứng chỉ đi tù trở thành tấm thẻ bài
để họ đi vào cửa chính.
Sau này, vẫn thái độ hận thù,
miền Bắc vẫn tiếp tục ra rả luận điệu tuyên truyền với những
khẩu hiệu: gọi là Mỹ–Ngụy, Mỹ xâm lược, Thực Dân kiểu mới,
Giải phóng miền Nam...
Họ chỉ quên một điều là sau
lưng họ còn có Nga, có Tàu. Ai kéo xe tăng, đại pháo vào
miền Nam. Thế thì Ai xâm lược ai. Ai giải phóng ai? Miền Nam
có cần ai Giải phóng? Ai Ngụy hơn ai?
• Vì thế, có
lần ông Lê Đức Thọ và ông Xuân Thủy gặp phái đoàn miền Nam
–đại diện là nhóm phản chiến, lực lượng thứ ba– được ra thăm
miền Bắc, ở khách sạn Thắng Lợi. Ông Thọ nói rằng tiếng Ngụy
cần bỏ đi. Ông Xuân Thủy phụ họa: Bây giờ mà còn dùng chữ
Ngụy là mất dấu nặng. Là Nguy.
Và xin trích
dẫn văn bản chính thức của Cục báo chí xuất bản, số 06BCXB.
Kính gửi: Các cơ
quan Thông Tấn Xã, Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình, các Báo
chí Miền, Thành phố, và các Tỉnh.
Chấp hành ý kiến
của lãnh đạo, chúng tôi xin thông báo các đồng chí được rõ:
Kể từ nay, các bài viết đăng trên báo và phát trên đài,
ta nên thống nhất dùng chữ: Những người trong quân đội và
chính quyền cũ thay cho chữ: Ngụy quân và ngụy quân Sài Gòn
đã dùng trước đây.
Mong các đồng chí chú ý thực hiện
đúng.
Này 17 tháng hai năm 1976.
TM Ban lãnh đạo
Cục Báo chí Xuất bản.
(Ký tên và đóng dấu)
T.T.T
–(trích dẫn hồi
ký của Hồ Ngọc Nhuận Đời hay Chuyện về những người tù của
tôi, trg 52–53. Ông vừa mới qua đời 1935–2022).
Tưởng rằng từ nay tiếng Ngụy đã đi vào dĩ vãng. Gần nửa
thế kỷ, nó vẫn còn văng vẳng đâu đây.
Sự lăn xả nhập
cuộc như lên đồng trong chiến tranh lúc ban đầu cũng như sự
dứt khoát khước từ khi không còn chiến tranh của bà Dương
Thu Hương là một tấu khúc hoàn hảo của toàn thể xã hội miền
Bắc.
Bà Dương Thu Hương trả lời phỏng vấn đã tuyên
bố: “Tôi thuộc thế hệ
lớn lên trong ‘chân lý không bao giờ thay đổi’ rằng ‘nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một’, chỉ có Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội và chủ tịch Hồ Chí Minh
là quốc gia hợp pháp duy nhất trên toàn bộ mảnh đất hình chữ
S. Chính quyền Sài Gòn là bù nhìn. Rất lâu sau này, tôi mới
nghe danh xưng Việt Nam Cộng hòa.
Chỉ sau này nhiều
người trong số họ mới có thái độ phản tỉnh.”
Biện chứng vào và ra là thái độ của nhiều đảng viên kỳ
cựu khác –ước mơ lầm lỡ và bội phản– như tướng Trần Độ,
Hoàng Minh Chính, Nhật ký Tô Hải Hồi ký một thằng hèn, nhất
là nhà văn Trần Đĩnh với cuốn Đèn Cù.
Họ đã lột xác
trong đau đớn, bị khinh bỉ, tủi nhục, và nỗi cô đơn.
Tóm một lời: Khi biết được mình đã lầm lỡ thì tóc trên đầu
đã bạc phơ!
Phần Hai: về miền Nam với lòng tử
tế
* Lòng tử tế qua các bài học vỡ
lòng: Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư
Sách Quốc
Văn Giáo Khoa Thư xuất bản từ năm 1935 do Nha Học Chính Đông
Pháp. Soạn giả là các ông Trần Trọng Kim và các ông Nguyễn
Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Soạn...
Nó gồm 4 cuốn:
– Một cuốn cho lớp
đồng ấu tương đương lớp một,
– Một cuốn cho lớp dự bị
tương đương lớp hai,
– Cuốn Sơ Đẳng tương đương lớp 3, và
– Cuốn Luân lý Giáo khoa thư nói chung...
Nó thâu tóm toàn bộ các bổn phận làm Người tử tế. Nó bắt
rễ sâu trong tâm thức người Việt Nam trong cách ứng xử với
cha mẹ tổ tiên, với Trời đất, với thày dậy, với chính bản
thân mình, với họ hàng, bạn bè, với kẻ ăn người ở, dĩ chí cả
với súc vật. Nó như một gia tài đồ sộ, một thứ Văn Hóa Phi
Vật Thể (Văn hóa phi vật thể là những giá trị tinh thần như
Ca dao, Tục ngữ – khác với Văn hóa vật thể như Đền đài, lăng
tẩm. NVL). Văn hóa phi vật thể dành cho mọi người –không
trừ– từ ngoài Bắc trước 1954 và tồn tại trong Nam từ
1954–1975.
Lớp trẻ tiểu học coi như những bài học vỡ
lòng như hành trang chuẩn bị vào đời. Đây là những bài học
giản dị, dễ hiểu, mỗi bài đều tóm tắt bằng một câu ngắn gọn,
khắc in vào đầu mà nay chính bản thân tôi còn nhớ được như:
• Với Trời–Đất: Lạy Trời mưa xuống, Lấy
nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm
đun bếp...
• Với Cha–Mẹ: Công cha
như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một
lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con...
• Với Con Trâu và Người đi cày: Trâu ơi
ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta...
• Nó còn vô số các bài học thực tiễn khác như:
– Thờ cúng tổ tiên.
– Anh em như thể tay chân.
–
Xuân đi học coi người hớn hở.
– Một cây làm chẳng nên
non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
– Lá rành đùm lá
rách.
– Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.
– Thấy
người hoạn nạn thì thương.
– Không tham của người.
–
Có học phải có hạnh.
– Chớ nên nói xấu người.
– Không
nên hành hạ súc vật.
– Học trò đối với Thày. Nhất là
câu chuyện ông Carnot về thăm thày cũ dễ thương và cảm động:
“Thưa thày, con là Carnot đây... thày còn nhớ con
không?”
Nó được coi như cuốn cẩm nang hành trang cho
tuổi trẻ miền Nam vào đời.
Trong Hương rừng Cà Mâu
của nhà văn Sơn Nam, xb năm 1962, có truyện ngắn: “Tình
Nghĩa Giáo Khoa Thư” cho thấy hai người gặp nhau tình cờ, đã
từng học QVGKT nên họ hiểu nhau. Dấu ấn tình tự con người
bàng bạc trong thơ văn, trong nếp sống dân giã... của con
người Đồng bằng sông Cửu Long, nơi còn được gọi là Văn minh
miệt vườn.
Sau này, ở miền Nam
QVGKT
được đổi ra thành môn
Công Dân Giáo Dục
thời VNCH.
Nơi đây, tôi muốn bày tỏ riêng niềm tri ân
đối với miền Nam mà tiêu biểu là các thày cô giáo bậc tiểu
học đã cấy vào tâm hồn trẻ thơ của cả một lớp người trẻ
trong tinh thần Giáo Khoa Thư và Luân lý Giáo khoa Thư.
Không có họ, không có QVGKT thật khó có lòng tử tế.
Miền Bắc ngay từ 1935 đến 1954 cũng được thừa hưởng gia tài
của QVGKT như miền Nam qua người dân Hà Nội... Rất tiếc, sau
1954, Sách QVGKT như nhiều tài liệu quý báu khác bị người
cộng sản Hà Nội quăng vào sọt rác. Thay vì yêu cha, yêu mẹ,
yêu tổ tiên ông bà. Thay vì yêu bạn bè, yêu súc vật thì nay
thay thế bằng một hình tượng mới: Yêu Bác Hồ. Trẻ con đêm
nằm mơ thay vì thấy Tiên thì nay chỉ thấy Bác Hồ.
Việc đầu độc đầu óc trẻ con như thế thật đáng xấu hổ.
Vì thế, mẫu người Người Tử Tế nay hiếm hoi ở miền Bắc.
Động một tý là chửi bới, đâm chém theo luật giang hồ. Xã hội
miền Bắc đảo lộn mọi trật tự về cha con, vợ chồng, bằng hữu.
Nay thay bằng mẫu Người Anh Hùng đủ loại. Mẫu người anh hùng
ở miền Bắc thì nhan nhản ngoài đường phố. Ra đầu ngõ là gặp.
• Mẫu người Tử tế trong xã hội và chính quyền miền Nam.
Miền nam có cái may mắn là được kế thừa lòng tử tế truyền
lại. Vì thế, lãnh đạo chính quyền có các chính sách khoan
hồng, hòa giải như chính sách binh vận, dân vận, nhất là
Chiêu Hồi. Chính sách đó không hẳn là chính trị, nó vượt
trên chính trị mà căn bản, nó dựa trên tình tự tình người
như tình nghĩa đồng bào, tình nghĩa xóm làng, gia đình, họ
hàng, bạn bè. Hiện tôi còn giữ trong tay tài liệu ghi rõ sự
quan trọng của chính sách Chiêu Hồi thời Đệ nhị Cộng Hòa: Bộ
Thông Tin và Chiêu Hồi. Đánh nhau là truyện bất đắc dĩ.
Chiêu Hồi mở đường cho sự gia nhập, hòa giải.
Cho
nên, các tình tự con người trong các chính sách đó được coi
trọng hơn là lập trường chính trị nhất thời.
Xin nêu
ra một vài trường hợp được kể lại: Có lần nhà thơ Cung Trầm
Tưởng nói với Tướng Kỳ, một tướng võ biền đòi đem máy bay bỏ
xuống miền Bắc, vào năm 1968. Thanh Nghị vào khu. Cung Trầm
Tưởng nói với Tướng Kỳ cho phép anh đưa chị Tâm Vấn (vợ
Thanh Nghị), sau này bà Tâm Vấn lấy Bác sĩ Nguyễn Đan Quế,
vào ở cư xá Không quân TSN. Tướng Kỳ đồng ý và thỉnh thoảng
hỏi thăm chị Tâm Vấn có khỏe không? Đó là tình người – người
vượt ranh giới chính trị.
Trường hợp Thanh Lãng cùng
với Nguyễn Văn Trung đi chiếc xe hơi từ Vũng Tàu về, bị lính
Mỹ lấy đá chọi chơi bể kiếng xe. Ông đã gửi thư đến tòa Đại
sứ Mỹ phản đối việc đó. Tòa Đại sứ đã viết thư xin lỗi và đề
nghị tiền bồi thường. Người Mỹ biết tôn trọng dân chủ, biết
tôn trọng luật pháp. Cứ giả dụ, thay vì lính Mỹ, đây là lính
Cộng sản miền Bắc thì liệu họ có bồi thường không?
Những người bạn cùng lớp với tôi thời sinh viên đại học Đà
lạt như Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn đều theo bên kia hầu
như công khai, nhưng vì tình bạn nên chúng tôi làm lơ, chả
ai tố cáo gì. Mà có tố cáo thì còn có thủ tục pháp lý, có
nhân chứng, có luật sư nữa.
Rồi còn những nhóm thành
phần thứ ba hàng vài chục người, thành phần phản chiến, hoạt
động công khai như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Chánh
Trung, Lý Quý Chung... có sao đâu!
Họ biết chắc một
điều: Phản đối cứ phản đối. Họ không sợ đến an ninh của họ
vì không có chuyện trả thù, không sợ công an chìm mò tới nhà
bắt cóc mang đi.
Tôi nghĩ miền Nam thua miền Bắc vì
cái tình người, cái lòng tử tế ấy.
Tôi hỏi và tự trả
lời. Những hoạt động như thế có thể xảy ra ở Hà Nội hay
không?
Vì thế, nhiều người phía bên kia do chính sách
Chiêu Hồi đã quay về với chính quyền miền Nam mà con số lên
đến vài chục ngàn người.
Tiêu biểu nhất có thể là nhà
văn Xuân Vũ (ông là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, rồi được
điều động vào miền Nam trên đường Trường Sơn. Rồi chấp nhận
chính sách Chiêu Hồi. 1930–2004), ông đã có trên 90 đầu sách
bao gồm truyện ngắn, truyện dài, hồi ký. Tôi đã từng đọc ông
một cách hứng thú với lối viết không dài dòng, trung thực mà
không tuyên truyền bịa đặt, xuyên tạc, cũng không phỉ báng
ai, dù là chế độ miền Bắc mà ông đã từng đi tập kết. Cuốn
Đường Đi Không Đến, tập hồi ký Vượt Trường Sơn đã được trao
giải thưởng văn chương toàn quốc, năm 1973.
Ngoài ra,
hiện tôi cũng còn giữ một tập tài liệu photocopy khá đặc
biệt nhan đề: “Bội phản hay chân chính”. Tác giả là cán bộ
nằm vùng tên Dư Văn Chất bị mạng lưới tình báo của Đoàn Công
Tác Đặc Biệt miền Trung Ngô Đình Cẩn giam giữ tại trại Lê
Văn Duyệt, đường Tô Hiến Thành. Sau 1975, những người bị tù
này được thả ra và chính quyền cộng sản không tin dùng, vì
bị lê Đức Thọ coi là: Có vấn đề. Có người bị nghi ngờ vu
khống, mất chức hoặc chết oan uổng sau 1975 chỉ vì câu nói
của Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức Trung Ương. Họ với họ
từng là đồng chí, nay nghi ngờ nhau.
Người cộng sản lại sợ
chính người cộng sản
Ông Dư Văn Chất đã viết tập tài liệu này để biện minh
cho việc họ vẫn trung thành với đảng. Ông viết: “Bằng tác
phẩm này, tôi muốn nói với Đảng, với người thân và bạn bè,
với người yêu và kẻ ghét, nói thay cho người đã chết, và cho
cả người còn sống. ‘Tập ký 233 trang đề 19 tháng 8 và 2
tháng 9, 1992 và tháng 7, 1993. Đặc biệt nhờ ông Trần Quốc
Hương (tức Mười Hương), có thời là UVTƯĐ, linh hồn của cục
tình báo viết thư tay cho Anh Hai Tân, phó bí thư Thành Ủy
và anh Tư Sang, phó bí thư Đảng Ủy TP. HCM, yêu cầu cho xuất
bản’. Không được bị từ chối. Họ đành in phocopy 100 bản và
đây là một trong những bản ấy”.
Xin trích dẫn một
phần tập tài liệu đề cập đến trại giam Lê Văn Duyệt của ông
Ngô Đình Cẩn.
Những sự kiện như thế là một thực tế có
thật, chỉ có thể xảy ra ở miền Nam mà không thể nào xảy ra ở
miền Bắc.
Sau này, với các trại Tập Trung Cải tạo một
lần nữa sự độc ác, sự dã man của chế độ Hà Nội.
Tôi
dám gọi các trại cải tạo ấy là một thứ tội ác chống lại con
người. Ngụy quân, ngụy quyền bị nhồi sọ, tẩy não. Họ bị Giam
không xét xử. Không thời hạn. Có người bị giam đến 17 năm
tù. Đó là một thứ nghĩa địa chôn vùi cuộc sống của người tù.
Tất cả là một sự tính toán tinh vi, tàn bạo để con người
chết chậm, chết dần dần đến tàn tạ. Nhiều người khi được thả
về chỉ còn là một tấm thân tàn phế như một phế vật.
Vì
thế, tôi mới ngộ ra, các nhà văn miền Bắc có từ: Sống mòn.
Gớm thay, tội ác của cộng sản. Người miền Nam khó có thể
quên được.
• Lòng tử tế của miền Nam còn rộng
mở đón nhận những tinh hoa từ miền Bắc.
Điều
này càng cho thấy đất Bắc không thực hiện được lòng tử tế,
vì toàn bộ miền Bắc bao phủ cuộc chiến với hận thù với xác
quân thù. Quân thù nào, là ai? Chúng ta cứ thử nghe bài quốc
ca –còn được gọi là Tiến Quân Ca do Văn Cao sáng tác– được
coi là linh thiêng, là linh hồn của tổ quốc với nội dung rực
lửa kể từ ngày 2 tháng chín năm 1945 đến nay đã hơn 70 năm!:
“Đoàn quân Việt Nam
đi; Chung lòng cứu quốc.
Bước chân dồn vang trên đường
gập ghềnh xa
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước.
Súng
ngoài xa chen khúc quân hành ca.
Đường vinh quang xây xác
quân thù.
Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu
Vì
nhân dân chiến đấu không ngừng
Tiến mau ra xa trường.
Tiến lên. Cùng tiến lên
Nước non Việt Nam ta vững bền.”
Bài hát xem ra không hợp thời nữa. Đáng nhẽ phải đổi.
Bản thân người viết đón nhận những nhà văn miền Bắc
trong tâm tình tử tế và kính trọng. Những nhà thơ, những
nhạc sĩ như gia tài chung của Việt Nam mà không chút nề hà.
Những nhà văn lớp Nho học còn sót lại như Ngô Tất Tố. Ông
từng đả kích những ông quan đầu sỏ như Hoàng Trọng Phu, Phạm
Quỳnh: “Ấy thế mà ông chủ bút Nam Phong chỉ nhảy đánh
vọt một cái lên làm được ghế Thượng Thư bộ giáo dục, bàng
quan ai cũng phải ngạc nhiên. Người ta tưởng tượng như đứng
trước một trò rất phi thường trong rạp xiếc.”
–(Phê bình Văn Học, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Tất Tố, Tô
Hoài, trg 149).
Ông viết Việc Làng, Lều
Chõng. Nhưng Tắt Đèn là tác phẩm hiện thực xuất sắc nhất với
hình ảnh chị Dậu. Tôi đã có dịp đọc tất cả trong sự say sưa
và nể phục. Rồi những nhà văn như Trần Tiêu (tác phẩm Con
Trâu), ông là em ruột Khái Hưng.
Rồi một lượt những
nhà văn như Nguyễn Tuân với Chùa Đàn, Tóc chị Hoài, nhất là
Vang Bóng Một Thời mà theo Vũ Thư Hiên ông được coi như bậc
thầy của ngôn ngữ: “Chữ nào ông dùng cũng đắt, khó thay bằng
chữ khác”. Rồi đến Tô Hoài, Nguyên Hồng. Tôi còn giữ Tuyển
tập Nguyên Hồng, xb 1985. Đọc mà ngậm ngùi. Tô Hoài với Dế
Mèn phiêu lưu ký (1941), Ổ chuột, Xóm Mới, Nhà nghèo.
Cũng phải kể đến thi sĩ Hồ Dzếnh với những bài thơ lục
bát mượt mà. Nói chi đến Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Khái Hưng, Nhất Linh trong các giáo trình của các lớp trung
học đệ nhị cấp của VNCH trước 1975. Lưu Trọng Lư còn đình
đám hơn với bài Tiếng Thu, chỉ có 9 câu được phổ nhạc:
“Em không nghe mùa
thu.
Dưới trăng mờ thổn thức.
Em không nghe rạo rực.
Hình ảnh kẻ chinh phu.
Trong lòng người cô phụ.”
Nhạc có Văn Cao sánh vai cùng với Trịnh Công Sơn, Phạm
Duy một thời. Nhưng số phận ông cũng hẩm hiu mặc dầu là
người sáng tác ra bài Tiến quân ca.
Nhưng trước hết
và hơn cả là Nam Cao. Ông đã thênh thang vào ngưỡng cửa
trường đại học văn khoa Sài Gòn với truyện ngắn Chí Phèo.
Đến ngay những nhà văn nổi tiếng một thời như Mai Thảo, Doãn
Quốc Sĩ, Võ Phiến của miền Nam cũng không có được cái vinh
dự ấy.
Trong khi số phận những nhân tài đất Bắc, số
phận họ ra sao? Họ đều phải Tự kiểm duyệt, nơm nớp sợ bị
thổi còi như Nguyễn Tuân, như học giả Đào Duy Anh, như Văn
Cao, và rất nhiều văn nghệ sĩ khác...
Văn học miền
Bắc đã có cắm cột mốc: muốn làm gì thì làm, nhưng không được
động đến chính trị. Tôi nghĩ đến một xứ chột bị bịt mắt, bịt
mồm. Đời sống thì lao đao túng bấn như Văn Cao, Nguyên Hồng,
Tô Hoài.
Số phận những trí thức, nhà văn miền Nam ấy
ra sao sau 1975?
Còn ra sao nữa! Bị truy dập, bị tù
đày. Cả 200 giới văn nghệ sĩ Sài Gòn đều bị bắt đi tù, đi
cải tạo.
Mà cái tội chỉ vì cầm bút.
Như Vũ
Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Tạ Tỵ, nhà văn
Thảo Trường, Nguyễn Thụy Long, và nhiều người khác, v.v.
Trong số đó có Nguyễn Văn Trung. Theo Nguyễn Văn Trung
viết lại, một người trong Ủy Ban Quân Quản ĐHVK Sài Gòn nói:
“Chúng tôi không bố trí anh dạy học vì không thích hợp với
cách chúng tôi đang thực hiện và để anh tự ý nghiên cứu theo
lối nhìn của anh, thì những công trình nghiên cứu của anh sẽ
ích cho đất nước nhiều hơn”.
Nhưng nếu không dạy học,
không có lương lấy gì mà sống?
Đã hết đâu, ba năm
sau, ông bị bắt giam, kết tội là: Phản động, C.I.A. cho Mỹ
(có thể bị tử hình hoặc chung thân). Vào chiều ngày
14/6/1978, một toán công an đến đọc bản án và xét nhà, ông
đã chỉ cho họ vác tài liệu để họ lấy mang đi đầy một xe La
Dalat. Sáng hôm sau, một xe tải lớn đến tịch thu kho sách
trên sân thượng. Nhưng nghĩ thế nào, họ lại thôi. Chỉ niêm
phong. Ông bị biệt giam một mình. Ngày ngày chỉ viết các bản
tự khai. Sợ quá tưởng chết, ông viết chúc thư xin lỗi bạn
bè, nhất là bà con anh em ruột thịt về những lời nói việc
làm của ông. Con trai trưởng của ông chứng kiến cảnh bố bị
bắt giam nên đã quyết định tìm đường vượt biển và đã sang
định cư ở Canada.
Làm C.I.A. cho Mỹ mà NVT không nói
được một câu tiếng Mỹ. Phải nhờ Đặng Tiến hay Nguyễn Hữu
Thái thông dịch. C.I.A. nào nó mướn?
6 tháng sau, bất
ngờ ông được trả tự do ở sở công an với lý do: Tạm tha vì lý
do sức khỏe...
Từ Phản động đến tha là một điều không
hiểu được.
Phần tôi, ngay từ hồi còn trẻ ở Hà Nội,
trước 1954, tôi đã từng chứng kiến xác những người đàn ông,
đàn bà, chết cong queo, ám khói đen, vì cộng sản gài mìn
trên đường số 5–Hà Nội–Hải Phòng.
Lúc mới 5, 6 tuổi,
ở nhà quê, tôi đã nhìn thấy xác ngươi bị bỏ rọ, trương phình
như lợn quay vập vờ đập vào kè đá cửa sông Đáy.
Những
hình ảnh ấy đập vào trí não tôi, không phai mờ.
Tôi
đã ghi lại những hình ảnh ấy trong một bài viết: Câu truyện
của một dòng sông.
Đúng như nhà văn Bùi Ngọc Tấn tâm
sự: “Có lẽ lại phải
viết thôi. Viết về tuổi trẻ bị đánh mất. Viết về tuổi già
xót xa tuổi trẻ. Về nỗi xót thương nhau trong những trái tim
mệt mỏi, những mái đầu bạc đang tính đếm những ngày còn lại.”
(Trả lời phỏng vấn với nhà
thơ Phạm Tường Vân trong dịp cuốn “Chuyện kể năm 2000” vừa
được xuất bản).
Dù sao, sau này ông NVT cũng có được một câu để đời
giống vài người như Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức.
Lý
Chánh Trung trên báo Tuổi Trẻ, năm 1988 có viết một bài về
môn học triết lý K. Marx mà trước đây ông đã trót từng ca
tụng thì nay ông chế giễu “Về
một môn học mà thày không muốn dạy, trò không muốn học”.
Còn dân biểu Đối lập Ngô Công Đức thì thẳng thừng hơn: “Tôi
có hai điều không ưa. Đó là tôi không thích những người công
an. Tôi cũng không thích người Bắc Kỳ”.
Nguyễn Văn Trung thì văn hoa hơn: “Tham
gia cách mạng là tham gia vào một quá trình tự hủy diệt sau
này”.
Phần tôi, tôi khẳng định triệt để, tôi giã từ người cộng sản
ngay từ khi bước lên máy bay từ phi trường Gia Lâm di cư vào
miền Nam năm 1955. Và sau này cả đời tôi cho đến bây giờ.
Bởi vì họ
thiếu tình người. Bởi vì họ không là những người tử tế.
Nguồn: Sự khác biệt
giữa hai miền Nam–Bắc là lòng tử tế – Nguyễn Văn Lục
1.
đàn chim việt
2.
tiếng quê hương
3.
bảo vệ cờ vàng
AUDIO: VT
1.
https://www.youtube.com/watch?v=eEXa-htwSfo
2.
https://www.youtube.com/watch?v=GchUYXOWrwE
Nguyễn Văn Lục
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by lý trung tín chuyển
Đăng ngày
Chúa Nhật, May 4, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH