Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
tình huynh đệ chi binh
Ngày QL/19/6/2024 – LIX/59
Tác giả:
Đỗ Đức Kỳ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thương tiếc Cố Thiếu tá Không Quân VNCH
Nguyễn Tuấn Dị, Phi Ðoàn 110 Quan Sát (PÐ 110 QS Thiên Phong),
SÐ1 Không Quân VNCH.
Anh đã chết bên cạnh tôi.
Từ lâu, tôi có ý tưởng muốn viết về một
người, một người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng hình ảnh còn ám ảnh
trong tôi. Người đó tuy xa lạ với mọi người nhưng rất quen thuộc
với các bạn ở các Phi đoàn Quan Sát, nhất là quý vị ở Trường Phi
Hành, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Riêng Không Đoàn
41, chẳng ai không biết đó là cố Thiếu tá Nguyễn Tuấn Dị, người
mà tôi hằng thương mến.
Vào năm 1965, tôi đã gặp và nói chuyện
với anh vài lần ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Anh là Huấn
Luyện Viên, sau đó anh du học Hoa kỳ.
Rồi năm 1967, tôi lại được gặp anh, lần
gặp gỡ này thật lạ lùng. Sau khi tốt nghiệp Hoa Tiêu Khu Trục ở
Hoa Kỳ về, tôi cứ nghĩ anh là người hùng Khu Trục AD6. Nhưng ngờ
đâu anh lại về Phi Đoàn Quan Sát với tôi, một Phi Đoàn tiếng tăm,
huy chương nhiều, mà xui xẻo cũng không ít.
Lần gặp gỡ này, tuy không bỡ ngỡ gì,
nhưng cảm tình giữa tôi và anh lại tràn đầy. Anh coi tôi như một
thằng em, vui buồn đều có nhau. Đáp lại tôi coi anh như một người
anh thật sự, tất cả tâm tư, thắc mắc đều nhờ anh chỉ bảo, nhất là
về chuyên môn trong ngành.
Về địa hạt này anh đúng là ông Thầy của
tôi, chính vì điểm anh thương tôi, nên anh đã chỉ hết tất cả
những kinh nghiệm trong suốt những năm tháng bay bổng trên vùng
trời miền Trung, núi rừng trùng điệp.
Một buổi tối, vào mùa mưa, anh đến gõ
cửa phòng tôi. Hồi đó chị và bé Hoàng chưa ra Đà Nẵng, hãy còn ở
Nha Trang, anh tâm sự với tôi:
– Kỳ ơi, anh nhớ chị và cháu quá, anh
nằm ngủ không được, mò sang nói chuyện cho đỡ buồn. Kỳ này, anh
nói thật đừng buồn nhé, mày với thằng H. hơi tốc kê đấy. Nhưng
anh lại thương hai đứa mày nhất đó. Anh coi như em út trong nhà
vậy.
Qua sự
cởi mở đó, anh và tôi cùng ngồi trên giường tựa lưng vào tường.
Sở dĩ có sự ngồi như vậy vì khu Cư xá Sĩ Quan độc thân của chúng
tôi tại Không đoàn 41 chẳng có bàn ghế gì cả. Một thằng vỏn vẹn
một giường sắt và một tủ đựng quần áo.
– Kỳ này, số tao Trời bắt ở Phi đoàn
Quan sát. Hồi ở Hoa Kỳ về, tao cứ tưởng thoát nợ chứ!
– Ờ, tại anh có duyên với Phi đoàn Quan
sát mà, anh đừng đổ tội cho Trời mà khổ to đó.
Khi nghe tôi nói thế anh chỉ mỉm cười
không nói. Lúc này mặt anh thật buồn, có lẽ một phần vì nhớ gia
đình, một phần câu chuyện mà anh tâm sự với tôi.
Trời Đông lạnh, gió thổi ào ào, và thêm
mưa rả rích trên mái tôn xi măng. Tôi biết anh đang buồn nên
không khơi chuyện gia đình anh và chuyển qua chuyện bay bổng...
Và chính đêm này anh đã kể lại cuộc đời
bay bổng của anh cho tôi nghe:
Hồi năm 1961, ra trường anh cũng chỉ là
Quan Sát Viên. Thời gian đầu anh dồn tất cả cho công việc khó
khăn này, vì anh nghĩ, một cuộc hành quân, thắng hay bại phần lớn
nhờ người Quan Sát Viên. Mặc dầu những bước đầu đầy bỡ ngỡ như
tôi trước đây, rồi dần dần quen đi. Làm Quan Sát Viên phải phán
đoán và nhận xét về vùng hành quân thật mau lẹ cần nhiều sáng
kiến, mới mong thắng địch dễ dàng.
Anh kể tiếp:
– Mày biết không, chính lần bị thương
đó, tình yêu của tao sao nó đẹp thế, nó tràn đầy thương mến, và
cũng mang nhiều hy sinh. Nó bao la như biển. Lần bị thương này
cũng nhiều nước mắt. Ngày đầu tiên chị đến thăm tao, tao khóc,
khóc thật đấy. Khóc vì mừng được nhìn lại người tao yêu sau 1 năm
xa cách. Khóc vì anh chưa cho chị hay, chị đã đến với anh một
cách bất ngờ, nhưng đúng lúc. Chị đã an ủi anh lần này thật
nhiều.
Tao
thương chị từ khi tao còn là Sinh viên Sĩ quan ở Quân trường. Hồi
đó chị mới 16 tuổi đẹp như mùa Xuân, tuổi của mộng mơ. Tao thường
trốn đi phố và cùng rủ chị trốn học. Hai đứa ra ngồi bờ biển nghe
sóng vỗ, nói chuyện tâm tình.
Rồi ngày anh bị thương, chị đã được tin
qua một người bạn, tức tốc chị xin phép gia đình vào Sài Gòn thăm
anh rồi ở luôn đấy săn sóc cho anh. Mặc dù lúc đó anh chị chưa
đính hôn, tình yêu cao cả ở chỗ đó.
Nói tới đây anh nhìn đồng hồ:
– Chà 12 giờ rưỡi rồi. Thôi, mày ngủ
đi, sáng mai còn đi biệt phái.
Anh đẩy cửa bước ra ngoài. Sau khi đóng
cửa và tắt đèn, tôi nằm một mình trong bóng tối, nghĩ đến tình
yêu của anh chị Dị, sao mà đẹp thế. Rồi chìm vào giấc ngủ.
Những ngày sống bình thản trôi qua.
Chính những ngày này càng làm đậm thêm tình giữa anh và tôi.
Mỗi buổi sáng cũng như tối, những ngày
mưa dầm, tôi và anh là những người chỉ thích cà phê đen, uống
nhiều đến nỗi, anh em trong Phi đoàn thường trêu: “Uống cà phê đã
đến lúc ngấm ra ngoài da rồi đó!”
Anh có nước da ngăm đen, bánh mật, đúng
nghĩa đen giòn, đen một cách duyên dáng, của những người phong
sương, nắng cháy.
Anh em trong Phi đoàn
cũng thường nói:
– Anh nào chưa biết mùi cà phê cô Dung
ra sao cứ việc lại gần anh Dị là biết ngay, khỏi cần xuống Câu
Lạc Bộ. (Cô Dung là cô bán Câu Lạc Bộ cho Phi Đoàn 110, đó cũng
là nơi tôi và anh, giờ rảnh rỗi ngồi uống cà phê).
Sau những ngày nhung nhớ vợ con, anh đã
cố gắng thuê một căn nhà nhỏ ở đường Lê Đình Dương, cho chị và
cháu ra ở cho vui.
Ngày vợ con anh ra, tôi không có nhà,
buổi tối đi bay về, tôi thấy gia đình anh đã có mặt tại căn phòng
chật hẹp của tôi rồi. Đúng là chiếm nhà bất hợp pháp, vì có vụ
chiếm nhà này, tôi đành phải đi ngủ lang thang mấy phòng thằng
bạn đã đi biệt phái.
Sau ít lần tiếp xúc, thường vào buổi
tối, cảm tình đã xâm chiếm trong tôi cũng như lần gặp lại anh Dị
vậy – nhất là bé Hoàng.
Nói về chị Dị, tôi không biết phải diễn
tả sao cho đúng sự thật khi tiếp xúc, chị là một người vui tính,
chính sự vui vẻ này, mà cảm tình của tôi dành cho chị thật nhiều.
Chị cũng coi tôi như em chị vậy. Chị đã kể cho tôi nghe những cực
khổ cũng như những vui buồn trong thời gian anh chị thương nhau,
lấy nhau, rồi bé Hoàng chào đời. Rồi anh đi du học và giờ đây lại
theo anh ra vùng hỏa tuyến này, phải bỏ tất cả những công việc
đang làm. Tôi nghĩ chị thật là một người đàn bà can đảm, một
người đàn bà theo đúng nghĩa Á Đông.
Hôm anh chị dọn ra phố, thật vui. Đồ
đạc vỏn vẹn vài xách tay, ít dụng cụ làm bếp và cái giường sắt
của Tiếp Liệu cho. Xe chuyên chở là cái xe Vespa cũ kỹ thời xa
xưa của anh, và cái xe Mini Lam của tôi, cái Vespa mà tôi thường
nói đùa:
– Xe
anh mang vô Viện bảo tàng được rồi đó. Có lẽ được giá anh ạ.
Anh đã vênh mặt lên trả lời với tôi:
– Tao cưng nó sau bà xã, đụng đến nó là
bỏ mạng sa trường nghe cưng. Từ nay cưng đừng có ngồi lên đằng
sau xe của tao nhé!
Mặc dầu mỗi lần đạp máy, nổ kêu ầm ầm,
nhưng mỗi lần đi đâu tôi đều được ưu tiên ngồi đằng sau anh. Còn
xe tôi để lại Phi đoàn, vì anh chê xe tôi yếu quá, trông không
hùng tráng tí nào. Tới đây tôi xin được tiết lộ bí mật rằng, mặc
dầu cũ kỹ nhưng mỗi lần anh đi biệt phái hay công tác, chị ở nhà
vẫn rửa và lau chùi bóng loáng.
Trở lại vụ dọn nhà của anh Dị và bé
Hoàng. Thật thảm hại cho cái xe bé nhỏ. Đằng trước chỗ để chân là
cái sắc, chị ngồi phía sau với một mớ xoong chảo, còn xe tôi chở
bé Hoàng. Phía trước mặt cũng không được tha, chở một sắc tay
chứa đồ lặt vặt. Hai anh em phải di chuyển hai lần mới “hoàn
thành công tác”.
Trưa hôm đó tôi ăn cơm với anh chị tại
ngôi nhà mới này. Bữa cơm đạm bạc nhưng vui và thật ngon miệng,
gồm cá kho và rau muống luộc.
Trong bữa ăn, chị xin lỗi vì chị mới ra
chưa quen chợ, chú ăn đỡ vậy. Bữa nào rỗi, chị mua món Nai đồng
quê làm cho hai anh em ăn.
Sở dĩ chị biết tôi thích món này vì anh
Dị kể cho chị nghe, những ngày anh mới tới đây, tôi có đưa anh đi
ăn món quốc hồn, quốc túy này ở Thanh Bình vài lần.
Ăn xong, tôi xin phép về phòng nghỉ,
buổi chiều tôi có phi vụ, thả truyền đơn, hơn nữa nhà chật đồ đạc
còn tùm lum, tôi có ở lại cũng chẳng có chỗ nào ngả lưng.
Kỷ niệm êm đẹp làm tôi nhớ mãi trong
kiếp bay bổng. Những lần anh và tôi cùng biệt phái tăng cường
Huế. Chúng tôi ít đi ăn cơm ở quán. Chúng tôi thường mua bánh mì,
nước ngọt và tré, vừa ăn, vừa kể chuyện hành quân, chờ giờ cất
cánh, như trận đánh Chợ Gạo, Thủ Thừa. Anh dạy tôi các mánh khóe
đánh lừa địch, buộc địch phải lộ diện.
Trong cuộc hành quân ở Ashau, một lần,
tôi hướng dẫn khu trục bằng trái khói pháo binh, anh đã chửi tôi
thậm tệ. Vì tôi lười một phần cũng vì tôi ngại xuống liệng trái
khói. Anh nói:
– Mầy sợ Việt cộng nó bắn hả? Lần sau ở
nhà, tao đi một mình. Sao mầy không kêu tao xuống, mầy thả trái
khói, nhờ pháo binh làm chi? Nguy hiểm cho mình và cả khu trục
nữa.
Hạ cánh
xong, khi còn ngồi trên tàu, anh giảng dạy thêm cho tôi biết về
nguy hại của sự dùng pháo binh. Vì pháo binh không chính xác,
nguy cho cả phi cơ đang bay cùng quân bạn rất gần mục tiêu.
Phải công nhận trong nghề bay bổng, anh
Dị là người rất hăng say. Không bao giờ anh từ chối một phi vụ
nào. Một lần đi tăng cường tại Huế, tôi cùng đi với anh, 5 giờ
rưỡi chiều, chúng tôi cất cánh từ Huế về Đà Nẵng, khi về đến đèo
Hải Vân, chỉ còn 5 phút nữa là hạ cánh.
Nhưng nhận được lệnh hành quân qua đài
Panama, phải ra Đông Hà hướng dẫn Phi tuần vì quân bạn đang bị
địch tấn công. Mặc dù đây là Phi vụ từ chối được, vì L19 phải về
đáp trước 6 giờ rưỡi. Hơn nữa L19 thiếu phi cụ để bay trong những
đêm không trăng sao của những ngày cuối tháng. Anh hỏi tôi:
– Kỳ, có thể đi được không mầy?
– Tùy anh, tôi sao cũng được.
Mặc dù nói thế nhưng tôi cũng thấy hơi
run trong bụng.
Khi hướng dẫn quân bạn chiếm mục tiêu
trong bóng tối xong, tôi nhìn đồng hồ đã thấy 9 giờ đêm.
Trên đường về chúng tôi bay thật thấp
để nhận địa thế và hướng đi. Anh lái, tôi làm công tác dò đường,
chỉ hướng đi và báo cáo vị trí con tàu với đài Panama.
Khi hạ cánh ở phi trường Đà Nẵng, tôi
thấy nhẹ người, đồng hồ chỉ đúng 10 giờ rưỡi. Có điều an ủi nhất
trong phi vụ này là sự lo lắng của thượng cấp cũng như anh em
trong Phi đoàn. Sự đón tiếp nồng nhiệt của Trung tá Tư Lệnh Phó,
Đại úy Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn và anh em ngay ngoài bến đậu phi
cơ làm chúng tôi cảm thấy hãnh diện.
Đối với anh em trong Phi Đoàn, anh luôn
luôn bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho anh em Phi hành, chính vì
cảm tình đó, toàn thể Sĩ Quan đều đồng lòng bầu anh là Chiến sĩ
CTCT đầu tiên của Phi Đoàn.
Khi đã là Chiến sĩ CTCT, đáng lý anh sẽ
ít bay bổng để lo công việc cho anh em, nhưng anh luôn luôn đi
bay và bay bất cứ phi vụ nào. Anh vừa bay vừa tranh đấu cho quyền
lợi anh em trong Phi đoàn. Đặc biệt từ khi là Chiến Sĩ CTCT, anh
hay đi tăng cường các Biệt Đội để biết các khó khăn về tinh thần
cũng như vật chất để giúp đỡ kịp thời.
Từ khi tôi về Phi Đoàn Quan Sát, tôi
nhận xét trong những người bạn hiền lành vui vẻ và dễ thương thì
anh là người được anh em trong phi đoàn quý mến nhất, cũng có
những người rời bỏ phi đoàn ra đi, cũng không quên được anh.
Riêng cái chết của anh Dị làm tôi xúc
động. Đến phút cuối cùng anh vẫn còn hy sinh để cứu mạng sống của
tôi. Trước khi từ giã cõi đời anh còn nói với tôi:
– Kỳ ơi, tao bị trúng đạn rồi...
Rồi anh gục trên cần lái!
Anh đã bị tử thương trong phi vụ hành
quân ở Điện Bàn – Hội An. Sau khi chúng tôi gây tổn thất nặng nề
cho bọn cộng phỉ bắc Việt, anh đã bị trúng đạn phòng không trong
lúc hướng dẫn quân bạn chiếm mục tiêu. Anh mất đi, để lại cho anh
em một sự tiếc thương vô vàn.
Phi Đoàn 110 nói riêng, Không Quân VNCH
nói chung, mất đi một Chiến Hữu gan dạ, một Người Chỉ Huy tư cách
và can trường./.
Đỗ Đức Kỳ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, June 16, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang