Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Mùa Lễ TẠ ƠN–2022
Tác giả:
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời Tác giả:
Từ ngàn xưa, người VN đã quá quen thuộc truyền thống
cúng lễ nhớ ơn Ông Bà, nhớ ơn Tổ Tiên vào mỗi dịp Tết
đến. Nhưng gần đây, nhiều gia đình vì hoàn cảnh đặc
biệt, đã phải bỏ lơ truyền thống tốt đẹp đó rất nhiều
năm... Kính mời quí độc giả tìm hiểu một phần cái
nguyên nhân tạo ra sự đổi thay không vui ấy qua truyện Ánh
Lửa Đêm Đông. Thành thật cám ơn.
Trân trọng,
Ngô Viết Trọng
Bé Nga đi học về nhằm lúc chị Liễu đang
ngồi sửa áo quần. Bé tò mò đứng lại nhìn: chỉ toàn là đồ cũ. Chắc
ai mới cho mệ ngoại đây, bé vừa ngẫm nghĩ vừa bước lại lục mớ đồ
bà đã sửa xong. Thấy có tới hai bộ nhỏ cỡ thân hình mình, bé tỏ
ra thất vọng:
–Mệ nói Tết ni mệ may đồ mới cho con chừ mệ không may nữa à?
Nhìn đứa cháu ngoại với bộ đồ thô kệch
trên thân, chị Liễu không khỏi chạnh lòng. Chị cảm thấy mình có
lỗi vì đã nhiều lần hứa suông với cháu. Lần mới đây chị lại hứa
sẽ nhín nhín việc tiêu pha để may cho bé một bộ đồ bận Tết.
Thương cháu mà hứa vậy nhưng suy nghĩ lại chị thấy khó quá. Cái
nhà cũ của chị hư đâu chèn đó không kịp, lúc nào mà dư tiền? Tình
cờ một người quen lại cho chị một số đồ cũ. Tiếc của đời, chị lại
thay đổi ý định. Giờ thấy vẻ mặt tiu nghỉu của đứa cháu, chị đâm
ra áy náy nói đỡ:
–Áo quần ni còn tốt, mệ sửa lại thấy
cũng đẹp lắm. Mình nghèo bỏ phí cũng uổng. Thôi năm tới chắc chắn
mệ sắm đồ mới cho con.
Bé Nga lặng lẽ đi cất sách vở. Chị Liễu
nhìn theo cháu thở dài:
–Tội nghiệp cháu tôi, từ đẻ ra tới chừ
chưa khi mô có được một bộ đồ ra hồn!
Trước kia chồng chị Liễu phục vụ trong
một đơn vị địa phương quân. Cưới nhau chưa tròn một năm thì anh
bị tử trận. Anh chỉ để lại cho chị một ngôi lều cũ kỹ với một bà
mẹ già và một cái bầu tám tháng. Họa vô đơn chí, đứa con gái của
chị ra đời chưa được nửa năm thì xảy ra biến cố 1975. Mớ tiền tử
tuất của chồng chị lãnh được không mấy chốc đã hết sạch. Hằng
ngày chị phải tham gia làm việc với hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp để nuôi ba miệng ăn...
Cái thôn An Lộng của chị nhỏ bé quá,
một người ở đầu thôn bị đứt tay không mấy chốc người ở cuối thôn
đã biết. Đất cát trong thôn có giới hạn mà dân cư thì mỗi ngày
mỗi đông. Một mảnh vườn nhỏ có thể chứa đến ba bốn ngôi nhà: nhà
ông bác, nhà ông chú, nhà ông anh, nhà chú em... Mỗi khi xảy
chuyện nội bộ lủng củng, có gia đình không có lối để đi ra đường.
Ruộng nương cũng vậy, chung quanh các thôn, các xã khác đã khai
thác hết nên thôn An Lộng chẳng thể nào nới thêm được một phân,
một tấc. Trước 1975, dân An Lộng có một số tập kết ra Bắc, một số
khác đi lính Cộng Hòa hoặc làm công chức, ruộng nương trong thôn
còn tạm đủ cho số dân còn lại làm ăn, cuộc sống tương đối còn đỡ.
Sau ngày thống nhất, một số dân đã tập kết ra Bắc hồi hương, một
số quân nhân công chức miền Nam cũng qui điền nên ruộng đất thành
ra thiếu hụt, cuộc sống nông dân trở nên khó khăn thấy rõ.
Chính quyền đã tổ chức lại lề lối làm
ăn tập thể như lên đội, lên tập đoàn, cao hơn hết là hợp tác xã.
Công việc làm ăn có chỉ đạo, có cải tiến, có phương pháp hơn,
được sự hỗ trợ nhiều mặt của chính quyền, tất nhiên thành quả
cũng tốt đẹp hơn trước nhiều. Theo báo cáo thành tích của chính
quyền là vậy, nhưng thực tế đời sống của dân địa phương lại tồi
tệ hơn trước rất xa. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Trong tổ chức
hợp tác xã, những viên chức như chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp tác
xã, thư ký thống kê, trưởng ban kế hoạch, trưởng ban kiểm soát...
đều chỉ là những người lao động gián tiếp, tức là chỉ huy, kiểm
soát, lo việc giấy tờ mà không hề cày cuốc... Ở tập đoàn lại có
tập đoàn trưởng, tập đoàn phó, thư ký... đều là những người chỉ
lao động bán phần. Thế nhưng những viên chức này lại được hưởng
chế độ công điểm cao nhất trong tổ chức. Ngoài ra lại còn có
những bữa tiệc bồi dưỡng cho cán bộ và những “cá nhân xuất sắc”
vào những dịp lễ lạt, liên hoan trúng mùa... Những phí khoản đó
đều rút từ ngân quỹ của hợp tác xã ra cả. Tất nhiên, những người
dân mạt hạng như chị Liễu không làm sao tránh khỏi cảnh “ăn lưng
đọi làm lọi lưng!”. Dù hằng ngày họ có trút bao nhiêu mồ hôi của
mình xuống cánh đồng cũng không thể nào no được! Huống chi riêng
chị Liễu còn phải nuôi thêm bà mẹ chồng đã già và một đứa con
dại! Gia đình chị phải lây lất sống cầm hơi qua ngày tháng...
Chị chỉ giảm bớt được phần nào cảnh
sống đầu tắt mặt tối khi con Mẹt, đứa con chị bắt đầu hiểu biết
và có thể giúp đỡ chị những công việc lặt vặt. Nhiều khi chị nghĩ
đến Mẹt mà tủi cho con mình! Cũng là cô nhi con tử sĩ vị quốc
vong thân cả, nhưng cảnh đời lại trái ngược hẳn nhau! Con người
ta – thuộc phe chiến thắng – được bán cửa hàng, được làm cán bộ
này cán bộ nọ ngồi mát ăn bát vàng, huênh hoang dạy đời, còn con
chị chưa ráo máu đầu đã phải lo kiếm sống, lam lũ như một tên nô
lệ thuở xa xưa.
Dòng đời cứ trôi, rồi mẹ chồng chị qua
đời, rồi con gái của chị cũng đi lấy chồng. Việc chi tiêu giảm,
cuộc sống đỡ chật vật hơn, nhưng chị lại buồn vì nỗi cô đơn trống
vắng.
Sau này
vì lối làm ăn tập thể đã thất bại nên nhà nước đổi sang chính
sách khoán sản phẩm cho nông dân. Ruộng đất ít oi không thể nào
đủ sống, vợ chồng Mẹt làm thêm nghề vét cát sạn ở lòng sông An
Lộng. Chúng cũng chịu cảnh làm việc đầu tắt mặt tối và cũng thiếu
thốn quanh năm. Nhưng dù đói thiếu, chúng cũng phải sinh con đẻ
cái. Một đứa, rồi hai đứa, rồi lại có bầu...
Để đỡ đần bớt nỗi vất vả nhọc nhằn cho
con gái, và cũng để giảm bớt nỗi cô đơn trống vắng của mình, chị
Liễu tình nguyện đem con Nga, đứa con đầu của chúng về nuôi. Dù
bữa no bữa đói, chị vẫn cố gắng thu xếp cho bé Nga cắp sách đến
trường...
Giờ đây, từ ngoài nhìn vào, người ta
thấy thôn An Lộng như đã đổi lốt. Nhờ vào những chương trình viện
trợ quốc tế, chính quyền đã cho xây đắp lại một số đường sá, cầu
cống khiến việc đi lại trong thôn trở nên tiện lợi, thoải mái hơn
trước. Đồng thời, những cán bộ cách mạng có máu mặt, một số người
địa phương có thân nhân di tản ra nước ngoài, cộng thêm một số ít
dân giỏi xoay xở cơ hội cũng góp phần làm cho bộ mặt của thôn An
Lộng sáng sủa hơn... Số người này đã xây dựng được cho mình một
số nhà cửa khang trang, đẹp đẽ. Họ cũng mở được những gian hàng,
những quán tiệm với những dịch vụ kinh doanh đáng kể.
Nhưng đằng sau cái bộ mặt có vẻ thay
đổi đó, đa số dân thôn An Lộng, nhất là thành phần có liên hệ với
chế độ cũ, vẫn sống một cuộc sống tối tăm, chật vật. Đời họ gần
như thiếu hẳn mùa xuân. Không hẹn nhau mà những ngày lễ tiết
quanh năm người ta gần như cùng giả lơ hết. Thậm chí ngày tết
Nguyên Đán truyền thống của dân tộc nhiều nhà cũng giả lơ luôn!
Trong nhà không có một đòn bánh tét, một dĩa mứt trên bàn thờ.
Trẻ con không mấy đứa có áo mới. Nhà chị Liễu cũng ở vào trường
hợp đó...
Một
hôm khi đi làm về, chị Liễu gặp một chị hàng xóm cùng cảnh ngộ
cầm mấy tờ giấy đang lật đật rảo bước, chị chận lại hỏi:
–Chị Hoàng đi mô mà gấp rứa? Bộ đi kiện
ông trời à?
Chị Hoàng dừng lại nói nhỏ:
–Con Miên bên Mỹ mới về thăm nhà chị
biết chưa? Nghe nói bên đó người ta có tổ chức lạc quyên để giúp
các thương phế binh và cô nhi quả phụ như bọn mình. Quí thiệt,
người ta cũng còn nghĩ tới mình đó chứ! Ai có giấy tờ chứng minh
được mình trong diện ấy cứ gởi cho nó đem qua Mỹ may ra được
hưởng chút gì hay chút đó! Tôi mới đi phô tô giấy tờ về để gởi
đây! Chị còn giấy tờ chi của anh cứ đem gởi thử cho con Miên đi.
Còn mấy ngày nữa nó mới trở lại Mỹ!
–Thiệt rứa à? Bên đó người ta cũng còn
nghĩ tới bọn mình à? Để tôi về tìm còn giấy tờ chi không gởi thử
coi!
Chị Liễu
về nhà lục lọi một hồi may cũng kiếm được một ít giấy tờ cũ. Thật
tình chị cũng chẳng mừng hay tin tưởng mấy. Thời buổi này mấy khi
người ta thật lòng giúp đỡ nhau? Nhưng chẳng tốn kém bao lăm, mắc
chi không gởi? Thế rồi chị đem mớ giấy tờ ấy đến trao cho cô
Miên. Hôm sau cô Miên đem trả lại mấy bản gốc cùng mấy bản sao
cho chị rồi dặn:
–Chị cứ giữ giấy tờ này lại. Biết đâu
lại còn có lúc cần!
Chị cám ơn cô Miên rồi đem mớ giấy tờ
ấy cất lại. Chỉ năm bảy ngày sau chị Liễu đã quên hẳn cái chuyện
đó. Thời gian sau này ngoài việc chăm sóc phần ruộng ít oi được
khoán, chị phải lo trồng trọt ngọn rau, cây ớt trong vườn hoặc đi
làm mướn. Nghĩa là chị vẫn phải quần quật với công việc để nuôi
hai bà cháu...
Một buổi trưa cuối đông, lúc đang vói
tay cắt mấy tàu lá chuối để bán cho người ta gói bánh tét, chị
Liễu bỗng nghe ai đó hỏi lớn:
–Mụ Liễu mô rồi ra lãnh tiền ăn Tết tề!
Chị Liễu vội ngừng tay nhìn ra ngõ. Chị
định nói đùa một câu ý nhị nhưng liền khựng lại. Một người đàn
ông lạ dắt chiếc xe honda đang tiến vào sân...
–Bà có phải là Nguyễn Thị Liễu không?
–Dạ phải, ông hỏi có chuyện chi?
–Có tiền bên Mỹ gởi cho bà. Xin lỗi,
chồng bà tên gì?
Chị nói tên chồng. Người khách hỏi
tiếp:
–Xin bà
vui lòng cho mượn giấy “chứng minh nhân dân”!
Chị Liễu mừng rỡ vội đi tìm giấy tờ.
Hóa ra chị có tiền ăn Tết thật!
–Bây giờ bà muốn lấy tiền đô hay tiền
Việt?
–Dạ,
tiền đô hay tiền Việt cũng được!
–Vậy lấy tiền Việt khỏi mất công đi đổi
nhé!
Người
khách đưa tờ biên nhận bảo chị ký. Chị lẩm nhẩm đọc: Hội Cứu Trợ
Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả Phụ... Bất giác chị thở dài, nước
mắt chị bỗng tuôn trào. Hình như mấy dòng chữ đã làm chị xúc
động. Người khách trao cho chị 32 tờ bạc mệnh giá 50,000 đồng
Việt Nam:
–Đây
là một triệu sáu trăm ngàn tức một trăm đô la. Bà đếm lại đi!
Chị run run cầm xấp tiền, lí nhí nói
lời cám ơn không được rõ. Khi người khách vừa đi khỏi, chị Liễu
đếm xấp tiền lại một lần nữa. Vừa lúc đó bé Nga bước vào nhà. Chị
Liễu nhìn cháu rồi mỉm cười:
–Rửa chân tay mau lên để đi chơi với
mệ!
–Đi chơi
mô mệ?
–Tao
bảo đi thì cứ đi chứ hỏi chi?
Chị lấy ra một cái thúng rồi dùng lá
chuối khô lau sạch bụi cả trong lẫn ngoài. Xong, chị bỏ vào thúng
một cái dĩa nhôm, giục cháu:
–Xong chưa? Đi!
Bé Nga sung sướng lộ hẳn ra mặt, lót
thót bước theo chân bà nó. Mặt nó càng rạng rỡ hơn khi thấy bà nó
tiến vào chợ. Mỗi lần theo bà vào nơi này ít nhất nó cũng được
cái kẹo cái bánh... Nhưng lần này bà nó dẫn nó vào thẳng hàng
vải:
–Con
thích màu mô cho lựa đi!
Bé Nga ngạc nhiên trố mắt nhìn mệ nó:
–Lựa mần chi mệ?
Chị Liễu nguýt yêu cháu:
–May áo quần chứ mần chi nữa! Chưa may
được thì chục bục cái mặt ra, bộ chừ không muốn nữa à?
Bé Nga say mê nhìn những tấm vải. Hình
như màu nào cũng tươi sáng, cũng hấp dẫn đối với nó. Chị Liễu chỉ
từng tấm hỏi cháu nhưng tấm nào bé Nga cũng gật đầu cả. Sau cùng
chị Liễu đành tự chọn lấy – hai loại khác nhau nhưng đều là vải
bông.
Xong
xuôi, chị dẫn bé Nga đến ngay tiệm may gần đó. Bé Nga rất bỡ ngỡ
khi thấy người thợ may dùng cái thước dây để đo vai, đo lưng nó.
Người thợ hỏi đùa:
–May một lần hai bộ à? Nghèo mà chơi
sang dữ vậy!
–Chừ có chút lộc ngoại may cho luôn chứ biết khi khác biết có
tiền mà may không? Chú biết đây là lần đầu cháu được may áo quần
mới đó. Tội nghiệp từ trước tới chừ cháu chỉ toàn mặc đồ nính.
Gắng may cho cháu kịp mặc trước Tết nghe!
Người thợ đo xong chị Liễu lại dẫn cháu
đi mua hai hộp mứt, hai hộp trà, một gói đường phèn và cho bé Nga
một hộp bánh qui. Bé Nga ngạc nhiên hỏi:
–Tiền mô mà mệ mua nhiều rứa? Bữa ni mệ
giàu rồi à?
–Tiền mệ mới ăn trộm, bữa ni mệ giàu rồi!
–Rứa khi mô mệ cho cháu ăn mứt?
–Không được nói bậy! Mứt trà ni để mệ
lo việc trên đầu trên cổ đã.
Thế rồi chị Liễu dẫn bé Nga đến nhà cô
Miên. Hai bà cháu vừa bước vào ngõ thì bà Huấn mẹ cô Miên đứng
trong nhà đon đả chào:
–Hai mệ cháu le te nách thúng đi mô đó?
–Dạ, đến chị có chút việc. Lâu ni cô
Miên có gởi thư về không?
–Có. Tôi cũng mới nhận ít quà Tết của
nó hôm rồi. Có việc chi rứa?
Chị Liễu để cái thúng xuống. Chị sắp
một gói trà, một hộp mứt và gói đường phèn vào chiếc dĩa nhôm rồi
trịnh trọng bưng lại nói với bà Huấn:
–Có chút quà mọn gọi là chút lòng thành
xin chị nhận lấy thảo!
Bà Huấn trố mắt ngạc nhiên:
–Có việc chi mà cô làm lát lát vậy?
–Dạ, nhờ cô Miên nên hồi trưa ni tôi có
nhận được một số tiền!
–À, tôi biết rồi, chắc tiền cứu trợ cô
nhi quả phụ chứ gì! Được bao nhiêu?
–Dạ, không dám giấu chị, được một triệu
sáu.
–Được
rồi, cô có lòng tôi xin cám ơn cô. Nhưng tôi cũng mới nhận quà
của cháu Miên. Thôi cô cứ đem về mà dùng.
–Vẫn biết rứa nhưng đây là chút lòng
thảo của mệ cháu tôi, xin chị đừng từ chối!
–Cô có lòng như rứa là quí rồi. Cô đem
về mà dùng đi, tôi không nhận mô!
Bà Huấn hết lòng từ chối nhưng chị Liễu
vẫn nhất định không chịu. Cuối cùng bà Huấn vói tay cầm lấy gói
trà:
–Cô cứ
nhất định như vậy thôi tôi xin nhận một gói trà lấy thảo đủ rồi.
Chị Liễu bất đắc dĩ chào bà Huấn rồi
dắt bé Nga về. Vẻ mặt chị không mấy vui. Nhưng đi được một đoạn
đường chị bỗng quay ngoắt trở lại chợ. Chị lại vào hàng vải mua
một xấp khác. Bé Nga ngạc nhiên hỏi:
–Mệ mua vải mần chi nữa mệ?
Chị Liễu cười:
–Mi bận đồ mới được cũng cho hai đứa em
mi bận với chứ!
Tiếp đó chị lại mua cả nửa thúng nếp,
một ít đậu đen, đậu phộng cùng một số đồ lặt vặt chất gần đầy một
thúng. Chị phải nhờ người ta đỡ lên đầu để chị đội mang về.
Vợ chồng Mẹt dắt hai đứa nhỏ đến nhà
chị Liễu vào chiều hăm tám. Nhìn hai đứa nhỏ xúng xính trong hai
bộ đồ mới, chị Liễu cười sung sướng hỏi:
–Chà, hai cháu của mệ bận áo quần mới
đẹp dữ hả? Đứa mô cho mệ mượn bận một bữa đi!
Chị ôm từng đứa hôn hít rồi quay vào
bên trong gọi:
–Con Nga mau dậy ra chơi với em nì. Ngủ
chi mà ngủ lắm rứa không biết!
Chị lại quay sang vợ chồng Mẹt:
–Hai đứa bây vô phụ với mạ lo cúng sớm
rồi còn nấu bánh tét nữa chứ!
Mẹt nhìn mẹ cười:
–Năm nay mạ bảnh quá, có cúng tất niên
lại có nấu bánh tét nữa chứ! E mạ tiêu gần hết số tiền người ta
cho rồi?
–Thì
tiền người ta cho mình để tiêu chứ để mần chi? Tiền nớ cũng nhờ
ba mi mà có đó! Phải cho mấy đứa nhỏ nó biết ăn Tết là răng một
lần chứ! Lâu nay cả ba đứa con tụi bây thật tình đã biết Tết là
chi mô? À, cả mi cũng rứa nữa đó chứ Mẹt! Ừ, phải rồi! Cả ba chục
năm từ ngày giải phóng tới chừ tao mới có dịp cúng tất niên, cúng
giao thừa lại một lần đây chứ! Lâu ni hàng ngày chưa có bữa mô no
bụng lấy chi mà lo Tết?
Chồng Mẹt – thằng Thực cũng xen vào:
–Chính con cũng chưa biết Tết thật sự
ra răng huống chi tụi nó. Gần đây còn đỡ, hồi làm hợp tác xã ngày
ba mươi còn ở ngoài ruộng, ngày mồng một lo đi trồng cây nhớ bác.
Có hề được nghỉ Tết mô! Cực hết chỗ nói!
–Chừ mạ nhờ thằng Thực lo việc trên bàn
thờ. Trái cây, bánh cộ, giấy áo mạ đã để sẵn, sắp xếp răng cho
khéo thì sắp. Còn con Mẹt phụ nấu nướng với mạ!
Mẹt rất ngạc nhiên khi thấy mẹ kho nấu
nhiều món quá. Thịt gà bóp, thịt heo phay, thịt heo kho tàu, thịt
vịt chấm nước mắm gừng, chả trứng, canh cá, cá thu kho, tôm rằn
kho, các loại đậu giá chiên xào... Không món nào nhiều lắm nhưng
tương đối đủ vị cho một bữa cỗ của hạng nhà giàu. Mùi thức ăn
nóng thơm lựng khiến ai nấy đều nuốt nước bọt... Mấy đứa nhỏ có
lẽ thèm quá, đều chạy vào chơi quanh quẩn trong nhà để chờ đợi.
Mẹt tuy cũng thèm nhưng tiếc của, cô
hỏi mẹ:
–Thức
ăn chi mà nhiều dữ ri? Mạ không nhớ mấy lần Tết mình phải ăn cháo
khoai bụng sôi rột rột cả đêm à?
–Răng không nhớ được? Nhưng mình đói
cũng đói rồi, khổ cũng khổ rồi, chừ may có được chút lộc ngoại,
không cho mấy đứa nó thỏa mãn một bữa còn đợi khi mô?
Tội nghiệp ba đứa nhỏ đứa nào cũng chăm
chú theo dõi từ việc đơm múc thức cúng ra chén dĩa đến việc bưng
đặt thức ăn lên bàn thờ, đến việc thắp hương, việc vái lạy của bà
ngoại và cha mẹ chúng.
–Khi mô thì cúng xong mệ?
Chị Liễu lẫn vợ chồng Mẹt đều tức cười
khi nghe cậu bé út hỏi. Mẹt cười nói:
–Mày buồn ngủ cứ đi ngủ đi đã, sáng mai
mới xong.
Nghe
Mẹt nói cả ba đứa nhỏ đều lộ vẻ tiu nghỉu. Chị Liễu không nhịn
cười được.
–Chốc nữa thôi, khi mô hương gần tàn mệ rót nước lên là xong!
Một lát sau bé Nga nhắc:
–Hương gần tàn hết rồi mệ ơi!
Chị Liễu lại cười:
–Ừ, mệ đi rót nước đây!
Chị Liễu tự đi rót nước cúng đặt lên
bàn thờ rồi “bái tất”. Bọn nhỏ có vẻ nôn nóng nhìn theo từng động
tác của chị Liễu khiến cha mẹ chúng không khỏi xúc động. Một lát
sau cả nhà đã ngồi quanh mâm cỗ. Bọn trẻ hoạt động đôi đũa hăng
hái quá khiến Mẹt phải ngăn cản chúng:
–Từ từ mà nhai, coi chừng mắc cổ!
Chị Liễu cảm động nhìn các cháu:
–Ôn ngoại bây đãi đó. Bây cứ ăn một bữa
cho bưa đi. Biết ôn ngoại không? Áo quần mới bây bận đó cũng là
của ôn ngoại cho cả. Nếu ôn ngoại bây còn sống chắc nhà mình
không đến nỗi khổ thế ni mô!
Đồ ăn tuy nhiều nhưng chị Liễu chỉ ăn
nếm nếm mỗi thứ một chút rồi buông đũa trước ai hết. Chị đứng dậy
nói:
–Tao rứa
là rồi đó. Bây cứ ăn đi và canh chừng đừng để tụi nó ăn nhiều quá
không tốt. Còn thì đậy đó tối ăn lại nữa. Chừ tao phải lo chuẩn
bị cho xong bánh tét để nấu.
Trời về đêm mùa đông vẫn thường lạnh
nhưng chị Liễu vẫn kê bếp nấu bánh trước sân. Chị đặt một cái đòn
ngồi bên bếp để ngồi canh lửa. Củi đun toàn là những gốc tre, gốc
sắn thô kệch và một ít gỗ tạp. Ngọn lửa bị nồi bánh ngăn cản
không bốc cao được, cứ xoắn quanh đáy nồi bập bùng trông khá đẹp
mắt. Hơi lửa ấm áp đã dần lôi cuốn cả nhà đến ngồi quanh nồi
bánh. Chị Liễu than:
–Việc nấu bánh bữa ni hơi bất ngờ nên
mạ không chuẩn bị củi được. Chừ phải nấu củi tạp ni mất công canh
chừng lắm. Vì rứa mạ phải kêu bây qua giúp một tay. Nhưng thôi,
bây vô dọn cho tụi nó ăn lại đi mà về ngủ. Mạ canh chừng một mình
cũng được.
–Khoảng khi mô bánh mới chín mạ?
–Sáng mai.
–Rứa chừ mạ phải thức cả đêm à?
–Chứ răng nữa!
–Vất vả như rứa mạ bày đặt ra nấu bánh
mần chi?
–Lâu
ni mắc ơn nghĩa xóm giềng quá nhiều chừ may có một chút lộc ngoại
cũng nên trả bớt cho người ta một chút chứ! Mụ Huấn một đòn nì,
mụ Hoàng một đòn nì, o Lý một đòn nì...
–Mạ nì, chừ cứ để tụi nó ngồi chơi rồi
chốc nữa dọn ăn luôn. Ăn xong cho tụi nó ngủ lại đây cũng được.
Còn ba mẹ con mình thay nhau canh nồi bánh.
–Ừ, bây tính rứa cũng được. Tao cũng đỡ
mệt. Có lẽ giờ ni hàng xóm ngó đến nhà mình họ sẽ ngạc nhiên lắm.
–Ngạc nhiên cái chi?
–Hơn ba chục năm ni có đêm đông mô mà
nhà mình có ánh lửa? Có khi mô đủ cả nhà ngồi quanh bếp lửa như
chừ? Lửa ni là lửa ba mi đem từ đất Mỹ về đó! Thấy cảnh ni hàng
xóm không ngạc nhiên răng được?
Mẹt nghe mẹ nói bất giác cất giọng hát
lên một câu hát cũ:
“Bên
mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng,
trông bánh chưng chờ trời sáng,
đỏ hây
hây những đôi má đào...”.
Nhưng Mẹt chợt khựng lại khi nghe mấy
tiếng sụt sịt của mẹ. Cô ngạc nhiên quay mặt lại nhìn. Dưới ánh
lửa bập bùng Mẹt thấy rõ mấy giọt lệ đang lăn trên má chị Liễu.
Không biết chị bị xúc động vì câu hát của con mình hay do ngọn
khói nào đó làm chị cay mắt.
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Ngô Viết Trọng sưu tầm
Đăng ngày Thứ Tư, November 23,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang