Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Xã
luận
Chủ đề:
thơ
Tác giả:
Lưu Nguyễn
Đạt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nói về thơ gần như sống
trong thơ một lần nữa. Đó cũng là cảm nhận dây chuyền, khi tình
cờ gần gũi với dòng thơ. Thơ, vốn nội tâm, là niềm vui, nỗi buồn
từ cuộc sống. Thơ vào đời và đời cũng nhập thơ. Như dòng nước với
nụ cười; như hơi thở của sóng vơi.
Trong thơ, biển cả đã đổi màu, huyền
biến vu vơ, trong tầm mắt và chiều sâu của hồn người thi sĩ. Tình
yêu cũng vậy, qua lời lẽ ẩn vùi nhiệt độ, đã hoá chất thơ thành
thứ ánh sáng tuyệt mỹ, sau và trước cả mọi bình minh, như tia
nắng cuối cùng giữa lòng đêm và ngọn lửa rừng vừa chợt tắt, khi
vạn vật còn hoang mê, chìm đắm, và chữ nghĩa còn lang bạt, lạnh
nguồn.
Thơ đôi
khi cũng yêu sách, đòi hỏi. Đòi hỏi mình và yêu sách cả cuộc đời.
Đòi dòng sông nhập thành biển cả. Hỏi sao nguồn cảm hứng ngược
dòng khơi. Yêu hạt sương tích tụ thành mây. Và sách cả niềm tin
từ giọt nước mắt loài người. Từ nỗi đau triền miên quanh thế
giới. Từ giọng hát vào đời, bỗng chia đôi. Còn yêu sách, đòi hỏi
gắt gao hơn thế nữa, chẳng qua vì đáy lương tâm còn nguyên vẹn,
hay đam mê chưa tắt hẳn mà thôi.
Thơ huyền biến, lúc hiền hoà, lúc độc
ác. Như vị cay, vị ngọt cuối làn môi. Có lúc say đắm vô hạn. Có
lúc hạn hẹp, chua xót, cạn vơi. Hư hư, thực thực. Ngập tràn trong
dấu tích, xa cách trong buộc ghép ngàn nơi. Nhà thơ phải lòng chữ
nghĩa. Phải lòng cuộc đời trọn vẹn, dang dở – ngay trong bạt
xiêu, tuyệt vời.
Thơ là cơ thể và sức sống. Là đứa trẻ
nghịch đùa với dòng sông như môi yêu với tình tứ. Là giọt máu
buốt đau và mảnh da quằn quại. Thơ đấu tranh, đòi quyền sống
trong nhu yếu vô thường, và bất lực trong đổi chác căn cơ. Bất
lực, dù vĩnh cửu từ vắng vợi đời người.
Thơ vô hình, vô dạng. Thơ ở ngoài sách
vở, ngoài hiện thực, vu vơ, miệt mài, lạc lõng. Thơ thất lạc ngay
trong lòng thơ. Thất lạc ngay trong tâm hồn người thi sĩ – ngoài
tầm giao cảm với đối nhân. Thơ đã trở thành đứa con tư sinh vô
thừa nhận. Xiêu vẹo, nghiêng ngửa ngay tại dòng chữ nghiệt ngã,
keo kiệt. Bị chèn ép trong nhịp bước trần gian, thơ cô đơn trong
cảnh vọng trần tục, trong toang vỡ trần truồng. Vì thế, thơ không
ai dám nhận, dám tin, dám hỏi. Và cũng ít ai đủ khả năng nuôi
dưỡng, gả gấm, hoặc đủ bản lĩnh gạ gẫm nàng thơ.
Nhưng cũng có lúc thơ là tặng dữ cuối
cùng trong cuộc đời, là niềm vui còn sót lại đêm qua. Những lúc
tận cùng vời vợi đó, làm thơ tức là nhặt chữ nối nguồn, là đãi
cát tìm vàng, là đào khởi lòng than âm u, tì tích, để tìm hạt kim
cương tinh khiết, xuất chúng. Thơ sẽ gạt bỏ bạc bẽo để sưởi ấm
lòng đau. Sẽ quét sạch đường đời và khởi sắc vạn nơi: thơ chiết
xuất thơm tho từ ô uế, tiếp nhựa sống vào thân cây, và đặt niềm
tin trong lòng người.
Vì thế, thơ là con đường văn chương hoá
dạng: nửa nọ, nửa kia; nửa sáng nửa tối; nửa vui, nửa buồn; nửa
người, nửa vật. Một thế giới bâng quơ, lơ lửng, ngược xuôi, xuôi
ngược. Liên tục trong trí nhớ, lại có lúc cách quãng trong u uẩn,
trước sau muôn mặt, thiên hình, vạn trạng. Có cũng như không,
không rồi lại có. Tất cả là khát vọng, hay thất vọng, trong bao
dung, toàn bích. Là hào hứng trong phân mảnh, tuyệt vời.
Thơ trong sạch hay bụi bậm là do lòng người tìm kiếm chất
thơ. Thơ không mùi không vị, không tình không nghĩa, mà chỉ mượn
mùi thơm ngọt từ cỏ cây, vị say từ hơi thở nồng nàn, và tình
nghĩa từ ánh mắt cô liêu, đắm đuối. Người thi sĩ nhìn và nhớ vạn
vật chung quanh câm nín, hoang sơ. Thơ nguyên vẹn, mong manh
trong dấu vết xa gần. Thơ bừng khởi trong tiềm thức sơ sinh, bao
bọc. Ta đã khoác lên vai, lên tóc và vết tích nó những bụi bậm,
tanh hôi của thân phận làm người. Thơ lạc lõng vì hồn người lạc
lõng. Thơ chảy máu vì tế bào người u uẩn, cắt, vùi. Thơ tì ố, tàn
tạ như chiếc áo kẻ tù đày. Thơ cũng trong sáng như ánh mắt thơ
ngây, trong bình minh vĩnh cửu của vạn vật luân lưu, muôn thuở
tái thế.
Thơ nổi chìm, sâu sắc. Thuyên chuyển từ
tế bào này sang tế bào nọ. Như giọt tình, giọt nước mắt ngấm lòng
người, ngấm lòng vạn vật. Thơ cũng là những câu hỏi không để trực
tiếp trả lời, hay trả lời để hỏi lại. Trong vô hạn, mong manh,
như những công án thiền định:
nếu mọi dòng sông đều ngọt ngào
biển
cả lấy muối mặn từ đâu?
if all rivers are sweet
where does the sea get its salt?
[1]
Ý thơ và bóng chữ đã đôi lúc chung
tình, giao hợp để cùng nhau thoả ước, khép mở, mật thiết lẫn
nhau. Thơ cố gắng trả lời sành sỏi. Nhưng nhiều lúc thơ lại vụng
về, giả định, vu vơ, vì tạm bợ, không chủ đích. Tới nơi mà không
biết. Lạc lõng mà không hay. Ngay lúc tuyệt độ trong cơ bản tâm
tình. Ngay lúc phá thể trầm trọng để xây dựng lại một trật tự
mới, khác với trật tự hiện hữu. Ngay trong cách sống vô vi, vô
thường:
sáng trăng vời vợi xa bao ngả
xa
cách lòng tình xa nguyệt nga?
how far is the light of the moon
from the moon?
[2]
Nhà thơ không chịu trả lời gọn gàng,
minh bạch, chỉ tủm tỉm cười, rồi trì hoãn vu vơ, hay giải đáp
trong hững hờ, cởi, mở. Thành thử câu hỏi vẫn mãi mãi nguyên vẹn
trong lòng người còn tìm, còn kiếm. Nguyên vẹn từ đầu, bất tận về
sau.
Thơ có
lúc vắng dấu chân người, mà chỉ còn là vết tích của đá, của hoa,
cỏ lạ, nguồn, khơi. Trong những lúc khô khan tuyệt tích, cạn hơi,
cạn hứng, người thi sĩ đã tìm đường về một địa hạt xa xăm siêu
thực, như tìm đường lên nơi thần linh hay đất cấm, nơi dư âm,
hoài cảm hay huyền thoại, hư vô. Thi sĩ đã thu ngắn lại, buộc nối
lại con đường cũ đưa dẫn về nhà trời, xuyên qua hình dáng mong
manh, mở đón của tạo hoá, của cỏ cây, của tảng đá dẫn lộ. Đó
không phải là những cảnh vật vô tri vô giác, những khối tảng ù
lì, cục mịch, mà là những hồn đất, hồn cây, những tảng đá từ
không gian lạc vào lòng đất, nhưng vẫn biết bay bổng, vẫn nhớ bay
bổng, thu hút; biết gọi nắng từ mưa; biết nghe tiếng thì thầm của
những tâm hồn kiệt quệ, khát khao. Đó cũng là những hạt đá quý,
những lệ đá xanh, những tâm linh ẩn náu cạnh thân thể người yêu:
khi em vuốt ve ngọc biếc
ngọc biếc
vuốt ve em
when you touch topaz
topaz touches you
[3]
Như vậy thơ có thế giới riêng biệt của
nó, trong công cuộc tìm lại lòng người, tìm lại lòng nguyên thủy
của đất trời, thiên nhiên, của tiếng nói đầu tiên từ trí nhớ nhân
loại, từ huyền thoại của ý nghĩa ẩn vùi trong lãng quên tập thể.
Thơ dẫn đường vào toàn bích, hé mở thành tôn giáo bỏ ngỏ, hoang
vu. Thơ tìm nguồn để tạo lại cội nguồn, tạo lại tông tích siêu
thoát. Thơ hy vọng cả trong nỗi tuyệt vọng.
Thơ là cuộc hành trình với con người
vậy.
LS Lưu Nguyễn Đạt
Tác giả chú thích:
[1]
Pablo Neruda, The Book of Questions,
(El libro de las preguntas), Copper Canyon Press: Port Towsend,
1991. Câu hỏi có chiều sâu thách đố tuyệt đối như những công án
(koan) xuất phát từ tâm thức các thiền sư.
[2]
Pablo Neruda, The Book of Questions.
Nhận định như trên.
[3] Pablo
Neruda, Stones of The Sky, (Las pierdas del cielo), Copper Canyon
Press: Port Towsend, 1987.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, December 10,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang