Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
phố núi cao
Ngày QL/19/6/2024 – LIX/59
Tác giả:
Võ Ý–K17/VBĐL
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tôi từ Phi Đoàn 110
Đà Nẵng thuyên chuyển về Phi Đoàn 114 Nha Trang đầu năm 1965 và
tôi biết Pleiku qua những kỳ biệt phái.
Lúc bấy giờ, Không Quân Pleiku đồn trú
trong phi trường Cù Hanh, được gọi là Căn Cứ 92 Chiến Thuật,
trách nhiệm phòng thủ vòng đai phi trường và điều động các phi vụ
yểm trợ hành quân thuộc lãnh thổ Quân Khu II.
Do đà phát triển của Không Lực, khoảng
cuối năm 1971, Căn Cứ 92 Chiến Thuật biến thành Không Đoàn Yểm Cứ
Pleiku, đồng thời Không Đoàn 72 Chiến Thuật (KĐ72CT) ra đời và
tôi thuộc quân số của đơn vị tân lập tại cái xứ nắng bụi mưa sình
này.
Bất cứ
một quân nhân thuộc bất cứ Quân Binh Chủng nào, khi nói đến
Pleiku là nghĩ ngay đến một địa danh đầy bất trắc và buồn tẻ. Chỉ
cần nghe âm thanh “Pleiku” là đã mường tượng được vẻ rùng rợn
hoang tịch và kỳ bí của núi rừng. Cho nên có thể nói, Pleiku là
tận cùng, là đáy của 4 Vùng Chiến Thuật!
Ở địa đầu giới tuyến dù sao cũng còn
Huế cổ kính thơ mộng, Đà Nẵng phố thị rộn ràng, phố cổ Hội An một
thời thương thuyền tấp nập. Còn Pleiku, dù nơi đây có bản doanh
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II trấn đóng, nhưng thành phố gì mà đi dăm
phút đã về chốn cũ, nắng thì bụi, mưa thì sình, đâu đâu cũng gặp
toàn lính là lính...
Đã là đáy, là tận cùng thì xá gì những
ngày tháng trấn thủ lưu đồn, cho nên Pleiku
không thiếu những
lính ba gai, những quan bất mãn. Chỉ có những đơn vị “trừng giới”
mới dung nạp những “tay anh chị” này và lạ lùng thay, họ luôn
luôn lập nên những chiến tích lẫy lừng tại mặt trận Tây Nguyên dù
không ít nhiều gây nhức đầu cho các ông Quân Cảnh ở hậu phương!
Đúng, Pleiku là thành phố lính!
Người lính sinh quán từ khắp mọi miền
đất nước, có dịp lên Pleiku thi hành nghĩa vụ người trai, không
ít người nghĩ rằng, họ đi đày! Vậy mà khi nói đến Pleiku, những
lính ba gai, những quan bất mãn đó vẫn còn một chút gì để nhớ đến
là tại làm sao?
Không Quân Nguyễn Hữu Thiện, Sĩ Quan
Báo Chí Căn Cứ Không Quân Pleiku, đã nói về nỗi nhớ Pleiku như
sau: “Tôi nhớ tới một ngàn ngày đói rách ở Pleiku hơn là ba năm
phây phả ở Biên Hòa.” (LLDNCT, trang 363.)
Những cư dân Pleiku, sinh ra và lớn lên
trên mảnh đất quê hương, có lý do để yêu mến quê hương của họ.
Chúng tôi rất tâm đắc với tâm tình của thầy Nguyễn Đăng Dự, Hiệu
Trưởng và là Giáo sư các trường Trung Học Pleiku, qua Vạt Nắng
Bên Thềm:
“Có
những lúc ngồi trong thư viện, chồng sách trước mặt, nghe xí xa,
xí xồ chung quanh bằng một ngôn ngữ xa lạ, hồn tôi đã quay về với
căn nhà số 13 đường Yên Đổ, Pleiku. Con đường không tráng nhựa
lầy lội ngày mưa mà tôi ghét cay ghét nghiệt ngày nào, nhưng lúc
đó tôi đã thèm được trở về để lại được rón rén bước chân tránh
những vũng bùn. Tôi nghĩ tới ánh mắt buồn rười rượi của con chó
thân yêu. Tôi thèm được ngửi lại mùi hương thoảng nhẹ của bụi
hồng nhỏ góc vườn mỗi khi lách xe ra khỏi cổng trước khi đến
trường. Tôi muốn được chung quanh tôi là tiếng lao xao bằng một
ngôn ngữ Việt thân quen của các em học sinh trong những lớp học
ngày xưa!”
Qua
tâm tình trên thì một giáo chức đương nhiên yêu mến phấn trắng,
bảng đen và các học sinh của mình, nhưng vì sao vị thầy lại nhớ
cả mùi hương thoảng nhẹ của bụi hồng và con đường lầy lội trước
nhà? Phải chăng tấm lòng thương nhớ Pleiku cũng là một biểu hiệu
của nỗi nhớ nước, thương quê?
Cá nhân chúng tôi cũng rất yêu mến
Pleiku, nhưng không hẳn vì em Pleiku má đỏ môi hồng mà vì... muốn
học tính khí của Từ Hải! Xin mời nghe Từ Hải dỏm lý sự cùn: “Mỗi
người sống ở Pleiku và yêu Pleiku theo cảm nghĩ riêng. Tôi cũng
yêu Pleiku theo cách cảm nghĩ của riêng tôi. Pleiku là nơi chốn
tôi đã tình nguyện đến. Pleiku thách đố bổn phận và trách nhiệm
của một quân nhân. Pleiku đối với tôi còn là một địa danh để tôi
có cơ hội thể hiện cung cách phục vụ Quân Chủng thân yêu của
mình.” (LLDNCT, trang 363.)
Nhà thơ Du Tử Lê không phải mộng mị mà
viết lên rằng: “Vũ Hữu Định đã đội vương miện cho Pleku.” Với
vương miện này, bài ca “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” đã được hát ròng
rã khắp miền Nam từ 1965 và ròng rã trong các trại tù miền Bắc
sau 1975 cho tận ngày nay...
Ngày nay, khi nói đến sự hấp dẫn của
bất cứ một địa danh nào, người ta thường dùng mấy từ đi về, trai
gái, vợ con để nói về sức hấp dẫn của địa danh ấy; Cụ thể như
Pleiku đi dễ khó về / Trai đi có vợ gái về có con. Ví von như vậy
e chưa thuyết phục, vì chưa nói lên được cái quyến rũ đầy ma lực
và huyền bí của Pleiku.
Sự thực, Pleiku là cao nguyên phía Tây
Bắc của Việt Nam ở độ cao từ 600 đến 800 mét, Bắc giáp Kontum,
Nam giáp Daklak, Tây giáp Campuchea, Đông giáp ba tỉnh Quảng
Ngãi, Bình Định, và Phú Yên. Khí hậu nhiệt đới, chia hai mùa, mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4.
Nhiệt độ trung bình 21 đến 25˚C, dân số 237,000 người (2008) bao
gồm 28 dân tộc, trong đó người kinh chiếm 87%, các dân tộc khác
như Gia Rai, Ba Na... chiếm 13%.
Nhiều nhà quân sự vẫn cho Pleiku là
“mái nhà” của Đông Dương. Pleiku lại có ưu thế về thổ nhưỡng và
thời tiết, thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp như
cao su, cà phê, hồ tiêu, cây lâm sản đa dạng.
Chính thiên nhiên, sông núi, đất đai và
khí hậu... đã nuôi dưỡng nên con người Pleiku có một tính cách
riêng, tính cách của Pleiku: hồn nhiên, đôn hậu, thánh thiện, và
bình dị.
Rất
nôn nóng đợi ngày về với núi
Nghe vi vu
tiếng gió khe rừng
Mọi thứ quanh ta đều
thánh thiện
Và thánh thần bỗng hết
thiêng liêng.
(Dứt Cơn Mơ Ta Về Với Núi – Cao Thoại Châu)
Một đóa dã quỳ màu vàng chập chờn trên
núi hay ngả nghiêng trên con lộ quê; một chút lửa hồng bếp cũ
trong nhà sàn ngoài nương rẫy, gợi nhớ cái lạnh thiên cổ của Phố
Núi, có khi cũng là một thôi thúc quay về:
Nghe lòng mình cùng phố núi chao
nghiêng
Nai gõ móng trên thềm đá cũ
Nghe cả mừng vui buồn tủi
Dã quỳ ơi, anh
đã quay về...
(Dã Quỳ Rực Rỡ Dấu Chân Thơm – Cao Thoại Châu)
Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao
Lạnh
hàng cây, tửu quán, lạnh gần nhau
Lạnh
thiên cổ, lạnh vào tim máu cạn.
(Hoa Quỳ Vàng Lạnh Pleiku – Nguyễn Bắc
Sơn)
Sương mù,
buốt lạnh và nắng bụi mưa sình cũng là những nét tiêu biểu khắc
nghiệt của Pleiku mà khi đi xa, người dân Phố Núi thường hay nhớ
về:
Bây giờ ta
ở Pleiku
Thấy xanh đó núi thấy mù này
sương
Núi xanh còn ngỡ phố phường
Mù sương ngan ngát dễ thường dễ khuây.
(Ở Pleiku – Võ Ý)
Cũng có khi người Pleiku nhớ mông lung
giọt cà phê Dinh Điền một sáng chủ nhật mưa bay, nhớ cái cay hít
hà xé miệng của tô bún bò nhà xác, nhớ món hủ tiếu khô đậm đà
chơn chất, nhớ những hột bắp dẻo mà thơm của nương rẫy miền cao,
nhưng trong các đặc sản của Phố Núi, quý bà nội trợ làm sao mà
quên được món măng le Pleiku đã đi vào ca dao:
Ai về nhắn với nẫu nguồn
Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên.
Một điều hiển nhiên là khi yêu ai, ta
yêu cả đường đi lối về
(1) của người ấy. Vì người yêu của tôi ở
Pleiku, nên tôi yêu Phố Núi, yêu sân trường của nàng dù mưa sình
lầy lội.
Từ xa
xưa, Pleiku đã đi vào văn học sử. Rất nhiều bài thơ bài văn nói
về Pleiku, trước cũng như sau 1975. Ngoài Phạm Duy với ca khúc để
đời “Còn Chút Gì Để Nhớ”, cũng còn rất nhiều nhạc sĩ diễn đạt
những rung cảm của mình về Pleiku như Nhật Ngân (Lên Núi Tỏ
Tình), Phan Ni Tấn (Đứa Con Mê Núi, Pleiku Em Ở Núi Rừng), Hoàng
Khai Nhan (Phố Xưa), Trần Duy Đức (Khúc Mưa Sầu), Đăng Phương
(Cao Nguyên Tình Khúc), Nguyễn Nam Thư (Về Rừng Núi), Nguyễn Đức
Tri Tâm (Áo Trắng Ngày Xưa), Dương Thượng Trúc (Pleiku, Thiên Thu
Nỗi Nhớ), Tô Quốc Thắng (Nhớ Pleiku), v.v.
“Em Pleiku má đỏ môi hồng” đã trở thành
một gắn bó hiển nhiên với các cô gái sinh sống tại phố núi mù
sương, dù kinh dù thượng.
Biển Hồ và núi Hàm Rồng là những thắng
cảnh tiêu biểu của Pleiku.
Biển Hồ mênh mông không đáy, xanh thẫm
một màu. Trong chúng ta, hẳn có lúc
muốn “trầm mình” vào đôi mắt
biển hồ xanh thẫm của giai nhân, xem ra còn thi vị hơn là say xỉn
rồi nhảy xuống hồ để mò... trăng!
Không phải chỉ có tình yêu đôi lứa mới
thôi thúc người Pleiku tìm về với núi. Nhiều người quay quắt nhớ
về chiến trường xưa chỉ vì tình đồng đội sống chết bên nhau một
thời.
Một sự
thật hiển nhiên, tình yêu và nỗi chết ở Phố Núi là một gắn bó hữu
cơ.
Tình yêu
và nỗi chết đã biến thành ma lực, thành khát vọng tìm về.
“Mai xa lắc trên đồn biên giới”, là
người Pleiku đã mang mệnh biệt ly để ngày đêm mòn mỏi. Biết bao
chinh nhân đã hy sinh mạng sống để bảo vệ yên bình cho Pleiku và
biết bao xương máu của đồng đội tôi đã góp phần tô điểm rừng núi
Tây nguyên giữ mãi một màu xanh huyền bí.
Pleiku biến thành máu thịt của mỗi cư
dân Phố Núi tự bao giờ không biết.
Chiến trận ngày càng một khốc liệt,
không chỉ người lính ra trận mà toàn dân, không chỉ núi rừng hứng
chịu đạn bom mà bản làng cùng chia sẻ. Tin vui ở Pleiku thì ít,
tin dữ không dám nghe. Một quả pháo rơi là thấp thỏm lo âu cầu
khẩn...
Vì là
chốn lửa đạn, ngày đêm phải đối đầu với hiểm nguy và bất trắc,
nên dễ nảy sinh tình đồng đội, qua đó, địa danh Pleiku gắn liền
với kỷ niệm sinh tử trong tâm khảm những người lính chiến Cộng
Hòa.
Pleiku,
địa danh đi đày, trở thành niềm kiêu hãnh cho những chinh nhân
trấn đóng ở đó. Cũng có thể nói, chiến trường Tây Nguyên khốc
liệt và thân phận người lính, là một thể. Và đó là lý do để người
lính Cộng Hòa năm xưa lúc nào cũng nhớ về chiến trường xưa, nhớ
về thanh xuân gian truân mà hào hùng của mình:
Chào anh buổi sáng Tây Nguyên
Tay ngang tầm mắt đầu nghiêng cúi chào
Quốc kỳ phủ xuống công lao
Có bi đông
nước dựa vào xác thân
Nghĩ anh đi cũng
an phần
Xum xuê có trẻ bâng khuâng đứng
ngồi
Chị thì rũ tóc máy môi
Chào anh buổi sáng mắt tôi nhạt nhòa.
(Chào Sáng – Võ Ý, Pleiku 1972)
Kể từ khi có lệnh rút Quân Đoàn II về
duyên hải qua Liên Tỉnh Lộ 7B, khởi sự đêm 16 tháng 3 năm 1975
đến nay (2013) là đã 38 năm tròn. Rất nhiều đồng bào và đồng đội
từng chứng kiến cảnh kinh hoàng qua cuộc di tản chập chùng thảm
khốc và uất nghẹn này. Có thể do thôi thúc của tâm linh, Hội Ái
Hữu Phố Núi Pleiku ra đời năm 2010 và đã cử hành Lễ Tưởng Niệm
Liên Tỉnh Lộ 7B lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 3 năm 2015 (Thanh
Minh trong tiết tháng Ba) tại tượng đài Chiến Sĩ Việt–Mỹ
Westminster, CA. Đây là thuận duyên để người Pleiku vừa tưởng
niệm đồng đội đồng bào vừa “nhìn nhau bỗng thấy ra sông núi”
(2)
để hun đúc lại tình nước tình nhà.
Ba mươi tám năm qua, hình ảnh Liên Tỉnh
Lộ 7B chưa phai mờ trong ký ức người di tản Thy Lan Thảo, thuộc
Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị Pleiku:
Giã từ Cao Nguyên, giã từ Phú Bổn
Đây sông Ba sóng nước hãi hùng
Xác máu
lập lờ bên thép súng
Tàn quân tan tác lệ
rưng rưng...
Bao năm rồi – Tỉnh lộ 7B
Sắt son ai giữ được câu thề
Bao giờ rửa
được hờn sông núi
Hay vẫn chìm quên
trong lãng mê!
(Bao Năm Rồi –Tỉnh Lộ 7B– Thy Lan Thảo)
Tỉnh Lộ 7B đã đi vào chiến sử.
Tôi muốn vẫy vùng khỏi cơn lãng mê để
được ngủ êm đềm nhưng rất say với núi rừng. Trong giấc ngủ êm đềm
nhưng rất say đó, trí tôi vẫn mơ màng hình ảnh những chinh nhân
đi bảo vệ sự sống, từng xông pha khắp các chiến trường Tây Nguyên
khốc liệt năm nào, đã vùi thân trong lòng đất mẹ hay đang nấu
nung ý chí ở góc núi khe rừng đó đây... Và tôi nghĩ, đó là Ma Lực
Của “Phố Núi” Pleiku!
Võ Ý,
K17–VBĐL
Tác giả chú thích:
(1)
Ca dao: Yêu ai yêu cả đường đi.
(2)
Tựa một bài thơ của Du Tử Lê.
* Trích trong Tuyển Tập Bắc Đẩu Võ Ý, xuất bản tháng Giêng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nghiem nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, June 8, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang