Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Chiến tranh VN
Nhân
ngày QL–19T6/2023
Tác giả:
Uwe Siemon–Netto
Dịch giả:
Lý Văn Quý
Lời giới thiệu:
BS Hoàng Thị Mỹ Lâm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Nhân Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực VNCH 19/6
Trong chương 5 Siemon–Netto ghi lại một
hình ảnh kinh hoàng của một gia đình Xã Trưởng gồm 14 người bị du
kích Việt cộng hành hình ở vùng Tây Nguyên xa xôi trước mắt dân
làng như một hăm dọa cho ai không theo Cộng: “họ từ từ giết cháu
nhỏ nhất trước rồi tới các cháu lớn, kế đó là vợ rồi ông Xã
trưởng; sự kinh hoàng không ngừng ở đó mà Việt Cộng đã hành hình
vị Xã Trưởng bằng cách cắt lưỡi rồi cắt bộ phận sinh dục nhét vào
miệng trước khi treo cổ; các người con trai của ông ta chỉ bị cắt
bộ phân sinh dục trước khi bị treo cổ. Người vợ và cô con gái thì
bị xẻ vú trước khi treo cổ. Sự dã man này được thực hiện như
người ta thi hành một bản án thường nhật”.
Cuốn sách
nguyên bản dày 306 trang với tựa đề “Duc, der Deutsche – Mein
Vietnam. Warum die Falschen siegten”, đã từng được các dịch giả
Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền dịch lại với tựa đề “Vinh Quang của sự
Phi Lý – Tình yêu của một phóng viên cho dân tộc Việt Nam bị bỏ
rơi”, do chính tác giả Uwe Siemon–Netto trong dịp đến Berlin nói
chuyện với Cộng Đồng Tỵ Nạn Việt Nam ký tặng đề ngày 23/3/2014,
được trân trọng để riêng trong tủ sách quý gia đình từ bấy lâu
nay. Mỗi lần lấy sách ra đọc lại tôi vẫn cảm thấy xúc động trước
sự đồng cảm, sự trân trọng quý mến dân tộc Việt Nam bị tổn thương
và phản bội trong dư luận quốc tế.
Tuy bản dịch tiếng Việt rất công phu
nhưng nguyên bản mới diễn tả được sự điêu luyện sắc sảo trong lời
văn ngôn từ và kỹ năng của người viết. Thoạt nhìn hình bìa thì ai
cũng tưởng đó chỉ là là một cuốn sách viết về một đề tài chiến
tranh khô khan, nhưng khi đọc người ta mới cảm nhận được sự thật
kinh hoàng của chiến tranh Việt Nam dưới cái nhìn của một Phóng
Viên Chiến Trường có lương tâm nghề nghiệp và sự ấm áp tình người
của một người từng đồng hành đồng khổ với người Việt miền Nam
trong trận chiến đó.
Ông Siemon–Netto là người Đức, sanh
ngày 25/10/1936 và có một thời thơ ấu hồn nhiên ở Leipzig. Thân
mẫu của ông là một Ca sĩ hợp xướng sau này sống ở Frankfurt. Ông
khởi nghiệp làm Phóng viên hải ngoại ở Luân Đôn cho hãng truyền
thông Đức Axel–Springer. Tại đây ông gặp người bạn đời Gillian
vào năm 1962, một cô gái người Anh vừa đẹp tính lại vừa đẹp
người. Hai người đã làm đám cưới vào cuối năm đó khi ông vừa 26
tuổi. Ngay sau đám cưới ông được hãng thuyên chuyển sang New York
làm Phóng viên chuyên về phóng sự chính trị tại Liên Hiệp Quốc.
Ba năm sau, đầu năm 1965, ông đặt chân lần đầu đến Sài Gòn với
nhiệm vụ Phóng viên chiến trường cho Axel Springer và tiếp tục ở
đây đến cuối năm 1969.
Cuốn sách “Duc, der Deutsche” là một
hồi ký, là những mảng ký ức sống động được chép lại năm 2014 khi
ông đã trở thành một nhà Thần học Tin Lành. Cũng nên nhắc lại là
sau khi bỏ nghiệp nhà báo, ông Siemon–Netto đã theo học về Thần
học và chuyển sang làm nghề chăm sóc tâm linh cho các cựu chiến
binh đã tham chiến Việt Nam tại Hoa Kỳ. Năm 1992 ông trình luận
án Tiến sĩ về Thần học và Xã hội Tôn giáo tại Đại học Boston.
Xuyên suốt cuốn sách có một câu tuyên
bố của Đại tướng Cộng sản Việt Nam Võ Nguyên Giáp được
Siemon–Netto nhắc đi nhắc lại nhiều lần là: “kẻ thù (nghĩa là kẻ
phương Tây)... không có khả năng về tâm lý và chính trị để chịu
đựng một cuộc chiến tranh trường kỳ”, và đó cũng là cái cốt lõi
và phương châm của cộng sản Việt Nam để liên tục khiêu chiến và
duy trì cuộc chiến kinh hoàng với mục đích tối hậu là áp đặt chế
độ cộng sản lên toàn cõi Việt Nam.
Siemon–Netto đã chỉ trích nặng lời với
giới chính trị phương Tây là đã bỏ qua lời khuyên của Sir Robert
G.K. Thompson, một chuyên viên người Anh về chiến tranh du kích
đã rời Việt Nam vào năm 1965 vì cơ quan tư vấn của ông bị đóng
cửa. Theo chiến thuật của Sir Thompson thì chính việc loại bỏ
những tên cộng sản nằm vùng quan trọng hơn là việc diệt trừ những
tên cộng sản du kích trong rừng sâu. Phương thức “Clear and hold”
là làm sạch mầm móng Cộng sản nằm vùng (clear) thì dân chúng địa
phương tại đó sẽ đứng về phe chính phủ (hold). Một hệ thống cảnh
sát và tình báo hữu hiệu là yếu tố quyết định cho sự thành công
của chiến thuật này. Trong chương 3 Siemon–Netto nêu lên sự thành
công của một Ấp Chiến lược năm 1965 của Đại úy Ngữ ở làng Long
Khốt, cách Sài Gòn 137km về hướng Tây gần biên giới Căm Bốt, hình
thành đúng theo chiến thuật Thompson với lực lượng Nhân dân Tự vệ
bén nhạy và ông đã tỏ lòng hết sức kính phục vị Đại úy Việt Nam
này.
Sự bỏ qua
chiến lược này đã đưa đến những cái chết thảm thương của những
người quốc gia chân chính sinh sống nơi xa xôi. Trong chương 5
Siemon Netto ghi lại một hình ảnh kinh hoàng của một gia đình Xã
trưởng gồm 14 người bị du kích Việt cộng hành hình ở vùng Tây
nguyên xa xôi trước mắt dân làng như một hăm dọa cho ai không
theo Cộng: họ từ từ giết cháu nhỏ nhất trước rồi tới các cháu
lớn, kế đó là vợ rồi ông Xã trưởng; sự kinh hoàng không ngừng ở
đó mà Việt cộng đã hành hình vị Xã Trưởng bằng cách cắt lưỡi rồi
cắt bộ phận sinh dục nhét vào miệng trước khi treo cổ; các người
con trai của ông ta chỉ bị cắt bộ phân sinh dục trước khi bị treo
cổ. Người vợ và cô con gái thì bị xẻ vú trước khi treo cổ. Sự dã
man này được thực hiện như người ta thi hành một bản án thường
nhật.
Trong
một chương khác Siemon–Netto nhắc lại ánh mắt căm thù sắt máu của
những bộ đội Bắc việt đối với bà Monika Schwinn, một nữ Y tá
người Tây Đức bị bắt khi đang phục vụ tại Việt nam trong chương
trình nhân đạo của Malteser, trên đường dẫn độ ra Bắc trên con
đường mòn Hồ Chí Minh. Là một nhà Thần Học ông biết lòng căm thù
và thú tính giết người không phải tự trời sanh ra. Sự căm thù
cũng như thú tính giết người này phải được gieo vào tim vào óc
những binh sĩ trẻ Bắc việt với một khuôn phép giáo dục đặc biệt
mà chỉ có dưới chủ nghĩa độc tài toàn trị.
Trong chương 8 ông nhắc lại bài báo
“Đồng cỏ nhuộm đỏ” của mình đăng trên Die Welt ngày 13/12/1965 mô
tả hiện trường sau một cuộc giao tranh ác liệt giữa Quân đội Bắc
Việt và Quân đội Hoa Kỳ. Hàng trăm xác chết Việt cộng phơi thây
máu nhuộm đỏ cả bãi cỏ voi cao cả mét. Quân nhân Hoa Kỳ tử trận
hay bị thương đã được di tản bằng máy bay trực thăng. Khi khám
nghiệm hiện vật trong túi áo quần và ba–lô các tử thi bộ đội
người ta mới phát giác được nhiều tử thi chỉ mới 15 tuổi. Trong
ba lô chứa những bộ quần áo sạch xếp ngay ngắn hình như từ bàn
tay của những người mẹ từ Vinh, Hải Phòng hay Hà Nội; có một số
ba–lô dấu những tờ truyền đơn kêu gọi hồi chánh của Miền Nam. Sau
khi kiểm soát người ta thấy có đến một phần tư các binh sĩ trẻ em
mang tờ truyền đơn này trong người để chuẩn bị cơ hội đầu hàng;
nhưng cơ hội lớn của các em không dễ tìm, vì chỉ cần một động
thái khả nghi là các em sẽ bị đồng đội bắn ngay vào lưng.
Ngược lại Siemon–Netto cho người đọc
thấy hình ảnh của những anh chàng GI. Họ là những thanh niên còn
quá trẻ để được phép uống bia rượu, nhưng đủ già dặn để đi quân
dịch đem mạng sống giao cho rừng thẳm xa xôi. Phần lớn họ chỉ vừa
đúng 18 tuổi và phải làm nhiệm vụ công dân. Những thanh niên này
ngoài chút kiến thức căn bản về vũ khí chiến thuật, họ không được
chuẩn bị tâm lý để đối phó với những sự tàn độc của quỷ dữ. Trong
một cuộc hành quân chung ở An Khê ông đã chứng kiến một cái chết
của một thanh niên Hoa Kỳ 17 tuổi, viên đạn Kalaschnikow kẹt
trong lá phổi của anh ta, anh ta nằm trong cơn hấp hối như một
đứa trẻ thơ, anh ta gọi mẹ rồi kêu trời. Đó là một trong nhiều
cái chết của những người lính trẻ mà Siemon–Netto đã chứng kiến.
Trước khi chết họ thường gọi mẹ và kêu trời và phần lớn là theo
thứ tự đó.
Sự
tàn ác sâu độc của Việt cộng còn được kể lại trong trận đánh tái
chiếm Huế sau tết Mậu Thân. Khi những tay súng Việt cộng nấp sau
các cửa sổ phía bên bờ bắc sông Hương nã súng liên tục vào đoàn
quân trong đó có Siemon–Netto đi theo, một binh sĩ Hoa Kỳ đã ném
được một quả lựu đạn lọt qua một trong những cửa sổ ấy. Lựu đạn
nổ. Tất cả trở thành im lặng. Đoàn quân reo vui vì nghĩ là đã đã
hủy được mục tiêu. Nhưng cánh cửa chính bỗng bật mở, một người
đàn bà trẻ bước ra, tay giơ lên xác một đứa trẻ đẫm máu. Anh
chàng quăng lựu đạn hồi nãy chợt lên cơn khủng hoảng: “Trời ơi,
tôi đã làm gì? Tôi đã giết một đứa trẻ. Trời hãy cứu tôi, trời
ơi, trời ơi...” anh ta quay cuồng, trong khi lính Bắc Việt từ
những cửa sổ khác tiếp tục nã đạn vào phía chúng tôi. Người Trung
Đội Trưởng phải dùng sức đè anh lính xuống và sau đó cho anh rút
ra khỏi vòng chiến. Người binh sĩ này đã bị hủy hoại linh hồn và
có thể bị tổn thương tâm linh vĩnh viễn.
Trong cuộc chiến tranh tàn nhẫn đó
Siemon–Netto đã phân tích sự độc ác một cách khách quan là: trong
khi Bắc Việt xem việc giết người là một nhiệm vụ thi hành một chỉ
đạo một quyết định tối hậu của nhà cầm quyền, kẻ giết người được
ân thưởng tuyên dương công trạng. Còn người Mỹ xem chuyện giết
người, điển hình là vụ Mỹ Lai, là một vi phạm pháp luật phải được
nghiêm minh xét xử trước tòa án. Nhiều nhà báo quốc tế đã vô tình
hoặc cố ý bỏ qua sự khác biệt về căn bản đạo đức này, khiến cho
nhiều binh sĩ Hoa Kỳ khi giải ngũ về nước bị công dân Hoa Kỳ sỉ
vả và bị làm tổn thương tinh thần trong suốt cuộc đời.
Siemon–Netto cũng phân tích tại sao chế
độ dân chủ không đủ sức chịu đựng áp lực tâm lý và chính trị để
chống lại cuộc chiến Partisan như Võ Nguyên Giáp đã tuyên bố.
Nguyên do là chỉ vì nền dân chủ khác với độc tài ở điểm hệ thống
dân chủ lệ thuộc vào cử tri. Nhưng ai là kẻ đem tin tức đến cử
tri. Chính là giới truyền thông. Và khi giới truyền thông loan
truyền là sự kiên trì trong cuộc chiến tranh vũ khí không xứng
đáng để kéo dài vì người được bảo vệ không đáng được bảo vệ. Như
vậy là cuộc chiến phải chấm dứt, nếu cần thì thua thiệt cũng phải
chấp nhận. Thế là Giáp thắng cuộc!
Siemon–Netto lên án cực liệt giới
truyền thông thuộc lớp trẻ, dưới ảnh hưởng của phong trào hiện
sinh thập kỷ 1960, đã bóp méo hình ảnh chiến tranh Việt Nam đúng
theo sự mong đợi như lời tuyên bố của Giáp: “Chiến tranh Việt Nam
sẽ được đưa tới tận phòng khách từng nhà mỗi gia đình Mỹ”. Giáp
khẳng định: “giới truyền thông Mỹ sẽ là một yếu tố quyết định
trong sự thắng thế của Bắc Việt”. Điển hình là cảnh một đoàn quay
phim ba người của một đài truyền hình Hoa Kỳ đứng bên cạnh một
ngôi mộ tập thể ở Huế. Ngôi mộ này vừa mới được phát hiện sau
trận đánh Mậu Thân. Tìm ra do những ngón tay còn sơn móng đỏ giơ
ra khỏi mặt đất của những người đàn bà đã bị chôn sống khi đang
cố bươi cào ra khỏi hố đất. Đoàn quay phim đứng hờ hững bên cạnh
mộ và không có ý quay phim. Có người hỏi tại sao, thì họ trả lời:
“Chúng tôi không đến đây để quay phim tuyên truyền chống cộng
sản!”.
Nhắc về
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, Siemon–Netto trách đám nhà báo đồng
nghiệp chỉ luôn đi theo hành quân với quân đội Hoa Kỳ hoặc quân
đội Đồng minh và gửi những hình của các Quân nhân này ra quốc tế,
mà quên hẳn đi hàng quân tinh nhuệ đã bảo vệ quê hương họ cho tới
những giờ phút cuối cùng trước khi mất Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Ông ca ngợi những gương anh hùng quân đội: Lê Văn Hưng, Lê Nguyên
Vỹ, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú... là những nhân
vật mà ông đã từng gặp trên đường nghiệp vụ và giờ đây họ đã đi
vào lịch sử.
Siemon–Netto yêu thương từ đứa trẻ bụi đời trên đường phố, đến
thân phận những người đàn bà trong chiến tranh... Trong cuốn sách
còn chứa đựng rất nhiều, về con người văn hóa lịch sử Việt Nam,
về cái chết của vợ chồng Bác sĩ người Đức Krainik và hai đồng
nghiệp của họ: Alois Alteköster, Raimund Discher trong vụ tàn sát
Mậu Thân Huế.
Trong vài hàng giới thiệu này tôi không thể chuyển tải tất cả chi
tiết trung thực và đứng đắn trong cuốn sách của Siemon–Netto,
người mang sứ mạng cao cả của Nhà Báo và của nhà Thần Học để trải
lòng viết ra cuốn sách có giá trị lịch sử này. Tôi thiết nghĩ và
cầu mong cuốn sách này sẽ là cuốn sách kinh điển để lại cho thế
hệ mai sau một cái nhìn trung thực và có lương tâm về cuộc chiến
Việt Nam. Các bậc phụ huynh của những thế hệ sanh sau cuộc chiến
hãy khuyến khích con cháu tìm đọc cuốn sách này để hiểu chính xác
về chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách được chính tay tác giả viết
bằng hai thứ tiếng: tiếng Đức như đã nêu từ đầu: “Duc, der
Deutsche – Mein Vietnam. Warum die Falschen siegten” và tiếng Anh
đã được xuất bản lần thứ hai là: “Triumph of the Absurd”
Mong lắm thay!!!
Bs Hoàng Thị Mỹ Lâm
Berlin, 27/11/2016
http://bacaytruc.com
Trái tim của một phóng
viên Đức cho Việt Nam
Uwe Siemon–Netto –
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc
chiến này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách kinh điển của nhà
báo, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã
từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương.
Lòng tôi hướng về những người phụ nữ
tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những
người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp còn mải mê
giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến
binh trông như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản
duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến
tranh trẻ với thân thể biến đổi đi chỉ vì muốn tìm một tấm chồng
lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính
họ, còn hơn là phải đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm
trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn biết đùm
bọc lẫn nhau cùng những đàn trâu.
Với trái tim chai cứng còn lại, lòng
tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và các vùng
chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc
cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng
sản nữa để mà trốn tránh.
Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng
phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa...
Uwe Siemon–Netto (uwesiemon.blogspot):
Sinh năm 1936 tại Leipzig, Germany. M.A. thần học hệ Lutheran tại
Chicago. Ph.D. Thần học và Xã hội học về tôn giáo tại đại học
Boston. Hiện là giám đốc điều hành Trung Tâm Thần Học hệ phái
Lutheran tại Capistrano Beach, California.
Khởi sự viết báo từ 1956. Ký giả bán
thời gian cho nhiều cơ sở báo chí khắp nơi trên thế giới bao gồm
Việt Nam với 53 năm kinh nghiệm phóng viên. Đã xuất bản 5 đầu
sách và nhiều tiểu luận.
Bài viết dưới đây là lời bạt cho cuốn
sách viết về cuộc chiến Việt Nam theo kinh nghiệm của tác giả:
“Đức – A reporter’s love for a wounded people”.
Hậu quả của khủng bố và hiệu lực của hy
vọng.
Hơn 40
năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015,
thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng
sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng”. Ga xe lửa Huế,
nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng
trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi
vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và
sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới
sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng
Đông Dương và tài xế tắc–xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.
Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi
ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại
chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành
Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có
khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn
biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa
hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ
lên tới 200 dặm một giờ?
Tài xế xích lô chờ đợi các hành khách
vô hình trước cổng ga xe lửa đã ngưng hoạt động tại Huế.
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến
tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những
chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo
gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước
Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức
đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và
phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên
thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W.
Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail
Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được
của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không
có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra
tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc
phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả
trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự
kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng”.
Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải
miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc
đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ
nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu,
tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải
phóng gì đã làm chết 3.8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và
đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước,
không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc
và làm từ 200,000 đến 400,000 người gọi là thuyền nhân bị chết
đuối?
Có phải
là hành động giải phóng không khi xử tử 100,000 người lính miền
Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng
chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách
lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù
cải tạo, trong đó có khoảng 165,000 người mất mạng và hàng ngàn
người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm
thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một
nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại
học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa
đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây,
hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà
Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng
đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ
Nguyên Giáp về cụm chữ đó.
Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự
theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải
được hiểu là cuộc “chiến tranh vì nhân dân.” Thực tế không phải
như vậy. Ðã có khoảng 3.8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa
các năm 1954 và 1975. Khoảng 164,000 thường dân miền Nam đã bị
thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ,
theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại
học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950,000 lính Bắc Việt và
hơn 200,000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm
58,000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh vì
nhân dân mà chính là chiến tranh chống lại nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả
về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua,
cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một
từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu
hỏi đó là:
“Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có,
tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất
nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130,000
cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?”
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất
kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không.
Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo
cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở
đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả
một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm
1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác
theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không.
Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân Đức,
tôi không can dự gì đến cuộc chiến này. Nhưng, nhằm chú giải cho
cuốn sách kinh điển của nhà báo, tương tự như các phóng viên kỳ
cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân
tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ
nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về
những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp còn
mải mê giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các
chiến binh trông như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái
tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ
chiến tranh trẻ với thân thể biến đổi đi chỉ vì muốn tìm một tấm
chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho
chính họ, còn hơn là phải đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về
nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn biết
đùm bọc lẫn nhau cùng những đàn trâu.
Với trái tim chai cứng còn lại, lòng
tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và các vùng
chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc
cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng
sản nữa để mà trốn tránh. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng
phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất
thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi
bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những
đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao
thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh
cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những
chuyện này xảy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị
tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt,
một cuộc chiến mà đáng lý họ phải thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm
1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm
1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm
1927).
Khi tôi
viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp thuộc loại học giả sinh
năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ
tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt
Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai
có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi
Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu
chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp
chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington
và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng
sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của
một vài đơn vị vô kỷ luật Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc
tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh
Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa
thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ:
“Tại sao các anh thảm sát tất cả những
người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng
họ?”
Với tư
cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau:
“Tại sao các anh giết người bạn của tôi
là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người
Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà ‘tội ác’ duy nhất là
dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao
các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta,
làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm
tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về
những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi
họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải
trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng
khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức
và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?”
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con
đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô Y tá Tây Đức
Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc
Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm
khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên
khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt
cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết
những người Đức ngay tại chỗ.
Không có ai sinh ra là đã hận thù cả.
Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết
người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có
trường phái chủ nghĩa độc tài toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn
tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia
Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng
tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc
hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát
Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên
sát nhân Bắc Việt tại Huế làm những người còn sống sót mà tôi đã
phỏng vấn cho là bị ám ảnh hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều
thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò
chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân
tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn
quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Lý thuyết và quan
điểm đưa ra về cái thảm hoạ ấy từ trong tháp ngà của đài truyền
hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ
đủ cả.
Trong
một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul
Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền
thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất
trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris:
1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến
thăm Charton nhưng cũng để khoác lác ra oai. Cuộc gặp gỡ xảy ra
trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một
buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối
địch nhau đã xảy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại
tá!”
Charton:
“Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh
bại chúng tôi, cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người
dân... bằng các phương tiện khủng bố.”
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này
và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật,
hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các
nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị
và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức
này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành
trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn nhận định đúng
và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế
độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị
ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm
về Việt Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về
lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó sẵn sàng bỏ rơi
một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng
xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân
phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra
mặt trận. Điều này đã xảy ra trong trường hợp các cựu chiến binh
Mỹ chiến đấu tại Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu
trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ
phá hỏng chính nghĩa dân chủ và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu
chuyện ở đây bằng sự bi quan này được. Là một người quan sát về
lịch sử, tôi biết là lịch sử, khi quá khứ được khép lại, tương
lai luôn luôn được mở ra. Là một Ki–tô hữu tôi biết ai là Chúa tể
của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc
ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh
cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại hậu quả tàn khốc đó,
cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính
kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm
ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể
thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ,
nhưng điều đó rồi sẽ xảy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn
xếp hàng vào đoàn xích–lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972,
nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây
giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?
From: The fruit of terror and the
virtue of hope (Uwe Siemon–Netto)
Dịch giả Lý Văn Quý
Danlambaovn.blogspot.com
***
Tưởng niệm
Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ
vô số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam
bởi Cộng sản, đặc biệt là:
– Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ
em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;
– Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công cán
chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến
tranh kết thúc;
– Hàng triệu người đã bị xua đuổi ra
khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong quá
trình đi tìm tự do;
– Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng chiến
đấu khi đã mất tất cả và các tướng lãnh oai hùng đã quyên sinh
vào những giờ phút cuối cùng;
– Các thanh niên Nam, Bắc Việt Nam động
viên vào quân ngũ đã bỏ mạng trong cái gọi là “chiến tranh giải
phóng” nhưng đã không mang lại tự do cho ai;
– 58,272 binh lính Hoa Kỳ, 4,407 Đại
Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại Việt Nam;
– Các đồng hương người Đức, trong đó có
BS Horst–Günther và Elisabetha Krainick, BS Alois Alteköster, BS
Raimund Discher, GS Otto Söllner, Bá Tước Hasso Rüdt von
Collenberg và nhiều người khác đã đến như những người bạn và phải
trả giá bằng mạng sống của họ.
Uwe Siemon–Netto
Dịch giả Lý Văn Quý
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Phạm Gia Đại chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
June 12, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang