Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
thuật
Chủ đề:
Đời Lính trận
Tác giả:
MĐ Nguyễn Đình Cơ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thanh thương mến,
Mùa hè năm 1974
đoàn xe chở bọn mình ra phi trường Tân Sơn Nhất, từ đây đơn vị
rời hậu cứ để tham dự cuộc hành quân giải vây quận Thường Đức
thuộc tỉnh Quảng Nam. Phi cơ C130 chở đơn vị đáp xuống phi trường
Đà Nẵng, đoàn xe GMC nối dài rời thành phố Đà Nẵng dưới ánh nắng
chan hòa của buổi sáng, cây cỏ vẫn còn đọng những giọt sương mai
óng ánh, đoàn xe đưa bọn mình đến gần khu vực hành quân, người
dân bản xứ đứng hai bên đường vẫy tay chào mừng những đứa con
thân yêu của tổ quốc, lòng tụi mình rộn rã vui theo.
Làng Hà Nha, một ngôi làng nhỏ mằm dưới
chân đồi 52 cách quận Thường Đức khoảng 5 cây số về hướng Đông
bắc, bị Việt cộng chiếm đóng đã nhiều ngày rồi. Đại Đội 82 dưới
quyền chỉ huy của Trung úy Đỗ Việt Hùng, lệnh của Thiếu tá Nguyễn
Quang Vân quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù là: “ĐĐ82
bằng mọi cách phải giải vây cho bằng được làng Hà Nha này”.
Ngôi làng nhỏ nằm bên dòng sông khô
nước vì sức nóng của Miền trung đất Việt. Thiếu úy Nguyễn Phước
Bảo Huệ, Trung đội trưởng trung đội 2 được chỉ thị thi hành. Với
chức vụ Tiểu đội trưởng tiểu đội kinh binh, mày đã chiến đấu
quyết liệt cố chiếm cho bằng được ngôi làng, mong đem lại an bình
cho người dân bản xứ, quyết tâm đó, mày đã chiến đấu không sờn
lòng, những tiếng hô xung phong áp tiếng súng trong khói lửa mịt
mùng. Với lối đánh thần tốc, mày đã chiếm xong ngôi làng Hà Nha
trong chớp nhoáng.
Cách làng Hà Nha không xa là ngọn đồi
52, về hướng Tây bắc là đỉnh đồi 1062, hai vị thế chiến lược này
đã bị Việt cộng chiếm đóng trong nhiều ngày qua. Từ hai cứ điểm
cao đó, chúng đã bắn những trái đạn súng cối 82ly vào khu vực
đông dân cư. Tiểu đội của mày lại được chỉ thị chiếm ngọn đồi 52.
Mày đã thi hành lệnh trên một cách tuyệt hảo, đồi 52 cũng đã
chiếm lại xong, nhưng Việt cộng cũng không vừa, chúng tập trung
lực lượng bao vây chặt ngọn đồi, chúng quyết phản công mong chiếm
lại ngọn đồi bằng mọi giá. Thiếu úy Nguyễn Phước Bảo Huệ phải xin
pháo binh tác xạ sát tuyến đầu để chận sức phản công của địch.
Một khi người linh Nhảy Dù đã quyết bảo vệ mục tiêu nào thì còn
lâu bọn Việt cộng mới lấy lại được. Nhưng mày đã không còn nữa,
bạn bè thương tiếc một người bạn trẻ, vui tính, dễ thương, mang
tên Nguyễn Hoài Thanh đã đền xong nợ nước. Thằng Cứ ôm xác mày
khóc ngất, trời đất như đảo lộn, chung quanh bạn bè cũng rơi lệ
theo tiếng khóc nức nở của nó. Đạn của định vẫn còn đan kín chung
quanh, tao thì đứng lặng yên và tự hỏi, mày đã ra đi thật rồi
sao? Bạn bè còn quanh đây, mùi Bia đêm hôm qua mà mày, tao, thằng
Hạnh mập, Đạo đen, Huấn xì ke, Hào lé, Mạc, Trung, v.v. bọn mình
đã một đêm say túy lúy. Mày còn nhớ không? Đêm hôm đó khi cả bọn
cùng say, thằng Cứ muốn mày gẫy tay để ở lại Hậu cứ lo việc cưới
vợ, lay hoay làm sao đấy, hắn đập vào tay mày một cây gỗ 4x4, tay
gẫy đâu không thấy, nhưng báo hại mày phải lên đường hành quân
với cách tay sưng vù. Cô Mừng, người yêu lý tưởng của mày đứng
vẫy tay tiễn đưa bọn mình, tao thấy nàng buồn lắm, nàng đã khóc
thật sự, hình như cái điềm là mày sẽ ở lại với núi sông, mày đã
làm tròn bổn phận của một công dân nước Việt, máu của mày đã đổ
ra cho bạn bè được sống, sự hy sinh của mày đã góp phần vào trang
sử hào hùng của đơn vị nói riêng và binh chủng Nhay Dù nói chung,
cũng như sự kính nể của người dân Nước Việt.
Tao còn nhớ mày về trình diện TĐ8ND
tháng 4 năm 1969, khi đơn vị đang hành quân vùng căn cứ Joan, một
trong những căn cứ hỏa lực quan trọng ở tỉnh Phước Long (thời
điểm này Tiều Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù là Trung tá Nguyễn
Văn Thọ, sau lên làm Lữ Đoàn Trường Lữ Đoàn 3 Ngày Dù được thăng
cấp đại tá, ông đã bị Việt cộng bắt ở chiến trường Hạ Lào năm
1971). Mày về với đơn vị anh em như vui lên khi những câu chuyện
nhỏ dễ thương, mà mày đã làm cho tụi tao không thể quên mày được,
có nhiều lần bọn tao cười đến quẹo cả lưỡi. Bây giờ dù đã hơn 35
năm qua nhưng anh em khi có dịp gặp lại nhau, nhắc về mày đứa nào
đứa nấy cứ bùi ngùi thương tiếc.
Nhớ lại năm 1972 khi đơn vị hành quân
tiếp viện cho Bình Long–An Lộc, dưới làn mưa pháo của địch mày
anh dũng xông xáo như con thoi, cõng những bạn đã bị thương đến
bãi trực thăng để di tản khỏi vùng khói lửa, trong đó có tao, mày
coi mạng sống của mày như cỏ rác hầu bảo vệ cho đồng đội. Thấy
mày nhanh nhẹn nên đơn vị đã giao cho mày trách nhiệm giữ an ninh
bãi tiếp tế, trong trách nhiệm mới đầy khó khăn này mày đã giữ
được lương thực không chỉ cho đơn vị mình, mà còn cho các đơn vị
bạn nữa, mày ý thức được rằng: Tinh thần chiến đấu của các đơn vị
Nhảy Dù sẽ vững chắc, nếu khu tiếp tế được bảo vệ an toàn, mày đã
chứng minh cho anh em trong đơn vị thấy cái hùng của một Nguyễn
Hoài Thanh diệt chiến xa địch ngay trên bãi tiếp tế của chiến
trường nảy lửa Bình Long–An Lộc.
Chiến trường An Lộc tạm giải quyết
xong, đơn vị mình được về lại hậu cứ nghỉ vài ngày, tao nhìn mày
mà không nhận ra, râu tóc quá dài, mày ôm cô Mừng, người yêu của
mày mà tao cứ ngỡ là ông lão nào chứ! Mày còn nhớ không? Cái cô
Mừng mà mày yêu tha thiết đó đã là cái cớ để bọn tao hành hạ mày
nhiều phen.
Chưa nghỉ ngơi được bao lâu thì đơn vị mình lại được lệnh lên
đường hành quân tiếp viện cho Vùng I Chiến Thuật, cùng với các
đơn vị Nhảy Dù khác giải vây Cổ Thành Quảng Trị. Nơi đây Việt
cộng đã chiếm đóng trong nhiều ngày qua, cùng với các đơn vị bạn,
TĐ8ND được điều động tiến chiếm căn cứ Nancy, một căn cứ quân sự
nằm về hướng Tây bắc của dòng sông Mỹ Chánh. Đêm đó trời tối đen
như mực, không có trăng–sao, bọn mình được lệnh vượt dòng sông Mỹ
Chánh âm thầm tiến sâu vào đất địch. Với cương vị là Tiểu Đội
Trưởng kinh binh, một lần nữa mày đã chứng tỏ cho đồng đội thấy
cái can đảm của một người lính Nhảy Dù khi mày tràn vào phòng
tuyến của định như một hung thần, Bắc quân đã phải tháo chạy khi
gặp phải sức công phá hào hùng của những chiến binh Nhảy Dù trót
mang trong người dòng máu Thiên Thần Mũ Đỏ. Cuối cùng thì mày là
người đầu tiên đặt chân lên căn cứ Nancy. Ngày hôm sau đơn vị
mình lại được lệnh tiến chiếm căn cứ Barbara. Căn cứ Barbara cách
ăn cứ Nancy độ 5 cây số về hướng Tây nam của Cổ Thành Quảng Trị,
thật là vạn nan, khi bọn mình nhìn đồi núi chập chùng của dãy
Trường sơn sâu thẳm. Tao còn nhớ trong một thung lũng nhỏ nằm
giữa hai ngọn đồi có nhiều cây Sim mà một Nhạc sĩ nào đó đã phổ
lên một ca khúc não nùng “Những Đồi Hoa Sim.” Mặt trời vào buổi
chiều ánh nắng trải dài trên dãy đồi tím trông buồn lạ lùng và cứ
mỗi lần bọn mình có cảm giác như vậy là y như rằng, những trận
đánh ác liệt với giặc sẽ tiếp theo đó không lâu.
Đêm hôm đó đơn vị kín đáo ngụy trang
đóng dưới triền đồi qua đêm, nhưng rồi cũng không tránh khỏi sự
tấn công của địch, Cộng quân đưa một Tiểu đoàn thiện chiến với
nhiều đơn vị pháo của chúng yểm trợ, mục đích là phải tiêu diệt
cho bằng được Đại đội 82ND, nhưng chúng đã lầm lớn, khi chúng kéo
đến bao vây chúng ta, chúng tưởng rằng chúng ta là những sợi bún
thiu chăng? Không, đây là một đoàn quân thiện chiến can trường,
chưa bao giờ khiếp sợ trước quân thù, những chiếc phi cơ A–37 của
không quân Hoa Kỳ xuất phát từ Đệ Thất Hạm Đội, có dịp yểm trợ
cho một đơn vị Nhảy Dù thiện chiến đang bị địch quân tràn ngập,
những trái Bom lớn được thả xuống sát tuyến, những trái đạn 105ly
của pháo binh Nhảy Dù được Đại Đội Trưởng, ông Trần Cao Khoan yêu
cầu tác xạ ngay trên đầu chúng ta. Đại đội 81ND dưới quyền chỉ
huy của Đại úy Trương Ngọc Ni đi suốt đêm để kịp giải vây cho Đại
đội 82ND. Trời vừa hừng sáng những chiến binh Nhảy Dù lại một lần
nữa cho Cộng quân thấy rằng: Chúng phải ngã xuống trước sức phản
công vũ bão, do những đứa con yêu của tổ quốc được người dân mến
tặng biệt danh là “Thiên Thần Mũ Đỏ”. Với một trung đội không đủ
cấp số, Trung úy Võ Thế Hùng, Trung Đội Trưởng trung đội 1 kiêm
quyền Đại Đội Phó ĐĐ81ND cùng với Thiếu úy, Nguyễn Phước Bảo Huệ,
Trung Đội Trưởng trung đội 2 ĐĐ81ND đã kịp thời bắt tay với Đại
Đội 82ND phản công lại, các Thiên Thần Mũ Đỏ lại một lần nữa đưa
giặc vào đất chết, tao nghe tiếng mày oang oang hăm dọa quân thù
trong đêm tối mịt mùng. Trung úy Lê Ngọc Thạch nói đùa:
– “Đêm hôm qua nghe tiếng thằng Hoài
Thanh đòi móc mắt Việt cộng là bọn chúng đã đái trong quần rồi.”
Chúng đái trong quần là cái chắc, nhiều thằng Việt cộng tao thấy
nó nằm chết mà quần thì ướt nhẹp.
Chiến trường tạm yên khi Việt cộng lớp
chết, lớp bị thương, lớp bỏ chạy, kiểm điểm lại trung đội của
Trung sĩ Vắng hy sinh mất 5 anh em trong đó có nó, bù lại Việt
cộng bỏ xác lại chiến trường không đếm xuể, đơn vị bắt sống hơn
10 thằng Việt cộng. Tao hỏi Hạ sĩ I Tảng: “Đêm qua đánh nhau với
Việt cộng đã chứ mày?” Hắn nói ĐM bắn Việt cộng đã tay thật, hy
vọng tối nay chúng kéo đến đánh nữa. Mày thấy đó người lính Nhảy
Dù lúc nào cũng coi mạng sống của mình như một làn sương nhẹ, mày
còn nhớ hai ngày sau đó đơn vị mình bị gì không? Tao nghĩ là mày
nhớ.
Đơn vị
rời khỏi đồi Trường Phước cách căn cứ Barbara độ vài cây số theo
đường chim bay, Trung tá Văn Bá Ninh, Tiểu đoàn trưởng TĐ8ND ông
hy vọng với sức chiến đấu liên tục và bền bỉ của các chiến binh
can trường một lòng vì đơn vị, vì danh dự chung, chắc chắn căn cứ
Barbara phải chiếm lại trong một vài ngày tới. Đêm đó tao, mày,
thằng Trung sĩ I Năm lùn, Thiếu úy Thạch, Trung sĩ I Đạo đen, tụi
mình chưa ngủ được, đang lo vì cái lệnh của cấp trên là phải dứt
điểm căn cứ Barbara vào ngày mai, thì nhận được lệnh là phải rút
lui ngay, vì mục tiêu mình đang ở là điểm dội bom của máy bay
B–52, đúng 1 giờ sáng là giờ B–52 thả bom.
Đúng là họa vô đơn chí phải không mày?
Mà làm sao bọn mình có thể rút lui được đây? Trong khi Việt cộng
hàng hàng lớp lớp đang bao vây chúng ta. Đại đội Trưởng, Trần Cao
Khoan quyết định sẽ cùng chết với giặc, để B–52 tha hồ dội bom
lên đầu, lệnh của ông là tất cả anh em tiếp tục đào hố cho thật
sâu, càng sâu càng tốt, khi nghe tiếng máy bay B–52 là anh em
phải xuống hố cá nhân liền, chúng ta sẽ tìm cái sống trong cái
chết. Các Đại đội ở xa như ĐĐ81, ĐĐ84, ĐĐ80 và Bộ chỉ huy Tiều
đoàn cùng nhiều đơn vị khác, đã sẵn sàng mặc niệm cho ĐĐ82 và
ĐĐ83 sẽ anh dũng đi vào lịch sử. Tao còn nhớ mày nói:
“Bọn mình đánh nhau với Việt cộng nhiều
cách rồi coi bộ cũng nhàm mà chưa có lần nào nằm chung với giặc
dưới mưa Bom B–52, hôm nay nằm thử một lần cho biết.”
Tao nhìn mày mà không biết nói gì cho
đúng đây? Vì các vị tiền nhân trước khi lên đoạn đầu đài anh dũng
đền nợ nước, họ cũng bình tĩnh như mày vậy, thế mới biết dân tộc
Việt Nam còn biết bao anh hùng đã hy sinh theo vận nước! Và những
gì đến nó đã đến, khi nghe tiếng thét của ông Đại Đội Trưởng:
“Tất cả anh em xuống hầm ngay lập tức”.
Mày có nhớ gì sau đó không? Những tiếng
bom rơi bay lẹ trong gió, tạo ra âm thanh vun vút đến rợn người,
rồi bọn mình không còn nghe gì nữa cả chỉ thấy nhiều ánh chớp lòe
vì bom nổ. Sau ba đợt bom như vậy tao biết mình vẫn còn sống,
việc đầu tiên là tao kiểm điểm lại Tiểu Đội của tao, lần qua
tuyến của thằng Đạo đem tao thấy cả tuyến nó cũng ngất ngư, tao
phóng đến hầm của ông Đại Đội Trưởng hỏi lớn:
“Trung úy có sao không?”
Ông phóng lên khỏi hầm và ra lệnh cho
tao là về vị trí ngay coi chừng địch tấn công. Trở lại tuyến, tao
lại nghe tiếng mày oang oang chửi thề lia lịa. Sáng sớm hôm sau
bọn mình lui ra khỏi nơi đó để về giữ an ninh cho BCH Tiều Đoàn.
Trên đường rút lui mình đi như chỗ không người, mà chỗ không
người thiệt, vì sau trận bom B–52 đêm qua hầu như không còn thằng
Việt cộng nào sống sót, xác nằm la liệt dưới dòng suối, dưới tàng
cây, bụi cỏ, chúng chết nghẹn ngào, chết không biết tại sao?
Chúng chết là vì chúng ở dưới thung lũng bao vây chúng ta, chúng
ta còn sống là vì chúng ta may mắn ở trên đỉnh đồi cao, tối hôm
qua mà đơn vị mình nằm một vị thế đất bằng, hay nằm dưới một con
suối nào đó, chắc chắn đơn vị mình bị trời xóa sổ rồi. Cảm ơn
Trời–Phật đã cứu đơn vị mình.
Năm ngày sau đơn vị lại bị đụng giặc,
tao bị thương nhẹ nên ở đằng sau chờ di tản, mày thấy tao, mày
phán một câu vô duyên tệ:
“Mày bị gai cào chứ bị thương cái con
mẹ gì hở Thằng Khỉ Đột? Nhà giầu đứt tay bằng Ăn mày đổ ruột”.
Rồi mày thảy cho tao 1/2 gói thuốc lá
hiệu 3 con Mèo, mày còn nói:
“Anh ủy lạo cho em đấy nhá? Về Hậu cứ
dưỡng sức cho khỏe.”
Nhìn bản mặt của mày là tao biết mày
xạo bỏ mẹ, thuốc hiệu 3 con Mèo mày làm gì có được? Khắp tiểu
đoàn chỉ có ông Trần Cao Khoan là có loại thuốc lá này thôi, bộ
mày có phép thần thông à? Tao biết ông Trần Cao Khoan có quen với
một bà chị tên là Vui ở Sài Gòn. Chị Vui cứ mỗi kỳ tiếp tế đều
gởi thuốc lá hiệu 3 con Mèo này cho ông ấy, và tao còn biết chị
Vui dặn ông ấy nhớ cho tao và thằng Huấn xì ke một ít, có lẽ mày
đi gặp ông Trần Cao Khoan nói là tao thèm thuốc lá mà không có để
hút, nên ông ấy đưa cho mày một gói. Lợi dụng dịp may này, mày
lấy mất đi 1/2 gói chứ gì? Thuốc lá nằm trên tay thằng khác mày
còn dựt được huống hồ gì nó đã nằm trên tay mày?
Ngày hôm sau Đại Đội 84 của Trung úy
Đồng Văn Minh chiếm được đỉnh đồi Barbara. Thiếu úy Trần Đình
Ngọc lập được chiến công lớn, Thiếu úy Lê Thạch bị thương gẫy một
giò.
Mưa ở
Quảng Trị thật là dai dẳng, những cơn mưa cứ vô tình đổ xuống như
thác lũ, làm bước chân người lính Nhảy Dù xa nhà như bọn mình
ngại ngùng không ít, mưa kéo dài thâu đêm, mày ngồi đó im lìm ôm
súng gác quê hương, mày ngồi bất động như một pho tượng đồng đen,
mắt nhìn vào dãy Trường sơn mịt mùng trong sương lạnh. Tao hỏi
mày khuya rồi mà sao chưa đi ngủ? Mày nói:
Anh em lúc ban ngày vật lộn với chiến
trường, có lẽ nhiều thằng đã thấm mệt, tao muốn tụi nó ngủ thêm
ít giờ, tao ngồi đây gác dùm cho bọn nó đến nửa đêm. Còn mày cũng
chưa chịu đi ngủ à?
Tao cũng như mày vậy, ngủ làm sao được
khi chiến trường mỗi ngày mỗi khốc liệt hơn. Làm trai trong thời
ly loạn có lúc mình coi thường mạng sống của chính mình để đồng
đội được an lành, không biết có được lâu dài không? Nhưng ít ra
trong đêm nay anh em phải được bình yên.
Người ta nói, làm lính chiến oai hùng
lắm, không biết có phải vậy không? Nhưng bọn mình có quá nhiều
gian lao và thiệt thòi, ngoài những bao gạo sấy, những con cá khô
là thực phẩm chính nuôi sống bọn mình hàng ngày, bọn mình đâu có
được gì gọi là cao lương–mỹ vị, chúng ta chấp nhận đời sống đơn
sơ, mình trao nhau từng mẩu thuốc lá hút dở, như chuyền cho nhau
hơi ấm của cuộc đời, máu anh em đồng đội đã đổ ra nhiều vô số kể,
đủ trải dài trên khắp bốn Vùng Chiến Thuật, cũng như trên quê
hương dấu yêu này. Chúng ta hy vọng ngày mai được thanh bình, mày
chợt thở dài nghĩ đến Trung sĩ I Vắng và các bạn đồng đội khác,
chúng nó đã ngủ yên, đã anh dũng hy sinh cho bạn bè được sống,
máu của họ góp phần tô điểm những trang sử oai hùng của đơn vị,
họ là những anh hùng vô danh vị quốc vong thân.
Sau chiến thắng ở căn cứ Barbara, đơn
vị mình được tuyên dương trước Quân đội. Thiếu úy Trần Đình Ngọc
được thăng cấp Trung úy tại mặt trận, Trung úy Đồng Văn Minh,
Trần Cao Khoan cũng được vinh thăng Đại úy. Dịp này tao được lệnh
về trung đội khác. Chuẩn úy Lê Mậu Sức vừa mới ra trường được
lệnh tăng cường hành quân, ông Trần Cao Khoan muốn tao về làm
Tiểu Đội Trưởng kinh binh cho trung đội của Chuẩn úy Sức. Lệnh
trên lại điều động bọn mình tiến chiếm căn cứ Động Ông Đô.
Động Ông Đô, (căn cứ hỏa lực Ann) một
căn cứ hỏa lực cũ của quân đội Hoa Kỳ thiết lập, nay đang bị địch
chiếm đóng, chúng dùng căn cứ này làm Đài quan sát, xem tất cả
mọi cuộc di chuyển của chúng ta từ Huế đến Quảng Trị.
Động Ông Đô là một ngọn đồi cao hằng
ngàn thước, nằm cách dòng sông Thạch Hản độ 5 cây số về hướng Tây
nam, bao quanh là những dãi núi thâm thấp chạy dài dưới chân
Trường sơn. Các ngọn núi thấp này không cây cao, không có bóng
mát. Nhưng Việt cộng lại chiếm đóng để làm gọng kiềng bằng những
chốt kiên cố chung quanh Động Ông Đô. Lệnh trên là các chiến binh
Nhảy Dù phải chiếm lại cho bằng được các ngọn đồi chung quanh đó,
hầu lấy làm bàn đạp tiến chiếm căn cứ Ann.
Mày còn nhớ không? Với vị thế trống
trải không núp vào đâu được, với sức nóng cháy da của mùa Hè, mà
địch thì luôn theo dõi sự di chuyển của chúng ta, muốn chiếm lại
được căn cứ Ann này là một chuyện đội đá vá trời, là vạn nan. Để
tránh tầm quan sát của địch, chúng ta phải đánh giặc vào ban đêm.
Đây là cách đánh mới mẻ mà bắt buộc chúng ta phải áp dụng cho
chiến trường này, đánh nhau như vậy cũng khá thú vị phải không
mày?
Tao còn
nhớ có một ngọn đồi không cao lắm nhưng Việt cộng cố thủ đã bao
ngày rồi, Trung đội của Thiếu úy Hoàng tấn công nhiều lần nhưng
vẫn không chiếm lại được, Thiếu úy Hoàng đã bị thương nặng trong
trận đánh này, đêm hôm đó Đại úy Trần Cao Khoan gọi tao lên máy
ra lệnh:
– Âu
Cơ đây 802. (Âu Cơ là danh hiệu của tao và 802 là danh hiệu của
ông Đại Đội Trưởng ĐĐ82ND, ĐĐ81ND là 801, ĐĐ83ND là 803,v.v.)
– 802, đây Âu Cơ tôi nghe.
– Con nhỏ mà thằng Hoàng (Thiếu úy
Hoàng) nó chọc mấy ngày nay nhưng không có kết quả gì! Nghe nói
nó dữ lắm, thằng nào không có bản lĩnh mà rớ vô là nó tát cho vỡ
mặt. Mày là thằng có tiếng chọc gái giỏi, nếu mày mà sờ được vú
của nó là tao cho đi phép 24 giờ để xả xui, Âu Cơ nghe rõ không
trả lời?
– Âu
Cơ tôi nghe rõ 802.
Buông máy truyền tin xuống tao thừ
người ra suy nghĩ, mặt có vẻ lo âu, Chuẩn úy Lê Mậu Sức quyền
Trung Đội Trưởng hỏi tao là ông Đại Đội Trưởng nói cái gì mà nghe
kỳ cục vậy? Tao nói là ông Đại Đội Trưởng ra lệnh cho Trung đội
mình phải chiếm ngọn đồi mà hôm qua Thiếu úy Hoàng không chiếm
được, mục tiêu phải giải quyết trong đêm nay.
Vậy, Chuẩn úy quyết định ra sao?
Chuẩn úy Sức hỏi lại tao là:
– Theo Trung sĩ mình tấn công bằng cách
nào?
Tao nhìn
anh chàng Chuẩn úy trẻ tuổi mà nghĩ trong lòng! Anh chàng mới ra
lò này coi bộ khôn bỏ mẹ, hắn để mình quyết định vì mình nghe
lệnh trực tiếp với ông Đại Đội Trưởng, hoặc có ý coi thử tao có
phải là loại Cán bộ khá của đơn vị không đây? Mày cũng biết là
tao, mày, cũng như các Hạ sĩ Quan thâm niên khác của đơn vị đã
thuộc loại Cáo già, đâu có dại quyết định một mình. Tao đề nghị
mời anh Trung sĩ I Nguyễn Văn Lời, anh Lời quyền Trung Đội Phó,
anh lớn tuổi nên không “láo cá” như bọn mình, nhưng anh rất thật
thà, điềm đạm, anh thường điều động anh em trong Trung đội chín
chắn và thận trọng. Anh về Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù từ một đơn vị Nhảy
Dù khác, tao đề nghị với Chuẩn úy Sức và anh Trung sĩ I Lời, là
tao sẽ dẫn theo Hạ sĩ I Tạc, Hạ sĩ I Sang, Binh nhất Huỳnh Nhật
Thanh, Binh nhất Nguyễn Văn Kháng, Binh nhất Nguyễn Tến. Bọn tao
sẽ mò sang tuyến của địch, hai Tiểu đội đại liên sẽ do anh Trung
sĩ I Lời yểm trợ bên hông, Chuẩn úy Sức dẫn một Tiểu đội theo sau
Tiểu đội của tao để trám tuyến, nếu bọn tao chiếm được mục tiêu,
tất cả anh em đều nhận rõ lệnh và sẽ thi hành vào lúc 5 giờ sáng.
Đã hơn 11 giờ đêm rồi mà tao, anh Lời,
anh Sức cũng như một số anh em trong Trung đội vẫn còn thao thức,
chúng mình đã góp máu xương, góp mạng sống của chính mình cho đơn
vị, mong sao thanh bình được sớm trở về trên đất nước thân yêu,
chỉ còn vài giờ nữa thôi không biết đứa nào còn, đứa nào mất?
Nhìn những khuôn mặt trẻ nhưng dày dạn trong chiến trường, của
nắng mưa, của nhiều ngày dài trong khói lửa, họ vẫn thể hiện cái
nét kiêu hùng của những người lính Nhảy Dù chưa một lần run sợ
trước địch quân. Nơi phố thị bây giờ người dân đang an giấc ngủ
say, nhưng chắc cũng có những người mẹ, người cha, người vợ hiền,
người tình nhỏ, những đứa con thơ có cha đang xông pha ngoài
chiến trận, họ đang dâng lời cầu nguyện, họ đang đợi chờ một ngày
bình yên.
Hai
giờ sáng, giờ xuất phát bắt đầu, những đứa con cưng của đơn vị âm
thầm mò mẫm trong đêm tối mờ mờ dưới ánh trăng đêm, 50 phút sau
Tiểu đội của tao đã bò sát chân đồi, sẵn sàng tấn công mục tiêu
khi có điều kiện, 6 anh em nhìn nhau bằng ánh mắt ngời sáng,
những cái gật đầu hứa hẹn một chiến thắng nhanh, trong nhịp tim
rộn rã của anh em là niềm khích lệ và hy vọng lớn cho cái mục
tiêu mà đơn vị quyết tâm chiếm bằng được trong đêm nay.
Trăng đột nhiên sáng tỏ, Trăng vô tình
lơ lửng trên cao, Trăng soi rõ một vùng rộng lớn, tao không biết
phải làm cách nào để đưa anh em tiến gần mục tiêu thêm chút nữa,
cho đoạn đường xung phong ngắn hơn, tao hiểu đoạn đường xung
phong nếu có thu ngắn lại được thì may ra xương máu của đồng đội,
của chính bản thân mình mới được giảm bớt. Thằng Huỳnh Nhật
Thanh, một khinh binh giỏi và can trường, hắn chưa bao giờ biết
lùi bước trước địch quân, hắn sinh ra ở làng Hoà Cư thuộc tỉnh
Bình Định, hắn về đơn vị không lâu nhưng cái can đảm của hắn trên
chiến trường là không thể chê đâu được, chính tao nhiều lần cũng
phải phát “kiếp” vì cái liều lĩnh của hắn, hắn cứ nhìn tao đăm
đăm, hắn hất hất cái đầu như bực tức, tao nghĩ chắc hắn đang chửi
thề trong bụng là: Cái anh chàng Trung sĩ Nguyễn Đình Cơ này sao
mà nhát như Thỏ đế, đã lên đến đây rồi mà chưa cho anh em xung
phong, còn đợi gì nữa, đợi địch xơi tái chắc? Tao hiểu tâm trạng
của hắn chứ, nhưng hắn có biết đâu xương máu anh em sẽ đổ ra phí
phạm nếu tao bất cẩn trong lúc này, phải chờ thời cơ, phải tính
toán từng bước một vì mạng sống của nhiều người, trong đó có mạng
sống của chính mình, tao biết chắc chắn là thời cơ sẽ đến với đơn
vị khi ánh trăng bị những áng mây che phủ. Nhìn những áng mây bay
là là trên các vùng đồi núi chập chùng. Trường Sơn về khuya trời
thật lạnh, lạnh buốt xương, lạnh đến run người, tao đang mơ một
áng mây thấp là đà sẽ kéo về phủ trùm lên mục tiêu để che đi tầm
nhìn của địch, đó mới là cơ hội ngàn vàng để chúng ta xung phong
vào lòng giặc và các Mũ Đỏ sẽ hoàn thành sứ mạng này.
Một vùng mây trắng đang bay tới, tao
mừng như trúng số độc đắc, phấn khởi trong lòng, tay tao rút chốt
lựu đạn đưa cho từng anh em thấy và ra dấu chỉ vùng mây trắng sẽ
đến phủ kín ngọn đồi này trong vài phút nữa, như nắng hạn gặp mưa
khi mây trắng vừa phủ kín ngọn đồi là từng trái lựu đạn nổ tung,
những tiếng hô xung phong vang rền, áp cả tiếng súng trong đêm.
Bọn mình tấn công bất ngờ nên lũ giặc bung hầm bỏ chạy, nhưng làm
sao chúng có thể chạy khỏi các tay súng thiện xạ của Nguyễn Văn
Kháng, Huỳnh Nhật Thanh, Nguyễn Sang, Nguyễn Tạc, Nguyễn Tến,
những chiếc sĩ Nhảy Dù nhanh như cắt, tràn đầy kinh nghiệm chiến
trường? Tiếng súng vừa chấm đứt là mục tiêu đã nằm trọn trong tay
bọn mình. tao quay lại đàng sau tính gọi Chuẩn úy Sức cho anh em
Tiểu đội khác trám chỗ hầu tránh sự phản công của địch, nhưng anh
Chuẩn úy trẻ này đã có mặt tự bao giờ, Tiểu đội của anh dẫn theo
sau cũng kịp thời trám tuyến, nhìn anh Chuẩn úy trẻ cười tươi,
tao thầm nghĩ trong bụng là “Anh chàng lính mới này khá thật chứ
không phải tay mơ, trong tương lai đơn vị sẽ nhờ anh chàng này
không ít.” Trung sĩ I Lời cũng đã đưa hai Tiểu đội đại liên lên
bắt tay lục soát mục tiêu, tạm thời kiểm điểm lại anh em, thử ai
còn ai mất. Cảm ơn Trời–Phật tất cả anh em mình được bình an, trừ
thằng Tến bị một mảnh lựu đạn nhỏ trúng nơi cánh tay trái không
đáng ngại, về phía địch có 2 xác chết trong hầm do lựu đạn nổ và
hai xác chết không chạy khỏi do các tay súng tiện xạ bắn hạ. Ngọn
đồi kế bên có một Trung đội của TĐ6ND đã chiếm được hồi sáng, anh
em TĐ6ND hỏi sang.
– Bác Tám đó hả? Việt cộng chết nhiều
không? Bên đây có vài xác Việt Công chết hồi chiều, có muốn dùng
không?
Tao sợ
ông Đại Đội Trưởng, Trần Cao Khoan chê là Việt cộng chết có vài
thằng mà đạn bắn đến chóng mặt, tao đề nghị Chuẩn úy Sức qua bên
đó kéo vài xác về bỏ chung quanh phòng tuyến để lấy điểm. Sáng
hôm sau Đại Đội lên tới ông Trần Cao Khoan hỏi:
– Việt cộng chết quá nhiều mà súng thì
có mấy cây quèn à? Xác chết ở đâu mà nhiều quá vậy?
Anh chàng Đại Đội Trưởng này thuộc loại
Cáo già, tao sợ Chuẩn úy Sức làm lộ chuyện nên nói liền.
– Thưa Đại úy, chắc là bọn chúng trang
bị chưa được đầy đủ nên không có súng chăng!
Ông cười cười rồi nói:
– Mày với thằng Nguyễn Hoài Thanh là
bọn ma lanh, tao còn lạ gì chứ? Khai thiệt đi.
Rồi ông lấy thuốc lá hiệu 3 con Mèo
thảy cho tao một gói và nói:
– Chia cho anh em hút với.
Anh em ai cũng tưởng là ông Đại Đội
Trưởng tốt với tao nên anh em nhờ lây, nhưng tao biết là không
phải vậy, tính của ông ấy tao còn lạ gì. Cứ mỗi lần muốn đưa
thằng nào đi chết là y như rằng ông làm như thương hắn lắm vậy,
có lẽ ông đang tính cái gì đây, và chắc sẽ được biết liền.
Ông đưa cho tao 1/2 chai rượu Hũ Gia Bì
mà ông uống dở, loại rượu uống vào nghe ngọt ngọt, nhưng say túy
lúy hồi nào không hay, tao hỏi:
– Vậy chứ Đại úy tính sai bọn tôi làm
cái gì nữa đây phải không?
Bị tao lật tẩy ông cười trừ, tay ông
chỉ lên ngọn đồi cao ngay sát căn cứ Ann, ngọn đồi trọc lóc không
cây không cỏ, nhưng bóng dáng bọn Việt cộng cứ đi tới đi lui thấy
muốn say xẩm mặt mày, ông nói:
Tiểu Đoàn lại muốn mình chiếm cái ngọn
đồi kia, trong ngày hôm nay phải chiếm cho bằng được, để tao bảo
ông “Tạ Tốn” ra tay trước.
Tạ Tốn, tên thật là Lê Văn Tốn, Sĩ quan
Đề lô cho Đại đội, anh em thương tình gọi cái tên thân mật như
trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung “Tạ Tốn”. Ông Tạ Tốn điều
khiển từng trái đạn 105ly xuống mục tiêu, nhưng trái thì trật bên
này, trái thì trúng bên kia, đình núi nhọn như vú của cô Sơn nữ,
còn lâu mới bắn trúng mục tiêu. Tao đề nghị, khi bọn tao còn xa
xa thì bắn đạn nổ, nhưng khi tụi tao gần mục tiêu thì đổi loại
đạn Delay để tụi tao xung phong khi địch đang chui đầu vào hố
tránh mưa pháo của Tạ Tốn.
Trở về Trung Đội tao cho Chuẩn úy Sức
biết là lệnh trên, chúng ta phải chiếm mục tiêu đó trong hôm nay,
Chuẩn úy Sức còn đang ngỡ ngàng thì được ông Đại Đội Trưởng gọi
lên ra lệnh trực tiếp là phải chiếm cho bằng được mục tiêu giữa
cái nắng chang chang của xứ Quảng Trị dầu sôi lửa bỏng này.
Lệnh là phải thi hành, tao thấy đời bọn
mình như một khúc nhạc trường ca, cứ lập đi lập lại cùng một tông
điệu. Máu xương của đồng đội chút nữa đây sẽ đổ xuống cho quê
hương, cho đơn vị, máu của các chiến binh Nhảy Dù bất khuất sẽ đổ
ra để tô thắm giang sơn gấm vóc, cho nước Việt oai hùng, chiến
thắng sẽ ghi vào quân sử của một Binh Chủng chưa từng biết lùi
bước trước quân thù. Nhìn những ánh mắt can trường của đồng đội,
tuổi trẻ họ vẫn hồn nhiên, vẫn cười cười nói nói, vẫn hát những
bản nhạc quên thuộc ngày nào, cái chết nếu có đến với họ cũng chỉ
là cơn gió thoảng thế thôi, họ nằm xuống mà lòng không oán trách,
máu của họ sẽ thấm sâu vào lòng đất mẹ cho mai sau đồng đội biết
yêu thương nhau.
Thằng Trần Văn Chín, tự Chín gục, hắn
mỗi khi ngồi gác thường bị ngủ gục, nên anh em gọi hắn là Chín
gục. Hắn mang cấp bật Binh nhất, hắn có biệt tài bắn đạn M–79 vào
mục tiêu địch bách phát, bách trúng, thuộc loại thiện xạ, hắn hơi
lãng tai nên thường không phân biệt được tiếng súng của ta hay
của địch, khi nào có dịp xung phong là hắn cứ ngang nhiên tiến
vào mục tiêu, xe Tăng của Việt cộng hắn đã từng hạ nhiều chiếc ở
chiến trường Bình Long, An Lộc, hầm ẩn núp của địch mà để hắn
thấy được là đừng hòng chạy thoát với hắn, đánh đỉnh đồi này hắn
tình nguyện đi tiên phong hầu khóa các ổ súng lớn của địch, cũng
nhờ cái lãng tai của hắn mà nhiều chiến thắng đã đến với đơn vị
một cách bất ngờ.
Cứ điểm này tuy khó khăn nhưng cũng bị
ta chiếm ngay trong ngày, nhờ phối hợp với Pháo binh nhịp nhàng,
địch chết khá nhiều, phần lớn là do trúng đạn pháo binh bắn, 37
cây súng của địch được chúng ta lấy, nhưng thằng Nguyễn Văn Kháng
đã ở lại vĩnh viễn nơi đây, hắn đã đền xong nợ nước, đền những ân
tình đã vay mượn của anh em đồng đội, hắn ra đi thanh thản, hắn
nằm đó ngủ giấc ngủ ngàn thu. Poncho cuộn tròn đời nó như hôm nào
anh em đã cuộn mày khi thằng Cứ ôm mày khóc ngất, tao vuốt mặt nó
để tiễn đưa, thế là hết, một người bạn thân thương nữa đã nằm
yên, vĩnh viễn xa cách anh em, nơi đây bạn bè mất thêm một đồng
đội, nơi quê nhà cha mẹ, anh em mất đi một người thân yêu, tao
thầm cầu nguyện cho nó sớm được hưởng an lành trên nước trời, và
thầm nói với nó là chung quanh đây còn rất nhiều bạn hữu, hãy phù
hộ cho bạn bè được bình an. Huỳnh Nhật Thanh lau vội dòng máu
chảy của nó trước khi cuộn nó vào Poncho mà mắt thằng Thanh đỏ
hoe, nó đã khóc thật sự, khóc cho một người bạn đã sát cánh bên
nhau trong nhiều ngày qua, đã từng chia cho nhau những mẩu thuốc
lá hút dở, chia cho nhau từng hạt cơm khô, chia những kỷ niệm
trong đời quân ngũ, hắn lật qua lật lại xác thằng Kháng, hắn gọi
lớn: Kháng ơi, dậy đi Kháng, mày chết thật rồi sao? Bạn bè còn
quanh đây sao mày nằm yên bất đông? Người vợ trẻ và đàn con nhỏ
nơi quê nhà còn đang trông mày về sum họp. Thế là hết, mai đây
tụi tao cũng không biết phải ra sao?
Mùa hè năm 1973 sau khi Hiệp định Ba Lê
được ký kết, Đơn vị mình được điều động đến đóng quân dọc theo
dòng sông Ô Lâu, cách quận Phong Điền tỉnh Quảng Trị, khoảng 5
cây số về hướng Tây bắc. Nơi đây đồi núi không cao, nhưng có
những tài nguyên thiên nhiên của địa phương, nổi bật nhất là các
loại cây Tranh, Tre và Tràm mà tụi mình thường gọi đùa là “vùng
Tranh, Tre, Tràm.”
Tràm, Tràm một loại cây có mùi thơm
thật dễ chịu, người ta đã dùng loại cây này nấu ra một loại dầu
đề trị cảm, lạnh, cúm v.v. rất hiệu nghiệm, được người Việt Nam
gọi là dầu Tràm, dầu Tràm là một loại dầu thông dụng cho mọi gia
đình trong vùng, đó là một loại đặc sản của quê hương.
Tranh, Tranh người bản xứ gọi là Tranh
săn, đó là một loại cỏ cao hơn một thước, tương tự như cây Lúa đã
được gặt xong, nhưng Tranh săn có độ bền hơn là cây Lúa, người
dân quê đã dùng loại Tranh săn này lợp mái nhà che nắng, che mưa,
họ sống đơn giản như bọn mình. Cùng với Tranh và Tràm bọn tụi
mình không thể quên được một loại cây nữa đó là Tre.
Tre, Tre mọc từng rừng mà bọn mình
thường gọi “Vùng Tranh, Tre, Tràm” vô tình trùng tên có vần chữ
“T” của ông Tiểu Đoàn Trưởng, Đào Thiện Tuyển mà một thời tụi
mình làm vè nói về ông ấy.
(người viết cũng như tất cả anh em Tiểu
đoàn 8 Nhảy dù không thể nào quên được bài vè đó, nhưng tôi không
tiện viết ra đây, xin anh em thứ lỗi.)
Vùng Tranh, Tre, Tràm đã ghi vào ký ức
bọn mình những kỷ niệm khó quên, đây là thời gian dài để mày có
dịp trổ tài chọc phá anh em, có những lần bọn tao nghe mày nói mà
cười đến quẹo cả lưỡi. Tao còn nhớ có một lần mày bắt chước giọng
ông Thiếu tá Nguyễn Quang Vân, Tiểu Đoàn Phó, khi ông tập họp tất
cả anh em sĩ quan và hạ sĩ quan trong Tiểu đoàn (trừ các ông Đại
Đội Trưởng) để nhắn nhủ anh em phải giữ gìn kỷ luật của đơn vị,
ông nói:
– Các
ông đều là cán bộ cao cấp của đơn vị, cao nhất là trung úy, nhỏ
nhất cũng là trung sĩ, các ông ăn nhiều hơn lính, các ông ngủ
nhiều hơn lính, các ông lãnh lương nhiều hơn lính, nói chung các
bổng lộc của đơn vị các ông được hưởng nhiều hơn lính, vậy các
ông phải chứng tỏ mình xứng đáng được hưởng các bổng lộc đó. Tôi
đề nghị các ông bảo thằng Nhọ Đít (ông Thượng sĩ I Thọ, Trưởng
Ban Hỏa Thực Tiểu đoàn) mua dùm cho các ông mỗi người một cái
Gương soi mặt lớn cỡ bằng 3 ngón tay, các ông bỏ trong túi và mỗi
sáng sau khi thức dậy đã đánh răng, rửa mặt xong, các ông lấy
gương ra soi và chỉ vào trong mặt của các ông, rồi nói dùm tôi 3
câu như sau:
1– Mày già rồi nghe chưa?
2– Mày đã làm
gì cho Tiểu đoàn 8ND này nở mày nở mặt chưa?
3– Ngày hôm nay mày phải làm cái gì đó có ích cho con cháu mày
sau này.
Các
ông nói xong bỏ gương vào túi. Ngày thứ nhất các ông còn mắc cỡ,
ngày thứ hai các ông còn mắc cỡ, nhưng đến ngày thứ ba, tôi tin
là các ông sẽ quen đi, như tôi chẳng hạn, cứ 6 giờ sáng là phải
đi cầu, nếu không đi là không chịu được.
Cả đơn vị cười bò lăn, bò càng và sau
đó mày lại có dịp bắt chước cách nói của ông Tiểu Đoàn Phó này
bằng thích.
Cũng một lần tương tự khi thằng Long hí từ ngọn đồi khá cao, nơi
Tiểu đội của mày gồm có các thằng: Hùng thẹo, Bèo ốm, Dậu đen,
Long hí, v.v. đang đóng quân. Từ bãi tiếp tế anh chàng Long hí
vui mừng mang về cho mày lá thư xanh của cô Trương thị Mừng người
yêu tha thiết của mày. Cô Mừng, bố mẹ cô ấy cũng là Lính Nhảy Dù,
nghe đâu là ở trong Tiểu Đoàn Công Binh. Nhà cô nàng ở trong chợ
Sư Đoàn (Chợ Hoàng Hoa Thám) cô đẹp tuyệt vời, lại chọn mày làm
người yêu lý tưởng, do đó có khối anh chàng của các đơn vị khác
ganh tức, cũng có nhiều anh trồng cây Si sâu [cao] đến vài thước.
Anh chàng Long hí vui mừng gọi lớn:
– Trung sĩ, Trung sĩ Thanh ơi, Trung sĩ
có thư của cô nào tên là Trương Thị Mừng gởi cho Trung Sĩ đây.
Mày thì vui như bắt được vàng, nhưng
khi đã cầm được lá thư của cô Mừng trong tay, thay vì cảm ơn hắn,
mày lại phán một câu xanh dờn:
–Nè nè nè, lần sau mà mày thấy thư của
người có tên là Trương Thị Mừng này gởi cho tao, thì mày phải nói
như thế này: Dạ thưa cậu có thư của mợ gởi cho cậu đây, nói sai
là ôm lựu đạn đi kích một mình vào ban đêm đó nha em!
Cũng một lần tương tự, khi anh chàng
Long hí nhớ lời mày dặn hắn mang thư về trịnh trọng nói lớn:
– Dạ thưa cậu Thanh, có thư của mợ gởi
cho cậu đây.
Hắn tưởng đâu sẽ được mày khen, ai dè mày cũng lại các giọng kẻ
cả, mày nói:
Nè nè nè, lần sau mà thấy thư có tên Trương Thị Mừng gởi cho tao,
mày phải nói như vầy: Dạ thưa Trung sĩ, có thư của Trung sĩ phu
nhân gời cho Trung sĩ đây, nói sai là bị ăn đòn đó nha em?
Thật là khốn khổ cho thằng em, một hôm
cầm được lá thư của cô Trương Thị Mừng trên tay mà hắn không biết
khi về tới điểm đóng quân sẽ gọi mày bằng gì đây? Cậu hay Trung
sĩ? Gọi cậu thì không ổn mà gọi trung sĩ cũng không yên. Anh
chàng Nguyễn Long này, vì mắt của hắn nhỏ tí teo nên anh em âu
yếm đặt cho hắn cái tên “cúng cơm là Long hí” anh chàng mới tăng
cường về đơn vị từ Tiểu Đoàn Vương Mộng Hồng nên chưa biết là mày
ưa chọc cười thiên hạ. Tao bảo hắn đưa lá thư đó cho tao, tao cầm
lá thư cô Mừng về ngọn đồi của tao, thằng Cứ lùn và thằng Hạnh
mập, biết được mày có thư của người đẹp gởi là bọn hắn mừng như
xí được Kim Cương lớn, thằng Hạnh mập đề nghị: Bảo thằng Nguyễn
Hoài Thanh qua đây nhận thư và phải mang theo Cafe, thuốc lá,
đường sữa đù loại để chuộc lại lá thư, bằng không thì coi như
vĩnh viễn mất lá thư này.
– Hoài Thanh đây Âu Cơ nghe rõ không
trả lời?
– Cậu
Thanh đây con, có chuyện gì đó?
– Dạ thưa cậu, có chuyện gì đâu, chỉ có
lá thư của cô nào tên là Trương Thị Mừng gởi cho cậu, mà bọn này
lại muốn uống Cafe của cậu nấu. Vậy thông báo cho cậu biết trong
vòng 5 phút cậu phải có mặt tại đây với đầy đủ Cafe, thuốc lá hầu
chuộc lại lá thư, nếu chậm trễ là lá thư này sẽ được phổ biến cho
đại chúng cùng đọc, cậu nhận rõ không trả lời? Nhớ là 5 phút đấy.
Tụi tao kể cũng ác, 5 phút với khoảng
cách xa vời vợi như thế, còn phải băng đồi vượt suối, trong khi
thân thể của mày ốm yếu như con gái. Nhưng như một phép lạ, mày
trình diện bọn tao, trên tay đã có sẵn những thứ mà bọn tao muốn,
như: Đường, Sữa, Cafe, Thuốc lá, mày nằm dài dưới đất gần như mất
hơi vì phải chạy thục mạng để kịp giờ giao ước, mày nói:
Dạ thưa các ông Kẹ con mang theo đây
đầy đủ các thứ mà mấy ông cần, cho con chuộc lại lá thư mà mấy
ngài đang có trong tay.
Thằng Cứ nói:
Những thứ đó mà không nấu lên làm sao
các anh uống được? Ngồi dậy đi em, nấu nước, pha Cafe và dâng
thuốc lá cho các anh thì mới là phải lẽ.
Đúng là tình yêu thật nhiệm màu, mày
như cái máy làm hết những yêu cầu của bọn tao, hèn nào cô Mừng
chọn mày làm người yêu lý tưởng là phải. Tình yêu vĩ đại đó chỉ
có mày mới chứng tỏ cho cô nàng thấy những cái mà trong tình yêu
phải có, nó là thức ăn bổ dưỡng cho hai trái Tim vàng đang yêu
nhau, mày đã chứng minh cho cô nàng thấy mày yêu nàng tha thiết,
mày thường biến những mẩu chuyện nho nhỏ hằng ngày để nuôi sống
tình yêu của mày và cũng không quên tạo cho anh em quanh đây
những mẩu chuyện vui vui trong đời lính. Bọn mình những chiến
binh của Sư Đoàn Nhảy Dù, ngoài tình yêu tổ quốc, yêu quê hương,
yêu đồng đội, chúng ta cũng thể hiện được tình yêu gia đình, bạn
bè. Bởi vậy mà có anh chàng Nhạc sĩ nào đó đã phổ lên ca khúc
“Yêu lính Dù như là điếu đổ”.
Dạ thưa các ông Kẹ, Cafe đã nấu xong,
mời các ông dùng ạ!
Đó, phải như vậy mới được chứ. Và Khi
đã cầm được lá thư của cô Mừng trên tay, Cafe tụi tao chưa kịp
uống thì mày đã cung chân đá tung téo Cafe trên tay bọn tao, mày
còn hăm dọa là lần sau ông cho các con uống nước đái, tụi tao thì
cười bò lăn, trong khi mày thì chửi như ca, thằng Cứ chơi ác, hắn
la lớn.
– Chụp
hắn ngay, đè hắn ra cướp lại lá thư.
Thế là mày phóng chạy như bay, nhìn
cách chạy của mày tao thấy, mày còn chạy lẹ hơn các Lực sĩ chạy
điền kinh nhiều, cả bọn lại được một dịp cười đến không thở được.
Hôm sau thằng Hào lé ở trên Tiểu đoàn,
hắn được lên Tiểu đoàn làm Âm Thoại Viên, hắn nghe phong phanh
chuyện mày bị tụi tao làm khó, hắn nao nức muốn biết đầu đuôi câu
chuyện như thế nào, nên hắn đã chận mày để hỏi cho rõ về chuyện
lá thư. Anh chàng Hào lé này đúng là gặp ngày xui bị mày xơi tái
bằng một tràng chửi như hát cải lương, hắn bị lé nên nhìn đời
bằng con mắt không đều đặn, mà nói cũng không lẹ bằng mày, vì mày
thuộc loại to mồm, gặp mày hắn khổ là cái chắc.
Đơn vị muốn chọn những anh em khá trong
các Đại đội để thành lập một Trung đội đặc biệt, đặt tên là Trung
Đội Đa Năng, nghe đâu đây là lệnh của ông Bạch Long. (Bạch Long
là danh hiệu của Tướng Dư Quốc Đống khi còn là Tư Lệnh Sư Đoàn
Nhảy Dù, nhưng khi Tướng Lê Quang Lưỡng thay thế, ông Lưỡng vẫn
dùng danh hiệu cũ là Bạch Long). Ông Bạch Long đến thăm TĐ8ND
thường xuyên, mỗi tuần độ một hai lần, ngoài việc thăm một đơn vị
trực thuộc ông còn có ý thăm Lò nấu dầu Tràm của ông, dưới sự
điều hành của Trung tá Đào Thiện Tuyển Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8ND.
Binh sĩ của TĐ8ND mỗi ngày phải đi các ngọn đồi để chặt những cây
Tràm mang nộp cho Lò nấu dầu Tràm. Trong thời gian này có một số
lớn binh sĩ bị chết và bị thương vì vướng Lựu Đạn, Mìn của các
đơn vị khác trước đó đã đóng quân trong khu vực để lại, các binh
sĩ chết và bị thương này được báo cáo là do địch pháo kích.
Ngoài cây Tràm ra ông Bạch Long cũng
không quên ra lệnh cho Trung tá Đào Thiện Tuyển phá những rừng
Tre của dân trong vùng để đưa đi Huế bán, Binh sĩ TĐ8ND cũng phải
làm các công tác nặng nhọc này. Tao còn nhớ có lần mày rủ tao vào
núp trong bụi với mày, để được nhìn thấy những khuôn mặt bơ phờ
của anh em đang vất vả vác những cây Tre dài, nặng quá sức, nghe
đâu tiền bán được Tre, dầu Tràm và Tranh săn được dùng vào công
tác Xã hội của SĐND.
Trung đội Đa năng được giao cho Trung
úy Trần Đình Ngọc (Người hùng Barbara) làm Trung Đội Trưởng,
Thiếu úy Huỳnh Hữu Hạnh làm Trung Đội Phó, tao làm Tiểu Đội
Trưởng Tiểu Đội I, Trung sĩ I Nguyễn Tường Tiểu Đội 2, Trung sĩ I
Nguyễn Ngọc Tảng Tiểu Đội 3, Trung sĩ Lư Mụn Tiểu Đội 4. Tao được
điều động về Đa năng từ ĐĐ82ND, thằng Mụn xì dầu và thằng Tường
từ ĐĐ81ND thằng Tảng cao giò từ ĐĐ84ND.
Một khóa huấn luyện cấp tốc 4 tuần lễ
được giao cho Lữ Đoàn I Nhảy Dù đảm trách, Trung Đội Đa Năng
trình điện Lữ Đoàn I Nhảy Dù trong một buổi sáng đẹp trời, Trung
tá Đỉnh Lữ Đoàn Phó chỉ thị cho Đa Năng những việc phải làm trong
thời gian sắp tới, ông cũng không quên nhắc nhở anh em về kỷ luật
của Nhảy Dù đã có từ bao lâu, cũng như mến người và yêu thương
đồng đội ông nói:
Tôi biết chiến trường vẫn chưa kết
thúc, trách nhiệm của người lính Nhảy Dù hôm nay còn phải cố gắng
thật nhiều, xương máu của anh em sẽ đổ ra trên khắp nẻo đường đất
nước, để hoàn thành công tác mà chúng ta được cấp trên giao phó,
tôi không khuyên anh em đánh giặc giỏi, vì anh em đã là những
chiến binh xuất sắc trên lĩnh vực này, những chiến công lớn mà
chính anh em đã mang về cho đơn vị mình từ khắp chiến trường trên
4 Vùng chiến thuật, tôi hết lòng khen ngợi. Tôi chỉ nhắc nhở anh
em hãy thương yêu đồng đội như thương chính bản thân mình, giúp
đỡ đồng đội khi cần dù mai đây xương máu của chúng ta có đổ ra
nhiều hơn nữa, hãy nhớ lời tôi hôm nay, bất cứ trong hoàn cảnh
nào cũng phải yêu thương anh em đã, đang, góp máu mình hãy xem
nhau như tình ruột thịt, dù bất cứ ở đâu. Anh em có hứa như vậy
không?
Tháng 4
năm 1975 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, Dương Văn Minh ra lệnh
buông súng không đánh nhau với Việt cộng nữa, một số lớn anh chị
em Mũ Đỏ đã lưu lạc trên khắp Năm Châu. Năm 1981 Mũ Đỏ Bùi Đức
Lạc tập họp được một số anh chị em Nhảy Dù đang định cư tại Thành
phố San Jose thuộc tiểu bang California ngồi lại với nhau. Khởi
đầu bằng những cộng việc nhân ái, như tìm mọi cách giúp anh chị
em Nhảy Dù mới đến định cư tại đây, bảo trợ và giúp đỡ anh chị em
Mũ Đỏ còn bên các trại tị nạn cũng như còn kẹt lại bên Việt Nam,
v.v. Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam Hải Ngoại được thành lập từ đó.
Lời nhắn nhủ năm nào của anh Trung tá
Đỉnh. Anh em Nhảy Dù đã hơn 35 năm qua vẫn còn ghi nhớ, không
riêng gì Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, mà hầu hết các đơn vị Nhảy Dù khác
cũng đều làm như vậy. Từ tháng 4 đen của năm 1975 những anh hùng
Mũ Đỏ phút chốc hóa lang thang, những uất nghẹn tức tưởi chồng
chất lên nhau, trong bão táp của cuộc đời nổi trôi bất đắc dĩ
này, các Thiên Thần Mũ Đỏ như gẫy cánh giữa không trung đang lưu
lạc trên khắp quả địa cầu, mặc cho đời đưa đẩy, số lớn anh chị em
Nhảy Dù chậm chân còn kẹt lại bên quê nhà họ phải vào tù chịu sự
trả thù man rợ của bọn Việt cộng. Những thất bại hôm nay đâu phải
tại bọn mình phải không Thanh?
Mạng sống của mày, cộng với mạng sống
của nhiều đồng đội khác, máu xương của tất cả chiến binh Nhảy Dù
đã đổ ra và chúng ta chưa bao giờ thất trận, thế mà hôm nay đây
những anh hùng một thời ngang dọc trên khắp nẻo đương đất nước
lại phải chịu cảnh bơ vơ nơi xứ lạ quê người, sống trong tình
vay, nghĩa mượn, ngơ ngác giữa trời xa trông về cố quận, số lớn
bạn bè còn ở lại quê nhà thì rất khốn khổ, có đứa tật nguyền vì
đã để lại một phần thân thể cho quê mẹ mến yêu, có đứa đôi chân
đã không còn đang bò lết giữa dòng đời làm kẻ xin ăn, có thằng mù
lòa vì mất đi đôi mắt, mò mẫm giữa dòng đời không định hướng,
suốt đời họ chỉ còn là bóng đêm buồn tênh.
Mày còn nhớ thằng Du Miên không? (Hắn
là Phan Đức Du, nhưng quá đen, nên anh em đặt tên là Du Miên) hắn
mỗi ngày phải mò mẫm trên phố chợ đông người để mong lòng bố thí
của tha nhân, vì đôi mắt hắn đã không còn khi đơn vị hành quân
khu 8 thôn Vườn Trầu thuộc quận Hóc Môn tỉnh Gia Định, có lần tao
thấy hắn đứng khép mình trên bến đò Thủ Thiêm với cái Nón ngửa ra
sống nhờ vào lòng ông đi qua, bà đi lại, có ai đó biết được rằng
hắn là bạn bè thân thương của chúng ta! Là anh hùng của một thời
xa cũ. Năm vừa rồi anh Trung úy Trần Văn Nam định cư tại tiểu
bang California theo diện H.O., anh có lạc quyên được $200
dollars đưa cho thằng Mụn xì dầu mang về Việt Nam thăm nó. Thằng
Mụn gặp tao ở Sài Gòn hắn rủ tao đi thăm thằng Du, tao nhờ thằng
Lộc dẫn đường vì thằng Lộc ở Sài Gòn nên biết thằng Du ở đâu. Tụi
tao đến nhà hắn nhưng không có hắn ở nhà, người ta nói hắn đang
đi xin ngoài chợ, tụi tao chờ khoảng hai giờ đồng hồ thì hắn được
người ta đưa về nhà. Thằng Mụn ôm nó khóc ròng, tao và thằng Lộc
cũng nghẹn ngào chưa lên tiếng được, hắn không biết là ngoài
thằng Mụn ra còn có tao và thằng Lộc nữa, đến khi tao lên tiếng
hỏi là:
“Mày
có phải tên là Du Miên không?”
Hắn như bị trúng tà, hai trăm dollars
của anh Nam gởi cho hắn, hắn buông tay, tiền rớt xuống đất, hai
tay hắn đưa ra quơ cào trước mặt, hắn hỏi lớn:
Đứa nào, đứa nào đó, trời ơi bạn bè của
tôi ngày nào đây mà!
Nước mắt hắn từ trong hai lỗ hổng chảy
dài ra hai bên má, cái tiếng Du Miên mà anh em thân thương gọi
nhau ngày nào đã hơn 33 năm rồi hắn chưa có lần nghe lại, tao ôm
hắn nghẹn nào. Tao là Cơ đây, Nguyễn Đình Cơ đây, mày còn nhớ
không? Ngoài tao ra còn Thằng Lộc nữa, bọn tao ôm nhau lệ rơi
trong buồn buồn tủi tủi.
Giờ đây anh chị em Nhảy Dù nơi Hải
Ngoại, những người mà đồng bào thương mến đã vinh danh là Thiên
Thần Mũ Đỏ một thời, từ khắp Năm Châu tựu tập tại đây, thành phố
Arlington thuộc Tiểu bang Texas, để có dịp gặp lại nhau, cũng như
kiểm điểm lại, ai còn ai mất. Nhân dịp hằng năm anh chị em cũng
tìm phương cách giúp đỡ anh chị em còn bên quê nhà. Kỳ họp mặt
này tao gặp hầu hết anh em trong Gia Đình Bác Tám (TĐ8ND) để tao
kể cho mày nghe.
Thằng Tất hô (Nguyễn Văn Tất) mà mày
thường gọi hắn là “máy cày” vì hắn có cái hàm răng không thua gì
máy cày mấy. Thằng này thì tính nào tật nấy, hắn vẫn chửi thề như
ca vọng cổ mỗi khi có dịp gặp lại bọn tao, cái giọng già của hắn
không khác gì giọng Vịt cồ là mấy! Ngoài hắn còn có thêm thằng
Nậy lé. (Nguyễn Nậy) Thằng này gốc Quảng Trị nên khi hắn nói bọn
tao phải cố gắng lắm mới biết được hắn nói gì, hắn có diễm phúc
là được đến hai bà Chằng lửa đang nâng khăn sửa túi, mà bà nào
cũng mê nó như là điếu đổ. Còn thằng Mụn xì dầu, (Lữ Mụn) thì
luôn luôn tìm hắn để hỏi bí quyết trời cho. Thằng Mụn giờ ngoan
đạo lắm, vợ chồng hắn theo một ông Sư ở tiểu bang Oklahoma, hắn
thường xuyên làm việc trong chùa, hắn vừa rồi bị ung thư gan,
nhưng may là hắn đã được thay cái gan mới. Có lần hắn dẫn tao vào
chùa lễ Phật, thấy hắn lâm râm tụng kinh, đố ai biết được thuở
thiếu thời hắn bán trời không mời Thiên lôi.
Đại úy Võ Thế Hùng, Đại Đội Trưởng
ĐĐ81ND, anh chàng này trong trận đánh Thường Đức, khi chiếm được
đỉnh đồi chiến lược 1062 anh bị thương nặng, anh để lại nơi đó
một con mắt và gẫy một cách tay, năm 1975 anh không di tản kịp
nên bị Việt cộng bắt cầm tù, bọn chúng ưu ái tặng cho anh 8 năm
ngồi bóc lịch. Anh ra “Trường Tù” (nhà tù Việt cộng) với bằng cấp
H.O., anh đã nằm xuống ở thành phố Atlanta trong một cơn tai biến
mạch máu não.
Anh Nguyễn Phước Bảo Huệ, vẫn như ngày nào không khác là bao, có
già đi một chút nhưng tính tình vẫn cười tươi khi có dịp gặp lại
anh em cũ, anh cười hề hề, thương mến mọi người, bạn bè kháo với
nhau là anh chàng này hiền như ông Bụt, anh bảo tao:
– Cố gắng lên Miễu Đình Chùa, viết bài
cho kỳ Đại hội này để đăng báo Mũ Đỏ nha? (Miễu Đình Chùa là bút
hiệu của tao khi mới tập tành viết văn).
Anh đề nghị tao viết về mày, cố Mũ Đỏ
Nguyễn Hoài Thanh, hầu nhắc lại những kỷ niệm thời lính chiến, mà
số lớn đều có kỷ niệm vui buồn với mày, tao thấy hình như anh
khóc, vì ngày đó mày nằm xuống để cho anh được bình an.
Thằng Mạc mà một thời đã cùng mày phá
làng phá xóm, phá đến nỗi mà bọn tao cũng phải nhức đầu, giờ hắn
đang định cư tại tiều bang Florida, nghe anh em Nhảy Dù ở các
tiểu bang khác nói là thằng này hiền lắm, hiền như Ma soeur, tao
nghe mà sém đái ra quần, thằng này thuộc loại Quỷ dữ mà cũng được
khen là hiền! Nghe cũng lạ.
Bắc Kỳ Lý (Lương Văn Lý) vẫn như ngày
nào, hắn mà ghét thằng nào là thằng đó phải khổ vì sự giả tiếng
mấy ông “Sếp” nhà mình ngày xưa. Có năm nọ hắn nổi hứng gọi điện
thoại cho anh chị em đang định ở Oklahoma City, hắn giả giọng ông
Đào Thiện Tuyển. Trời vào mùa đông tuyết đổ đầy đường khi bố
Nhúc, (Vũ Văn Nhúc, anh này đi lính hơi lâu, lớn tuổi nên anh em
gọi đùa là bố) hắn giả giọng của ông Tuyển, mỗi khi ông nói
chuyện với anh em, ông đều khịt khịt khịt trước khi nói:
– Khịt khịt khịt, bố Nhúc đó hả?
– Dạ dạ, tôi Nhúc đây trung tá.
– Tao đến thăm anh em ở Oklahoma nhưng
không có ai ra đón tao cả, tao đang ở bến xe Bus Oklahoma City
đây.
Dạ da,
tôi sẽ thông báo cho anh em ngay, trung tá chờ tôi chút, tôi sẽ
tới liền.
Nghe
nó giả tiếng ông Tuyển, bố Nhúc dạ dạ lia lịa, dạ như đại liên
bắn, nghe mà không thể nín cười được, Bố Nhúc gọi điện thoại các
nơi thông báo tin vui này, anh em hớn hở chạy đụng đầu vào nhau,
cùng đến bến xe buýt một lần, tìm mãi không thấy ông trung tá cựu
Tiểu Đoàn Trưởng này đâu! Tao mà không chứng kiến ngồi nghe hắn
giả giọng ông Tuyển, chắc là cũng như mấy thằng khác chạy thục
mạng trong mưa tuyết đầy trời. Đêm hôm đó hắn trốn mất tiêu vì
anh em đi tìm hắn để “đè hắn ra đổ rượu”.
Anh em tụi tao vẫn liên lạc với nhau
thường xuyên, và mỗi năm tập họp lại một lần, và địa điểm gặp
nhau thì tùy theo địa phương nào đứng ra chịu lãnh “cái búa này”.
Riêng Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù tao thấy có
con chim đầu đàn lớn nhất hiện đang ở Úc Châu, đó là Đại tá
Nguyễn Văn Thọ, ông là cấp Chỉ huy trưởng giỏi, can trường và
luôn thương yêu đồng đội, sức khỏe của ông nghe nói vẫn tốt,
ngoài ra còn có các anh em như: Trung tá Nguyễn Văn Thụy, Trung
tá Đào Thiện Tuyển, Thiếu tá Trần Toán, Đại úy Phan Văn Thương,
Đại úy Ngô Huệ, Trần Đình Ngọc, Đại úy Lê Văn Trọng, và các anh,
Nguyễn Phước Bảo Huệ, anh Nam, Hạnh, Thượng, v.v. độ hơn trăm anh
em của Gia Đình Bác Tám sống trải dài trên khắp Năm Châu.
Về tham dự Đại hội GĐMĐVN Hải Ngoại năm
nay, tao thấy cấp tướng có Thiếu tướng Đỗ Kế Giai, hàng trung cấp
có Đại tá Nguyễn Thu Lương, Đại tá Nguyễn Văn Tường, nói chung là
Đại Hội lần này các Niên trưởng vắng mặt hơi nhiều, tao nghĩ chắc
là họ tuổi tác quá cao, hoặc sức khỏe không còn được như ngày xưa
nữa.
Anh em
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù nhớ đến mày nhiều lắm, hơn 35 năm rồi nhưng
mỗi lần nhắc đến mày là tất cả đều thương tiếc, mày đã làm tròn
bổn phận của một công dân nước Việt, máu của mày đổ ra đã thấm
vào dòng lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam, góp phần vào quân
sử của Binh Chủng Nhảy Dù. Lễ truy điệu các Thiên thần Mũ Đỏ đã
vị quốc vong thân, toàn thể những người hiện diện hôm nay nghiêng
mình mặc niệm.
Khi đọc lên những hy sinh to lớn của
các chiến binh Nhảy Dù đã nằm xuống đâu đó trên mảnh đất ông cha,
tao cảm nhận có mày và nhiều anh em đồng đội khác đã nằm xuống
đang hiện diện chung quanh, cùng quây quần dưới ánh đèn mờ trong
hội trường. Tiếng nữ Ca sĩ Phương Dung cất lên. “Hỡi người Chiến
Binh Nhảy Dù đã nằm xuống đâu đó với quê hương”, tim tao nhói đau
khi nghĩ về những bạn hữu đã không còn. Thanh ơi hãy phù hộ cho
anh chị em Nhảy Dù, “Đàn Chim Mũ Đỏ” đang lưu lạc nơi xứ lạ quê
người biết đoàn kết lại, thương yêu và đùm bọc với nhau.
Chúng ta còn sống được đến ngày hôm nay
là nhờ sự hy sinh cao quý của những anh chị em Mũ Đỏ đã không
còn./.
Mũ Đỏ Nguyễn Đình Cơ
KBC 3119
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Nguyễn Đình Cơ chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, June 20, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang