Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Thần Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
“...Tôi
đã thấy điều đẹp đẽ trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào
quay về những cái thấp hèn mà tôi đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn
con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe
trong cái cỗ máy thống trị này...”
Một đứa học trò la lớn “Cô giáo Ngụy, cô giáo Ngụy sắp vô lớp
đó nghe tụi bay...” Bọn con trai, mấy đứa đang quây quần ở cuối
lớp chơi trò “dích” hình, đứa nào đứa nấy vội vã thâu tóm lại mấy
tấm hình mầu bằng bìa cứng có in hình sặc sỡ. Bọn con gái đang
tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ.
Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần chia nhu yếu
phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gam thịt, mấy trăm gam đường
bước vào lớp.
Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói
thịt, gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mỉm cười:
– Cô cho các trò ngồi xuống. Các trò
làm chi ồn rứa bộ định làm loạn giống...
Mai định nói làm loạn giống “Việt Cộng”
như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học trò trước kia, nhưng cô
ngưng lại kịp. Sau khi nghe em trưởng lớp điểm danh, cô bắt đầu
khảo bài.
Học
trò của cô phần nhiều thuộc những gia đình mà chính quyền mới gọi
là thành phần có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với “cách
mạng”. Hầu hết cha của các em đang bị cầm tù trong các trại tập
trung cải tạo. Thêm vào đó có khoảng một vài em thuộc gia đình
cán bộ Cộng sản cao cấp mới vào Nam.
Phần đông các học trò miền Nam những
năm đầu sau khi bị “giải phóng”, các em học trò miền Nam còn rất
ngoan và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng
còn coi công việc gõ đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải
thuần túy là một nghề để sinh nhai.
Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy
được hai năm thì miền Nam mất. Cô được chính quyền mới cho đi dạy
lại vì theo họ lý lịch của cô tương đối khá sạch, từ ông bà xuống
tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.
Sáng nay như thường lệ sau khi khảo bài
cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen Mai nắn nót viết bài
học Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen. Mardi 26
Septembre 1977 Conjuguez le verbe “Etre” Je suis Tu es Il est...
Bỗng một tiếng thét lớn:
– Thưa cô trò Hùng cú đầu con! Mai nhịp
nhịp cái thước gỗ vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như
tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt trên giấy. Cô tiếp tục viết bài
học lên bảng đen. Elle est...
... Thưa cô trò Hùng bóp... c con...!
Cũng là cái giọng học trò hồi nãy, và lần này cả lớp phá lên cười
như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo:
– Hùng, Quang hai em lên đây!
Hai đứa học trò lớp Sáu, ngồi cạnh nhau
một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ
ngoài quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh.
Cả hai lấm lét bước lên phía trên. Tuy
có hơi giận vì học trò tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm rãi
hiền từ:
– Có
phải Hùng phá Quang không?
Hùng cúi đầu không đáp, cô Mai lại hỏi
lần này giọng nghiêm khắc hơn:
– Có phải em phá bạn làm mất trật tự
trong lớp không?
Hùng nhìn lên trả lời lí nhí:
– Không ạ! Lần này thì thằng Quang la
lớn:
– Nó xạo,
nó cú đầu con rồi bóp...
Mai đưa một ngón tay lên môi ra hiệu
cho Quang đừng nói nữa không thì cả lớp lại cười như vỡ chợ.
Có nhiều tiếng nhao nhao:
– Trò Quang nói đúng đó cô, thằng Hùng
nó có làm đó... nó còn viết bạy lên lưng áo em nè...
Thằng Hùng chợt đưa tay làm thành nắm
đấm đôi mắt căm hờn:
– Chúng ông sẽ cho tụi mày biết tay
nhé... chúng ông cho bố bọn mày đi cải tạo cứ là đờ người nhé...
Lần này thì cô Mai thật sự giận dữ:
– Trong lớp của cô hay bất cứ nơi đâu
em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa?
Nghe rõ chưa? Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết
buổi.
Buổi dạy
học tưởng như bình thường sáng hôm đó đem đến cho Mai nhiều
chuyện bất ngờ sau này. Vài ngày trong khi lớp Pháp văn của cô
đang làm bài kiểm tra, người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống
văn phòng hiệu trưởng có chuyện cần. Mai hỏi:
– Có chi quan trọng rứa bác Tam? Lớp
tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi? Bác nói đợi tới hết giờ
rồi tôi sẽ xuống bác hỉ!
Người tùy phái già trả lời:
– Dạ tui cũng nói như rứa với bà hiệu
trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi,
nghe nói ông khách nớ làm lớn lắm.
Mai đáp:
– Bác Tam à, tôi không thể xuống được
ngay bây chừ, bác xuống văn phòng giải thích giùm tôi... Ông Tam
quày quả đi ra. Khoảng vài phút sau một người đàn ông đội nón cối
đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ Seiko5 vàng sáng chói, nước
da men mét, hàm răng hơi vỗ, mặc quân phục rộng thùng thình, vai
đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông Tam.
Con Trang trưởng lớp sau một vài giây
ngỡ ngàng vì người khách vào lớp bất ngờ, nhanh nhẹn hô lớn:
“Nghiêm!” Cả lớp buông bút, đứng thẳng
chào khách.
Lần này thì đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen
ngỡ ngàng và ngạc nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên
bục giảng lễ độ hỏi:
– Thưa ông có việc gì cấp thiết không
ạ?
Người đàn
ông nhìn lên lúng búng trả lời:
– À không, tôi chỉ muốn nói chuyện với
cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn phòng.
Cô Mai từ trên bục gỗ bước xuống từ
tốn:
– Dạ cám
ơn ông, xin ông thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không
thể tiếp chuyện ngay với ông.
Hết giờ Pháp văn cô Mai vội vã xuống
văn phòng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có
ông khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông
khách đưa tay mời cô ngồi. Ông ta vẫn còn đeo đôi kính Rayban đen
trong căn phòng không có cửa sổ. Cô Mai bất giác muốn phì cười,
nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu:
– Chắc cô không biết tôi là ai, nên
không xuống gặp tôi ngay.
Cô Mai trả lời ngay:
– Dạ thưa tôi biết ông là người rất
quan trọng nhưng vì bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ
của các em...
Ông khách ngắt lời:
– Ô! Không không tôi có ý phiền trách
gì cô đâu, thực ra thì lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, vì
ngoài Bắc mỗi khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải
đến gặp tôi chứ tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả. Cô
Mai trả lời:
–
Dạ trong ni chắc còn lạc hậu, không biết bao chừ mới theo được
bằng ngoài nớ... Cô Mai không biết ông khách đang nghĩ gì và ánh
mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen. Ông trầm ngâm một chút rồi
nói:
– Bây giờ
thì tôi hết giận rồi cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng
tá Trần Kình, Chính ủy của Trung đoàn Không quân Tiêm kích 935
đóng tại căn cứ Không quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần Hùng học
trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê bình cô có
khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô
Mai nghĩ sao?
Mai thật sự ngạc nhiên, dầu miền Nam đã bị chiếm đóng hơn hai
năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ và cùng chung mầu da
với cô, nhưng cô vẫn chưa thật sự hiểu hết về cách suy nghĩ, giao
tế của người cộng sản. Cô trả lời chậm rãi:
– Thưa ông Kình, tôi không biết phải
trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi
dạy bất cứ học sinh nào được giao phó cho tôi, tôi không phân
biệt đối xử các em theo thành phần gia đình... hơn nữa các em khi
sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lý lịch của cha mẹ. Lý lịch
cha mẹ các em, theo ý tôi, không thuộc phạm vi học đường. Còn
việc tôi phạt em Hùng là vì em đã phá rối trật tự trong giờ dạy
học của tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai
cấp gì đó.... Người đàn ông tên Kình, ngồi thẳng lên đan hai bàn
tay vào nhau:
– Đó là tư duy của tôi cách đây nửa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên
lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào khách, bàn cô giáo có lọ
hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng.
Tôi thành khẩn với cô nhá, tôi chưa
thấy trường nào ngoài Bắc học trò có văn hóa như lớp của cô. Tôi
rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi thì thế này nhé, cô cứ công
tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê bình tiêu
cực của tôi về cô đi. Coi như không có “sự cố” gì cô Mai nhé. Mai
mỉm cười:
– Dạ
nếu ông đã dạy thế thì tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết
lời khen của ông, vì trong Nam này trường nào lớp nào cũng đứng
nghiêm, chào khách chào thầy cô. Còn chuyện trang hoàng lọ hoa
cho bàn thầy cô thì quả thật là công khó của các em học sinh nữ
của lớp tôi đã tự ý hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học,
không phải do tôi dạy bảo. Ông Kình cười:
– Cô không tuyên truyền cho miền Nam
đấy chứ? Ồ! Tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật.
Ông tiếp:
– Còn vấn đề này nữa, sao tôi không
thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ?
Mai thán phục sự quan sát của người đàn
ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Kình đã nhận xét được
biết bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo
hình bác Hồ cũng như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu
trước cửa nhà, để xua đuổi ma quỷ. Việc treo hình của ông Hồ là
một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà không có gương mặt lom
lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói quen,
nhiều người treo hình bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma
bóng quế nhà tôi có chúa quỷ ở đây nhá! Các ngài ma quỷ hồn ma
bóng quế tép riu liệu mà xéo đi...
Mai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
– Hình như một năm trước đây tôi nhớ có
treo, nhưng vì lớp học xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật
liệu là sắt và tôn xi–măng cho nên đinh đóng vào tường không
chắc, bức hình lộng kiếng của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ. Ông
Kình hỏi:
–
Thế thì sao không báo cáo và thay ngay đi, hồi trước giải phóng
các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu ra sao mà bây giờ lại
nói đóng đinh không được?
Cô Mai cười xoà:
– Trước giờ trong này không có lệ treo
hình lãnh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học.
Điều này thì ông Kình có thể tin, vì
khi Trung đoàn 935 tiếp thu căn cứ Không Quân Đà Nẵng ông cũng
hơi ngạc nhiên khi thấy không có văn phòng, cơ sở nào có treo
hình Tổng thống Thiệu cả.
Nhưng ông đã tự giải thích rằng chắc
cũng như ảnh Bác là biểu tượng thiêng liêng bọn ngụy khi di tản
đã đem ảnh của Thiệu theo để tỏ lòng yêu kính lãnh tụ, như cái
đồng chí gì đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông
vào để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của mình...
Ông chợt thốt lên:
– À, công tác chính trị đảng cầm quyền
của Thiệu yếu nhỉ!... À này tôi có xem lý lịch của cô, khá trong
sạch và cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở
điện, mẹ làm cho hãng dệt, không hiểu sao trường chưa cho cô vào
đối tượng Đoàn? Để tôi giúp cho nhé?
Mai im lặng một chút rồi nói:
– Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể ra đây
làm mất thì giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất
đâu mà là hoàn toàn do tôi cả.
Ông Kình hơi nhổm người về phía trước:
– Tôi không dám tò mò, nhưng nếu cô
muốn kể thì tôi không sợ mất thì giờ cô ạ, tôi muốn tìm cách giúp
cô. Cô Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô
chậm rãi kể. Chuyện xảy ra cũng gần một năm về trước. Mai gặp lại
người bạn học cũ, Đoàn Đình Bình, Bình đã theo cha vô bưng sau
cuộc “tổng khởi nghĩa” thất bại của cộng sản tại Huế năm 1968.
Cả lớp của Mai khi ấy không biết Bình
đi đâu hay đã bị chết thảm dưới bàn tay của Việt Cộng khi Bình về
ăn tết ở Huế.
Đầu năm 1976 Bình được bổ về làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên
Cộng sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu hai người không
nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn
Đình Bình, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi phải Bình hồi
nhỏ có học trường tư thục Bình Minh tại Đà Nẵng không? Hai người
nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn thân. Mai rất trân quí những kỷ
niệm và bạn học của ngày xưa thời học trò. Còn Bình thì cũng vui
mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ êm
đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục rất ư
“vô giáo dục”.
Qua một thời gian, Bình âm thầm yêu Mai
và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được
cho Mai vào đối tượng Đoàn, thì việc xin lãnh đạo chấp thuận cho
cưới Mai sẽ dễ dàng và vinh dự hơn nhiều.
Không hỏi ý kiến Mai, vì muốn dành cho
bạn một sự ngạc nhiên mà theo ý Bình đây cũng là một vinh dự cho
Mai. Bình mời Mai tham dự một buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị
cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên CS, sau khi đã đọc lý
lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để minh
chứng Mai thuộc thành phần tốt.
Về phần Mai khi nhận lời dự buổi họp
chỉ vì nể Bình và cũng có đôi chút tò mò muốn biết khi họp Đoàn
người ta rù rì rủ rỉ cái chi. Mai không ngờ việc xảy ra như thế.
Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển sang hồng, Mai im lặng. Cả
phòng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân to lớn kia.
Một lúc sau Mai mới run run nói:
– Cảm ơn anh Bình đã giới thiệu Mai,
nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định
nghĩa đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đã có chồng,
mặc dầu chưa chính thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công
của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Câu sau cùng Mai nói chậm, dõng
dạc từng chữ như lời tuyên bố.
– Lỗi tại Mai, Mai đã không kể cho anh
Bình nghe, vì Mai nghĩ đó là chuyện riêng tư, nhưng bây giờ thì
bắt buộc Mai phải nói.
Cả phòng họp lặng thinh, không ai biết
phải phản ứng như thế nào, còn Bình đứng sững như trời trồng bên
cạnh Mai. Một hai phút sau đó anh lắc đầu và bỏ ra ngoài. Mai
chạy theo Bình ra đến khoảng sân vắng nói khẽ với Bình.
– Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu Mai không
nói thì suốt đời Mai sẽ áy náy lắm...
Bình quay lại hằn học:
– Tại sao Mai không cho tôi biết, Mai
làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói
là thật hay bịa đặt vậy? Bình đã hỏi thăm người ta ở chỗ Mai
thường trú họ nói là Mai chắc chắn còn độc thân mà... Bình thật
không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói là sự thật Mai có yêu
thằng đó – xin lỗi anh đó không?
Mai ngạc nhiên về thái độ gần như ghen
tương của Bình, Mai không nói gì, từ từ kéo sợi dây chuyền từ
trong cổ và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi
ra trường bên Mỹ thường đeo. Mai nói thong thả:
– Mai có chồng thật chứ, nhẫn cưới của
anh ấy trao cho Mai đây này... Bình bưng hai tai không muốn nghe
thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng.
Ông Kình, chép miệng:
– À ra thế, thế thì gay đấy, Đoàn hay
Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào
Đoàn vào Đảng... À anh chồng của cô bây giờ ở đâu? Còn ở đây hay
di tản rồi?
Mai nhớ lại câu chuyện các thực tại chưa xa lắm, vào một ngày
cuối tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư, phi công F–5E biệt phái
từ Biên Hoà ra. Hai người quen nhau từ mùa xuân 1974 trong một
buổi văn nghệ ủy lạo, trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ.
Năm 1975, một
ngày trước khi Đà Nẵng bị thất thủ, anh đã gặp Mai. Anh không nói
gì nhưng qua nét mặt âu lo của anh, Mai biết là tình hình chiến
sự ngày càng xấu đi.
Anh dẫn Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch
Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố tránh không nói gì về chiến
tranh để được một lần hẹn hò trọn vẹn. Gần lúc chia tay, anh rút
chiếc nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói:
– Anh muốn cùng em sống đến cuối cuộc
đời, em có thuận làm vợ của anh không?
Mai không nói được gì, chỉ khe khẽ gật
đầu nước mắt bắt đầu tuôn vì xúc động và vui sướng. Mai đã là phu
nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai
người đã vẽ ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia
đình tương lai...
Đêm đó anh Tư phải vào trực tác chiến
trong phi đoàn. Ngày hôm sau thì Đà Nẵng mất, Mai tìm cách về Sài
Gòn vào hỏi bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai còn
nhớ mấy nguời lính Không Quân ai cũng lắc đầu nhìn chị thương cảm
ái ngại. Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư mộc mạc đối với Mai như
thuộc về một kiếp nào rất gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào
cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người phi công Nguyễn Bé Tư.
Câu chuyện cô Mai từ chối vào Đoàn
Thanh Niên Cộng sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ đó học trò
gọi đùa cô Mai là “Cô giáo Ngụy”.
Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các
em vì biết các em không có ý xấu, ngược lại các em từ đó rất kính
nể cô, mấy đứa con trai có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam
Cộng Hòa, nói cô Mai chịu chơi và “chì” lắm.
Mỗi khi nghe ai kêu “Cô giáo Ngụy” Mai
mỉm cười hạnh phúc tự nhủ: “Ừ, Ngụy thì Ngụy mình thua thì người
ta gọi mình là giặc. Ngày xưa Gia Long cũng gọi Bắc Bình Vương
Quang Trung, Tây Sơn là ‘Ngụy’ đó thôi!” Giáng sinh 1980. Sau
nhiều lần vượt biên hụt, Mai bị đuổi không cho dạy nữa.
Cô sinh sống bằng việc lấy mối rau quả
và bán ở chợ. Một buổi chiều ông Kình ghé ngang hàng của cô lựa
lựa mấy bó rau hồi lâu. Cô không nhận ra ông vì bây giờ ông coi
có da thịt hơn trước nhưng lại già hẳn đi, và không còn đeo cặp
kính Rayban nữa.
Đến khi hết khách ông mới khẽ bảo:
– Gớm! Cô không nhận ra tôi à? Kình
đây, tôi kiếm mãi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp
riêng cô để nói một chuyện quan trọng không? Tôi sẽ dàn xếp chỗ
gặp, cô nhớ đến nhé.
Buổi chiều hôm đó tại một căn biệt thự,
ông Kình đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo
mọi chuyện. Mai dường như không tin vào tai của mình:
– Ông không nói đùa chứ?
Ông Kình nhìn cô cười:
– Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế. Lời đề
nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài Gòn là “một trăm
phần dầu” cô ạ.
Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ
CS đã làm băng hoại mọi sự cô ạ. Những năm chiến tranh thì người
ta còn có thể biện minh nhưng khi vào miền Nam thì tôi nhận xét
thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn ngoài
Bắc. Sau năm năm thì tôi thấy con người CS đã làm cho miền Nam
ngày càng tồi tệ càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đã thấy
điều đẹp đẽ trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về
những cái thấp hèn mà tôi đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai
tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái
cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến năm
18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô. Lý
do tôi nhờ đến cô vì thứ nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai
cô là nguời rất thật thà, chung thủy. Ngay cả trong người thân
tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai vì lý do an
ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi. Chuyến
vượt biên của cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến bãi, nên việc ra
đi phải nói là rất chu đáo.
Chuyến đi thật suông sẽ. Tàu vượt biên
của Mai sau 5 ngày lênh đênh đã cập bến Hương Cảng bình yên vô
sự.
Tại đây
Hùng gặp lại gia đình một người bà con xa ở Hải Phòng đã đến
Hương Cảng trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung “form” định
cư với họ.
Mai
không đồng ý, qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi
ý kiến ông Kình. Vài tuần sau, Mai được ông cho biết là ông bằng
lòng cho Hùng “tách form” với cô, và coi như lời hứa của cô đối
với ông đã hoàn thành.
Khi được cao ủy phỏng vấn Cô giáo Mai
chọn thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi
định cư.
Còn
Hùng thì theo bà con định cư tại Canada. Cô Mai đi học lại lấy
bằng kỹ sư điện toán, cô rất nhân hậu nhã nhặn nên được rất nhiều
người khác phái theo đuổi, nhưng không có ai có thể thay được
hình ảnh của người phi công ngày nào.
Phi cơ F5E
của KQ–QLVNCH, chiến đấu cơ mà Hoa tiêu Nguyễn Bé Tư
bay chiến đấu trên vòm trời Việt Nam
Trong những năm gần đây khi các hội
thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường
thấy cô trong những buổi họp mặt. Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo
chí văn nghệ. Câu hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân
mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng là: Có ai biết tin tức gì về anh
Nguyễn Bé Tư phi công F–5E biệt phái ở Đà Nẵng hay không? Cô Mai
không biết là lần thứ mấy đã hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng chính
cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đã hơn
hai mươi lăm năm. Tháng Tư 1998, Hùng đứa học trò ngày xưa của cô
từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy trò gặp nhau mừng mừng
tủi tủi sau mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú
lễ phép, rất chững chạc và là một bác sĩ y khoa.
Hùng báo cho cô Mai biết là ông Kình đã
giải ngũ về hưu, và ông đã tỉnh ngộ hẳn giấc mơ cộng sản và sống
rất an phận tại Hà Nội. Trước lúc chia tay, Hùng đưa cho cô Mai
một phong thư niêm kín: “Em cũng chẳng rõ có cái gì trong ấy mà
bố em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người
quen đi nước ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và
dặn là phải đưa tận tay cho cô, và cho cô rõ là phải khó khăn lắm
mới lấy được tư liệu này... Bố em dặn cô đọc xong đừng phổ biến,
không thì rắc rối lắm cô nhé!” Trong phong thư là bản sao của tờ
phúc trình tổn thất của sở tác chiến không quân Quân Đội Nhân
Dân. Tờ phúc trình như sau:
“Thể theo chỉ thị số... Đại Tướng Văn
Tiến Dũng được lệnh từ Trung ương Binh chủng Không quân Nhân dân
phải hạ quyết tâm khẩn trương làm chủ và tạo điều kiện hồi phục
sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và phòng
thủ mặt Nam đề phòng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo
tinh thần trên, vào sáng ngày 30 tháng 3 lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà
Nội một phi đội tiêm kích cơ hỗn hợp gồm 2 máy bay chủng loại Mig
21 và một Mig 17. Phi đội mang bí số KK10 được lệnh cất cánh từ
Đồng Hới để trinh sát sân bay Đà Nẵng xem xét khả năng bố trí
phòng không và máy bay tiêm kích của quân đội ta sau này.
Tiểu đoàn trinh sát TS5 báo cáo là căn
cứ Đà Nẵng của quân đội Ngụy đã bị bỏ ngõ hoàn toàn vào lúc 2 giờ
đêm 29 sáng 30 tháng 3.
Khi phi đội KK10 đã băng qua Xepon Lào
và bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng Tây Bắc, thì bất ngờ một
tiêm kích cơ của Không Quân Ngụy chủng loại F–5E xuất phát từ Đà
Nẵng bất thình lình tiến công.
Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa
loại AIM–9B bắn hạ hai chiếc Mig–21 của ta, hắn còn ngoan cố đuổi
theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig–17 của ta.
Các đồng chí lái của quân đội nhân dân
đã kiên cường bất khuất chống trả suốt gần 7 phút.
Các đồng chí lái, Lai Như Hạch, Hồ Mạc
Dịch, Đỗ Mai Quốc đã hy sinh oanh liệt. Còn chiếc tiêm kích cơ
địch đã bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc lái ngụy nhảy dù đã bị
quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn Bé Tư,
cấp bậc Trung Úy số quân... Trung Ương đã ra lệnh giải quyết
thích đáng tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin
xấu lọt ra ngoài về sự kiện ba máy bay của không quân nhân dân
anh hùng bị một tiêm kích cơ địch bắn hạ trong vòng 7 phút. Bọn
địch có thể lợi dụng để nói xấu Không Quân Nhân Dân. Đồng chí
Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án, kiêm công tố viên tòa án nhân
dân đã tuyên án tử hình tên giặc lái Nguyễn Bé Tư. Tên Trung Úy
Ngụy Nguyễn Bé Tư đã đền tội vào ngày 5 tháng 4 1975.”
Trên góc trái của tờ phúc trình có hàng
chữ TUYỆT MẬT – không bao giờ được công bố. Mai bâng khuâng,
nhưng cô không thấy buồn, cô cảm thấy rất hãnh diện và thanh thản
như người lữ hành đã về lại nhà mình.
Từ lâu cô đã chấp nhận là con người
mang cái tên Nguyễn Bé Tư đã không còn có mặt trên cõi đời này
nữa, cô linh cảm là anh đã đền nợ nước một cách anh dũng, điều cô
linh cảm bây giờ đã thành sự thật trên giấy trắng mực đen.
Cô kiêu hãnh về anh Nguyễn Bé Tư, anh
đã chết hào hùng như anh đã sống. Cô thương mến người phi công ấy
chẳng phải vì anh hào hoa phong nhã như người ta thường nói về
những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh vì anh mộc mạc,
thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương. Anh Nguyễn Bé Tư “Ace” đầu
tiên của KQ–QLVNCH một mình hạ 3 phi cơ địch trong vòng 7 phút,
thế mà cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn cộng sản run
sợ và kính nể khi nhắc đến cái tên hiền hoà của anh, chúng sợ đến
nỗi phải giết anh. Đêm nay Mai thấy lòng mình thật ấm áp dường
như có sự hiện diện của anh Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như anh
đang nói với cô đừng buồn, đừng giận anh.
Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân quanh
ngón tay, Mai khe khẽ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng
năm xưa còn ngồi bên anh.
Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đã
điểm sương, thấy mình lại là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa
cho người phi công khu trục anh hùng của QLVNCH.
Thần Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Suong Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, February 22,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang