Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
Ghi
Chủ đề:
không lực vnch
Tác giả:
KQ Nguyễn Hữu
Thiện
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mục Lục
Lời nói đầu
Phần I - Ngành Khu Trục Cánh quạt
Phần II - Ngành Khu trục Phản
lực
Tác giả chú thích
Tài Liệu tham khảo
Lời nói đầu:
Ngành khu trục được xem là hỏa lực
chính yếu của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa vì chúng ta không có
các đơn vị oanh tạc chuyên biệt. Khởi đầu với Phi Đoàn 1 Khu Trục
& Trinh Sát (tiền thân của Phi Đoàn 514 “Phượng Hoàng”) được
chính thức thành lập ngày 1 tháng 6 năm 1956, tính tới tháng 7
năm 1974 – giai đoạn chót của thời kỳ bành trướng – ngành khu
trục của KLVNCH đã phát triển tới mức tối đa với 19 Phi Đoàn, gồm
3 Phi Đoàn khu trục cánh quạt A–1, 6 Phi Đoàn phản lực siêu thanh
F–5, và 10 Phi Đoàn phản lực A–37.
Chính vì tầm quan trọng của ngành khu
trục, trước đây đã có nhiều bài viết rất công phu, chi tiết về
ngành này của các vị niên trưởng, các cấp chỉ huy cũ, trong đó
đáng kể nhất là các bài Phi Đoàn 1 Khu Trục của cố NT Nguyễn
Quang Tri, hai bài Phi Đoàn 1 Khu Trục và Phi Đoàn 518 Phi Long
của NT Phượng Hoàng Kim Cương, bài Phi Đoàn 2 Khu Trục của NT
Trần Bá Hợi; trong số này chỉ riêng bài Phi Đoàn 1 Khu Trục của
NT Phượng Hoàng Kim Cương + hình ảnh đã trải dài 103 trang trên
Internet.
Công
việc của chúng tôi chỉ là dựa vào các bài viết nói trên, phối hợp
với những nguồn tài liệu tham khảo, đúc kết thành một bài tương
đối ngắn gọn, nhưng có nhắc tới tất cả 19 Phi Đoàn trong ngành
khu trục – gồm cả cánh quạt lẫn phản lực – để vinh danh một tập
thể phi hành trong KLVNCH đã góp phần công lao lớn nhất, hy sinh
xương máu nhiều nhất trong cuộc chiến bảo vệ lý tưởng Tự Do tại
miền nam Việt Nam.
Vì thế, bài viết của chúng tôi, hình
thức cũng như nội dung, chỉ mang tính cách tổng quát, sơ lược,
nhất là phần viết về nhân sự và hoạt động của các Phi Đoàn phản
lực. Ước mong sẽ được các vị niên trưởng, các chiến hữu trong
ngành góp phần bổ khuyết.
Sau cùng, chúng tôi chắc chắn không
tránh khỏi những sai sót, xin được cáo lỗi trước và mong sẽ được
quý niên trưởng, quý chiến hữu, và các nhà sưu tầm góp phần điều
chỉnh.
[Phiên
bản thứ nhất của bài viết này đã được phổ biến trên Đặc san Lý
Tưởng – Úc Châu, số Xuân Đinh Dậu 2017 vào đầu tháng 1/2017. Đây
là phiên bản thứ hai với một số sửa đổi, bổ khuyết sau khi chúng
tôi liên lạc và sự giúp đỡ quý báu của các vị niên trưởng trong
quân chủng, các cấp chỉ huy trong ngành khu trục, và Khối Đặc
Trách Khu Trục BTL/KQ, như Trần Bá Hợi, Dan Hoài Bửu, Nguyễn Quí
Chấn, Lê Như Hoàn, Nguyễn Thiện Ân, Hoàng Văn Hùng...].
Nguyễn Hữu Thiện
Phần I
NGÀNH KHU TRỤC CÁNH QUẠT
1. BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ & THỜI CUỘC:
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, tại Âu châu,
sau khi Pháp bị Đức Quốc Xã đánh bại, Thống chế Pétain đứng ra
thành lập chính phủ thân phe Trục (Axis: gồm Đức, Ý, Nhật Bản).
Tại Đông Dương, viên Toàn quyền Pháp là Decoux bắt buộc phải lệ
thuộc vào Chính phủ Pétain ở mẫu quốc, vì thế vào tháng 9 năm
1940, khi Nhật Bản tiến chiếm vùng Đông Nam Á, Decoux đã miễn
cưỡng để Quân Đội Thiên Hoàng tự do đổ quân vào Việt Nam. Rồi với
nhiều bất đồng về chính trị và quân sự, vào ngày 9 tháng 3 năm
1945, quân Nhật đã làm một cuộc đảo chính chớp nhoáng lật đổ
chính quyền Pháp tại Đông Dương. Sau đó, Nhật Bản tuyên bố Việt
Nam là một quốc gia độc lập trong Khối Thịnh Vương Chung Đại Đông
Á do họ lãnh đạo.
Nhưng tới ngày 15 tháng 8 năm 1945, sau
khi Hoa Kỳ thả trái bom nguyên tử thứ hai xuống Nagasaki (Trường
Kỳ), Nhật Hoàng phải lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện. Sự thất trận của Nhật Bản đã tạo ra một cuộc khủng hoảng
chính trị tại Việt Nam. Hồ Chí Minh cùng Mặt Trận Việt Minh lợi
dụng cơ hội này để cướp chính quyền từ tay người Nhật vào ngày 19
tháng 8 năm 1945 – thực chất là cuộc “Tổng Khởi Nghĩa” của nhiều
thành phần, lực lượng yêu nước mà về sau cộng sản nhận là cuộc
“Cách Mạng Tháng Tám” của riêng họ.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Hồ
Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tự
phong làm “Chủ tịch”. Mấy tháng sau, vào ngày 6 tháng 3 năm 1946,
họ Hồ ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp để Pháp được đổ quân trở lại
Việt Nam.
Mục
đích của Hồ Chí Minh trong việc ký Hiệp định Sơ bộ 6 tháng 3 chỉ
là tạm thời hòa hoãn với Pháp để rảnh tay tiêu diệt các đảng
phái, các thành phần yêu nước chân chính trong Mặt Trận Việt
Minh; để rồi sau đó quay sang chống Pháp, kêu gọi “toàn dân kháng
chiến” vào tháng 12/1946.
Sau khi Việt Minh để lộ bộ mặt thật
cộng sản, cuộc tranh chấp giữa hai phe quốc – cộng bắt đầu. Đại
đa số người Việt quốc gia yêu nước nhận định không còn con đường
nào khác hơn là dựa vào người Pháp để chống lại cộng sản.
Tháng 9/1947, một phái đoàn người Việt
quốc gia gồm 24 đại diện của đủ mọi thành phần đã bay sang Hương
Cảng, trình thỉnh nguyện thư lên cựu hoàng Bảo Đại xin ông trở về
điều đình với người Pháp để cứu nước.
Ngày 5/6/1948, trên soái hạm Duguay
Trouin đậu ngoài khơi Bắc Việt, Cao ủy Pháp tại Đông Dương
Bollaert và cựu hoàng Bảo Đại đã ký kết Hiệp định Hạ Long, theo
đó Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, nằm trong
Liên Hiệp Pháp.
Ngày 28/4/1949, cựu hoàng Bảo Đại về
nước. Ngày 20/7, tuyên bố thành lập “Việt Nam Quốc Gia” do cựu
hoàng làm Quốc trưởng, lấy Sài Gòn làm thủ đô.
Ngày 11/5/1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu
chính thức tuyên bố thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Ngày 25/6/1951, Quốc trưởng Bảo Đại ký
Dụ số 9 thành lập ngành Không Quân.
Theo sử gia Phạm Văn Sơn, tác giả cuốn
“QLVNCH trong giai đoạn hình thành” do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu
xuất bản, khi trở lại Đông Dương, người Pháp không hề có ý định
thành lập một quân đội riêng cho Việt Nam, mà chỉ thành lập những
đơn vị bản xứ do sĩ quan Pháp chỉ huy, cũng chẳng khác nào “lính
khố xanh” thời trước.
Chỉ tới sau khi quân cộng sản Trung Hoa
đánh bại quân Trung Hoa Dân Quốc vào cuối năm 1949, rồi tới đầu
năm 1950 chính thức công nhận chính phủ Việt Minh do Hồ Chí Minh
lãnh đạo, người Pháp mới chấp nhận việc thành lập Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam, với hai mục đích chính sau đây:
(1) Nhận viện trợ quân sự của Hoa Kỳ,
lúc đó đã nhận ra hiểm họa cộng sản tại vùng Đông Nam Á.
(2) Thu hút các tôn giáo, đảng phái,
các phần tử yêu nước chân chính trước kia chủ trương không hợp
tác với thực dân Pháp.
Việc thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam được tiến hành mạnh mẽ từ cuối năm 1950, sau khi Đại tướng De
Lattre de Tassigny, một người chống cộng quyết liệt, được cử sang
làm Cao ủy Đông Dương kiêm Tổng tư lệnh Quân đội Pháp tại Viễn
Đông. Ông thường tới các trường trung học Việt Nam diễn thuyết để
khơi động lòng yêu nước của thanh niên bản xứ.
[Jean de Lattre de
Tassigny, sinh năm 1889, là một danh tướng của Pháp thời Đệ Nhị
Thế Chiến. Sau khi tới Đông Dương, vào tháng 1/1951, ông đã đập
tan cuộc tấn công biển người đầu tiên của Võ Nguyên Giáp tại Vĩnh
Yên với trên 10,000 bộ đội bị thương vong. Vì thế, nhiều người
tin rằng nếu vào năm 1954, De Lattre de Tassigny còn ở Đông
Dương, đã không có cái gọi là “chiến thắng Điện Biên Phủ” của
Việt Minh]
Riêng việc thành lập ngành Không Quân
trong Quân Đội Quốc Gia VN còn được nhiều ưu tiên nhờ sự quan
tâm, vận động của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu
trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, vốn là một người xuất thân từ
Không Quân Pháp.
(Chú thích 1)
Tuy nhiên, những “ưu tiên” ấy cũng chỉ
là việc cấp tốc xây dựng một trung tâm huấn luyện tại Nha Trang
để đào tạo các hoa tiêu quan sát, quan sát viên, chuyên viên kỹ
thuật, và tuyển mộ khoá sinh gửi đi thụ huấn tại các trường
Không Quân Pháp ở Bắc Phi, hoặc nội địa Pháp, đặc biệt là Trường
Võ Bị Không Quân (Salon–de–Provence), nơi xuất thân của ông
Nguyễn Văn Hinh, còn trước mắt chưa có một dự kiến nào về một
“không lực” của Quân Đội Quốc Gia VN.
Mãi tới năm 1953, người Pháp mới chuyển
giao hai Phi Đoàn quan sát của Không Quân Pháp tại Viễn Đông để
thành lập hai đơn vị phi hành đầu tiên cho Không Quân Việt Nam,
là Phi Đoàn 1 Quan Sát (Chỉ huy trưởng: Trung úy Nguyễn Ngọc
Oánh) và Phi Đoàn 2 Quan Sát (Chỉ huy trưởng: Trung úy Võ Dinh).
Về phần Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm, có
nhiệm vụ chuyên chở các yếu nhân, được thành lập ngày 1/8/1951
(tới năm 1954 trở thành Phi Đội Liên Lạc – ELAVN), thì do sĩ
quan Pháp chỉ huy, mãi tới tháng 6/1955 mới được bàn giao cho Đại
úy Huỳnh Hữu Hiền.
Tính tới ngày 1/7/1955, ngày người Pháp
chính thức bàn giao quyền chỉ huy ngành Không Quân cho phía Việt
Nam (ngày này về sau được gọi là “Ngày Không Lực 1 tháng 7”), đã
có thêm hai đơn vị phi hành khác được thành lập cho KQVN là Phi
Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc vào tháng 1/1954, và Phi Đoàn 1 Vận Tải
vào ngày 1/6/1955.
Trong số các đơn vị phi hành kể trên,
Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc – gọi một cách đầy đủ là “Đệ Nhất
Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc” (do danh xưng tiếng Pháp “1er
Groupe de Combat et de Liaison”, viết tắt là 1er GC&L) – là đơn
vị đầu tiên và duy nhất có khả năng “tác chiến”, dù rất giới hạn.
Lực lượng của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên
Lạc gồm 16 phi cơ hai động cơ MD–315 Flamant do hãng Pháp Marcel
Dassault chế tạo sau Đệ Nhị Thế Chiến, có 2 rack bom dưới cánh,
mỗi bên mang được 4 trái bom miểng loại 250 cân Anh, và 2 đại
liên 50 (12.7ly) ở hai bên mũi phi cơ. Trong nhiệm vụ liên lạc,
MD–315 có thể đáp xuống phi trường loại C (1000m) ở các tỉnh nhỏ
để chuyên chở các yếu nhân; ngoài ra, MD–315 còn được sử dụng
trong việc thả dù tiếp tế cho các tiền đồn.
Giữa năm 1956, Phi Đoàn Tác Chiến &
Liên Lạc bị giải thể vì theo các điều khoản của Hiệp Định Genève
1954, mọi chiến cụ do người Pháp quản trị, trong đó có phi cơ,
phải đem ra khỏi Việt Nam trước ngày 30/6/1956.
Vì thế, 16 chiếc MD–315 đã được người
Pháp lấy lại, 10 chiếc giao cho Không Quân Hoàng Gia Căm–bốt, 6
chiếc bay về Pháp.
Nhưng cho dù Phi Đoàn Tác Chiến & Liên
Lạc không bị giải thể, những chiếc MD–315 ấy, với hỏa lực rất hạn
chế và khả năng thao tác của một “vận tải cơ hạng nhẹ”, cũng
không thể gọi là phi cơ tác chiến đúng nghĩa. Cho nên sau khi Hoa
Kỳ nhập cuộc, một trong những đòi hỏi ưu tiên hàng đầu của Tổng
thống Ngô Đình Diệm sau khi lên nắm chính quyền là thành lập các
Phi Đoàn khu trục.
Có thể viết, sự phát triển của Không
Lực VNCH nói chung, ngành khu trục nói riêng, gắn liền và tiến
hành song song với sự tham dự của Hoa Kỳ vào tình hình Đông Dương
trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông
Nam Á.
Sau khi
chính thức công nhận ba quốc gia Đông Dương – Vương quốc Lào,
Vương quốc Căm–bốt, và Việt Nam Quốc Gia – vào ngày 3 tháng 2 năm
1950, chính phủ Hoa Kỳ (thời Tổng thống Truman) đã quyết định
viện trợ quân sự cho lực lượng Pháp tại Đông Dương thông qua
Chương trình Viện trợ Phòng thủ Hỗ tương (MDAP: Mutual Defense
Assistance Program), bắt đầu vào ngày 8/5/1950.
Tới tháng 8/1950, Phái Bộ Cố Vấn Quân
Sự Mỹ (MAAG: Militarty Assistance Advisory Group) được thành lập,
đặt trụ sở tại Sài Gòn, với mục đích giúp đỡ Việt Nam, Căm–bốt,
và Lào chống lại cộng sản. Đây là những nhân viên quân sự đầu
tiên của Hoa Kỳ tới Việt Nam, gồm các cố vấn về tổ chức quân đội,
tác chiến, bảo trì, tiếp liệu, v.v.
Riêng Không Quân Hoa Kỳ, song song với
việc tham gia Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự, còn có một số quân nhân
được luân phiên gửi tới Đông Dương để thi hành những công tác đặc
biệt (được gọi tắt là các toán TDY: temporary duty); chẳng hạn
các toán kỹ thuật từ Phi–luật–tân tới Nha Trang để giúp Pháp bảo
trì các vận tải cơ C–47 “mượn” của Hoa Kỳ. Việc gửi các toán TDY
diễn ra từ đầu thập niên 1950 cho tới khi trận Điện Biên Phủ kết
thúc (1954).
Ngày 23/12/1950, Hoa Kỳ ký hiệp ước “ngũ phương” với Pháp, Việt
Nam, Căm–bốt, và Lào, theo đó Hoa Kỳ sẽ viện trợ quân sự gián
tiếp cho ba quốc gia Đông Dương thông qua Pháp.
Tới năm 1954, với viện trợ quân sự của
Hoa Kỳ, Pháp đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc xây
dựng và phát triển Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Nhưng riêng ngành
Không Quân thì hầu như chưa có gì.
Sau khi thất trận tại Điện Biên Phủ và
phải ký kết Hiệp Định Genève 1954, Pháp đã bị mất hoàn toàn ảnh
hưởng ở Đông Dương. Theo thỏa thuận ký kết vào cuối tháng 9/1954
giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ và Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại, kể từ
ngày 1/1/1955, viện trợ của Hoa Kỳ trong chương trình Viện trợ
Phòng thủ Hỗ tương (MDAP) sẽ được trao trực tiếp cho các quốc gia
Đông Dương, và trách nhiệm huấn luyện quân đội Việt Nam sẽ được
Pháp trao lại cho Hoa Kỳ.
Tháng 1/1955, người Mỹ chính thức nhận
lãnh trách nhiệm huấn luyện cho toàn quân đội VN, tuy nhiên bên
cạnh sự hiện diện của người Mỹ, người Pháp vẫn tiếp tục công việc
huấn luyện và cố vấn tại các đơn vị Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
cho tới khi mãn hợp đồng. Vì thế vào ngày 20/1/1955, để tránh
tình trạng giẵm chân nhau, người Mỹ đã tạm thời ngưng các hoạt
động của Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự (MAAG) để cùng với Pháp thành lập
Phái Bộ Liên Lạc Huấn Luyện Mỹ–Pháp (Training Relations
Instruction Mission, viết tắt là TRIM), với nhiệm vụ phối hợp
trong việc cố vấn, huấn luyện, và bàn giao quyền chỉ huy các đơn
vị cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Phái bộ này gồm 200 sĩ quan Pháp và 217
sĩ quan Mỹ, do Paul Ély, Cao ủy Đông Dương kiêm Tư lệnh Quân Đội
Pháp tại Viễn Đông và Tướng John O’Daniel, Trưởng phái bộ MAAG
của Mỹ cầm đầu. Tuy nhiên trên thực tế, tất cả mọi chương trình
đều thực hiện theo quan điểm của Hoa Kỳ (sau khi quân Pháp rút
hết khỏi Việt Nam, phái bộ TRIM lại đổi thành phái bộ MAAG như
cũ).
Vào
khoảng thời gian này (đầu năm 1955), vì không muốn mang tiếng vi
phạm các điều khoản của Hiệp Định Genève 1954 dù không đặt bút
ký, Hoa Kỳ chỉ có ý định giúp miền Nam thành lập một không lực
với khả năng giới hạn, khả dĩ đủ để đáp ứng các nhu cầu quan sát,
liên lạc, và vận chuyển của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (sau ngày
26/10/1955, đổi danh xưng thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa).
Việc huấn luyện và viện trợ trực tiếp
đầu tiên của Hoa Kỳ cho Không Quân Việt Nam bắt đầu vào tháng
8/1955 với việc thay thế các phi cơ MS–500 Criquet của hai Phi
Đoàn quan sát bằng phi cơ Cessna L–19 Bird Dog (L–19 sau này cải
danh thành O–1). Tổng cộng 60 phi cơ L–19 đã được lần lượt giao
cho KQVN.
Cùng
khoảng thời gian nói trên, khoảng 20 phi cơ huấn luyện North
American T–6G Texan đã được đưa tới TTHLKQ Nha Trang để sử dụng
trong việc huấn luyện nâng cấp (advanced training) cho các phi
công Việt Nam. Và tới năm 1957 thì các máy bay “bà già” (MS–500)
quen thuộc đã hoàn toàn vắng bóng trên bầu trời Việt Nam sau hơn
10 năm hiện diện.
Sau khi miền Nam tuyên bố thành lập
chính thể cộng hòa và Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành vị Tổng
thống tiên khởi vào ngày 26/10/1955, đã có những cuộc tiếp xúc
giữa các đại diện hai miền Nam Bắc về việc tổ chức tổng tuyển cử
thống nhất đất nước vào tháng 7/1956 theo điều khoản của Hiệp
định Genève 1954. Tuy nhiên, bước sang đầu năm 1956, đã xảy ra
hàng loạt vụ khủng bố, ám sát, bắt cóc tại miền Nam mà thủ phạm,
theo lời tố cáo của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, chính là các cán
bộ cộng sản nằm vùng do Việt Minh gài lại. Các cuộc tiếp xúc chấm
dứt, Tổng thống Ngô Đình Diệm đơn phương bác bỏ giải pháp tổng
tuyển cử, viện lý do nhân dân miền Bắc sống dưới chế độ cộng sản
độc tài đảng trị sẽ không được tự do sử dụng lá phiếu của mình.
Khi quyết định như thế, Tổng thống Ngô
Đình Diệm đã tiên liệu việc cộng sản Bắc Việt, với sự yểm trợ của
cộng sản quốc tế, sớm muộn cũng sẽ tiến hành xâm lược miền Nam,
nên ông đã yêu cầu Hoa Kỳ khẩn cấp tăng cường viện trợ quân sự
cho QLVNCH nói chung, KQVN nói riêng.
Mặc dù yêu cầu nói trên đã không được
Hoa Kỳ đáp ứng một cách tích cực, ít nhất KQVN cũng có thêm được
hai Phi Đoàn.
Ngày 1/6/1956, Phi Đoàn 2 Vận Tải được thành lập tại Tân Sơn
Nhất, sử dụng phi cơ Douglas C–47 Dakota. Phi Đoàn này hợp cùng
Phi Đoàn 1 Vận Tải thành Liên Phi Đoàn 1 Vận Tải.
Cùng ngày, Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh
Sát – đơn vị khu trục đầu tiên của KQVN – làm lễ xuất quân tại
căn cứ không quân Biên Hòa, nơi sau này được mệnh danh là “cái
nôi của ngành khu trục”.
2. THÀNH LẬP CÁC Phi Đoàn
– Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh
Sát
Danh xưng “Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát” được dịch từ danh
xưng tiếng Pháp “Premier Groupe de Chasse et de Reconnaissance”,
viết tắt là “1er GCR”, còn được nhiều người gọi miệng là “Đệ Nhất
Phi Đoàn Khu Trục”.
Sở dĩ có chữ “trinh sát” trong danh
xưng là vì một số phi cơ F–8F (kiểu F–8F–1P) của Phi Đoàn được
trang bị máy chụp hình dưới bụng để chụp không ảnh.
Về sau, vào năm 1960 (có tác giả ghi là
năm 1957) Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát đổi danh xưng thành
“Phi Đoàn 1 Khu Trục”. Sau cùng, khi KQVN hệ thống hóa phiên hiệu
các đơn vị vào năm 1963, Phi Đoàn 1 Khu Trục trở thành “Phi Đoàn
514”, danh hiệu “Phượng Hoàng”, và giữ danh xưng này cho tới ngày
tàn cuộc chiến.
Việc thành lập Phi Đoàn 1 Khu Trục &
Trinh Sát đã diễn ra 1 năm sớm hơn dự trù, do yêu cầu cấp bách
của Tổng thống Ngô Đình Diệm để bổ sung vào chỗ trống sau khi Phi
Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể vì phải hoàn trả các phi cơ
MD–315 Flamant cho Pháp.
Lúc ban đầu, ông Diệm yêu cầu Hoa Kỳ
cung cấp ngay các oanh tạc cơ hạng nhẹ B–26 Invader, lúc đó đang
được người Pháp sử dụng tại Đông Dương, nhưng Phái bộ Liên lạc
Huấn luyện Mỹ–Pháp (TRIM) cho biết theo kế hoạch của Hoa Kỳ, đơn
vị tác chiến đầu tiên của KQVN sẽ được thành lập vào đầu năm sau
(1957), và chỉ được trang bị các phi cơ cánh quạt F–8F Bearcat mà
thôi. Ông Diệm không còn lựa chọn nào khác, tuy nhiên ông cũng
yêu cầu rút ngắn thời gian huấn luyện của các phi công để thành
lập đơn vị này sớm hơn. Kết quả, phái bộ TRIM đã chỉ thị cho hai
Phi Đoàn khu trục của Pháp còn đồn trú ở Việt Nam là GC 1/21
Artois và GC 1/22 Saintogne tiến hành bàn giao cho KQVN càng sớm
càng tốt. (GC là viết tắt của “Groupe de Chasse”)
Ngày 17/9/1955, 30 chuyên viên kỹ
thuật, một số đã tốt nghiệp từ TTHLKQ Nha Trang, một số khác từng
phục vụ trong các đơn vị Không Quân Pháp tại Viễn Đông, được
thuyên chuyển tới căn cứ không quân Biên Hòa để học bảo trì phi
cơ F–8F Bearcat tại Phi Đoàn GC 1/21. Sau đó có thêm 100 chuyên
viên bảo trì khác mới tốt nghiệp ở Nha Trang được đưa tới.
Ngày 5/1/1956, 13 hoa tiêu khoá khu
trục đầu tiên của KQVN tới Biên Hòa; những người này thuộc “nhóm
Phạm Phú Quốc”, đi Pháp 50 người chỉ có 13 tốt nghiệp.
Gọi là “khoá khu trục đầu tiên” bởi vì
50 dân chính này được Không Quân Pháp tuyển mộ vào năm 1952 để
“đi học bay khu trục”, khác với những người trước đây sau khi
sang Pháp thụ huấn mới lựa chọn, hoặc được chỉ định ngành bay. Từ
trường bay căn bản École de Début Aulnat tới trường khu trục tại
Bordeaux, nhóm 50 người này bị đánh rớt dần, cuối cùng chỉ còn
lại 13 người tốt nghiệp hạ sĩ quan hoa tiêu khu trục, sau khi về
VN được đặc cách thăng cấp chuẩn úy, gồm:
1 – Phạm Phú Quốc (Thủ khoa)
2 – Nguyễn Thế Long
3 – Võ Văn Sĩ
4 – Nguyễn Tấn Sĩ
5 – Mạc Kỉnh Dung
6 – Vũ Khắc Huề
7 – Trương Đăng Lượng
8 – Lê Ngọc Duệ
9 – Nguyễn Đình Nam
10 – Nguyễn Hữu Bách
11 – Thái Văn Dương
12 – Võ Văn Xuân
13 – Huỳnh Hữu Bạc.
– F–8F Bearcat: “Quan Tài Bay”
Sau lần đầu tiên “thả bay” các tân hoa
tiêu (bay solo) trên F–8F Bearcat, một loại phi cơ cực mạnh và
nổi tiếng “ngựa bất kham”, vào cuối tháng 1/1956, nhận thấy phi
trường Biên Hòa có quá nhiều phi cơ của các đơn vị Pháp đang chờ
giải thể nên việc huấn luyện rất khó khăn, đơn vị xuyên huấn được
dời ra Vũng Tàu (Cap St. Jacques) vào tháng 2/1956.
Đơn vị xuyên huấn có tổng cộng 22 chiếc
Bearcat, trong đó 7 chiếc F–8F–1D được lấy từ Công Xưởng Biên Hòa
là tương đối còn tốt nhất. Ngày 23/2/1956, hai Phi Đoàn khu trục
1/21 Artois và 1/22 Saintogne của Pháp giải thể, các phi cơ được
chuyển giao cho KQVN, gồm 25 chiếc F–8F và 6 chiếc L–19. Số F–8F
này phần lớn đã rất cũ, được tàu chở sang Hongkong Engineering
Company để tổng kiểm.
* * *
F–8F Bearcat là kiểu chiến đấu cơ do
hãng Grumman của Mỹ chế tạo riêng cho các đơn vị phi hành của Hải
Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Tuy
không kịp tham chiến, sau đó các F–8F cũng trở thành lực lượng
chiến đấu cơ nòng cốt, trang bị cho 24 Phi Đoàn của Hải Quân và
một số Phi Đoàn của TQLC.
Là chiến đấu cơ sử dụng động cơ nổ
(piston–engined) cuối cùng của hãng Grumman, F–8F không chỉ phá
tất cả mọi kỷ lục của các chiến đấu cơ cánh quạt mà còn được đánh
giá có khả năng thao tác hơn hẳn nhiều chiến đấu cơ phản lực
thuộc thế hệ thứ nhất.
Với khả năng thao tác đó, F–8F Bearcat
đã được Phi Đội biểu diễn Blues Angels của Hải Quân Hoa Kỳ sử
dụng để thay thế F6F Hellcat.
Trở lại với thời gian đầu thập niên
1950, sau khi quyết định tham dự vào công cuộc chống lại sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á, trong hai tháng 2
và 3 năm 1951, đáp lại lời yêu cầu của Pháp trong Chương trình
Viện trợ Phòng thủ Hỗ tương (MDAP), Hoa Kỳ đã thay thế toàn bộ
chiến đấu cơ cũ – gồm hai loại P–63C Kingcobra và F6F Hellcat –
của 7 Phi Đoàn khu trục của Pháp tại Đông Dương bằng F–8F
Bearcat.
Những
chiếc Bearcat này nguyên là của Hải Quân Hoa Kỳ, được giao cho
Thập Tam Không Lực (13th Air Force) đóng tại Phi–luật–tân cải
biến hệ thống nhiêu liệu cho phù hợp với hoạt động trên đất liền
trước khi chuyển giao cho người Pháp.
* * *
Tại Vũng Tàu, chương trình xuyên huấn
được xúc tiến mạnh mẽ. Một chiếc F–8F–1P có khả năng chụp không
ảnh cũng được trao cho đơn vị xuyên huấn. Nói chung, các huấn
luyện viên Pháp rất hài lòng trước khả năng của các khoá sinh
Việt Nam trên loại phi cơ nổi tiếng “khó trị” này.
Ngày 24/4/1956, một nhóm gồm 6 hoa tiêu
khu trục Việt Nam được đưa tới đơn vị xuyên huấn. Họ đều là những
phi công đã tốt nghiệp khu trục tại Pháp, hoặc phi công vận tải
kinh nghiệm với giờ bay trung bình từ 500 tới 1000 giờ và đã tình
nguyện chuyển sang ngành khu trục. Trước khi đến Vũng Tàu, 6
người này đã được gửi tới Marrakech (Maroc) để bay lại trên phi
cơ huấn luyện T–6 Texan, và tiếp theo, sang trường bay khu trục
của Hải Quân Pháp ở Khouribga (cũng ở Maroc) để bay 30 giờ trên
khu trục cơ F6F Hellcat.
Trong số này có Đại úy Huỳnh Hữu Hiền,
Đại úy Nguyễn Kim Khánh, Trung úy Dương Thiệu Hùng, Trung úy
Huỳnh Bá Tính, và Trung úy Hà Xuân Vịnh.
Ngày 1/6/1956, các phi công khu trục VN
lái những chiếc F–8F đồng loạt từ Vũng Tàu về rầm rộ đáp xuống
phi trường Biên Hòa, khi ấy không còn bóng dáng một phi cơ nào
của Pháp, đánh dấu ngày thành lập Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh
Sát.
Ban chỉ
huy đầu tiên của Phi Đoàn gồm:
– Chỉ huy trưởng: Đại úy Huỳnh Hữu Hiền
– Chỉ huy phó: Đại úy Huỳnh Bá Tính
–
Trưởng Phòng Hành quân: Đại úy Nguyễn Kim Khánh
– Phi đội trưởng Phi Đội 1: Trung úy Dương Thiệu Hùng
– Phi đội trưởng Phi Đội 2: Trung úy Hà Xuân Vịnh.
(Về sau, khi F–8F Bearcat được thay thế
bằng A–1 Skyraider, Phi Đoàn có tới 4 Phi Đội)
Cùng với 7 hoa tiêu (cũng đã từng bay
trên khu trục cơ F6F Hellcat ở Khouribga):
1 – Trung úy Nguyễn Hữu Chẩn
2 – Trung úy Nguyễn Quan Huy
3 – Chuẩn
úy Nguyễn Ngọc Biện
4 – Chuẩn úy Trần
Công Chấn
5 – Chuẩn úy Võ Văn Hội
6 – Chuẩn úy Hồ Xuân Đệ
7 – Chuẩn úy
Nguyễn Thông.
Và 13 chuẩn úy thuộc “nhóm Phạm Phú Quốc” đã nhắc tới ở trên,
tổng cộng 25 hoa tiêu.
Cùng ngày, KQVN đã tiếp nhận Công Xưởng
Không Quân (Biên Hòa) trong đó có 21 phi cơ F–8F bất khiển dụng.
Vì phí tổn phục hồi hoạt động quá cao, các phi cơ này chỉ được
giữ lại để tháo gỡ lấy cơ phận rời.
Tổng cộng trước sau, 69 phi cơ F–8F đã
được bàn giao cho KQVN nhưng trên thực tế, vào thời điểm cuối
tháng 6/1956, chỉ có 18 chiếc tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát
có thể hành quân được. Với số lượng phi cơ này, Phi Đoàn chỉ hy
vọng sẽ duy trì được hoạt động huấn luyện trong lúc chờ 25 chiếc
gửi đi tổng kiểm ở Hương Cảng được đưa về nước.
Ngày 6/6/1956, Phi Đoàn 1 Khu Trục &
Trinh Sát chính thức ra mắt công chúng bằng một buổi biểu diễn
ngoạn mục của 6 chiếc F–8F nhào lộn ở cao độ thấp trên không phận
thủ đô Sài Gòn.
Theo các báo cáo của phái đoàn xuyên
huấn Pháp, các phi công Việt Nam có đủ khả năng để chế ngự “những
con ngựa chứng” Bearcat, tuy nhiên mức hoạt động càng gia tăng,
sự già yếu của chúng càng lộ rõ!
Ngày 11/7/1956, Chuẩn úy Nguyễn Tấn Sĩ
phải hạ cánh ép buộc vì chân đáp của F–8F không nhả ra hết. Ngày
21/9 cùng năm, Chuẩn úy Huỳnh Hữu Bạc tử nạn khi bay chạm phải
một F–8F khác, và trở thành phi công khu trục đầu tiên của KQVN
bị tử nạn. Cũng trong tháng 9, thêm một chiếc F–8F bị phế thải vì
lý do kỹ thuật.
Mặc dù các chuyên viên bảo trì Việt Nam
đã được các huấn luyện viên Pháp đánh giá là “có khả năng cao
ngoài dự liệu”, và đã trổ tài biến ứng bằng cách tháo gỡ bộ phận
rời từ những động cơ phế thải để ráp vào động cơ của những chiếc
còn bay được, tới cuối năm 1956 số lượng F–8F khả dụng cũng chỉ
còn được 15 chiếc.
Trong khi đó, nhu cầu huấn luyện cứ gia
tăng. Các hoa tiêu mới tốt nghiệp ở Pháp – nơi họ được huấn luyện
trên các loại phản lực T–33, Vampire và Ouragan, và trước khi về
nước được xuyên huấn trên khu trục cơ cánh quạt F6F Hellcat ở
Khouribga – cần thao dợt về nghênh cản (không chiến). Rất tiếc vì
thiếu phi cơ, số giờ bay huấn luyện đã bị hạn chế. Trung bình một
tháng, các Phi tuần trưởng chỉ được bay 15 tiếng đồng hồ, còn
các Phi Tuần viên chỉ có 7 tiếng.
Ngày 25/9/1956, một Biệt Đội 4 chiếc
Bearcat được đưa ra Nha Trang. Đây là lần đầu tiên các khu trục
cơ được biệt phái hoạt động ngoài căn cứ không quân Biên Hòa. Về
sau, các Biệt Đội còn được đưa ra Ban Mê Thuột hoặc Pleiku.
Qua năm 1957, 25 chiếc Bearcat gửi đi
tổng kiểm ở Hương Cảng từ 12 tháng trước đã được đưa về nước,
giúp gia tăng mức khả dụng hành quân và tiếp tục công tác huấn
luyện. Mỗi hoa tiêu đều được bay 15 giờ mỗi tháng và số phi xuất
hành quân từ 172 vào tháng 9/1956 đã tăng lên 325 vào tháng
3/1957. Trong thời gian này, Phi Đoàn đã tham dự một chiến dịch
lớn tại vùng Đà Nẵng với sự phối hợp của cả hải lục không quân.
Các phi cơ Bearcat (kiểu F–8F–1P) cũng
thực hiện những phi vụ chụp không ảnh. Những không ảnh đầu tiên
do Bearcat chụp là các phi trường Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Nha
Trang, Đà Nẵng, và Sóc Trăng. Những tấm ảnh này đã được một toán
giải đoán không ảnh khai thác và rút tỉa kinh nghiệm cho nghề
nghiệp của họ về sau.
Tới giữa tháng 7/1957, Phi Đoàn được
các huấn luyện viên Pháp xác định hoàn toàn đủ khả năng hành
quân. Một phái đoàn hỗn hợp Pháp–Mỹ đến lượng giá đơn vị đã tỏ ra
rất ngạc nhiên, nhất là với kết quả tác xạ vô cùng chính xác. Tuy
nhiên, trong khoảng thời gian hơn 1 năm đó, Phi Đoàn cũng đã mất
đi 5 phi cơ và 3 hoa tiêu tử nạn là Huỳnh Hữu Bạc, Võ Văn Xuân,
và Nguyễn Thông.
Về nhân sự, tính tới khi Phái bộ Quân
sự Pháp rời VN vào giữa năm 1957, tức là khoảng một năm sau ngày
thành lập, Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát đã có 8 hoa tiêu được
cấp bằng Huấn luyện viên khu trục, là:
– Thiếu tá Huỳnh Hữu Hiền
– Đại úy Nguyễn Kim Khánh
– Đại úy Dương
Thiệu Hùng
– Trung úy Hà Xuân Vịnh
– Thiếu úy Lưu Văn Đức
– Thiếu úy Nguyễn
Quang Tri
– Chuẩn úy Phạm Phú Quốc
– Chuẩn úy Nguyễn Thế Long.
Cũng trong năm 1957, một số sĩ quan hoa
tiêu xuất thân trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon–de–Provence và
tốt nghiệp Trường Khu trục ở Mecknès, Maroc, trên các loại phản
lực cơ T–33 Shooting Star và MD–450 Ouragan, về phục vụ tại Phi
Đoàn, gồm:
1 –
Trung úy Nguyễn Thanh Tòng
2 – Trung úy
Phạm Long Sửu
3 – Trung úy Vũ Thượng Văn
4 – Thiếu úy Trần Duy Kỷ
5 – Chuẩn úy
Nguyễn Đức Khánh.
Tới cuối năm 1959, có thêm 6 hoa tiêu
của Khoá 58A Trần Duy Kỷ ở TTHLKQ Nha Trang về Phi Đoàn, gồm:
1 – Chuẩn úy Chế Văn Nghĩa, thủ khoa
2 – Chuẩn úy Lê Xuân Lan, xuất sắc về phi huấn
3 – Chuẩn úy Đặng Thành Danh, xuất sắc về địa huấn
4 – Chuẩn úy Lê Bá Định
5 – Chuẩn úy
Đinh Văn Chương
6 – Chuẩn úy Hà Ngọc
Hạnh.
(Thiếu
úy Trần Duy Kỷ tử nạn trên F–8F tại Tuy Hòa đầu năm 1958, được
đặt tên cho Khoá 58A)
Trên lý thuyết, Bearcat có tầm hoạt
động đủ để yểm trợ bất cứ chiến trường nào ở miền Nam, tuy nhiên
trên thực tế, vì những phi cơ này đã quá cũ, mức tiêu thụ dầu máy
quá cao, lại chỉ có thể sử dụng một số phi trường, nên các phi vụ
thường phát xuất từ Biên Hòa và chỉ có thể kéo dài tối đa 1 giờ
15 phút, vừa đủ để yểm trợ xuống tới vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Nhưng dù sao chăng nữa, với tốc độ nhanh và khả năng thao
tác ngoạn mục, các phi cơ Bearcat cũ kỹ này cũng đã trở thành
biểu tượng cho sức mạnh của Không Lực VNCH thời bấy giờ, và hình
ảnh của chúng đã góp phần không nhỏ trong việc củng cố niềm tin
của người dân miền Nam trong công cuộc đánh dẹp quân du kích cộng
sản.
Bên cạnh
đó, sức mạnh của phi cơ Bearcat và những kỹ năng cần có để chế
ngự, biến nó thành một vũ khí lợi hại đã tạo cơ hội để các phi
công VN chứng tỏ họ là những phi công khu trục thượng thặng. Họ
không chỉ cần có đầu óc sáng tạo để tận dụng khả năng của phi cơ
mà còn phải biết biến ứng tùy theo từng loại mục tiêu dưới đất –
những thứ mà không có bất cứ trường huấn luyện nào dạy cho họ cả.
Cũng như đối với các phi công Pháp
trước kia, khu trục cơ F–8F Bearcat rất được các phi công VN ưa
chuộng vì khả năng và hỏa lực. Tuy nhiên sau 3 năm bị tận dụng
vào nhu cầu hành quân, những phi cơ vốn đã quá cũ từ lúc người
Pháp bàn giao, nay đa số trở nên bất khiển dụng, hoặc mất an toàn
tới mức trầm trọng (trước đó, người Pháp đã tặng cho F–8F hỗn
danh “cercueil volant”: quan tài bay!)
Phi công cuối cùng, và cũng là người
nổi tiếng nhất, tử nạn trên phi cơ Bearcat là Đại úy Lưu Văn Đức
vào cuối năm 1960. Vào thời gian này, kể từ tháng 8/1960, Hoa Kỳ
đã bắt đầu xuyên huấn một số phi công Bearcat kinh nghiệm để bay
trên AD–6 Skyraider và đã chuyển giao 8 chiếc AD–6 cho KQVN,
nhưng vì những phi cơ này được dành ưu tiên cho công việc xuyên
huấn, các phi cơ Bearcat vẫn tiếp tục được sử dụng để đáp ứng nhu
cầu hành quân ngày càng gia tăng. Hơn nữa, một số không ít phi
công khu trục Việt Nam kinh nghiệm trong đó Đại úy Lưu Văn Đức,
vị Chỉ huy trưởng đời thứ ba của Phi Đoàn – vẫn thích bay trên
Bearcat hơn. (Chú thích 2)
Hôm đó là ngày 22/11/1960, sau khi phi
cơ L–19 phát giác một đoàn ghe thuyền của Việt cộng tập trung
trong vùng Đồng Tháp, Đại úy Lưu Văn Đức đã đích thân chỉ huy một
Phi Tuần hai chiếc Bearcat đến tấn công. Ngay khi chiếc Bearcat
của Đại úy Đức xuống thấp sát ngọn cây để thả bom napalm, trúng
mục tiêu chính xác 100% theo trái khói đánh dấu của L–19, thì
cánh bên phải bị gẫy lìa. Phi cơ lật úp trước khi đâm xuống mục
tiêu. Vị Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Khu Trục tử nạn khi tuổi đời
mới 26. (Chú thích 3)
Sau cái chết của Đại úy Lưu Văn Đức,
một vị Chỉ huy trưởng Phi Đoàn tài ba được mọi người yêu mến,
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh ngưng bay toàn bộ phi cơ
Bearcat; nhưng rồi vì số lượng AD–6 Skyraider lúc đó còn quá ít,
không đáp ứng nổi nhu cầu chiến trường đòi hỏi, dù biết rằng
khung phòng của những chiếc Bearcat đã “rệu”, các phi công dày
dạn kinh nghiệm vẫn tiếp tục bay trên những “quan tài bay” cho
tới năm 1961, khi Phi Đoàn có đủ AD–6 theo cấp số.
Từ đó, F–8F Bearcat chỉ còn trong huyền
thoại, ngoài những chiếc được giữ lại để trưng bày: một ở sân cỏ
phía sau Bộ Tư Lệnh KQ, một ở trước Câu lạc bộ Sĩ quan Huỳnh Hữu
Bạc, Tân Sơn Nhất, một ở truớc Bộ Tư Lệnh KĐ23CT (SĐ3KQ sau này),
một ở trước Câu lạc bộ sĩ quan Lưu Văn Đức, Biên Hoà, một ở
TTHL/KQ Nha Trang.
(Trong số những chiếc F–8F nói trên,
cho tới năm 2015 có ít nhất một chiếc vẫn chưa “về với cát bụi”.
Trang mạng wwii equipment used after the war, phần viết về những
chiếc F–8F được chuyển giao cho KLVNCH (cập nhật hóa năm 2015) có
đoạn kết như sau:
...
Sau khi F–8F “về hưu”, một chiếc được trưng bày trước Câu lạc
bộ Sĩ quan Huỳnh Hữu Bạc ở CCKQ Tân Sơn Nhất, nơi nó hiện diện
cho tới cuối cuộc chiến. Khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam vào
năm 1975, chiếc F–8F này đã được sơn cờ hiệu của Không Quân miền
Bắc lên một cách nham nhở, và bị để mặc cho xuống cấp trong suốt
thập niên 1980. Khi Hoa Kỳ và CSVN tái lập quan hệ ngoại giao vào
thập niên 1990, CSVN đã bán lại chiếc F–8F này cho một nhà sưu
tầm người Mỹ, và được chủ nhân mới phục hồi, bảo quản)
– A–1 Skyraider: “Thiên Thần
Diệt Cộng”
Nhu cầu thay thế các phi cơ F–8F
Bearcat đã được đặt ra hơn 1 năm trước ngày Đại úy Lưu Văn Đức tử
nạn. Sau khi có nhiều tai nạn xảy ra, vào tháng 8 năm 1959, Tổng
thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh hạn chế tối đa các phi vụ hành
quân của Phi Đoàn 1 Khu Trục và yêu cầu Hoa Kỳ khẩn cấp thay thế
Bearcat bằng các phi cơ phản lực, như họ đã trang bị cho các quốc
gia khác ở Đông Nam Á: Đài–loan, Thái–lan, Phi–luật–tân...
Thoạt đầu, các giới chức Không Quân Hoa
Kỳ dự định cung cấp loại phản lực Lockheed F–80 “Shooting Star”,
tuy nhiên việc này lại trái với điều khoản của Hiệp định Genève
1954, theo đó cả hai miền Nam Bắc không được phép trang bị chiến
đấu cơ phản lực. Mặc dù Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa không đặt bút
ký vào bản hiệp định này nhưng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vẫn kịch liệt
phản đối việc trang bị chiến đấu cơ phản lực cho miền Nam. Hơn
nữa, sau đó chính các giới chức Không Quân Hoa Kỳ cũng nhận ra
rằng qua kinh nghiệm chiến tranh Triều–tiên, nơi loại phản lực
F–80 được sử dụng lần đầu tiên, trong công tác yểm trợ diện địa,
các phi cơ cánh quạt vẫn tỏ ra hữu hiệu hơn.
Tuy nhiên, để làm hài lòng Tổng thống
Ngô Đình Diệm, phía Hoa Kỳ cũng ra lệnh tiến hành việc chuyển
giao 6 chiếc F–80 Shooting Star, gồm 2 chiếc T–33 (là phiên bản
huấn luyện của F–80) và 4 chiếc RT–33 (phi cơ thám thính), nhưng
thực ra chỉ có trên giấy tờ, bởi sau đó việc chuyển giao đã không
hề được tiến hành.
Cùng thời gian, các giới chức Không
Quân Hoa Kỳ đã gấp rút nghiên cứu để tìm một loại phi cơ cánh
quạt thích hợp cho chiến trường Việt Nam.
Đầu tiên, họ nghĩ tới loại oanh tac cơ
hạng nhẹ B–26 Invader, loại phi cơ mà trước đây Không Quân Pháp
đã sử dụng rất hữu hiệu trong chiến tranh Đông Dương. Tuy nhiên,
mặc dù sau đó một số B–26 đã được Không Quân Hoa Kỳ đem sang Việt
Nam trong chương trình “Farm Gate” vào năm 1961, tất cả đã được
đem về nước sau một thời gian sử dụng, chứ không chuyển giao cho
KQVN. Nguyên nhân: B–26 cũng sắp tới tuổi “về hưu”!
Cùng thời gian, một nguồn tin có thẩm
quyền từ phía Hoa Kỳ cho biết họ sẽ chuyển giao cho KQVN các phi
cơ North American T–28 “Trojan”.
(Chú thích 4)
Đây là một loại phi cơ huấn luyện 2 chỗ
ngồi tương đối hiện đại, được cải biến, trang bị bom đạn để sử
dụng trong việc yểm trợ các lực lượng diện địa, nhưng khả năng
mang bom của nó không bằng F–8F Bearcat.
Một cách chi tiết, T–28 và F–8F đều có
4 racks bom dưới cánh, nhưng trong khi T–28 chỉ có thể mang 4
trái bom 500 cân Anh thì F–8F có khả năng mang 4 trái 1000 cân
Anh. Về súng, T–28 được trang bị 2 khẩu đại liên 50 (12.7ly),
trong khi F–8F, tùy loại, được trang bị 4 khẩu đại bác 20ly hoặc
4 khẩu đại liên 50.
Tin này đã khiến các hoa tiêu của Phi
Đoàn 1 Khu Trục thất vọng. Bởi trước đó, họ tin rằng F–8F Bearcat
sẽ được thay thế bằng phi cơ phản lực; thậm chí trong các cuộc
trao đổi với cố vấn Hoa Kỳ, họ còn cho biết “ưu tiên lựa chọn”
của họ là chiếc A–4E “Skyhawk” của Hải Quân Hoa Kỳ, một loại phản
lực nhỏ nhưng được trang bị hùng hậu, sử dụng phi đạo ngắn, mà họ
cho là phi cơ lý tưởng để thay thế Bearcat trên chiến trường Việt
Nam.
Tuy
nhiên, sau đó vì thiếu chuyên viên kỹ thuật, việc chuyển giao
T–28 đã không thể thực hiện được ngay, và thay vào đó là một loại
phi cơ cánh quạt khác: chiếc Skyraider của Hải Quân Hoa Kỳ.
Skyraider do hãng Douglas chế tạo vào
cuối Đệ Nhị Thế Chiến cho Hải Quân và TQLC Hoa Kỳ, từng được sử
dụng trong chiến tranh Triều–tiên (1950–1953).
Skyraider gồm nhiều đời, nhiều kiểu
khác nhau, được mang phiên hiệu từ AD–1 tới AD–7.
[Tới năm 1962, khi Hoa Kỳ
thống nhất cách đặt phiên hiệu cho tất cả các loại phi cơ của
Hải, Lục, Không Quân, và TQLC (với các mẫu tự A: attacker, B:
bomber, C: cargo, F: fighter, T: trainer... đi đầu), tất cả các
kiểu Skyraider còn đang sử dụng đều được cải danh thành A–1: AD–5
(2 ghế ngồi) thành A–1E, AD–6 (1 ghế ngồi) thành A–1H, AD–7 thành
A–1J hoặc A–1G (2 ghế ngồi). Đa số Skyraider của KQVN sử dụng là
A–1H là kiểu được sản xuất nhiều nhất, một số nhỏ là A–1E, và vài
chiếc A–1J, A–1G].
Lúc đầu, Hoa Kỳ dự định mua lại một số
AD–4 cũ đã bán cho Pháp trước đây để trang bị cho KQVN, nhưng lúc
đó Pháp (dưới thời Tổng thống De Gaulle) và Hoa Kỳ đang có sự bất
hòa nên Pháp không chịu bán lại. Hơn nữa, vì Hải Quân Hoa Kỳ đã
ngưng sử dụng kiểu AD–4, không thể bảo đảm việc cung cấp phụ
tùng, cho nên cuối cùng kiểu AD–6, hiện đang sử dụng trong các
hạm đội, được chọn để thay thế.
Cũng cần viết thêm, khi quyết định đem
Skyraider sang Việt Nam, thoạt tiên người Mỹ dự tính sẽ áp dụng
mô thức AVG (Allied Volunteer Group), nghĩa là lấy các hoa tiêu
tình nguyện của Hải Quân Hoa Kỳ cho “nghỉ phép” (on leave) để lái
các phi cơ này.
Người đầu tiên sử dụng mô thức AVG là
Tướng Claire Chennault, Tư lệnh Thập Tứ Không Lực (14th Air
Force) của Hoa Kỳ đóng ở Côn Minh trong Đệ Nhị Thế Chiến; ông đã
thành lập các Phi Đội Phi Hổ (Flying Tigers) đầu tiên cho Trung
Hoa Dân Quốc để đánh quân Nhật nhưng do hoa tiêu Mỹ (đang được
“nghỉ phép”) lái.
Thế nhưng dự tính nói trên (mô thức
AVG) đã bị các hoa tiêu Việt Nam phản đối kịch liệt. Bởi vì họ,
cũng như tuyệt đại đa số người dân miền Nam, muốn tự đảm trách
công việc chiến đấu và chiến thắng cộng sản; họ chỉ cần sự hậu
thuẫn về chính trị và viện trợ vũ khí của Hoa Kỳ mà thôi.
Kết quả, để tiến hành việc thay thế
Bearcat bằng Skyraider, vào giữa năm 1960, sáu hoa tiêu của Phi
Đoàn 1 Khu Trục đã được chọn để sang Hoa Kỳ xuyên huấn, gồm có:
Trung úy Nguyễn Quang Tri, Trung úy Nguyễn Quan Huy, Trung úy Tô
Minh Chánh, Thiếu úy Phạm Phú Quốc, Thiếu úy Nguyễn Ngọc Biện, và
Chuẩn úy Nguyễn Văn Long (một số sách và tài liệu ngoại quốc viết
là Thiếu úy Nguyễn Hữu Chẩn thay vì Trung úy Tô Minh Chánh là
không chính xác).
Thời gian xuyên huấn kéo dài 3 tháng,
gồm 40 giờ với đơn vị huấn luyện phi hành ATU–301 tại Căn cứ Hải
Quân Corpus Christi, Texas, và 40 giờ tại Căn cứ Hải Quân
LeMoore, San Diego, với Phi Đoàn Tác Chiến VA–122 của Hải Quân
Hoa Kỳ.
Trong
số sáu hoa tiêu nói trên, có những người đã là huấn luyện viên
khu trục (Trung úy Tri) hay Phi tuần phó (Thiếu úy Quốc), lại có
những người chưa được xác định hành quân trên khu trục, nhưng tất
cả đều làm quen với chiếc Skyraider một cách dễ dàng; và khi bước
sang phần thực tập chiến thuật (tác xạ, oanh kích), họ đã chứng
tỏ là những hoa tiêu xuất sắc.
Về mặt tinh thần, sau khi thấy tận mắt
hình dáng “khổng lồ” của chiếc Skyraider (so với F–8F và T–28) và
khai triển hỏa lực hùng hậu của nó, các hoa tiêu khu trục Việt
Nam cũng vơi bớt phần nào nỗi thất vọng vì đã không được bay trên
phản lực.
Tổng
cộng trước sau đã có 5, hoặc 6 đợt xuyên huấn tương tự dành cho
các hoa tiêu khu trục Việt Nam. Sau ba tháng xuyên huấn, sáu hoa
tiêu đầu tiên trở về Biên Hòa để chờ đợi những chiếc Skyraider
đang được tổng kiểm và tân trang (zero–timed) tại công xưởng của
Hải Quân Hoa Kỳ ở Rhode Island.
Đầu tháng 9/1960, sáu chiếc Skyraider
đầu tiên được tàu chở tới cảng Sài Gòn, và được kéo về căn cứ Tân
Sơn Nhất; sau khi kiểm soát, đã được Hải Quân Đại úy Kenneth E.
Moranville bay thử trước khi chuyển giao cho KQVN. Đại úy
Moranville là người trước đây đã đảm trách việc xuyên huấn cho
sáu hoa tiêu Việt Nam đầu tiên tại Corpus Christi, nay được phái
sang Việt Nam cầm đầu toán cố vấn của Hải Quân Hoa Kỳ đảm trách
công việc chuyển giao và xuyên huấn Skyraider tại chỗ cho các hoa
tiêu khác.
Buổi bay thử và biểu diễn hỏa lực của chiếc Skyraider đầu tiên –
do Đại úy Moranville lái – được tổ chức tại căn cứ Tân Sơn Nhất
dưới sự chủ tọa của Trung tá Nguyễn Xuân Vinh, Tư lệnh KQVN, đã
gây ấn tượng mạnh nơi quan khách vì hỏa lực hùng hậu và mức độ
chính xác của loại phi cơ này. Thực tế sau đó đã chứng minh trong
giai đoạn địch quân chưa được trang bị các loại vũ khí phòng
không hiện đại thì Skyraider là loại phi cơ hữu hiệu nhất trong
chiến tranh chống du kích tại miền nam Việt Nam, được mệnh danh
“Thiên Thần Diệt Cộng”.
Tổng cộng trước sau đã có 308 chiếc
Skyraider được chuyển giao cho KQVN để lần lượt trang bị cho 7
Phi Đoàn khu trục, gồm có:
– Phi Đoàn 1 Khu Trục (PĐ–514 Phượng
Hoàng),
– Phi Đoàn 2 Khu Trục (PĐ–516
Phi Hổ), và các
– Phi Đoàn 518 Phi Long,
520 Thần Báo, 522 (?), 524 Thiên Lôi, và 530 Thái Dương.
Trong số này, PĐ–530 được thành lập tại
Pleiku vào năm 1970 – thời gian KQVN đã bước sang giai đoạn phản
lực – để đáp ứng tình hình chiến sự tại Tây Nguyên, đã chứng tỏ
khả năng yểm trợ tiếp cận chính xác mà không một loại phản lực
nào có thể so sánh.
– Phi Đoàn 2 Khu Trục
Việc thành lập Phi Đoàn 2 Khu Trục (sau
cải danh thành Phi Đoàn 516 Phi Hổ) nằm trong chương trình “Farm
Gate”.
“Farm
Gate” là hoạt động tham chiến trực tiếp đầu tiên, mặc dù rất giới
hạn, của Không Lực Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam.
Khởi đầu vào năm 1960, Quân Đội Hoa Kỳ
đã cho thành lập những đơn vị đặc biệt để đối phó với chiến tranh
du kích của cộng sản ngày càng lan rộng trên thế giới. Riêng
trong Không Quân, đơn vị đầu tiên với danh xưng chính thức là Phi
Đoàn Huấn Luyện Phi Hành Đoàn Tác Chiến 4400 (4400th Combat Crew
Training Squadron, viết tắt là 4400th CCTS) đã được thành lập vào
tháng 4/1961 tại căn cứ không quân Eglin, Florida. Trên thực tế,
các thành viên của 4400th CCTS thường được biết tới qua danh hiệu
“Air Commando” (Không Quân Cảm Tử), hoặc nickname “Jungle Jim”.
(“Jungle Jim” nguyên là một loạt truyện
phiêu lưu rừng xanh rất phổ biến của Mỹ, từ năm 1948 tới năm 1955
đã được thực hiện thành 16 cuốn phim)
Do những nhu cầu đặc biệt của chiến
tranh du kích, Air Commando chỉ sử dụng các loại phi cơ cánh
quạt, có khả năng bay chậm, như T–28, B–26, C–47...
Tháng 10/1961, Tổng thống Hoa Kỳ John
F. Kennedy chấp thuận việc gửi một toán “Jungle Jim” sang Việt
Nam với hai mục đích:
(1) Xác định cam kết của Hoa Kỳ trong
việc hỗ trợ miền Nam VN trong công cuộc chiến đấu chống lại cộng
sản, và
(2)
Huấn luyện các hoa tiêu Việt Nam trong việc sử dụng T–28 và B–26
trên chiến trường. Hoạt động này được mang tên “Chương Trình Farm
Gate” (Farm Gate Programme).
Ngày 4/11/1961, Biệt Đội 2A
(Detachment 2A – danh xưng chính thức của toán “Jungle Jim” nói
trên) gồm 151 quân nhân, 8 phi cơ T–28, 4 phi cơ SC–47, và 4 phi
cơ RB–26 được sơn cờ VNCH và huy hiệu Không Quân Việt Nam, đã tới
Biên Hòa để “phục vụ dưới quyền chỉ huy của Phái Bộ Cố Vấn Quân
Sự với nhiệm vụ huấn luyện tác chiến, và không tham chiến trong
thời gian hiện tại...”
Nhưng trước khi sang Việt Nam, các
chàng “Không Quân Cảm Tử” (Air Commando) Mỹ đã đinh ninh nhiệm vụ
“huấn luyện tác chiến” (combat training) có nghĩa là huấn luyện
nhân viên phi hành VN bằng những phi vụ tác chiến. Vì thế trong
thời gian đầu ở VN, họ đã tỏ ra thiếu phấn khởi khi chỉ được thực
hiện các phi vụ tuần thám dọc theo bờ biển để phát giác sự xâm
nhập của cộng sản Bắc Việt bằng đường biển, hoặc lái phi cơ bay
theo để quan sát các Skyraider của Phi Đoàn 1 Khu Trục của KQVN
thi hành nhiệm vụ tấn công mục tiêu địch.
Sau đó, để giải quyết tình trạng mơ hồ
về nhiệm vụ của các phi cơ võ trang (T–28 và B–26) thuộc Farm
Gate, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ ra chỉ thị một cách rõ ràng hơn, theo
đó các phi cơ này được phép thi hành các phi vụ tác chiến “với
điều kiện phải có ít nhất một nhân viên phi hành người Việt trên
phi cơ”. Mục đích để trong trường hợp phi cơ bị bắn hạ, sự hiện
diện của nhân viên phi hành Việt Nam này cùng với cờ hiệu VNCH
trên phi cơ, sẽ chứng minh nhân viên Hoa Kỳ chỉ đóng vai trò cố
vấn, nghĩa là Hoa Kỳ không vi phạm Hiệp định Genève 1954.
Thời gian đó, phi trường Biên Hòa vẫn
chưa được trang bị hệ thống đèn phi đạo, các phi cơ Skyraider của
Phi Đoàn 1 Khu Trục không thể thi hành các phi vụ đêm, trong khi
các cuộc tấn công của Việt cộng lại thường xảy ra trong đêm
tối, cho nên các phi cơ T–28 và B–26 của Farm Gate đã được sử
dụng để thi hành các phi vụ yểm trợ ban đêm dưới ánh hỏa châu của
các vận tải cơ SC–47 “Gooney Bird”, cũng thuộc lực lượng Farm
Gate.
Tháng
12/1961, Hoa Kỳ quyết định đưa thêm T–28 sang Việt Nam, và với 25
hoa tiêu đã được huấn luyện tại Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam, Phi
Đoàn 2 Khu Trục của KQVN được thành lập tại căn cứ không quân Nha
Trang, do Đại úy Phạm Long Sửu làm Chỉ huy trưởng.
Đại úy Phạm Long Sửu, nguyên là thủ
khoa Khoá 1 Hoa tiêu Quan sát (1952) tại TTHLKQ Nha Trang, sau
đó theo học tại trường Võ Bị Không Quân Pháp (Salon–de–Provence),
từng được huấn luyện trên các loại phản lực cơ Vampire và T–33,
là một trong sáu hoa tiêu VN đầu tiên được kiểm định (check–out)
trên khu trục F6F Hellcat tại Mecknès (Maroc).
Thành phần hoa tiêu nòng cốt của Phi
Đoàn 2 Khu Trục đa số là những huấn luyện viên phi hành từ TTHLKQ
Nha Trang thuyên chuyển về, như Trung úy Nguyễn Hồng Tuyền, các
Thiếu úy Ôn Văn Tài, Nguyễn Tấn Sĩ, Trần Bá Hợi, Bùi Thanh Khiết,
Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Huy Cương, Nguyễn Văn Giang... và hai
hoa tiêu từ Phi Đoàn 1 Khu Trục là Thiếu úy Vũ Khắc Huề và Thiếu
úy Nguyễn Hữu Bách.
Ít lâu sau, do nhu cầu cấp số, một số
phi công đang phục vụ tại Phi Đoàn 1 Vận Tải hoặc các Phi Đoàn
quan sát đã được thuyên chuyển bổ sung cho Phi Đoàn 2 Khu Trục,
trong số này có các Thiếu úy Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Quốc Hưng,
Thái Bá Đệ, Nguyễn Văn Vượng, Lê Văn Thảo, các Chuẩn úy Đặng Duy
Lạc, Đàm Thượng Vũ...
Trong số nói trên, những người sau này
lần lượt giữ chức vụ Chỉ huy trưởng/Phi đoàn trưởng (kế tục 3
vị tiền nhiệm Phạm Long Sửu, Võ Xuân Lành, Dương Thiệu Hùng) gồm
có: Ôn Văn Tài, Nguyễn Tấn Sĩ, Bùi Thanh Khiết, Thái Bá Đệ, và
Nguyễn Văn Vượng.
Các phi công chưa được huấn luyện
chuyên biệt về ngành khu trục, khi thuyên chuyển về Phi Đoàn 2
Khu Trục được biệt phái tới Biệt Đội Farm Gate (tức Biệt Đội
2A) tại Biên Hòa, để được kiểm định và huấn luyện về tác xạ, oanh
kích trên phi cơ T–28.
Sau thời gian huấn luyện với Biệt Đội
Farm Gate, các phi công trở về Phi Đoàn để hoàn tất phần huấn
luyện chuyên biệt của ngành khu trục.
Tới giữa năm 1962, Phi Đoàn 2 Khu Trục
làm lễ xuất quân, và một Biệt Đội 8 chiếc T–28 được biệt phái
ra căn cứ không quân Đà Nẵng để yểm trợ cho Vùng 1 Chiến thuật;
về sau thêm một Biệt Đội được biệt phái lên Pleiku để yểm trợ
chiến trường Tây Nguyên.
Tháng 1/1963, Phi Đoàn 2 Khu Trục được
cải danh thành Phi Đoàn 516 “Phi Hổ”. Tới tháng 2/1964 Phi Đoàn
di chuyển ra Đà Nẵng để trở thành lực lượng tác chiến nòng cốt
của Không Đoàn 41 Chiến Thuật vừa được thành lập, và đồn trú tại
đây cho tới năm 1975. (Một số không quân cựu trào khi nhớ về
“thuở ban đầu” của KQVN còn gọi Phi Đoàn 516 một cách trân trọng
nhưng không chính thức là “Đệ Nhị Phi Đoàn Khu Trục”).
Trong khi việc thành lập Phi Đoàn khu
trục thứ hai (Phi Đoàn 2 Khu Trục) diễn tiến tốt đẹp thì kế hoạch
thành lập Phi Đoàn oanh tạc đầu tiên cho KQVN lại chết yểu.
Nguyên kế hoạch thành lập một Phi Đoàn
oanh tạc gồm 25 oanh tạc cơ B–26 và 2 thám thính cơ RB–26 đã được
phía Hoa Kỳ thông qua vào tháng 11/1962, nhưng tới giữa năm 1963,
cùng với việc Hoa Kỳ chuẩn bị cho các oanh tạc cơ B–26 “về hưu”,
kế hoạch nói trên đã bị dẹp bỏ, và thay bằng kế hoạch thành lập
thêm các Phi Đoàn khu trục sử dụng khu trục cơ Skyraider (từ đoạn
này, sẽ được gọi là A–1).
Như vậy, mặc dù đã có những chiếc B–26
mang cờ VNCH, huy hiệu KQVN, và có các nhân viên phi hành Việt
Nam tháp tùng trong các phi vụ tác chiến, trên thực tế loại phi
cơ này chưa hề được chuyển giao cho KQVN.
Về phần các phi cơ T–28 của Phi Đoàn
516 “Phi Hổ” (Phi Đoàn 2 Khu Trục) tới tháng 5/1964, đã được thay
thế bằng A–1 Skyraider.
Tới năm 1969, trong chương trình hiện
đại hóa KLVNCH, các khu trục cơ Skyraider của PĐ–516 đã được thay
thế bằng phản lực cơ A–37 Dragonfly.
– Các Phi Đoàn khu trục 518, 520, 522,
524, 530
* Phi Đoàn 518 Phi Long:
Ngày 1/1/1964, Phi Đoàn 518 “Phi Long”,
Phi Đoàn khu trục thứ ba trong KLVNCH, được thành lập tại CCKQ
Biên Hòa, “cái nôi của ngành khu trục”. Chỉ huy trưởng: Đại úy
Phạm Phú Quốc. Lúc thành lập, Phi Đoàn này cũng được tạm thời
trang bị phi cơ T–28, và tới giữa năm 1964 đã được thay thế bằng
A–1 Skyraider, cùng thời gian với PĐ–516.
Giữa năm 1964, Không Đoàn 23 Chiến
Thuật được thành lập tại Biên Hòa, Thiếu tá Phạm Phú Quốc lên làm
phó cho Thiếu tá Phạm Long Sửu, Tư lệnh Không Đoàn 23, bàn giao
Phi Đoàn lại cho Đại úy Trần Công Chấn.
Đầu năm 1965, Đại úy Chấn hy sinh trong
trận Long Toàn, Thiếu tá Nguyễn Văn Long (Long “con”) lên thay
thế. Ít lâu sau, Thiếu tá Long tử nạn trong một phi vụ huấn luyện
cùng với Thiếu tá Nguyễn Thế Anh, Chỉ huy trưởng Yểm Cứ.
Tai nạn xảy ra khi Thiếu tá Anh, theo
chỉ thị của Thiếu tá Phạm Long Sửu, phải bay huấn luyện với Thiếu
tá Long để xác định trên A–1 Skyraider, bay trên một chiếc A–1E
(AD–5, hai ghế ngồi), khi đáp đã chạy ra cỏ, lập úp xuống một
vũng bùn, khiến cả hai người bị tử nạn.
Sau đó, Đại úy Lê Văn Thảo lên thay,
trở thành vị Chỉ huy trưởng thứ tư chỉ trong vòng 1 năm trời!
Hai đời Chỉ huy trưởng kế tiếp của
PĐ–518 là Đại úy Nguyễn Văn Lê và Thiếu tá Lê Quốc Hùng (Hùng
“tây lai”).
* Phi Đoàn 520 Thần Báo:
Ngày 1/7/1964, Phi Đoàn 520 “Thần Báo”
được thành lập, cũng tại CCKQ Biên Hòa, với ban chỉ huy gồm:
– Chỉ huy trưởng: Đại úy Nguyễn Ngọc
Biện
– Chỉ huy phó: Trung úy Võ Văn Hội
– Trưởng Phòng Hành Quân: Thiếu úy Nguyễn Văn Trương.
Có thể nói
520 là một Phi Đoàn “tân lập” đúng nghĩa: đại đa số hoa tiêu là
những người mới tốt nghiệp ở Hoa Kỳ, sau khi về nước, trong lúc
chờ đợi để xuyên huấn trên A–1 Skyraider với Liên Đoàn 34 Chiến
Thuật của Không Lực Hoa Kỳ và Phi Đoàn Tác Chiến VA–152 của Hải
Quân Hoa Kỳ tại Biên Hòa, họ đã tạm thời bay trên T–28 cho quen
tay.
* * *
Đôi hàng về Liên Đoàn 34 Chiến Thuật
và Phi Đoàn Tác Chiến VA–152:
Từ giữa năm 1963 tới giữa năm 1965, có
hai đơn vị tác chiến phi hành của Hoa Kỳ đồn trú tại CCKQ Biên
Hòa đã kiêm nhiệm việc xuyên huấn các nhân viên phi hành Việt
Nam, là Liên Đoàn 34 Chiến Thuật (34th Tactical Group) của Không
Lực Hoa Kỳ và Phi Đoàn Tác Chiến VA–152 của Hải Quân Hoa Kỳ.
Liên Đoàn
34 Chiến Thuật đảm trách việc xuyên huấn các hoa tiêu A–1
Skyraider từ tháng 7/1963 tới tháng 7/1965, còn Phi Đoàn Tác
Chiến VA–152 chỉ góp phần từ tháng 4 đến tháng 12/1964.
Liên Đoàn 34 Chiến Thuật là một đơn vị
đặc biệt của Không Lực Hoa Kỳ, trong thời gian hoạt động tại Việt
Nam trực thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân (Hoa Kỳ).
Tại Biên Hòa, Liên Đoàn 34 Chiến Thuật
có hai đơn vị phi hành là Phi Đoàn 1 Cảm Tử (1st Air Commando
Squadron) đảm trách việc xuyên huấn các hoa tiêu khu trục (A–1),
và Phi Đoàn 19 Không Trợ Chiến Thuật (19th Tactical Air Support
Squadron) đảm trách việc xuyên huấn hoa tiêu quan sát (O–1), và
huấn luyện các quan sát viên.
Sau khi Liên Đoàn 34 Chiến Thuật chấm
dứt nhiệm vụ xuyên huấn A–1 Skyraider cho hoa tiêu Việt Nam vào
tháng 7/1965, qua năm 1966, công việc này được trao lại cho Phi
Đoàn Huấn Luyện Phi Hành Đoàn Tác chiến 4400 (4400th Combat Crew
Training Squadron, viết tắt là 4400th CCTS) ở Căn cứ Hurlburt
Field, Florida, cũng là nơi đào tạo các hoa tiêu A–1 của Hoa Kỳ.
4400th CCTS chính là “đơn vị mẹ” của
Biệt Đội 2A (Detachment 2A) của Chương trình Farm Gate. Biệt
Đội này là tiền thân của Phi Đoàn 1 Cảm Tử đã nhắc tới ở một
đoạn trên.
Cũng xin viết thêm, trước khi có chương trình xuyên huấn A–1
Skyraider cho hoa tiêu Việt Nam tại CCKQ Hurlburt Field, đã có
khoảng 140 hoa tiêu A–1 của Việt Nam thuộc 10 khoá (từ Khoá 61
tới Khoá 65D) được đào tạo tại Trường Phi Hành Hải Quân
Pensacola (US Naval Air School Pensacola) nổi tiếng, cũng ở tiểu
bang Florida.
Trong danh sách tốt nghiệp khoá đầu tiên (Khoá 61 Navy) có các
vị sau đây:
–
Hoàng Thanh Nhã (sau này giữ chức Không đoàn trưởng KĐ23CT)
– Lê Như Hoàn (Trưởng Khối Đặc Trách
Khu Trục, Văn Phòng Tham mưu Phó Hành Quân/BTL/KQ)
– Dan Hoài Bửu (Phi đoàn trưởng
PĐ–514)
– Hồ Viết Thanh (Phi đoàn
trưởng PĐ–528)
– Phạm Đình Anh (Phi
đoàn trưởng PĐ–538)
– Nguyễn Tiến
Thành (Phi đoàn trưởng PĐ–540)
– Lê
Trai (Phi đoàn trưởng PĐ–550).
Khoá kế tiếp (62B Navy) có ông Phạm
Bình An (Phi đoàn trưởng PĐ–516).
[Đặc
biệt trong số sĩ quan khoá sinh hoa tiêu VN xuất thân từ trường
bay nổi tiếng nói trên, ông Dan Hoài Bửu đã được ghi nhận là
người duy nhất tốt nghiệp với kết quả xuất chúng (outstanding
academic achievement)]
* * *
Trở lại với PĐ–520, sau khi được thành
lập đã cùng với hai PĐ–514 và 518 thay phiên biệt phái xuống phi
trường Bình Thủy, mỗi lần một tuần lễ, để yểm trợ các cuộc hành
quân ở Vùng 4 Chiến Thuật (thời gian này, Không Đoàn 74 Chiến
Thuật chưa được thành lập).
Vào khoảng đầu năm 1965, Đại úy Võ Văn
Hội lên làm Chỉ huy trưởng thay Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện (Thiếu
tá Biện ra Đà Nẵng thành lập Biệt Đội 615, gồm các oanh tạc cơ
phản lực B–57 Canberra).
Tới tháng 9 năm 1965, PĐ–520 chính thức
trở thành lực lượng tác chiến cơ hữu của Không Đoàn 74 Chiến
Thuật, Bình Thủy, và đến ngày 15 tháng 1 năm 1966 (một tuần trước
Tết Bính Ngọ) đã được lệnh di chuyển về đồn trú tại căn cứ này.
Giữa năm 1966, Đại úy Võ Văn Hội được
đề cử giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 74 Tác Chiến, Đại
úy Nguyễn Văn Trương lên làm Phi đoàn trưởng PĐ–520 (từ năm
1966, danh xưng các chức vụ “Chỉ huy trưởng Liên Đoàn, Phi Đoàn”
đã được đổi thành “Liên đoàn trưởng, Phi đoàn trưởng”)
Tuy đã lên nắm chức vụ Liên đoàn
trưởng, Đại úy Võ Văn Hội vẫn tiếp tục bay các phi vụ hành quân,
và đã bị hỏa lực địch bắn nát bàn tay trái trong một phi vụ yểm
trợ quân bạn, được đưa về chữa trị tại Bệnh viện Đồn Đất (Grall),
và được thăng cấp thiếu tá.
Cuối năm 1967, Đại úy Nguyễn Văn Trương
đi nhận nhiệm vụ mới, Đại úy Huỳnh Văn Vui (nguyên là Chỉ huy phó
PĐ–522, lúc này đã bị giải thể để thành lập Phi Đoàn phản lực F–5
đầu tiên) về thay thế trong chức vụ Phi đoàn trưởng PĐ–520.
Tháng 5/1968 (thời gian biến cố Tết Mậu
Thân, tấn công đợt 2), PĐ–520 tạm ngưng hoạt động và được gửi
sang Hoa Kỳ xuyên huấn trên phản lực cơ A–37.
Tới đầu năm 1969, PĐ–520 trở thành Phi
Đoàn khu trục thứ nhì trong KLVNCH được trang bị phản lực cơ
A–37.
Qua năm
1970, Thiếu tá Phạm Quang Điềm về đảm nhiệm chức vụ Phi đoàn
trưởng.
* Phi Đoàn 522
Sự hiện hữu, tổ chức nhân sự, và hoạt
động của Phi Đoàn 522 khu trục A–1 trước khi trở thành Phi Đoàn
phản lực siêu thanh F–5 đầu tiên của KQVN vào đầu tháng 6/1967
được một số tác giả ghi lại khác nhau.
Trong cuốn Flying Dragons (Osprey
Publishing, 1988), tác giả Robert C Mikesh viết PĐ–522 được thành
lập ngày 1 tháng 4 năm 1965, trực thuộc Biệt Đoàn 83 “với phi cơ
A–1 và hoa tiêu được tuyển chọn từ các Phi Đoàn khu trục hiện
hữu”.
Còn theo
một cựu hoa tiêu khu trục sau trở thành Phi đoàn trưởng phản
lực trong KQVN thì PĐ–522 “được chính thức thành lập vào năm 1964
tại Tân Sơn Nhất, trực thuộc Biệt Đoàn 83 mà Đại úy Nguyễn Văn
Tường là Chỉ huy trưởng đầu tiên”.
Trong khi đó, một số vị sĩ quan từng
nắm giữ chức vụ chỉ huy, hoặc phục vụ trong Biệt Đội khu trục
của Biệt Đoàn 83, đã khẳng định PĐ–522 không hề có trong tổ chức
của Biệt Đoàn; và sau khi Phi Đoàn này bị giải thể vào giữa năm
1966, Biệt Đội khu trục của Biệt Đoàn 83 vẫn tiếp tục hoạt động
cho tới khi Biệt Đoàn chấm dứt sự hiện hữu vào đầu năm 1968.
(Chú
thích 5)
Tới
năm 2013, tức là ¼ thế kỷ sau khi cuốn Flying Dragons của Robert
C Mikesh được phát hành, tác giả Byron E Hukee đã cho ra mắt cuốn
USAF and VNAF A–1 Skyraider Units of the Vietnam War, cũng do nhà
xuất bản Osprey Publishing phát hành.
Theo cuốn sách này (từ trang 36 tới
38), vào đầu năm 1964, cùng với việc Trung tá Nguyễn Cao Kỳ được
thăng cấp đại tá và trở thành Tư lệnh KQVN, Biệt Đội “Cò Trắng”
đã được tổ chức thành “Biệt Đoàn 83” (83rd “Special Air Group”,
viết tắt là SAG), biệt hiệu “Thần Phong” (Divine Wind), do ông
Nguyễn Cao Kỳ kiêm nhiệm chức Chỉ huy trưởng (Commanding
Officer).
Vào
thời gian đầu, ngoài những chiếc C–47 “Cò Trắng” đã có sẵn, lực
lượng phi cơ của Biệt Đoàn 83 còn được tăng cường thêm 8 chiếc
A–1H Skyraider, 2 chiếc U–6 Beaver, 2 chiếc Cessna U–17, và một
số trực thăng H–34. Những chiếc A–1 này không phải phi cơ cơ hữu
của Biệt Đoàn mà được luôn phiên “mượn” của các Phi Đoàn khu trục
trong KLVNCH.
Qua năm 1965, khoảng thời gian Hoa Kỳ chuyển giao ồ ạt A–1 cho
KQVN, một “Phi Đoàn khu trục tân lập” là Phi Đoàn 522 đã được
thành lập trên giấy tờ (nằm trong tổ chức của Không Đoàn 33 Chiến
Thuật ở Tân Sơn Nhất) với nhiệm vụ duy nhất là đứng tên “nhận”
những chiếc A–1 của Hoa Kỳ rồi giao cho Biệt Đoàn 83; kết quả,
Biệt Đoàn 83 đã có một số lượng A–1 tương đương với cấp số của
một Phi Đoàn, mà trên giấy tờ là phi cơ của “Phi Đoàn 522”.
Hơn một năm sau (1966), Phi Đoàn khu
trục “chỉ có tên trên giấy tờ” này bị giải thể, phiên hiệu “522”
được lấy để đặt cho Phi Đoàn phản lực cơ siêu thanh F–5 đầu tiên
của KLVNCH, đó là Phi Đoàn 522 “Thần Ưng”, chính thức thành lập
ngày 1/6/1967, Chỉ huy trưởng: Thiếu tá Nguyễn Quốc Hưng.
Về hoạt động của các khu trục A–1 thuộc
Biệt Đoàn 83, tác giả Byron E Hukee cho biết trước khi có chiến
dịch “Bắc Phạt” quy mô của KQVN vào đầu năm 1965 với sự tham dự
của tất cả các Phi Đoàn khu trục, ngay từ năm 1964, Biệt Đội
khu trục của Biệt Đoàn 83 đã thực hiện những phi vụ đêm tấn công
các mục tiêu ở Đồng Hới.
Các phi cơ có nhiệm vụ tấn công mục
tiêu ở phía bắc Đồng Hới được đưa sang “tạm trú” tại CCKQ Nakhon
Phanom ở miền bắc Thái–lan, và xuất phát từ đây. Mỗi phi vụ gồm
hai chiếc A–1, với bình xăng phụ 300–gallon dưới bụng và được
trang bị 6 hoặc 8 trái bom Mk–82 (bom nổ 500 cân Anh để oanh kích
ở cao độ thấp). Các phi cơ tấn công mục tiêu ở phía nam Đồng Hới
thì xuất phát từ CCKQ Đà Nẵng.
Ngoài ra, các phi cơ A–1 của Biệt Đoàn
83 “tạm trú” tại Đà Nẵng còn thi hành những phi vụ trinh sát võ
trang trên lãnh thổ Bắc Việt để theo dõi các hoạt động điều quân
của CSBV từ phía bắc vùng phi quân sự cho tới Vinh. Các phi cơ
thi hành nhiệm vụ này sẽ bay qua không phận Lào rồi từ đó thâm
nhập không phận Bắc Việt.
Vì nhiệm vụ chính là “trinh sát” cho
nên dù được “võ trang”, các khu trục cơ này khi bị cao xạ bắn lên
cũng chỉ được quyền trả đũa sau khi xin phép “dưới đất”; và theo
ký ức của những người trong cuộc, chưa bao giờ “dưới đất” cho
phép!
* * *
Tuy nhiên, qua phối kiểm các nguồn tài
liệu và ký ức của một số vị sĩ quan KQ từng nắm giữ các chức vụ
quan trọng trong ngành khu trục nói chung, Biệt Đoàn 83 nói
riêng, chúng tôi có thể đi tới kết luận:
Trước sau Phi Đoàn 522 không trực thuộc
Biệt Đoàn 83 nhưng cũng không phải là “một Phi Đoàn chỉ được
thành lập trên giấy tờ” như tác giả Byron E Hukee đã viết trong
cuốn USAF and VNAF A–1 Skyraider Units of the Vietnam War.
Phi Đoàn 522, do Đại úy Nguyễn Văn
Tường (Tường “mực”) làm vị Chỉ huy trưởng đầu tiên, là một thực
thể có tổ chức nhân sự, bằng chứng là khi bị giải thể vào giữa
năm 1966 để chuẩn bị thành Phi Đoàn phản lực siêu thanh F–5 đầu
tiên của KQVN, ngoài một số hoa tiêu được tuyển chọn sang Hoa Kỳ
xuyên huấn F–5, các hoa tiêu còn lại đã được bổ sung cho các Phi
Đoàn khu trục khác; trong số này có Đại úy Huỳnh Văn Vui, nguyên
Chỉ huy phó, và bốn hoa tiêu của PĐ–522 là Trung úy Nguyễn Ngọc
Thức, Trung úy Nguyễn Hữu Thuyết, Thiếu úy Nguyễn Đăng Huấn,
Thiếu úy Bùi Đức Nhân về Phi Đoàn 520 ở Bình Thủy.
Sở dĩ có sự khác biệt, mâu thuẫn trong
các tài liệu viết về Biệt Đoàn 83 và PĐ–522 là vì tính cách khác
thường, và bí mật, về cả tổ chức lẫn hoạt động của Biệt Đoàn này
– một đơn vị không có trong sơ đồ tổ chức của quân chủng Không
Quân VNCH.
Một
trong những thí dụ điển hình về sự mâu thuẫn, và khó hiểu là một
tấm hình phổ biến trong cuốn USAF and VNAF A–1 Skyraider Units of
the Vietnam War của tác giả Byron E Hukee, chụp 16 hoa tiêu khu
trục VN mang phù hiệu PĐ–522 nhưng lại đứng trước một chiếc A–1
mang phù hiệu “Thần Phong”, được tác giả chú thích “các hoa tiêu
khu trục của PĐ–522 thuộc Biệt Đoàn 83”, trong khi cũng chính
Byron E Hukee đã viết trong cuốn sách này:
“... Một ‘Phi Đoàn khu trục tân
lập’ là Phi Đoàn 522 đã được thành lập trên giấy tờ (nằm trong tổ
chức của Không Đoàn 33 Chiến Thuật ở Tân Sơn Nhất) với nhiệm vụ
duy nhất là đứng tên ‘nhận’ những chiếc A–1 của Hoa Kỳ rồi giao
cho Biệt Đoàn 83...”
Một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày
Phi Đoàn 522 khu trục A–1 bị giải thể để trở thành Phi Đoàn 522
“Thần Ưng” trang bị phản lực F–5, tiếp theo Biệt Đoàn 83 bị “xóa
sổ” vào đầu năm 1968, vẫn còn nhiều điều chưa được sáng tỏ. Cho
nên trong bài viết này chỉ có thể kết luận:
Biệt Đội khu trục của Biệt Đoàn 83 và
Phi Đoàn 522 khu trục là những lực lượng tác chiến được thành lập
để thi hành những phi vụ đặc biệt, hoặc bí mật.
* Phi Đoàn 524 Thiên Lôi
Ngày 15/9/1965, Phi Đoàn 524 “Thiên
Lôi” được thành lập tại Nha Trang, cũng được trang bị A–1
Skyraider. Chỉ huy trưởng: Đại úy Nguyễn Quang Ninh.
Tiền thân của PĐ–524 là một Biệt Đội
của PĐ–516 (Đà Nẵng), do Đại úy Nguyễn Quang Ninh làm Biệt đội
trưởng, được biệt phái tới Căn Cứ Không Quân 92 (Pleiku), sau di
chuyển về Nha Trang; trách nhiệm yểm trợ Vùng 2 Chiến thuật, từ
phía nam Quảng Ngãi đến tận phía nam Phan Thiết (Bình Thuận).
Tháng 9/1965, PĐ–524 được thành lập với
thành phần nòng cốt là các hoa tiêu của Biệt Đội 516. Đại úy
Nguyễn Quang Ninh trở thành Chỉ huy trưởng Phi Đoàn. Các vị Chỉ
huy trưởng/Phi đoàn trưởng kế tiếp của PĐ–524 là Đại úy Đặng
Duy Lạc, Đại úy Phạm Văn Phạm, Thiếu tá Bùi Gia Định, và vị sau
cùng là Trung tá Sử Ngọc Cả.
[Sự chính xác về cấp bậc
của các vị chỉ huy trong từng thời điểm được nhắc tới trong bài
viết này chỉ có giá trị tương đối; bởi vì các tài liệu để lại
cũng như ký ức của người trong cuộc trong nhiều trường hợp đã
không có sự thống nhất]
Tới năm 1968, PĐ–524 trở thành Phi Đoàn
đầu tiên của KQVN tiếp nhận phản lực cơ A–37.
* Phi Đoàn 530 Thái Dương
Cuối năm 1970, Phi Đoàn khu trục cuối
cùng của KQVN trang bị A–1 Skyraider được thành lập tại Pleiku:
Phi Đoàn 530 “Thái Dương” (Jupiter), trực thuộc Không Đoàn 72
Chiến Thuật.
Việc thành lập một Phi Đoàn khu trục cánh quạt vào lúc KLVNCH đã
bước sang thời kỳ hiện đại hóa – PĐ–522 được trang bị F–5, các
PĐ–516, 520, 524 thay A–1 bằng A–37, và có thêm hai Phi Đoàn A–37
tân lập (PĐ–526 “Satan” và PĐ–528 “Hổ Cáp”) – dĩ nhiên phải có
nguyên nhân đặc biệt của nó.
Nguyên nhân ấy là: tại vùng Tây Nguyên
với địa thế núi non hiểm trở, thời tiết xấu quanh năm, nơi có
nhiều căn cứ, tiền đồn, và có mức độ giao tranh cao nhất, A–1
Skyraider với khả năng oanh kích xạ kích vô cùng chính xác, với
trang bị bom đạn hùng hậu, và với thời gian bao vùng lâu hơn, vẫn
là loại phi cơ lý tưởng nhất trong nhiệm vụ yểm trợ tiếp cận.
Vị Phi đoàn trưởng đầu tiên của
PĐ–530 là Thiếu tá Lê Bá Định, xuất thân Khoá 58A Trần Duy Kỷ,
trước kia từng giữ chức Chỉ huy phó PĐ–514.
Thành phần nhân sự đầu tiên của PĐ–530
gồm 16 hoa tiêu trừng trải kinh nghiệm tới từ Biên Hòa: 8 của
PĐ–514, 8 của PĐ–518.
Về phi cơ, phần lớn là A–1 Skyraider
của hai đơn vị phi hành đặc biệt của Không Lực Hoa Kỳ đồn trú tại
phi trường Nakhon Phanom, miền bắc Thái–lan, là Phi Đoàn 22 Đặc
Nhiệm (22nd Special Operations Squadron, danh hiệu “Zorro”) và
Phi Đoàn 602 Đặc Nhiệm (602nd Special Operations Squadron, danh
hiệu “Sandy”) cùng bị giải thể vào năm 1970.
Các hoa tiêu của PĐ–530, do Thiếu tá Lê
Bá Định cầm đầu, được đưa sang Nakhon Phanom để tiếp nhận những
chiếc A–1 nói trên và bay về Pleiku.
Hai đời Phi đoàn trưởng kế tiếp của
PĐ–530 là Thiếu tá Nguyễn Văn Mười (nguyên Phi đoàn phó
PĐ–514), và Thiếu tá Bạch Diễn Sơn.
* * *
Năm 1974, viện trợ quân sự tài khoá
1974–1975 của Hoa Kỳ cho VNCH đã bị Quốc Hội Mỹ cắt giảm chỉ còn
300 triệu Mỹ kim cho cả QLVNCH (xin đưa ra một con số để so sánh:
trước đó, trong tài khoá 1971–1972, chỉ riêng viện trợ cho KQVN
đã lên tới gần 500 triệu).
Trước tình thế này, KQVN đã phải đóng
cửa một số căn cứ và giảm bớt số Biệt Đội. Về phi cơ, do trình
trạng thiếu bom đạn, thiếu nhiên liệu, thiếu phụ tùng thay thế,
vào tháng 9/1974, KQVN đã phải cho đình động (đình chỉ hoạt động)
224 phi cơ, trong số này có toàn bộ lực lượng khu trục cánh quạt,
gồm 61 chiếc A–1 Skyraider của PĐ–514, PĐ–518 ở Biên Hòa, và
PĐ–530 ở Pleiku.
Trước tình trạng “xếp cánh” của các phi
cơ, sau này một số tác giả đã phải mỉa mai: Đây là khoảng thời
gian duy nhất trong cuộc chiến 20 năm, KQVN... thặng dư hoa tiêu!
Giữa tháng 3/1975, sau khi Ban Mê Thuột
bị thất thủ, Quân Đoàn II được lệnh triệt thoái khỏi Kontum và
Pleiku về vùng duyên hải, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Sư đoàn
trưởng Sư Đoàn 6 KQ, đã chỉ được phía Quân Đoàn thông báo lệnh
di tản trước 48 tiếng đồng hồ, khi địch quân đã gia tăng tối đa
cường độ pháo kích phi trường. Tất cả những gì ông có thể làm chỉ
là xin BTL/KQ cung cấp phương tiện di chuyển binh sĩ và gia đình
họ ra khỏi vùng lửa đạn; còn 64 phi cơ đang bị đình động hoặc
đang chờ sửa chữa, trong đó có toàn bộ A–1 Skyraider của PĐ–530,
đã bị bỏ lại vì không có đủ thì giờ chuẩn bị.
Tới đầu tháng 4/1975, với khả năng tiêu
diệt xe tăng, pháo binh địch, và yểm trợ tiếp cận chính xác, các
khu trục cơ A–1 của hai PĐ–514 và 518 ở CCKQ Biên Hòa đã được cho
tái hoạt động để yểm trợ phòng tuyến Phan Rang, tiếp theo là mặt
trận Xuân Lộc (Long Khánh).
Sáng ngày 16/4/1975, trong lúc tấn công
các đơn vị cộng sản đang tiến vào thị trấn Phan Rang, Thiếu tá
Trần Sĩ Công, PĐ–514, đã bị bắn rơi và tử nạn, được ghi nhận là
“Phượng Hoàng” cuối cùng hy sinh vì Tổ Quốc.
Vào tuần lễ cuối của tháng 4/1975, vì
phi trường Biên Hòa bị pháo kích liên tục, tình trạng an toàn của
phi đạo không được bảo đảm, tất cả các loại phi cơ fixed–wing
[cánh bay cố định] được di tản về Tân Sơn Nhất hoặc Cần Thơ,
chỉ còn lại lực lượng trực thăng của KĐ43CT (các trực thăng sau
đó di tản vào đêm 27/4/1975).
Các phi vụ tác chiến cuối cùng của lực
lượng khu trục cánh quạt trong KLVNCH được ghi nhận vào sáng ngày
29/4/1975 trên không phận thủ đô Sài Gòn. Hai chiếc A–1 của
PĐ–518 do Đại úy Trần Văn Phúc (Phi Long 51) và Thiếu tá Trương
Phùng cất cánh từ Tân Sơn Nhất, và hai chiếc A–1 của PĐ–514 do
Thiếu tá Hồ Ngọc Ấn (Phượng Hoàng 11) và Đại úy Nguyễn Tiến Thụy
về từ Cần Thơ.
Trong phi vụ cuối cùng này, Thiếu tá
Trương Phùng – người đã tình nguyện bay “wingman” cho Đại úy Phúc
vì thiếu hoa tiêu – đã anh dũng hy sinh và được ghi nhận là hoa
tiêu khu trục cuối cùng của PĐ–518, và cũng là của cả ngành khu
trục KLVNCH đền nợ nước.
3. KHẢ NĂNG &
THÀNH TÍCH
KLVNCH lần lượt sử dụng ba loại khu trục cánh quạt khác nhau:
F–8F Bearcat, T–28 Trojan, và A–1 Skyraider. Tuy nhiên, vì F–8F
và T–28 chỉ được sử dụng trong một thời gian ngắn lúc ban đầu,
khi lực luợng du kích quân cộng sản tại miền Nam VN chưa lớn
mạnh, có thể nói lực lượng tác chiến chính yếu của KLVNCH trong
thập niên 1960 chính là các khu trục cơ A–1 Skyraider, và kể cả
khi đã bước sang thập niên 1970, các phản lực cơ F–5, A–37 đã làm
chủ bầu trời, A–1 vẫn tiếp tục tạo được những thành tích mà không
một loại phi cơ chiến thuật đương thời nào, kể cả cánh quạt lẫn
phản lực, có thể đạt được trong nhiệm vụ yểm trợ tiếp cận.
Nhiều tác giả ngoại quốc nhận xét: chỉ
tới sau khi được trao cho KLVNCH, A–1 Skyraider mới có cơ hội
chứng tỏ khả năng siêu việt và mọi ưu điểm của nó.
Cũng cần nhấn mạnh, A–1 Skyraider không
được chế tạo với mục đích chính là nghênh cản (không chiến) như
F–8F, nó cũng không phải một phi cơ huấn luyện được cải biến
thành khu trục cơ & oanh tạc cơ hạng nhẹ như T–28, mà được chế
tạo với mục đích chính là tấn công mục tiêu dưới mặt đất, gồm yểm
trợ tiếp cận (close air support) và đánh phá hậu tuyến địch
(interdiction); cho nên nó được trang bị một động cơ cực mạnh, có
khả năng mang tới 8000 cân Anh vũ khí bom đạn, có vỏ giáp thật
dày để bảo vệ các vị trí trọng yếu chống lại hỏa lực từ mặt đất,
có khả năng bay chậm và có tầm hoạt động xa hơn nhiều loại phi cơ
lớn hơn.
“Tầm
hoạt động” khi áp dụng vào chiến trường Việt Nam đồng nghĩa với
“thời gian bao vùng”. Theo một tài liệu về chiếc A–1H của Hải
quân Hoa Kỳ, trên lý thuyết nó có thể ở trên trời 10 tiếng đồng
hồ liên tục, còn theo một tác giả trong KQVN, cũng là một hoa
tiêu khu trục kỳ cựu, những phi vụ của ông trên A–1H thường kéo
dài tới 5 tiếng đồng hồ.
“Thời gian bao vùng” lâu của A–1 ngoài
việc kéo dài thời gian yểm trợ, còn mang yếu tố tâm lý, khiến
quân địch hoang mang, lo sợ, và quân bạn giữ vững tinh thần, bởi
họ biết mình không chiến đấu cô đơn.
* * *
Nhưng khả năng của phi cơ chỉ là một
trong hai yếu tố quyết định, yếu tố còn lại là tài ba và nhiệt
huyết của người phi công. Cuốn Quân Sử Không Quân VNCH (Liên Hội
Ái Hữu Không Quân QLVNCH – Úc Châu, 2005) viết:
“... tại Căn cứ Hải Quân LeMoore, San
Diego, khi thực tập oanh kích, xạ kích bằng bom đạn thật, các hoa
tiêu Việt Nam đã gây ‘tốn kém’ khá nhiều cho đơn vị huấn luyện
trong việc thay thế các mục tiêu (xe tăng, chòi, công sự...) bị
họ phá hủy!”
(tr 57)
Về mức độ tấn công chính xác, một trong
những thí dụ điển hình nhất là thành tích của PĐ–518 tại mặt
Quảng Trị trong Mùa Hẻ Đỏ Lửa 1972.
Ngày ấy, trước việc quân chính quy cộng
sản Bắc Việt với hàng trăm chiến xa T–54 ồ ạt vượt Vùng phi quân
sự tiến chiếm tỉnh Quảng Trị, và các phản lực cơ A–37 của KLVNCH
không thể hoạt động hữu hiệu vì thời tiết xấu và không có khả
năng bay thấp, ngày 3/4/1972, bốn Phi Tuần nặng (gồm 16 chiếc
A–1) của PĐ–518 ở CCKQ Biên Hòa đã được điều động ra tuyến đầu.
Ngay ngày hôm sau, 4/4/1972, gần một
chục chiến xa địch đã bị các hoa tiêu khu trục loại khỏi vòng
chiến, trong đó có 3 chiếc là chiến công của Đại úy Trần Thế
Vinh. Chỉ hai ngày sau, tổng số chiến xa bị Đại úy Vinh tiêu diệt
đã lên tới hàng chục; và nếu người hoa tiêu khu trục tài ba 26
tuổi ấy không hy sinh vào ngày 9/4/1972 sau khi bắn hạ chiến xa
thứ 20, chắc chắn con số ấy còn cao hơn nữa.
Các hoa tiêu khác của PĐ–518 cũng đạt
được những thành tích đáng nể phục, như Đại úy Nguyễn Ngọc Lành
với 17 chiến xa, Đại úy Trương Phùng với 15 chiếc...
* * *
Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn,
bên cạnh khả năng oanh kích, tác xạ chính xác, các hoa tiêu khu
trục VN còn phải tùy theo nhu cầu chiến trường đòi hỏi và loại
bom đạn có trong tay (do Hoa Kỳ viện trợ) mà trổ tài biến ứng.
“... Súng đại bác 20mm có thể duy trì
yểm trợ từ 30 phút trở lên, có khi chỉ bắn mỗi lần hai khẩu để
tiết kiệm đạn dược, mà độ chính xác thì rất cao, có thể nhắm bắn
ngay mũi một xuồng ba lá để làm vỡ tung xuồng thay vì bắn thủng
xuồng (VC sẽ trét lại). Muốn đốt nhà thì chỉ cần bắn đạn lửa vào
nhà bếp chứ không cần thả bom napalm.” (Phi Đoàn 1 Khu Trục,
Nguyễn Quang Tri)
Nhưng chỉ tài ba thì chưa đủ mà cần có
nhiệt huyết, quyết tâm bảo vệ lý tưởng Tự Do.
“... Chưa bao giờ chúng tôi được chứng
kiến tinh thần chiến đấu cực kỳ hăng say của các cánh chim Phượng
Hoàng vào những đợt tổng công kích Tết Mậu Thân 1968... Có nhiều
anh đã thi hành đến bốn phi vụ trong ngày rồi mà vẫn còn tỉnh táo
túc trực quanh phòng hành quân, đợi coi xem mình còn có thể xen
vào chỗ trống nào trên bảng phi lệnh nữa không.”
(Phi Đoàn 1 Khu
Trục, Phượng Hoàng Kim Cương)
Nhiệt huyết, quyết tâm ấy đã được cả
phía đồng minh Hoa Kỳ khâm phục và trân trọng. Vào ngày
26/4/1965, PĐ–514 “Phượng Hoàng” đã hãnh diện trở thành đơn vị
đầu tiên trong QLVNCH được ân thưởng Huân chương Tổng thống Hoa
Kỳ cho cấp Đơn vị (Presidential Unit Citation), huân chương cao
quý nhất của Hoa Kỳ dành cho các đơn vị anh hùng, đồng thời được
mang dây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương của QLVNCH.
Dĩ nhiên, PĐ–514 chỉ là một điển hình
của truyền thống hào hùng bất khuất trong cuộc chiến đấu bảo vệ
quê hương miền Nam VN của cả một tập thể phi hành trong KLVNCH,
tập thể của những chàng phi công khu trục coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng.
Hãy
thử điểm qua danh sách 13 người trong “nhóm Phạm Phú Quốc” vào
ngày tàn cuộc chiến:
1 – Phạm Phú Quốc (hy sinh trên A–1H
trong phi vụ Bắc Phạt)
2 – Nguyễn Thế
Long (tử nạn trên F–8F trên sông Nhà Bè)
3 – Võ Văn Sĩ
4 – Nguyễn Tấn Sĩ (hy sinh
trên A–1H trong phi vụ Bắc Phạt)
5 – Mạc
Kỉnh Dung (hy sinh trên A–1H trên chiến trường miền Nam)
6 – Vũ Khắc Huề (hy sinh trên A–1H trong phi vụ Bắc Phạt)
7 – Trương Đăng Lượng
8 – Lê Ngọc Duệ
9 – Nguyễn Đình Nam
10 – Nguyễn Hữu Bách
11 – Thái Văn Dương
12 – Võ Văn Xuân (tử
nạn trên F–8F tại miền Nam)
13 – Huỳnh
Hữu Bạc (tử nạn trên F–8F tại miền Nam).
Nhưng bi thảm – và bi hùng – hơn cả
phải là những gì được ghi lại trong hồi ký của Phó Đô đốc Kenneth
E. Moranville, Tư lệnh Đệ Tam Hạm Đội Hoa Kỳ, đặt đại bản doanh
tại Trân Châu Cảng, Hạ–uy–di (vào thời điểm 1987).
Phó Đô đốc Kenneth E. Moranville chính
là vị Hải quân Đại úy trách nhiệm việc xuyên huấn sáu hoa tiêu
A–1 Skyraider đầu tiên của Phi Đoàn 1 Khu Trục tại Corpus
Christi, Florida vào giữa năm 1960. Tới đầu tháng 9/1960, sau khi
những chiếc Skyraider đầu tiên được đưa tới Biên Hòa, Đại úy
Moranville đã sang Việt Nam để phụ trách việc chuyển giao và
xuyên huấn tại chỗ cho những hoa tiêu khác.
Cuối năm 1960, ông trở về Hoa Kỳ. Chín
năm sau ông trở lại Vịnh Bắc Việt trong chức vụ Sĩ quan Hành quân
của một Phi Đoàn A–7 Corsair II trên mẫu hạm. Sau này, trong cuốn
hồi ký của mình có tựa đề “In 1969”, ông viết:
“Theo kết quả cố gắng tìm hiểu của
mình, tôi được biết trong tổng số 28 hoa tiêu mà tôi đã bay
chung, nay chỉ còn duy nhất một người sống sót. Trong khi vào
khoảng thời gian tôi ở Biên Hòa, mất mát duy nhất là cái chết
trên Bearcat của vị Chỉ huy trưởng Phi Đoàn (tức Đại úy Lưu Văn
Đức – chú thích của người viết). Hẳn là trong những năm tháng
qua, các hoa tiêu Việt Nam đã bay vô số phi vụ tác chiến.”
Sau cùng, không thể không nhắc tới
chiến dịch “Bắc Phạt” của lực lượng khu trục trong KLVNCH, với
trên 30 phi vụ oanh kích quy mô, do các hoa tiêu A–1 thực hiện
tại miền Bắc từ đầu năm 1965 tới đầu năm 1966 (chưa kể những phi
vụ tuần thám võ trang, rải truyền đơn...), nhắm vào các doanh
trại, đài ra–đa, kho vũ khí đạn dược, cầu cống đường xá, và cả
phi trường Đồng Hới...
Trung tá Phạm Phú Quốc, Tư lệnh Không
Đoàn 23 Chiến Thuật (Biên Hòa) và 5 hoa tiêu khu trục ưu tú khác
– Đại úy Nguyễn Hữu Chẩn, các Trung úy Vũ Khắc Huề, Nguyễn Tấn
Sĩ, và hai Thiếu úy Nguyễn Đình Quý, Nguyễn Thế Tế – đã hy sinh
trong chiến dịch này.
Tổng kết danh sách hoa tiêu khu trục đã
hy sinh trong cuộc chiến 20 năm là việc bất khả thi. Cho nên chỉ
có thể viết một cách ngắn gọn:
Nếu trong cuộc chiến bảo vệ lý tưởng Tự
Do tại miền Nam VN, Không Quân đã được ghi nhận là quân binh
chủng có tỷ lệ sĩ quan đền nợ nước cao nhất, thì cũng có thể suy
ra, trong tổng số sĩ quan Không Quân đã hy sinh ấy, hoa tiêu khu
trục chiếm tỷ lệ cao nhất. Lưu Văn Đức, Phạm Phú Quốc, Nguyễn Hữu
Chẩn, Trần Thế Vinh, Phạm Văn Thặng, Trần Sĩ Công, Trương
Phùng... Chỉ là một số tên tuổi điển hình trong số hàng trăm hoa
tiêu đã tình nguyện phục vụ trong ngành khu trục, và đã bỏ mình
vì lý tưởng “Tổ Quốc – Không Gian”.
(Hết Phần I – Ngành Khu Trục Cánh Quạt)
Phần II
NGÀNH KHU TRỤC PHẢN LỰC
1. BỐI CẢNH CHÍNH
TRỊ & THỜI CUỘC
Ngành Phản Lực trong Không Lực
Việt Nam Cộng Hòa (KLVNCH) được hình thành vào năm 1965, khởi đầu
của thời kỳ hiện đại hóa QLVNCH nói chung, KLVNCH nói riêng.
Trở lại với
những năm đầu thập niên 1960, mặc dù Trung Ương Đảng cộng sản
Việt Nam, lúc đó còn núp dưới danh xưng “Đảng Lao Động Việt Nam”,
đã cho thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để làm bình
phong cho cuộc xâm lược miền Nam của cộng sản Bắc Việt, Hoa Kỳ
vẫn chỉ đóng vai trò cố vấn, viện trợ quân sự cho QLVNCH ở mức độ
hạn chế, và trang bị những loại vũ khí tương đối lạc hậu so với
những gì Quân Đội Nhân Dân của CSBV nhận được từ khối cộng sản
quốc tế.
Phải đợi tới năm 1964, thời gian được ghi nhận là
bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam. Việc Việt cộng trong Nam
mở những trận đánh quy mô, đẫm máu, đồng loạt tấn công các cơ sở
của Hoa Kỳ, cùng với việc CSBV mở rộng chiến tranh sang các quốc
gia láng giềng, đưa các Sư Đoàn quân chính quy xâm nhập lãnh thổ
miền Nam, đã khiến Hoa Kỳ phải thay đổi chính sách: từ vai trò cố
vấn nhảy vào vòng chiến, đổ quân lên miền Nam, tấn công miền Bắc.
Từ đây, cuộc chiến trở nên toàn diện, dai dẳng, và không lối
thoát.
Các nhà bình luận thời cuộc sau này đã quy trách
cho chính sách thiếu dứt khoát của chính phủ Johnson, thường được
mệnh danh là chính sách “củ cà–rốt và cây gậy”, đã dẫn đưa tới
trình trạng bế tắc nói trên.
Trong bối
cảnh ấy, việc Hoa Kỳ mãi tới năm 1965 mới bắt đầu hiện đại hóa
QLVNCH đã được xem là khá muộn. Không chỉ muộn mà còn thiếu tính
cách tận tâm tận lực.
Theo các nhà bình luận nói trên, và
cũng là nhận định của quân dân miền Nam sau này khi nhìn lại cuộc
chiến, công việc hiện đại hóa muộn màng ấy có mục đích trấn an
quân dân miền Nam hơn là thực tâm giúp QLVNCH có đủ khả năng đóng
vai trò quyết định trên chiến trường, trong một cuộc chiến mà Hoa
Kỳ đã giành quyền lãnh đạo, với một lực lượng khổng lồ, tưởng như
vô địch.
Chính vì thế, tới khi ông Richard Nixon lên thay
ông Lyndon Johnson trong chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ, và đề ra
chương trình “Việt Nam hóa” chiến tranh, trao lại trách nhiệm cho
người Việt để rút quân về nước càng sớm càng tốt, người Mỹ đã
không còn thì giờ để chuyển giao chiến cụ một cách chu đáo, nói
gì tới việc huấn luyện!
Nhưng dù sao chăng nữa, qua chương
trình hiện đại hóa, QLVNCH cũng đã chứng tỏ được quyết tâm chống
cộng, khả năng tiếp thu, tài biến ứng, tận dụng mọi điều kiện
khách quan để trưởng thành về mọi mặt, ngõ hầu đủ sức bảo vệ miền
Nam VN, dù có hay không có sự hiện diện của đồng minh Hoa Kỳ. Ý
chí sắt đá đó đã được thể hiện, sự trưởng thành đó đã được chứng
minh qua việc đập tan cuộc tổng tấn công của quân cộng sản trong
Tết Mậu Thân 1968.
Riêng KLVNCH, trong khoảng thời gian
bốn năm ngắn ngủi ấy (1965–1969), đã bước những bước thật dài và
vững chắc để trở thành một không lực hiện đại, đa năng, và chuyên
nghiệp bậc nhất ở vùng Đông Nam Á.
áng kể nhất là việc hiện đại hóa với các loại phi cơ phản lực
B–57, F–5, và A–37 để thay thế (phần lớn) các phi cơ cánh quạt
A–1, một loại khu trục tuy rất hữu hiệu trong chiến tranh chống
du kích nhưng chậm chạp, không còn thích ứng với điều kiện chiến
trường.
* * *
Trở lại với năm 1964, sau khi xảy ra
vụ khu trục hạm Maddox của Hải Quân Hoa Kỳ bị các ngư lôi đĩnh
của CSBV tấn công ngoài khơi vịnh Bắc Biệt ngày 2/8/1964, đưa tới
việc Hoa Kỳ oanh tạc trả đũa (5/8/1964) và Quốc Hội Hoa Kỳ thông
qua Nghị Quyết Đông Nam Á (Southeast Asia Resolution) ngày
7/8/1964 trao quyền hạn tuyệt đối cho Tổng thống trong việc tấn
công Bắc Việt mà không cần tuyên chiến, CSBV chẳng những đã không
tỏ ra nao núng mà còn đưa 50 chiến đấu cơ phản lực MiG từ Trung
cộng về đồn trú tại phi trường Phúc Yên, và ra lệnh cho Sư Đoàn
325 chính quy chuyển quân vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh...
Trong bối cảnh chính trị và tình hình quân sự nói trên, các
phản lực cơ của Không Lực Hoa Kỳ đã được đưa tới Việt Nam; và
tiếp theo, KQVN cũng bắt đầu được hiện đại hóa.
2. OANH
TẠC CƠ B–57 CANBERRA
Nếu
không kể các chuyến thăm viếng thân hữu (phi diễn trong các Đại
Hội Không Quân) của các loại F–100, F–102 thì B–57 được ghi nhận
là loại phản lực cơ đầu tiên của Không Lực Hoa Kỳ tới hoạt động
tại miền Nam VN.
Thực ra trước đó đã có một số phản lực cơ
trinh sát RF–101 “Voodoo” và nghênh cản F–102 “Delta Dagger” tới
Việt Nam nhưng vì chỉ hoạt động trong một thời gian rất ngắn nên
không được chính thức ghi nhận.
Trước hết nói về RF–101.
Do nhu cầu theo dõi hoạt động của CSBV, ngày 18/10/1961, một Phi
Đội đặc nhiệm có bí danh “Pipe Stem” gồm bốn phản lực cơ trinh
sát RF–101C thuộc Phi Đoàn 15 Trinh Sát Chiến Thuật (15th
Tactical Reconnaissance Squadron) của Không Lực Hoa Kỳ đồn trú
tại Okinawa đã được đưa tới Tân Sơn Nhất. Trong 31 ngày tiếp theo
đó, các phi cơ này đã thực hiện tổng cộng 67 phi vụ không thám
trên Cánh Đồng Chum (Plain of Jars) thuộc lãnh thổ Lào và một
phần đường mòn Hồ Chí Minh, trước khi phải rút đi vì có sự khiếu
nại của CSBV với Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Nhiệm vụ
của Phi Đội “Pipe Stem” sau đó đã được tiếp nối bởi Phi Đội
“Able Mabel”, gồm bốn chiếc RF–101C của Phi Đoàn 45 Trinh Sát
Chiến Thuật từ Nhật Bản tới đồn trú tại phi trường Don Muang,
Thái Lan.
Về phần các
phản lực cơ nghênh cản F–102 “Delta Dagger” thì chỉ đồn trú tại
Việt Nam một tuần lễ duy nhất. Nguyên vào hai ngày 19 và
20/3/1962, đài kiểm báo Peacock ở Pleiku đã phát hiện những sóng
ra–đa lạ tại miền Nam, đưa tới giả thuyết các phản lực cơ MiG
hoặc phi cơ vận tải của khối Cộng có thể đã xâm nhập không phận
miền Nam. Theo yêu cầu của Tổng thống Ngô Đình Diệm thông qua Đại
sứ Nolting, Đô đốc Harry Felt, Tổng tư lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại
Thái Bình Dương (CINPAC) đã lập tức ra lệnh đưa bốn chiếc F–102
từ căn cứ không quân Clark, Phi–luật–tân tới Tân Sơn Nhất.
Tuy nhiên sau một tuần lễ không thấy động tịnh gì, bốn chiếc
F–102 nói trên đã bay trở về Phi–luật–tân (sau này khi cuộc chiến
leo thang, Không Lực Hoa Kỳ đã đưa nguyên một Phi Đoàn F–102 tới
đồn trú tại căn cứ không quân Đà Nẵng để đề phòng trường hợp các
phản lực cơ MiG của CSBV liều lĩnh xâm phạm không phận miền Nam).
Tới đây viết về B–57 “Canberra”. Canberra nguyên là loại oanh
tạc cơ phản lực đầu tiên của Anh quốc được đem vào sử dụng, do
hãng English Electric chế tạo, và được hãng Martin ráp nhượng
quyền tại Hoa Kỳ để sử dụng trong Không Quân Chiến Thuật từ năm
1954 tới 1972, gồm hai kiểu oanh tạc (B–57) và trinh sát (RB–57).
Đầu tháng 5/1963, hai chiếc RB–57E – loại cải tiến được trang
bị máy chụp không ảnh ở mũi – của Phi Đội Trinh Sát 609 tới đồn
trú tại Tân Sơn Nhất để thực hiện các phi vụ không thám.
Còn việc đưa các oanh tạc cơ B–57 sang Việt Nam tới đầu năm 1964
mới được các giới chức Không Quân Hoa Kỳ nghĩ tới, khi lực lượng
phi cơ của Phi Đoàn 1 Cảm Tử (ACS.1 trong chương trình Farm Gate)
xuống tới mức thảm hại nhất. Tháng 2 năm đó, có thêm hai chiếc
khu trục T–28 bị hỏa lực địch bắn hạ, và toàn bộ oanh tạc cơ B–26
của Phi Đoàn này bị cho nằm ụ vì khung phòng đã quá cũ, mất an
toàn. Trước tình trạng đó, Đại tướng Jacob Smart, Tư lệnh Không
Lực Thái Bình Dương (PACAF) đề nghị đưa một Phi Đoàn oanh tạc cơ
B–57 sang Việt Nam, nhưng đã bị Bộ trưởng Quốc Phòng Robert
McNamara bác bỏ, và thay vào đó chỉ tái trang bị Phi Đoàn 1 Cảm
Tử bằng các phi cơ A–1H và A–1E Skyraider.
Phải đợi tới
sau khi xảy ra vụ các ngư lôi đĩnh của Bắc Việt tấn công khu trục
hạm Maddox của Hải Quân Hoa Kỳ ngày 2/8/1964, các oanh tạc cơ
B–57 mới được phối trí tại Việt Nam: ngày 4/8/1964, 20 chiếc B–57
thuộc hai Phi Đoàn 8 và 13 Oanh Tạc (8th Bombs Squadron, 13th
Bombs Squadron), mới từ Nhật Bản tới đồn trú tại CCKQ Clark,
Phi–luật–tân, đã được lệnh di chuyển tới Biên Hòa trong thời hạn
ngắn nhất.
Những
gì xảy ra sau đó cho thấy ngay từ lúc ban đầu, đã có những “điềm
xấu” về sự hiện diện của loại phản lực cơ này tại Việt Nam.
Hai mươi chiếc B–57 nói trên được chia ra làm năm Phi Đội,
mỗi Phi Đội bốn chiếc, lần lượt cất cánh. Đáp xuống một phi
trường xa lạ dưới trời mưa tầm tã, một chiếc không rời khỏi phi
đạo (runway) kịp thời nên đã bị chiếc đáp kế tiếp (bị hư thắng!)
đụng phải, kết quả một chiếc bị phế thải; một chiếc khác khi chạm
đất đã bị bể cả hai bánh và nằm kẹt cứng giữa phi đạo, khiến tất
cả những chiếc còn lại phải đổi hướng để đáp xuống Tân Sơn Nhất,
và trong số này đã có một chiếc không bao giờ tới đích: nó bị rớt
trong một khu vực do Việt cộng kiểm soát, vì thế nguyên nhân
gây ra tai nạn cũng không bao giờ được xác định!
Nhưng dù
sao, giữa chiếc B–57 và chiếc B–26 (đã bị cho nằm ụ) cũng khác xa
nhau một trời một vực. Cho nên việc Hoa Kỳ đưa B–57 tới chiến
trường Việt Nam mang một ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Được trang bị hai động cơ phản lực với sức đẩy 7200lbs mỗi
bên, B–57 có thể đạt vận tốc tối đa 777km/giờ, và có tầm hoạt
động 3200km. Trang bị rất hùng hậu, gồm tám nòng đại liên 50 hoặc
bốn nòng đại bác 20ly, có thể mang 8000 cân Anh (3600kg) bom
trong khoang bụng và dưới hai cánh; có khả năng mang tám hỏa tiễn
5–inch hay 28 hỏa tiễn 2.75–inch, và nếu sử dụng cả “rack” ở hai
bên cánh, tổng số hỏa tiễn sẽ lên gấp đôi.
Rất tiếc, cho
tới lúc đó, mặc dù Hải Quân Hoa Kỳ và CSBV đã đụng độ nhau ngoài
khơi vịnh Bắc Việt, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn còn e ngại sẽ vi
phạm điều khoản của Hiệp Định Genève 1954 cấm hai phe không được
đưa vũ khí “mới” vào VN, cho nên những oanh tạc cơ B–57 cũ kỹ nói
trên đã phải chờ thêm 6 tháng nữa, khi Hoa Kỳ quyết định tham
chiến trực tiếp tại miền Nam VN, mới được xuất trận lần đầu.
Nguyên vào đêm 1/11/1964, trong lúc các giới chức chỉ huy
đang dự tiệc mừng kỷ niệm 1 năm “Cách mạng thành công” (đảo chánh
lật đổ TT Ngô Đình Diệm), Việt cộng đã pháo kích phi trường
Biên Hòa, gây thiệt hại và thương vong đáng kể.
Trong số
20 chiếc B–57 đậu sát cánh có năm chiếc bị thiêu hủy hoàn toàn,
15 chiếc còn lại đều bị hư hại, một trực thăng Hoa Kỳ và bốn khu
trục A–1H của KQVN cũng bị thiêu hủy. Bốn quân nhân Mỹ chết và 72
người khác bị thương.
Sau đó, Tư lệnh MACV, Tổng tư lệnh
Lực Lượng Thái Bình Dương (CINCPAC), Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn,
và cả Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Hoa Kỳ đều yêu cầu Tổng thống
Johnson cho phép tấn công CSBV để trả đũa, nhưng ông Johnson đã
từ chối vì cuộc bầu cử tổng thống sắp tới, ông không muốn gia
tăng cường độ chiến tranh, khiến cử tri phải lo ngại.
Trước đó, Bộ tổng tham mưu Quân Đội Hoa Kỳ đã chuẩn bị sẵn một kế
hoạch trả đũa đại quy mô như sau: mở đầu là cuộc không tập kéo
dài từ 24 tới 36 tiếng đồng hồ vào lãnh thổ Lào (những nơi bộ đội
CSBV trú đóng hoặc mượn đường xâm nhập miền Nam), và mở các cuộc
tuần thám ở cao độ thấp trên lãnh thổ Bắc Việt từ vĩ tuyến 19 trở
vào Nam nhằm bảo đảm an toàn cho quân Mỹ đổ bộ lên miền Nam để
bảo vệ các căn cứ và cơ sở của Hoa Kỳ tại đây; tiếp theo là ba
ngày oanh tạc liên tục của các siêu pháo đài bay B–52 nhắm vào
phi trường Phúc Yên (nơi cất dấu khoảng 50 phản lực MiG–15 và
MiG–17) và các kho nhiêu liệu chung quanh Hà Nội, Hải Phòng. Sau
đó, mục tiêu sẽ là các cơ sở quân sự và kỹ nghệ của Bắc Việt, và
các đường xâm nhập của bộ đội chính quy Bắc Việt từ Lào vào miền
Nam.
Thời gian này, lực lượng không phòng (air defense)
của Bắc Việt chưa đáng kể, chỉ có 50 phản lực MiG–15, MiG–17, và
trong số các phi trường, ngoài phi trường Phúc Yên đang được hoàn
tất, chỉ có phi trường Gia Lâm (Hà Nội) và Cát Bì (Hải Phòng) có
thể sử dụng cho phản lực. Về phòng không (anti–aircraft), Bắc
Việt chỉ có khoảng 700 súng đủ loại, và chưa hề có hỏa tiễn
địa–không. Hệ thống ra–đa chỉ gồm khoảng 20 máy báo động (warning
set), không có khả năng khám phá phi cơ thâm nhập từ xa.
Tóm lại, một cuộc không tập của Không Lực Hoa Kỳ vào thời điểm
này sẽ không gặp một sức kháng cự đáng kể nào, nếu không muốn nói
như đánh vào chỗ không người. Theo quan điểm của Đô đốc Ulysses
Sharp, Tổng tư lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương (CINPAC), những
cuộc không tập miền Bắc vào thời gian này sẽ tạo áp lực khiến Bắc
Việt phải ngưng, hay ít ra cũng giảm bớt hoạt động xâm lược miền
Nam. Rất tiếc việc đó đã không xảy ra. Hay viết cách khác, mãi
tám năm sau kế hoạch trả đũa này mới được đem ra thực hiện dưới
thời TT Nixon (Operation Linebacker II), khi mà CSBV đã có đủ
thời gian tạo dựng một hệ thống phòng không hùng hậu và hữu hiệu
bậc nhất thế giới!
* * *
Tới đây viết về việc hiện
đại hóa KLVNCH. Thực ra, yêu cầu trang bị phi cơ phản lực cho
KQVN đã được Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra từ năm 1960, khi có
nhu cầu thay thế các phi cơ F–8F Bearcat quá cũ kỹ, nhưng đã bị
phía Hoa Kỳ liên tiếp bác bỏ vì không muốn vi phạm các điều khoản
của Hiệp định Genève 1954 (!)
Tuy nhiên tới năm 1964–1965,
trước việc bộ đội chính quy của CSBV ồ ạt xâm nhập miền Nam, lý
do từ chối nói trên không còn đứng vững; và mặc dù một số giới
chức Mỹ vẫn lo ngại VNCH có thể sẽ sử dụng phản lực tầm xa B–57
để tấn công miền Bắc, chính phủ Hoa Kỳ đã chấp thuận trang bị
loại oanh tạc cơ phản lực này cho KQVN.
Ngày 1/8/1965, báo
Anh ngữ Saigon Sunday Post chạy tít trên trang nhất: “B–57
Bombers for VNAF”.
Bản tin cho biết “KQVN sẽ tiếp nhận
những chiếc phi cơ phản lực đầu tiên”, và “bốn chiếc oanh tạc cơ
B–57 sẽ được chuyển giao cho KQVN trong nay mai”.
Nhưng
trên thực tế, chương trình chuyển giao B–57 cho KQVN đã được các
giới chức Không Quân Hoa Kỳ bí mật khởi sự từ hơn một năm trước
đó.
Tháng 5/1964, tức là khoảng một tháng sau khi các phi
cơ B–57 của hai Phi Đoàn 8 và 13 Oanh Tạc của Không Lực Hoa Kỳ từ
Nhật Bản được đưa tới trú đóng tại Phi–luật–tân, qua sự “dàn xếp”
giữa các giới chức này với chính quyền Phi–luật–tân, ba sĩ quan
KQVN đã được đưa tới CCKQ Clark để được huấn luyện bay phi cơ
B–57B, gồm Đại úy Nguyễn Ngọc Biện, Đại úy Nguyễn Văn Tường, và
Đại úy Nguyễn Văn Long.
Vốn là những phi công khu trục dày
dạn kinh nghiệm, khó khăn duy nhất đối với ba người chỉ là đang
lái phi cơ cánh quạt (A–1 Skyraider) với bánh lái ở đuôi
(tail–dragging) nay chuyển sang phi cơ phản lực B–57 với bánh lái
ở mũi (tricycle landing gear). Theo lời kể lại của Đại úy Don
Nation, người trách nhiệm chương trình xuyên huấn, sau khi nắm
vững nguyên tắc mới, ba sĩ quan nói trên đã chứng tỏ họ là những
phi công thượng thặng.
Đợt huấn luyện thứ hai thay vì tổ
chức ở Phi–luật–tân, đã diễn ra ngay tại CCKQ Tân Sơn Nhất vì một
nguyên nhân đặc biệt: ba sĩ quan được xuyên huấn chính là Chuẩn
tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQVN, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư
lệnh phó, và Thiếu tá Vũ Thượng Văn, Chỉ huy trưởng Trung Tâm
Hành Quân KQ.
Hơn một năm sau, ngày
9/8/1965, lễ chuyển giao ba oanh tạc cơ B–57 đầu tiên cho KQVN đã
diễn ra tại Tân Sơn Nhất. Ít lâu sau đó, vào ngày 20/9/1965, các
khoá thực tập tác chiến trên B–57 đã được bắt đầu tại CCKQ
Clark, dành cho những phi công đã xuyên huấn trên B–57 trước kia
như Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện (mới được thăng cấp), Đại úy Nguyễn
Văn Long, cũng như các phi công mới sang xuyên huấn đợt sau. Đợt
mới này gồm sáu phi công, sau tối thiểu 40 phi xuất với 70 giờ
bay, họ sẽ được xác định khả năng bay trên B–57. Sau đó mới bước
sang giai đoạn thực tập tác chiến.
Sau này, Đại úy Don
Nation kể lại:
“Vì họ đều là những phi công với nhiều năm
kinh nghiệm chiến trường, khi bước sang giai đoạn thực tập tác
chiến, tôi cho rằng họ đã dạy chúng tôi chứ không phải chúng tôi
dạy họ!... Tôi còn nhớ ngày đó Đại úy Long đã khiến (huấn luyện
viên) Harry Zahn phải choáng váng với kỹ thuật nhào xuống đánh
bom của ông. Trái bom thứ nhất của ông thả cách mục tiêu khoảng
150 mét, trái thứ hai trúng phóc. Khi được hỏi về việc thả trái
thứ nhất trật mục tiêu – một cách cố tình mà ai cũng thấy rõ –
ông giải thích một cách tự tin: ‘Trái thứ nhất để địch hoảng sợ
chạy dồn về phía mục tiêu, sau đó mình mới gom hết!’”
Đợt
tiếp theo gồm 12 phi công, 12 điều hành viên, và một số nhân viên
kỹ thuật. Sau khi việc huấn luyện hoàn tất, các nhân viên này trở
về VN phục vụ tại Biệt Đội 615 mới được thành lập tại CCKQ Đà
Nẵng do Thiếu tá Biện chỉ huy. Trên phương diện quản trị quân số,
Biệt Đội này trực thuộc Không Đoàn 41 Chiến Thuật của KQVN,
nhưng trên phương diện hành quân, Biệt Đội hoạt động chung với
Phi Đoàn 8 hoặc Phi Đoàn 13 Oanh Tạc của Hoa Kỳ (gốc ở CCKQ Clark
thay phiên nhau tới đồn trú tại Đà Nẵng).
Để có thêm kinh
nghiệm, các nhân viên phi hành Việt Nam mới thuyên chuyển tới
Biệt Đội thường bay chung với phi công hoặc điều hành viên Hoa
Kỳ. Cũng có khi cả phi hành đoàn là người Việt và bay trên những
chiếc B–57 sơn cờ hiệu KQVN, nhưng tất cả mọi phi vụ hành quân
vẫn được đặt dưới quyền điều động của phía Hoa Kỳ.
Theo ký
ức của một vị sĩ quan từng phục vụ tại Biệt Đội 615, thời gian
đầu đơn vị có 10 nhân viên phi hành gồm sáu hoa tiêu (Nguyễn Ngọc
Biện, Đàm Thượng Vũ, Lê Xuân Lan, Phạm Văn Tỷ, Nguyễn Quốc Hưng,
Nguyễn Hữu Hoài) và bốn điều hành viên (Tô Tiến Phát, Phạm Kim
Lân, Nguyễn Tấn Ngàn, Trần Văn Lộc). Ngoài ra còn một số nhân
viên kỹ thuật VN làm việc chung với nhân viên Mỹ.
Nhiệm vụ
chính của các phi cơ B–57 là oanh tạc các đoàn xe tiếp tế của
CSBV trên đường mòn Hồ Chí Minh – từ đèo Mụ Già (Thanh Hóa) chạy
qua Lào, vòng xuống Attopeu, Kontum... nhiệm vụ phụ là yểm trợ
các cuộc hành quân nội địa theo yêu cầu của Quân Đoàn I.
Mỗi
phi vụ oanh tạc đường mòn HCM gồm sáu chiếc B–57, bốn do Mỹ, hai
do VN lái, cất cánh vào lúc 5:30g chiều; khi thấy đoàn xe, hai
B–57 của VN có nhiệm vụ đánh chận đầu và đuôi của đoàn xe để bốn
chiếc của Mỹ tấn công tiêu diệt. Xong nhiệm vụ, về nghỉ ngơi, tới
8:30g tối lên Phòng Hành Quân xem lại khúc phim quay lúc tấn công
để biết kết quả.
Tại Đà Nẵng, trung bình chỉ có khoảng bốn
chiếc B–57 của Hoa Kỳ được sơn cờ hiệu KQVN dành riêng cho những
phi hành đoàn (tất cả là người Việt) nói trên; vì nhu cầu thu hồi
để bảo trì, số phi cơ này không cố định, người ta có thể lấy bất
cứ chiếc nào khả dụng và cho sơn cờ hiệu KQVN lên.
Vì những hạn chế vừa kể, chương trình B–57 đã không tạo được
sự phấn khởi tinh thần như chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã mong
mỏi lúc ban đầu. Để thay đổi tình trạng này, ngày 29/10/1965, năm
chiếc B–57 được sơn cờ hiệu KQVN, trang bị bom đạn tối đa, xuất
phát từ Đà Nẵng để thi hành một phi vụ đặc biệt: trên đường bay
về thủ đô Sài Gòn, ồ ạt oanh tạc một vị trí nghi ngờ tập trung
quân của địch và sau khi đáp xuống Tân Sơn Nhất, đã tham gia một
cuộc phi diễn của KQVN. Bay trong đội hình chữ V thật khít khao
và với cao độ chỉ khoảng 100 mét trên Dinh Độc Lập và các đường
phố chính của Sài Gòn, năm chiếc B–57 nói trên đã tạo một ấn
tượng mạnh mẽ nơi người dân thủ đô, nhất là khi họ được biết các
oanh tạc cơ phản lực này vừa trở về từ chiến trường! Nhưng phía
KQVN thì bất mãn ra mặt. Bởi vì họ biết rõ năm phi hành đoàn B–57
nói trên đều là... người Mỹ!
Bước sang đầu năm 1966, chính
các nhân viên phi hành Việt Nam trong chương trình B–57 cũng
không còn hăng hái nữa. Thêm vào đó lại xảy ra một tai nạn trong
lúc huấn luyện tại Phi–luật–tân: một phi công Việt Nam cùng với
huấn luyện viên Hoa Kỳ đã mất điều khiển khi đáp thực tập xuống
căn cứ hải quân Cubi Point, phi cơ bị phế thải. Tai nạn này đã hỗ
trợ cho lập luận của những phi công Việt Nam cho rằng loại oanh
tạc cơ điều khiển hoàn toàn bằng sức người (fully manually
controlled) này không thích hợp với kích thước và thể lực của họ.
Trong lúc chờ đợi các biện pháp để giải quyết khó khăn trên,
bước sang tháng 2/1966, một tai nạn thảm khốc xảy ra đã khai tử
chương trình B–57. Hôm đó, một B–57 với phi hành đoàn Việt Nam do
Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện ngồi ghế phi công, trong một phi vụ
oanh tạc tại Vùng 1 Chiến Thuật đã gặp phải thời tiết quá xấu.
Không thể đáp xuống Đà Nẵng vì lý do thời tiết, và vì còn bom đạn
trên phi cơ, Thiếu tá Biện đã quyết định đổi hướng để đáp xuống
phi trường Cù Hanh, CCKQ Pleiku.
Nhưng sau khi phi cơ đáp
xuống an toàn và tháo gỡ hết bom đạn, các nhân viên phi đạo đã
không thể tái khởi động động cơ của loại phản lực mà họ chưa từng
học qua; cuối cùng họ quyết định dùng sức người để đẩy phi cơ
(đang choán chỗ trên phi đạo), Thiếu tá Biện ngồi trên phòng lái
để điều khiển bánh lái và thắng. Nhưng trong lúc lực thủy điều đã
bị mất và độ dốc của phi đạo Pleiku khiến phi cơ lăn bánh càng
lúc càng nhanh, Thiếu tá Biện không thể điều khiển phi cơ theo ý
muốn. Thế rồi trong lúc bối rối khi thấy chiếc B–57 đâm đầu ra
khỏi phi đạo, Thiếu tá Biện đã nhảy xuống và tử nạn khi bị bánh
đáp bên trái của chiếc phi cơ nặng 25 tấn cán lên người.
Cái chết của Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện, Chỉ huy trưởng Biệt Đội
615, đã gây xúc động mạnh vì ông là một cấp chỉ huy được cả phía
Việt Nam lẫn Hoa Kỳ kính phục. Ông cũng là người hết lòng ủng hộ
và là xương sống của Chương trình B–57, cho nên sau khi ông tử
nạn, chẳng còn mấy người thiết tha tới việc bay loại phản lực
“sát chủ” này.
Hai tháng sau, cùng với việc giải thể Thập
Tam Không Lực Hoa Kỳ (13th Air Force) ở Phi–luật–tân, chương
trình B–57 dành cho KQVN cũng được lặng lẽ chấm dứt vào ngày
20/4/1966. Có thể nói cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ đều cảm thấy
nhẹ nhõm trước sự chết yểu của chương trình B–57: Việt Nam không
còn phải sử dụng loại phi cơ mà họ cho là không thích hợp, Hoa Kỳ
không còn lo ngại KQVN sẽ sử dụng B–57 để tấn công miền Bắc!
Sau đó, ba phi công của Biệt Đội B–57 đã được chọn để xuyên
huấn phản lực cơ siêu thanh F–5, gồm Đại úy Lê Xuân Lan, Đại úy
Nguyễn Hữu Hoài, và Trung úy Đàm Thượng Vũ.
3. PHẢN LỰC CƠ
F–5 FREEDOM FIGHTER
Northrop F–5 “Freedom Fighter” là loại phản lực cơ mà tên tuổi đã
gắn liền với chiến tranh Việt Nam, đồng thời đem lại uy tín (và
bạc tỷ) cho hãng chế tạo (Northrop) vì hai nguyên nhân sau:
(1) F–5 là loại phi cơ mới tinh được Không Quân Hoa Kỳ thử
nghiệm tại chiến trường Việt Nam.
(2) Các hoa tiêu của
KLVNCH qua những thành tích tạo được trên F–5, đã “quảng cáo” một
cách vô cùng hữu hiệu cho loại phi cơ phản lực đa năng “dành cho
nhà nghèo” này, khiến sau đó F–5 đã trở thành một trong những
loại chiến đấu cơ phản lực phổ biến nhất trong khối tự do, hãnh
diện mang cờ hiệu của gần 40 không lực trên khắp thế giới!
Thế nhưng lịch sử chế tạo chiếc F–5 lại là một chuỗi ngày dài
lận đận. Kể cả sau khi đã ra chào đời, F–5 vẫn còn bị nhiều người
“hiểu lầm” và đánh giá thấp. Nguyên do là vì xưa nay Hoa Kỳ
thường có khuynh hướng tiết kiệm tiền bạc bằng cách cải biến một
số kiểu phi cơ huấn luyện thành phi cơ võ trang để viện trợ cho
các quốc gia đồng minh, hoặc bán rẻ cho các không lực “nhà
nghèo”. Thí dụ điển hình là chiếc T–28 Trojan.
Nhưng nếu
chỉ vì do cùng một hãng chế tạo và có hình dáng giống hệt nhau mà
cho rằng chiến đấu cơ F–5 Freedom Fighter nguyên là chiếc phi cơ
huấn luyện T–38 Talon, như một số tác giả đã viết, thì hoàn toàn
không đúng, và không nhiều thì ít đã làm giảm giá trị của chiến
đấu cơ bán chạy nổi tiếng này. Một cách chính xác, chỉ có thể
viết: tiền thân của cả F–5 lẫn T–38 chính là chiếc N–156 của hãng
Northrop.
Khởi đầu vào năm 1954, một toán kỹ sư của hãng
Northrop do vị Phó tổng giám đốc dẫn đầu, sau một vòng thăm viếng
các quốc gia đồng minh ở Âu Châu và Á Châu, đã nhận ra một điều:
tới khi bắt buộc phải thay thế các phản lực F–84, F–86 cũ kỹ lỗi
thời, đại đa số các quốc gia này sẽ không đủ khả năng tài chánh
để mua các loại phi cơ đắt tiền trong “Century Series” hoặc các
loại tối tân hơn sẽ ra đời sau này, vì thế Hoa Kỳ cần phải chế
tạo một loại chiến đấu cơ siêu thanh đa năng với giá thành rẻ và
bảo trì ít tốn kém để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia nói trên.
[“Century
Series” gồm bảy loại “F siêu thanh”: F–100 Super Sabre, F–101
Voodoo, F–102 Delta Dagger, F–104 Starfighter, F–105
Thunderchief, F–106 Delta Dart, và F–110 sau này cải danh thành
F–4 Phantom II]
Cùng
thời gian, hãng General Electric đã thành công trong việc chế tạo
J–85, một loại động cơ phản lực nhỏ nhưng có sức đẩy rất mạnh để
sử dụng cho các loại hỏa tiễn, mà hãng Northrop cho là động cơ lý
tưởng để trang bị cho loại phi cơ mà họ dự định nghiên cứu chế
tạo. Với vốn tự túc của công ty, Northrop bắt đầu dự án N–156,
gồm hai kiểu N–156F (chiến đấu cơ) và N–156T (phi cơ huấn luyện).
Cũng trong năm 1955, Bộ Không Quân Hoa Kỳ công bố bản Yêu cầu
Khả năng Hoạt động Tổng quát (GOR: General Operational
Requirement) của thế hệ phản lực cơ huấn luyện siêu thanh, qua đó
hãng Northrop nhận thấy chiếc N–156T của mình hội đủ các yêu cầu
căn bản, liền tiến hành công việc bổ túc, hoàn chỉnh cho phù hợp
với GOR. Cuối năm 1955, kiểu N–156T được Bộ Không Quân chính thức
chấp thuận và đặt phiên hiệu T–38 “Talon”.
Năm 1959, chiếc
YT–38 thứ nhất (“Y” nghĩa là phi cơ thử nghiệm – prototype) được
bay thử và tới đầu năm 1961, chiếc T–38 đầu tiên đã được chuyển
giao cho Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện Không Quân (ATC: Air Training
Command). Từ đó, bắt đầu lịch sử của một kiểu phi cơ huấn luyện
an toàn, đa năng, tiết kiệm, và bền bỉ nhất trong lịch sử Không
Quân Hoa Kỳ; 20 năm sau, trong số 1187 chiếc T–38 được chế tạo,
vẫn còn hơn 1000 chiếc tiếp tục hoạt động; và 40 năm sau, những
đặc tính căn bản của T–38 vẫn không thay đổi.
Trước những đặc tính và khả năng của T–38
Talon, sau này Phi Đội biểu diễn “Thunderbirds” lừng danh của
Không Quân Hoa Kỳ đã thay thế các phi cơ F–4E Phantom II của Phi
Đội bằng T–38.
* * *
Sau khi kiểu N–156T được chọn
để trở thành phi cơ huấn luyện siêu thanh T–38, công việc nghiên
cứu chế tạo kiểu chiến đấu cơ N–156F tuy có bị đình trệ nhưng
chưa bao giờ bị dẹp bỏ, vì hãng Northrop vẫn tin tưởng sẽ có ngày
Hoa Kỳ cần tới một loại chiến đấu cơ tương tự để viện trợ hoặc
bán rẻ cho các đồng minh “nhà nghèo”.
Vì thế, vững tâm nhờ
hợp đồng cung cấp T–38 cho Không Quân, hãng Northrop quyết định
“đánh bạc” bằng cách tự bỏ vốn tiếp tục nghiên cứu chế tạo chiếc
N–156F. Những khác biệt chính giữa hai kiểu phi cơ là hai ống hút
không khí (engine intakes) của N–156F lớn hơn để tăng công suất
của động cơ, cánh mỏng hơn để giảm sức cản, thêm cánh tăng nâng ở
phía trước cánh (leading–edge wing flaps) để gia tăng sức nâng
khi cất cánh và gia tăng trọng tải của phi cơ, đồng thời một dù
thắng cũng được trang bị ở phía sau đuôi.
Năm 1958, những
cố gắng của hãng Northrop tưởng đã được đền bù xứng đáng khi Bộ
Quốc Phòng Hoa Kỳ nhận ra rằng một loại phản lực siêu thanh gọn
nhẹ như N–156F sẽ là phi cơ lý tưởng để cung cấp cho các quốc gia
đồng minh trong Chương trình Viện trợ Quân sự (MAP: Military
Assistance Program). Trong một văn thư gửi cho hãng Northrop, Bộ
Quốc Phòng đã chấp thuận trợ cấp ngân khoản 50 triệu Mỹ kim cho
hãng này chế tạo 3 chiếc N–156F để bay thử tại căn cứ không quân
Edwards, California.
Tháng 5/1959, chiếc N–156F đầu tiên –
được đặt một cái tên mang ý nghĩa rất “quốc tế” là “Freedom
Fighter” – đã được trình diện quan khách, và bay thử một tháng
sau đó. Ít lâu sau, chiếc thứ hai cũng được hoàn tất và bay thử.
Tuy nhiên, bước sang năm 1960, khi chiếc thứ ba còn đang nằm
trong xưởng ráp thì chính phủ Hoa Kỳ đã dẹp bỏ chương trình viện
trợ MAP, chương trình đặt mua “Freedom Fighter” vì thế cũng bị
dẹp bỏ theo.
Hai năm sau (1962), tình hình quốc tế thay
đổi, cuộc chiến tranh lạnh trở nên cực kỳ gay gắt với sự đối đầu
trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên Xô; quyết tâm “bảo vệ hòa bình thế
giới bằng mọi giá” của chính phủ Kennedy đã giúp hồi sinh chương
trình chế tạo “Chiến Sĩ Tự Do” (Freedom Fighter).
Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chính thức loan báo việc chọn
chiếc N–156F để cung cấp cho các đồng minh trong chương trình MAP
(đã được tái tục), và hãng Northrop được yêu cầu chế tạo hai
kiểu: 1 chỗ ngồi để tác chiến và 2 chỗ ngồi để vừa tác chiến vừa
huấn luyện. Kết quả, chiếc F–5A và chiếc F–5B ra đời.
Thoạt đầu, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chỉ đặt mua 71 chiếc F–5A và 15
chiếc F–5B, tuy nhiên hãng Northrop một lần nữa đã tiên liệu được
tương lai rực rỡ của loại phi cơ này nên đã chuẩn bị sản xuất với
số lượng lớn, đồng thời nhắm vào cả những khách hàng không phải
đối tượng viện trợ (MAP) của Hoa Kỳ, chẳng hạn Gia–nã–đại,
Hòa–lan, và Tây–ban–nha.
Về phía Không Quân Hoa Kỳ, những
chiếc F–5 đầu tiên đã được trao cho Phi Đoàn Huấn Luyện Phi Hành
Đoàn Tác Chiến 4441 (4441st Combat Crew Training Squadron) tại
căn cứ không quân Williams, Arizona, vào năm 1964. Đơn vị này có
nhiệm vụ huấn luyện phi công cho những quốc gia sẽ nhận lãnh F–5
trong chương trình MAP, đồng thời còn huấn luyện cả một số phi
công Hoa Kỳ thuộc các Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự (MAAG) với mục đích
hướng dẫn, giúp đỡ các quốc gia đồng minh trong việc thích ứng
loại phi cơ mới với các điều kiện và môi trường tại mỗi địa
phương.
Đợt F–5 thứ hai được trao cho Phi Đoàn 4503 Khu
Trục Chiến Thuật (4503rd TFS: Tactical Fighter Squadron) gồm toàn
những phi công dày dạn kinh nghiệm, tình nguyện tới căn cứ không
quân Williams để bay thử và lượng giá chiếc F–5. Sau đó, để thử
nghiệm F–5 trên chiến trường thực tế, Không Quân Hoa Kỳ đã tiến
hành “Chiến Dịch Cọp Con”, tức Operation Skoshi Tiger (“Skoshi”,
tiếng Nhật có nghĩa là “nhỏ”) đưa một số F–5 sang tham chiến tại
Việt Nam để lượng giá. Đơn vị F–5 đặc biệt này mang danh xưng Phi
Đoàn 10 Khu Trục Cảm Tử (10th Fighter Commando Squadron).
Ngày 20/10/1965, 12 chiếc F–5 đầu
tiên rời căn cứ không quân Williams, sau hai chặng nghỉ đã đáp
xuống Biên Hòa vào trưa ngày 23/10, và 5 tiếng đồng hồ sau đó đã
xuất trận lần đầu tiên.
Nhiệm vụ của Phi Đoàn 10 Cảm Tử là
thử nghiệm khả năng của F–5 trong tất cả mọi nhiệm vụ dự trù cho
loại phi cơ này: oanh kích, yểm trợ tiếp cận, hộ tống các phi cơ
trinh sát trên không phận Lào và Bắc Việt. Vì bán kính hoạt động
hạn chế của F–5, những phi vụ bay sang Lào và ra miền Bắc đều
xuất phát từ Đà Nẵng và được tiếp tế nhiên liệu trên không. Ngoài
ra, những chiếc F–5 này còn tham gia các cuộc không tập Bắc Việt
với nhiệm vụ bảo vệ các phi cơ làm nhiệm vụ oanh kích (loại phi
vụ tuần tiễu, khám phá, và ngăn chận phi cơ địch được gọi là MiG
CAP; CAP: Combat Air Patrol). Rất tiếc, vào thời gian đó những
chiếc MiG của Bắc Việt chưa dám lên nghênh chiến cho nên F–5 đã
không có cơ hội để “đọ sức”.
Sau bốn tháng tham chiến, Phi Đoàn 10 đã
chứng minh F–5 đúng là loại phi cơ lý tưởng cho các không lực nhỏ
và nghèo. So với tất cả các loại chiến đấu cơ phản lực của Hoa Kỳ
đang được sử dụng tại chiến trường Việt Nam vào lúc đó, F–5 tuy
mang ít bom đạn hơn nhưng lại đạt được những thành tích ở chiến
trường không thua gì F–100, F–4.
(Chú thích 6)
Nhưng quan
trọng hơn cả phải là ưu điểm ít bị trục trặc nhất, có tỷ lệ giờ
bảo trì/giờ bay thấp nhất, và công việc bảo trì cũng đơn giản
nhất (các chuyên viên kỹ thuật của Phi Đoàn đã tạo kỷ lục thay
động cơ trong thời gian chỉ mất 1 giờ 55 phút trong điều kiện “dã
chiến”).
Bên cạnh đó, các phi công còn đánh giá F–5 là
loại phản lực rất “dễ trị”, với các bộ phận điều khiển có độ
chính xác rất cao.
Trong thời gian bốn tháng nói trên, Phi
Đoàn 10 đã thực hiện 3500 phi xuất với hơn 4000 giờ bay tác
chiến, và chỉ bị rớt hai chiếc vì hỏa lực phòng không của địch
(có tài liệu ghi chỉ bị rớt một chiếc). Tất cả những chiếc còn
lại về sau được chuyển giao cho KQVN.
Sau kết
quả thử nghiệm, F–5 Freedom Fighter đã được Bộ Tư Lệnh Không Quân
Chiến Thuật Hoa Kỳ (TAC: Tactical Air Command) đặt mua thêm để
trang bị cho các Phi Đoàn tại nội địa cũng như ở hải ngoại. Sau
này, F–5 còn trở thành chiến đấu cơ căn bản của gần 40 không lực
trên thế giới, trong đó có những quốc gia đã ký hợp đồng với hãng
Northrop để ráp nhượng quyền tại địa phương với một số cải biến,
chẳng hạn các kiểu CF–5 của Gia–nã–đại, NF–5 của Hòa–lan, SF–5
của Tây–ban–nha...
Về sau, bước sang thập niên 1970, sự
thành công vượt bực của F–5A đã được nối tiếp qua thế thệ thứ hai
là chiếc F–5E Tiger II (gọi là “Tiger II” vì trước kia đã có
chiếc F–11 “Tiger” của Hải Quân Hoa Kỳ).
Trở lại với năm
1966, trong lúc Chiến Dịch Skoshi Tiger đang tiến hành, vào tháng
6 năm đó, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã chấp thuận việc thay thế trang
bị cho sáu Phi Đoàn khu trục A–1 Skyraider hiện hữu của KQVN bằng
phi cơ phản lực, gồm hai Phi Đoàn F–5 và bốn Phi Đoàn A–37. Việc
trang bị F–5 được tiến hành trước vì lúc đó loại phản lực này đã
có sẵn tại Việt Nam.
– Các Phi Đoàn F–5:
* Phi Đoàn
522 “Thần Ưng”
Vào giữa năm 1966, 33 hoa tiêu khu trục
trong KLVNCH đã được tuyển chọn để gửi sang Hoa Kỳ xuyên huấn
trên phản lực cơ siêu thanh F–5.
Ưu tiên một được dành cho
các hoa tiêu của Biệt Đội 615 oanh tạc (B–57) mới bị giải thể,
và ba người đã được tuyển chọn:
– Đại úy Lê Xuân Lan
–
Đại úy Nguyễn Hữu Hoài
– Trung úy Đàm Thượng Vũ.
Kế đến
là những hoa tiêu được đề nghị và tuyển chọn từ các Phi Đoàn khu
trục cánh quạt A–1, mỗi Phi Đoàn một Phi tuần trưởng và ba Phi
Tuần viên.
Phi Đoàn 514 (Phượng Hoàng):
– Thiếu úy Lê
Như Hoàn
– Thiếu úy Thăng Quốc Phan
– Thiếu úy Nguyễn Trí
Kiên
– Thiếu úy Trịnh Hữu Trí.
Phi Đoàn 516 (Phi Hổ):
– Trung úy Phạm Quang Điềm
– Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi
–
Thiếu úy Vũ Viết Quý
– Thiếu úy Mạc Đức Ninh.
Phi Đoàn
518 (Phi Long):
– Thiếu úy Phạm Đình Anh
– Thiếu úy Nguyễn
Quang Vinh
– Thiếu úy Nguyễn Xuân Dũng
– Thiếu úy Võ Anh
Tài.
Phi Đoàn 520 (Thần báo):
– Thiếu úy Trịnh Bửu
Quang
– Thiếu úy Nguyễn Đạm Thuyên
– Thiếu úy Trương Công
Chánh
– Thiếu úy Nguyễn Thành Tri.
Phi Đoàn 522:
–
Thiếu úy Lê My
– Thiếu úy Nguyễn Quốc Trị
– Thiếu úy Lê Hải
– Thiếu úy Vũ Ngô Dũng.
Phi Đoàn 524 (Thiên Lôi):
–
Thiếu úy Nguyễn Văn Tường
– Thiếu úy Nguyễn Anh Tăng
–
Thiếu úy Nguyễn Văn Cổn
– Thiếu úy Đào Văn Lập.
Ngoài
ra còn có một số phi công được Bộ Tư lệnh KQ chọn trực tiếp theo
đề nghị của Thiếu tá Võ Văn Sĩ, trưởng toán đi xuyên huấn, gồm:
– Đại úy Nguyễn Quốc Phiên
– Trung úy Lưu Tùng Cương
–
Trung úy Nguyễn Thành Dũng
– Trung úy Nguyễn Văn Vui.
Cùng với Đại úy Nguyễn Quốc Hưng, vừa mãn nhiệm Sĩ quan liên lạc
Không Quân tại Căn cứ Lackland, người sau này sẽ giữ chức vụ Phi
đoàn trưởng đầu tiên của Phi Đoàn.
Vì tất cả đều là
những phi công khu trục dày dạn kinh nghiệm chiến trường, việc
xuyên huấn không gặp trở ngại nào đáng kể. Mỗi khoá học kéo dài
từ ba tháng rưỡi tới bốn tháng, sau 88 giờ học bay phản lực siêu
thanh trên phi cơ huấn luyện T–38 Talon, các sĩ quan khoá sinh
được thực tập trên chiến đấu cơ F–5A. Ngày 11 tháng 4 năm 1967,
các hoa tiêu tốt nghiệp khoá xuyên huấn đầu tiên trở về Việt
Nam.
Trong số 33 phi công của khoá, chỉ có hai người
không tốt nghiệp (vì lý do sức khỏe), và trong số tốt nghiệp, có
bốn hoa tiêu đoạt các giải xuất sắc, gồm Trung úy Nguyễn Đạm
Thuyên với giải tác xạ chính xác (Top Gun trophy), Trung úy
Nguyễn Thành Dũng, Thiếu úy Nguyễn Văn Ghi, và Trung úy Trương
Công Chánh với các giải tốt nghiệp ưu hạng (Academic trophies).
Trước đó, vào tháng 9/1966, một số chuyên viên kỹ thuật đã được
gửi sang CCKQ Clark ở Phi–luật–tân để học bảo trì F–5. Trở về
nước, các hoa tiêu và nhân viên kỹ thuật VN đã tới làm việc tại
Phi Đoàn 10 Cảm Tử của Hoa Kỳ để chuẩn bị cho công việc chuyển
giao. Trong thời gian này, mặc dù chưa chính thức tiếp nhận phi
cơ, các phi công VN cũng đã thực hiện một số phi vụ tác chiến
trên F–5.
Về tổ chức nhân sự của Phi Đoàn phản lực F–5 đầu
tiên của KLVNCH, trong số 31 phi công đầu tiên tốt nghiệp F–5,
Thiếu tá Võ Văn Sĩ trở lại chức vụ cũ tại Không Đoàn 23 Chiến
Thuật, Đại úy Nguyễn Hữu Hoài và Trung úy Lưu Tùng Cương trở về
Liên Đoàn 23 Tác Chiến, Đại úy Lê Xuân Lan về Bộ Tư Lệnh KQ,
còn lại 27 phi công về Phi Đoàn 522.
Ngày 1/6/1967, trong một buổi lễ trọng thể tại CCKQ Biên Hòa với sự hiện diện của Đại sứ Hoa Kỳ, 20 chiếc F–5 (có tài liệu ghi 19 chiếc, gồm 17 F–5A và hai F–5B) được Phi Đoàn 10 Cảm Tử của Hoa Kỳ chính thức chuyển giao cho phía VN, đánh dấu ngày thành lập Phi Đoàn 522 “Thần Ưng”, trực thuộc Liên Đoàn 23 Tác Chiến, Không Đoàn 23 Chiến Thuật (Biên Hòa).
Thế là đúng 11 năm sau ngày những “quan tài bay” F–8F Bearcat
từ Vũng Tàu bay về đáp xuống Biên Hòa, đánh dấu ngày thành lập
Phi Đoàn 1 Khu Trục (1/6/1956), KQVN đã bước sang kỷ nguyên phản
lực siêu thanh.
Ban chỉ huy đầu tiên của Phi Đoàn 522 Thần
Ưng gồm:
– Phi đoàn trưởng: Đại úy Nguyễn Quốc Hưng
(được thăng cấp thiếu tá vào ngày thành lập Phi Đoàn)
–
Phi đoàn phó: Đại úy Nguyễn Quốc Phiên
– Trưởng phòng Hành
Quân: Đại úy Đàm Thượng Vũ
– Sĩ quan Phụ tá Hành Quân: Trung
úy Phạm Quang Điềm
– Phi đội trưởng Phi Đội 1: Trung úy
Nguyễn Thành Dũng
– Phi đội trưởng Phi Đội 2 kiêm SQ An Phi:
Trung úy Phạm Đình Anh
– Phi đội trưởng Phi Đội 3 kiêm SQ
Huấn Luyện: Trung úy Nguyễn Văn Tường
– Phi đội trưởng Phi
Đội 4: Trung úy Trịnh Bửu Quang.
Và các phi công:
– Trương Công Chánh
– Trịnh Thành Châu
– Nguyễn Văn Cổn
– Nguyễn Xuân Dũng
– Vũ Ngô Dũng
– Nguyễn Văn Ghi
– Lê
Hải
– Nguyễn Trí Kiên
– Đào Văn Lập
– Lê My
– Mạc Đức
Ninh
– Thăng Quốc Phan
– Vũ Viết Quý
– Võ Anh Tài
–
Nguyễn Anh Tăng
– Nguyễn Đạm Thuyên
– Nguyễn Thành Tri
–
Nguyễn Quốc Trị
– Trịnh Hữu Trí
– Nguyễn Quang Vinh.
[Các
đời Phi đoàn trưởng kế tiếp của PĐ–522 lần lượt là: Thiếu tá
Đàm Thượng Vũ (1970), Thiếu tá Nguyễn Thành Dũng (1972), và Thiếu
tá Nguyễn Đình Lộc, 1973]
Ngay sau đó, các phi cơ
F–5 đã được phân bố tới một số căn cứ có khả năng tiếp nhận phản
lực cơ với hai mục đích: yểm trợ chiến trường và... biểu dương
lực lượng!
F–5 rất được phi công VN ưa thích vì khả năng
thao tác và dễ điều khiển. Có thể nói, sau khi được trao cho các
phi công của PĐ–522, chiếc F–5 mới chứng tỏ được sự hữu hiệu và
thi thố mọi khả năng của nó tới mức tối đa.
Dù rất ít kinh nghiệm bay phản lực, các
phi công VN có thể tấn công mục tiêu với một độ chính xác gần như
tuyệt đối nhờ hệ thống điều khiển tối tân nhưng đơn giản. Đối với
các chuyên viên kỹ thuật VN, F–5 cũng được xem là loại phi cơ
tương đối dễ bảo trì nhất.
Nói chung, về cả mặt tuyên
truyền lẫn chiến đấu, việc được trang bị chiến đấu cơ phản lực
siêu thanh F–5 đã đưa KLVNCH bước vào một kỷ nguyên mới. PĐ–522
Thần Ưng trở thành biểu tượng sáng giá nhất của quân chủng.
Trong tháng đầu tiên chính thức hoạt động (tháng 6/1967), Phi
Đoàn đã thực hiện 388 phi xuất với 443 giờ bay; sang tháng 7, lên
436 phi xuất với 477 giờ bay. Tới tháng 12, số phi xuất đã lên
tới 527 với 556 giờ bay. So với tiêu chuẩn của Không Lực Hoa Kỳ
thì con số nói trên được mô tả là vượt mức quá xa! Sau này, các
hoa tiêu F–5 của KQVN cũng là những phi công đầu tiên trên thế
giới được hãng Northrop trao bằng tưởng lệ “1000 giờ bay trên
F–5”.
Rất tiếc, việc chuyển giao phi cơ cho Phi Đoàn F–5
thứ hai đã không được tiến hành ngay sau đó mà phải đợi tới 5 năm
sau (1972), khi Hoa Kỳ đã rút khỏi VN và trao toàn bộ trách nhiệm
yểm trợ chiến trường cũng như bảo vệ không phận lại cho KQVN.
Nguyên nhân của sự chậm trễ này, theo phía Hoa Kỳ, là cần
phải cải tiến hệ thống vũ khí tấn công các mục tiêu diện địa.
Sau này người ta được biết những chiếc F–5 đầu tiên được đưa
sang thử nghiệm tại chiến trường VN (Operation Skoshi Tiger), đã
không thực sự “hoàn hảo” như trong bản lượng giá của các phi công
Phi Đoàn 10 Cảm Tử, mà các “Cọp Con” cũng có ít nhất hai khuyết
điểm sau đây:
(1) Trong một số trường hợp, bom dưới cánh
khi thả đã bị kẹt lại, giống như trường hợp chiếc F–4 Phantom II.
(2) Khi tác xạ bằng đại bác 20ly ở hai bên mũi phi cơ, khói
của thuốc súng tỏa ra đã che khuất tầm nhìn của phi công, một
khuyết điểm tuy không đáng ngại đối với các oanh tạc cơ B–26 chậm
chạp của thời Đệ Nhị Thế Chiến nhưng với một chiến đấu cơ siêu
thanh như F–5 thì rất nguy hiểm, nhất là khi đang chúi xuống đất.
(Chú thích 7)
* * *
KLVNCH không chỉ là không lực
đầu tiên trên thế giới (sau Hoa Kỳ) sử dụng phản lực cơ F–5 trên
chiến trường mà còn là không lực có số lượng F–5 nhiều nhất trong
số gần 40 không lực ngoại quốc sử dụng loại phản lực này.
Những không lực kể trên ngoài các quốc gia thành viên Minh Ước
Bắc Đại Tây Dương (NATO) còn có:
– Gia–nã–đại ở Bắc Mỹ;
– Hy–lạp, Hòa–lan, Thụy–sĩ... ở Âu Châu;
– Iran, Ả–rập Saudi,
Jordan... ở Trung Đông;
– Ba–tây, Chí–lợi... ở Nam Mỹ;
–
Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Tân–gia–ba, Nam Dương,
Phi–luật–tân... ở Á châu;
– Ethiopia, Kenya... ở Phi châu.
Riêng tại Hoa Kỳ, F–5 được trang bị cho các Phi Đoàn của Bộ
Tư Lệnh Không Quân Chiến Thuật (TAC). Về sau, khi F–5 đã được
thay thế bởi F–16 Fighting Falcon, Không Quân Chiến Thuật vẫn giữ
lại trên 100 chiếc F–5E Tiger II trong bốn Phi Đoàn huấn luyện vũ
khí (Fighter Weapons Squadron) để đóng vai “phi cơ địch” trong
các chương trình huấn luyện về không chiến. Trường Huấn Luyện Vũ
Khí của Hải Quân Hoa Kỳ (Top Gun) cũng sử dụng F–5E và F–5F (2
ghế ngồi) với mục đích tương tự.
* * *
Trở lại với
chương trình hiện đại hóa KLVNCH, phải đợi hơn 5 năm sau ngày Phi
Đoàn đầu tiên trang bị phản lực cơ siêu thanh F–5 được chính thức
thành lập (PĐ–522), mãi tới cuối năm 1972, phía VN mới có thêm,
không phải một mà tới năm Phi Đoàn F–5; việc tăng cường ồ ạt này
nằm trong dự án Tăng Cường (Enhance) của chương trình “Việt Nam
hóa”.
Trước đó, phía VN đã căn cứ vào những thỏa thuận
giữa đôi bên tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ–Việt ở Midway (giữa TT
Nixon và TT Nguyễn Văn Thiệu) để yêu cầu Hoa Kỳ chuyển giao ba
Phi Đoàn phản lực F–4 Phantom II đóng tại Đà Nẵng, tuy nhiên Hoa
Kỳ đã từ chối và cho biết trước khi Không Lực Hoa Kỳ rút đi hết
để trao lại toàn bộ trách nhiệm bảo vệ không phận cho phía VN,
KQVN sẽ được trang bị F–5E Tiger II, là loại có khả năng không
chiến tương đương với MiG–21 – chiến đấu cơ tối tân nhất của
Không Quân Bắc Việt lúc bấy giờ.
(Chú thích 8)
Về hình
dáng, F–5E giống F–5A tới 95% (chỉ dài hơn 1.5m, sải cánh rộng
hơn 7cm, đuôi cao hơn 10cm), kể cả khi đậu dưới đất cũng chỉ có
các phi công và nhân viên bảo trì mới có thể phân biệt.
Về
trang bị căn bản và khả năng, F–5E cũng không mấy khác F–5A;
lượng bom đạn trang bị chỉ hơn 800lbs.
Nhưng đó chỉ là “bề
ngoài”, còn “bên trong” đã có rất nhiều cải tiến với mục đích
biến F–5 thành một chiến đấu cơ có khả năng không chiến khả dĩ
đương cự được với MiG–21.
Trước hết, F–5E được trang bị
hai động cơ mạnh hơn 25% để đạt được thăng tốc 8.750m/phút, và
tốc độ tối đa Mach 1.6 (so với Mach 1.4 của F–5A).
Kế đến
là hệ thống ra–đa tối tân Emerson Electric APQ–153 (loại trang bị
trên F–4C Phantom II), khả năng thả bom theo hệ thống hướng dẫn
BOBS, trang bị hỏa tiễn không–đối–không AIM–9 Sidewinder đời mới
nhất và các trang bị điện tử để hoạt trong mọi điều kiện thời
tiết, bất kể ngày đêm.
Ngoài ra, các cánh tăng nâng
(flaps) cũng được cải tiến để gia tăng khả năng thao tác
(manoeuvre) trong không chiến. Theo các chuyên gia về không chiến
của Hoa Kỳ, F–5E chắc chắn ăn đứt MiG–17 và ngang ngửa với
MiG–21. Từ khi KQVN nhận được F–5E, tại Biên Hòa và Đà Nẵng luôn
luôn có hai chiếc ứng trực ở đầu phi đạo, sẵn sàng cất cánh để
nghênh cản phi cơ địch.
Tuy nhiên, vì vào năm 1972 kiểu
F–5E còn đang được thử nghiệm, Hoa Kỳ đã tạm thời chuyển giao
F–5A cho VN, khi nào có F–5E thì sẽ “một đổi một”. Vì không có đủ
số F–5A (và B), Hoa Kỳ đã phải mượn tạm một số của các không lực
Nam Hàn, Đài Loan, và Iran (lúc đó còn là đồng minh của Hoa Kỳ)
để kịp chuyển giao cho KQVN trước thời hạn ngưng viện trợ vũ khí,
chiến cụ (ngày 10/11/1972) theo Hiệp Định Paris.
Trong hai
dự án Tăng Cường (Enhance) và Tăng Cường Thêm (Enhance Plus),
tổng cộng 118 chiếc F–5 sau khi tháo gỡ cánh đã được các vận tải
cơ khổng lồ C–5A Galaxy chở tới Biên Hòa, trang bị cho năm Phi
Đoàn tân lập, gồm có:
Bốn Phi Đoàn đặt căn cứ tại Biên Hòa
(nơi đã có sẵn Phi Đoàn 522 Thần Ưng), gồm:
– PĐ–536 Thiên
Ưng (Phi đoàn trưởng đầu tiên: Thiếu tá Đàm Thượng Vũ)
–
PĐ–540 Hắc Ưng (Thiếu tá Nguyễn Tiến Thành)
–
PĐ–542 Kim
Ưng (Thiếu tá Trịnh Bửu Quang)
– PĐ–544 Hải Ưng (Thiếu tá
Nguyễn Văn Tường).
– Một Phi Đoàn đặt căn cứ tại Đà Nẵng
để nghênh cản trong trường hợp các MiG của CSBV xâm nhập từ hướng
bắc: Phi Đoàn 538–Hồng Tiễn, Phi đoàn trưởng: Thiếu tá Phạm
Đình Anh.
Trừ Phi Đoàn 538 trực thuộc Không Đoàn 61 Chiến
Thuật, SĐ1KQ, tất cả các Phi Đoàn F–5 còn lại đều trực thuộc
Không Đoàn 63 Chiến Thuật, SĐ3KQ, cho nên Không Đoàn này thường
được gọi là “Không Đoàn F–5”. Không đoàn trưởng: Đại tá Võ Văn
Sĩ – nguyên trưởng toán đi xuyên huấn F–5 trước kia.
Vào
những tháng cuối năm 1973, đầu 1974, các phi cơ F–5E Tiger II
được chuyển giao (một đổi một) cho KQVN, các F–5A “mượn tạm” của
Nam Hàn, Đài Loan, và Iran được hoàn trả cho chủ cũ.
Tính
tới tháng 3/1974, sau khi nhận tám chiếc F–5E cuối cùng, KLVNCH
có tổng cộng 153 phản lực cơ F–5, đưa tới tình trạng dở khóc dở
cười là không đủ hoa tiêu để bay, cho nên có 36 chiếc đã không
bao giờ được đem ra sử dụng!
Về số lượng F–5E chuyển giao
cho KQVN, không có bất cứ tài liệu chính thức nào ghi lại. Chỉ
biết theo dự án Tăng Cường Thêm, KQVN sẽ có ba Phi Đoàn trang bị
F–5E; và theo báo cáo chính thức của Hoa Kỳ, trong số phi cơ bay
sang Thái–lan vào những ngày cuối tháng 4/1975, có 22 F–5E.
(Chú
thích 9)
4. PHẢN LỰC CƠ A–37 DRAGONFLY
Cessna A–37 “Dragonfly” là loại phi cơ phản lực tấn công diện
địa (ground attack) hạng nhẹ, hai chỗ ngồi phía trước, để sử dụng
trong chiến tranh chống phiến loạn (COIN: counter–insurgency),
được biến cải từ phi cơ huấn luyện phản lực căn bản T–37C “Tweety
Bird” của Không Quân Hoa Kỳ.
(Chú thích 10)
A–37 được
trang bị hai động cơ mạnh hơn gấp hai lần động cơ của T–37, độ
cứng của hai cánh được tăng cường gấp bội, với tám rack bom dưới
cánh, hai bình xăng phụ ở đầu cánh, một minigun 7.62ly sáu nòng ở
mũi phi cơ. Khả năng mang bom đạn: 5680lbs (2576kg).
Vào
tháng 5/1967, kiểu A–37A được bay thử tại căn cứ không quân
England, Louisiana, trước khi trao cho Phi Đoàn 604 Cảm Tử (604th
Air Commando Squadron) thử nghiệm tại chiến trường Việt Nam trong
thời gian 4 tháng.
Cuối tháng 7/1967, chín chiếc A–37A đầu
tiên (đã tháo gỡ cánh) được các vận tải cơ C–141 Starlifter chở
tới Biên Hòa, sau đó lắp ráp lại. Trước sau, Phi Đoàn 604 đã nhận
được tổng cộng 25 chiếc A–37A, đặt căn cứ tại Biên Hòa và Pleiku.
Ngày 15/8/1967, các phi cơ A–37A xuất trận lần đầu tiên. Tính tới
cuối tháng 9/1967, các phi công của Phi Đoàn 604 đã thực hiện
được 1673 phi xuất.
Mặc dù khả năng bị hạn chế về một số
mặt (chẳng hạn tầm hoạt động), và những bất tiện, trở ngại không
thể tránh khỏi khi được cải biến từ loại phi cơ huấn luyện với
hai chỗ ngồi ngang ở phía trước (nhưng nay chỉ có một hoa tiêu
điều khiển), phản lực cơ A–37A đã tỏ ra rất hữu hiệu trong chiến
tranh chống du kích. Với vận tốc nhanh gấp đôi A–1 (khoảng
800km/giờ), khả năng chúi thẳng từ cao độ 2000m (6000 feet) xuống
để thả bom rồi vọt lên cao, khả năng cất cánh từ những phi đạo
ngắn, thô sơ... A–37 quả là loại phi cơ lý tưởng để thay thế A–1
trong nhiệm vụ yểm trợ bộ binh trên chiến trường.
Vào thời gian này, việc
chế tạo hàng loạt A–37 đã bắt đầu, và qua rút ưu khuyết điểm của
dự án Combat Dragon, đã có những cải tiến cấp thời để phi cơ thêm
hoàn hảo. Những chiếc A–37 xuất xưởng sau khi đã có sự cải tiến
này được gọi là A–37B, có khả năng tiếp tế nhiên liệu trên không,
và với hai động cơ mạnh hơn có thể tăng lên đến 6G, thay vì 5G
như kiểu A–37A.
Vào thời gian dự án Combat Dragon đang
tiến hành, 103 phi công Việt Nam thuộc ba Phi Đoàn khu trục
516–Phi Hổ, 520–Thần Báo, và 524–Thiên Lôi đã được chỉ định tiếp
nhận phản lực cơ A–37 để thay thế A–1.
Ngày 1/1/1968, Phi
Đoàn đầu tiên trong số này là PĐ–524 ở Nha Trang được lệnh ngưng
hoạt động để xuyên huấn trên A–37. Một tháng sau, toán đầu tiên
gồm 18 phi công của Phi Đoàn được đưa sang căn cứ không quân
England, Louisiana, học lái T–37.
Tới tháng 5/1968, một toán huấn luyện lưu động của Hoa Kỳ đã
tới Nha Trang để huấn luyện các chuyên viên bảo trì A–37. Trong
thời gian chuyển tiếp này, 14 chiếc A–1 của PĐ–524 đã được phân
phối cho các Phi Đoàn khác để bổ sung cho số phi cơ đã bị thiệt
hại: ba chiếc cho PĐ–516 ngoài Đà Nẵng, 10 chiếc cho PĐ–518 tại
Biên Hòa và một chiếc cho PĐ–520 ở Bình Thủy.
Tuy nhiên,
công việc trang bị A–37 cho PĐ–524 đã bị đình trệ nhiều tháng
trời do ảnh hưởng của các cuộc tấn công của Việt cộng trong Tết
Mậu Thân (1968). Vì thế mãi tới tháng 11/1968, KQVN mới nhận được
những phi cơ đầu tiên, nguyên là những chiếc T–37 của Bộ Chỉ Huy
Huấn Luyện Không Quân (ATC) Hoa Kỳ được cải biến thành A–37A.
Tháng 3/1969, các phi cơ A–37 của PĐ–524 bắt đầu xuất trận.
Ngày 19/4/1969, trong một buổi lễ long trọng dưới sự chủ tọa
của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sự hiện diện của Phó Tổng
thống Nguyễn Cao Kỳ cùng nhiều viên chức cao cấp trong chính phủ,
lễ bàn giao phi cơ và cũng là lễ xuất quân chính thức của PĐ–524
dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Đặng Duy Lạc đã được tổ chức tại
CCKQ Nha Trang.
Về phần PĐ–520, vào khoảng cuối tháng
6/1968, nhóm phi công đầu tiên cũng được đưa sang căn cứ không
quân England, Louisiana, để xuyên huấn A–37, và tốt nghiệp vào
tháng 11 cùng năm. Tháng 3/1969, Phi Đoàn nhận được 5 chiếc A–37
đầu tiên từ Nha Trang.
PĐ–516, Phi Đoàn A–37 thứ ba, bắt đầu được xuyên huấn
vào tháng 9/1968 và mãn khoá vào tháng 3/1969.
Tới tháng
5/1969, KQVN tiếp nhận thêm 54 chiếc A–37B để lần lượt trang bị
cho ba Phi Đoàn nói trên.
Chỉ một thời gian rất ngắn sau
khi bay A–37, các phi công khu trục VN đã nhận ra đây là một loại
phi cơ tuyệt vời, lại vừa vặn với kích thước của người Á đông. Dù
chưa có nhiều kinh nghiệm bay trên A–37, các phi công đã thực
hiện những phi vụ oanh tạc với mức chính xác ngoài dự tưởng (các
phi công A–37 kinh nghiệm chỉ cần thả bom trật mục tiêu 20 mét là
đủ “tự bất mãn”!)
Phấn khởi trước sự hữu hiệu của loại
phản lực võ trang được mệnh danh là “nhỏ nhất thế giới”, các giới
chức KQVN và KQHK đã nỗ lực tiến hành chương trình thay thế A–1
bằng A–37.
Sau khi việc thay thế A–1 cho ba Phi Đoàn 524,
520, 516 hoàn tất, trong thời gian từ cuối năm 1969 tới cuối năm
1970, đã có thêm 2 Phi Đoàn trang bị A–37 được thành lập là các
Phi Đoàn 526 Quỷ Vương (Satan) và 528 Hổ Cáp.
Giữa năm
1971, nằm trong chương trình Việt Nam hóa, việc đào tạo các phi
công mới đã được khởi sự tại căn cứ không quân Sheppard ở Wichita
Falls, Texas. Sau 30 tiếng “vỡ lòng” trên phi cơ cánh quạt T–41
Mescalero, các khoá sinh được chuyển sang học lái T–37.
Tới cuối năm 1972, đã có thêm năm Phi Đoàn A–37 được thành lập
gồm các Phi Đoàn 532–Gấu Đen, 534–Kim Ngưu, 546–Thiên Sứ, 548–Ó
Đen, và 550–Nhện Đen.
Về số lượng phi cơ, tổng cộng trước
sau KQVN đã nhận được 248 phản lực cơ A–37 (không kể 24 chiếc
T–37 dùng vào việc huấn luyện của Phi Đoàn 920 thuộc TTHLKQ).
[Trong tổng số phi cơ A–37B được hãng Cessna chế tạo, KLVNCH
đã chiếm tới 40%. Số còn lại bán cho các “không lực nhà nghèo” ở
châu Mỹ La–tinh, gồm có Peru, Chí–lợi, Columbia, Ecuador,
Uraguay, Honduras, Guatamala, El Salvador, và sử dụng trong Vệ
Binh Quốc Gia (Air National Guard) và các đơn vị Không Quân Trừ
Bị tại nội địa Hoa Kỳ]
Theo sơ đồ tổ chức cuối cùng của
KQVN (tháng 7/1974), 10 Phi Đoàn phản lực A–37 được phân bổ như
sau:
SĐ1KQ (Đà Nẵng):
– PĐ–516 Phi Hổ
(PĐT đầu tiên: Thiếu tá Nguyễn Văn Vượng)
– PĐ–528 Hổ Cáp
(Thiếu tá Cao Văn Khuyến)
– PĐ–550 Nhện Đen (Thiếu tá Lê Trai)
SĐ2KQ (Phan Rang):
– PĐ–524 Thiên Lôi (Thiếu tá Đặng
Duy Lạc)
– PĐ–534 Kim Ngưu (Thiếu tá Nguyễn Văn Thi)
–
PĐ–548 Ó Đen (Thiếu tá Trần Mạnh Khôi)
SĐ4KQ (Bình Thủy):
– PĐ–520 Thần Báo (Thiếu tá Phạm Quang Điềm)
– PĐ–526 Quỷ
Vương (Thiếu tá Huỳnh Hữu Hải)
– PĐ–546 Thiên Sứ (Thiếu tá Lê
Mộng Hoan)
SĐ6KQ (Phù Cát):
– PĐ–532 Gấu Đen (PĐT
cuối cùng: Thiếu tá Lê Tuấn Đạt)
5. KHẢ NĂNG &
THÀNH TÍCH
* Phản lực cơ F–5:
Đang từ khu trục cơ
cánh quạt A–1 Skyraider chuyển thẳng sang phản lực cơ siêu thanh
F–5 phải được xem là một “bước nhảy vọt” trong thời gian chỉ có
mấy tháng trời. Vậy mà chính những “cựu phi công cánh quạt” này –
chứ không phải các phi công của Phi Đoàn 10 Khu Trục Cảm Tử (10th
Fighter Commando Squadron) của Hoa Kỳ, đơn vị có nhiệm vụ thử
nghiệm F–5 trên chiến trường Việt Nam – đã khiến F–5 trở nên nổi
tiếng quốc tế.
Với ưu điểm can thiệp chiến trường mau lẹ
nhờ vận tốc siêu thanh, F–5 được sử dụng tối đa vào việc oanh tạc
các vị trí tập trung quân của địch, phá hủy các hệ thống tiếp
liệu, hoặc tiêu diệt chiến xa, xe vận tải bằng rocket.
Về
thành tích, ngoài những phi vụ thường nhật, F–5 đã được sử dụng
tới mức tối đa trong cuộc phản công Tết Mậu Thân (1968), đạt số
phi vụ kỷ lục với những thành tích đáng nể phục.
Tiếp theo
là cuộc hành quân vượt biên Căm–bốt năm 1970, cuộc hành quân Lam
Sơn 719 tiến đánh vùng Hạ Lào năm 1971, và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Một trong những mục đích của Hoa Kỳ trong việc trang bị F–5
cho KQVN là để bảo vệ không phận sau khi Không Quân Hoa Kỳ rút
đi, vì thế sau khi Phi Đoàn 522 Thần Ưng được thành lập, một
Biệt Đội F–5 của Phi Đoàn đã được đưa tới CCKQ Đà Nẵng để sẵn
sàng nghênh cản trong trường hợp các phi cơ MiG của CSBV xâm nhập
không phận từ hướng Bắc.
Tới cuối năm 1972, nằm trong dự
án Tăng Cường (Enhance) của chương trình Việt Nam hóa, khi đã có
thêm năm Phi Đoàn F–5 khác được lần lượt thành lập, nhiệm vụ bảo
vệ không phận phía Bắc của Biệt Đội 522 đã được trao lại cho
Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn.
[Với nhiệm vụ chuyên biệt là bay
lên nghênh cản phi cơ địch, Phi Đoàn 538 Hồng Tiễn là Phi Đoàn
F–5 đầu tiên được trang bị F–5E Tiger II, và cũng là Phi Đoàn F–5
duy nhất không có chữ “Ưng” trong danh hiệu]
Theo lời một
cựu phi công của Phi Đoàn 538, khi được lệnh báo động, Phi Đội
ứng trực phải bay vút lên cao (scramble), sẵn sàng nghênh cản
địch trong thời gian năm phút, nhưng trong đa số trường hợp, các
“Hồng Tiễn” đã chỉ mất ba phút rưỡi!
Rất tiếc,
cho tới ngày tàn cuộc chiến, tuy có vài lần các phi cơ MiG của
CSBV từ hướng Bắc vượt vĩ tuyến 17 với tốc độ thật nhanh, nhưng
khi các F–5E bay bên thì chúng đã bay mất sang không phận Lào, có
lẽ các “Bạch Nhạn” của CSBV không muốn đọ sức với các “Hồng Tiễn”
của VNCH.
Tới đầu năm 1974, lẽ ra các phi công F–5 trong
KLVNCH đã thực hiện kế hoạch tấn công các chiến hạm Trung cộng ở
vùng biển Hoàng Sa, nhưng cuối cùng đã phải hủy bỏ vì “lệnh trên
không cho đánh”.
Theo các cuộc phỏng vấn các nhân vật liên
quan, trong đó có cựu Thiếu tá Hồ Kim Giàu, người từng giữ chức
vụ “quyền Phi đoàn trưởng” PĐ–538 Hồng Tiễn, sau này người ta
được biết vào sáng ngày 20/1/1974, lực lượng nói trên sẵn sàng
lên đường nhưng tới trưa thì có lệnh từ phủ tổng thống hủy bỏ.
Về sau, các tài liệu lịch sử được bạch hóa cho biết ngày ấy
“Đồng Minh” Hoa Kỳ không chỉ bật đèn xanh và làm ngơ cho Trung
cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH mà sau đó còn áp lực TT Nguyễn
Văn Thiệu hủy bỏ cuộc tấn công trả đũa.
Đệ thất Hạm đội
của Mỹ cho biết họ sẽ không giúp đỡ việc liên lạc trên tần số, sẽ
không thông báo cho phía VN biết một khi ra–đa của họ phát hiện
MiG của Trung cộng cất cánh từ đảo Hải Nam (theo tình báo Mỹ, cứ
mỗi 15 phút một Phi Tuần), và họ cũng sẽ không tham gia việc cứu
vớt các phi công VNCH trong trường hợp bị bắn hạ phải nhảy dù
xuống biển. (Chú thích 11)
* Phản lực cơ A–37:
Trong những năm sau cùng của cuộc chiến, A–37 đã trở thành nguồn
hỏa lực chính yếu của KLVNCH, và không ai có thể phủ nhận những
chú “chuồn chuồn” (Dragonfly) bé nhỏ này quả là loại phi cơ lý
tưởng nhất để thay thế các chàng “thiên kích” (Skyraider) trong
nhiệm vụ yểm trợ bộ binh trên chiến trường.
Trong bài
“Người Khu Trục Việt Nam” tác giả Vân Đình viết:
“Có những
người KQ ‘đặt–tên–không–mấy–đẹp’ (nghề của chàng) cho A–37, như
là ‘Slow–jet’, hay là ‘Nòng–nọc–bay’, hay gì–gì đi nữa... A–37 LÀ
MỘT PHI–CƠ TỐT cho chiến trường VN. Phi cơ dễ bay, dễ bảo trì,
nhỏ bé trên cao độ (khó bắn), là một platform vững khi dive–bomb
(nhờ hệ thống yaw–dumper) nên bomb thả rất chính xác...”
Ngày 19/4/1969, sau buổi lễ xuất quân chính thức của
PĐ–524, BTLKQ đã tổ chức buổi biểu diễn hỏa lực của AC–47 (PĐ–817
Hỏa Long) và giải thi đua tác xạ tại bãi biển Nha Trang giữa các
loại phi cơ “fixed–wing”, gồm A–1H (PĐ–518 Phi Long), F–5 (PĐ–522
Thần Ưng), và A–37 (PĐ–520 Thần Báo, PĐ–524 Thiên Lôi), với kết
quả như sau:
– A–37 của PĐ–520: đạt số điểm 214/240
– A–37 của PĐ–524: 162/240
– F–5 của PĐ–522: 156/240.
Cũng nên biết, A–37 có khả năng bay một máy: để tiết kiệm
nhiên liệu (gia tăng thời gian ở trên không), trong thời gian chờ
đợi tấn công, hoa tiêu có thể tắt một máy tối đa 30 phút, sau khi
mở máy lại kiểm soát nếu thấy tất cả đều bình thường có thể tắt
máy kia trong khoảng thời gian tương tự.
Có thể viết,
tương tự hai chiếc A–1 và F–5 trước đây, chỉ trên chiến trường
Việt Nam và trong tay các phi công Việt Nam, A–37 mới chứng tỏ
được sự hữu hiệu và khai triển mọi khả năng của nó tới mức tối
đa.
Sau khi việc thay thế A–1 bằng A–37 cho ba Phi Đoàn
đầu tiên (524, 520, 516) hoàn tất vào giữa năm 1969, hình ảnh của
những “nòng–nọc–bay” đã trở thành niềm tin cho quân bạn và nỗi
kinh hoàng cho quân địch. Nhờ khả năng tiếp ứng mau lẹ, không một
vùng đất nào của Vùng 1 Chiến Thuật vắng bóng các Phi Hổ (516),
không núi rừng nào của Vùng 2 Chiến Thuật không có các Thiên Lôi
(524), về phần các Thần Báo (520), tiếng là đồn trú tại Vùng 4
Chiến Thuật nhưng địa bàn hoạt động chính của họ lại là Vùng 3
Chiến Thuật, vì vào khoảng thời gian này, tình hình chiến sự ở
Vùng 4 chưa mấy sôi động, trong khi ở Biên Hòa và Tân Sơn Nhất
không có A–37.
* * *
Năm 1971, lực lượng A–37 đã
đóng vai trò không yểm chính yếu trong cuộc Hành quân Lam Sơn
719, tiến đánh các đơn vị chính quy của CSBV trên lãnh thổ Lào.
Lực lượng địch gồm khoảng 31000 bộ đội và 1800 xe vận tải
được CSBV đem sang Hạ Lào, chuẩn bị mở một cuộc tấn công lớn vào
miền Nam trong mùa khô. Để đoạt thế thượng phong, Bộ Tổng tham
mưu QLVNCH đã quyết định tấn công trước với cuộc hành quân vượt
biên quy mô mang tên Lam Sơn 719.
Lực lượng của KQVN tham
gia cuộc hành quân này gồm SĐ1KQ và một phần của SĐ2KQ, chủ yếu
là phản lực A–37 và trực thăng UH–1.
Khác với cuộc hành
quân vượt biên Căm–bốt gần một năm trước đó, lần này các phi cơ
của KQVN đã phải đối đầu với hỏa lực phòng không tối tân, hùng
hậu chưa từng thấy, gồm hỏa tiễn SAM, SA–7, đại bác phòng không
57ly điều khiển bằng ra–đa... Theo sự mô tả của các phi công Mỹ
từng tham chiến trên bầu trời Bắc Việt, hỏa lực phòng không của
địch tại Hạ Lào không thua gì ngoài Bắc!
Nhưng các phi
công Việt Nam đã không chùng bước trước những hiểm nguy, khó khăn
đó. Trong bốn tuần lễ đầu tiên của cuộc hành quân, các phi công
phản lực A–37 của hai Phi Đoàn 516 Phi Hổ (SĐ1KQ) và 524 Thiên
Lôi (SĐ2KQ) đã bỏ xa các phi công Mỹ về cả tổng số phi xuất lẫn
giờ bay cá nhân. Đa số chiến xa địch bị tiêu diệt là thành tích
của các phi công A–37.
Rồi tới Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, bất
chấp cái chết trước mắt khi trở thành mồi ngon cho hỏa tiễn SA–7
và các loại phòng không tối tân của địch, các phi công A–37, cùng
với các phi công A–1, F–5, trực thăng võ trang đã anh dũng thi
hành mọi phi vụ yểm trợ chiến trường.
Tại vùng 2 Chiến Thuật, trong cao điểm
cuộc công hãm tỉnh lỵ Kontum của quân CSBV, mỗi ngày các phi công
A–1, A–37 đã thực hiện trên 150 phi xuất yểm trợ tiếp cận.
Kết quả, cả ba mưu đồ của CSBV trong Mùa Hè Đỏ Lửa – cắt đứt
hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên ra khỏi lãnh thổ VNCH, đánh
chiếm tỉnh lỵ Kontum, đánh chiếm quận lỵ An Lộc – đã thất bại một
cách thê thảm.
6. NGÀY TÀN CUỘC CHIẾN
Ngày
27/1/1973, một hiệp định được gọi là “ngừng bắn và tái lập hòa
bình” đã được bốn phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, cộng sản Bắc
Việt, và Việt cộng trong Nam (Mặt Trận Giải Phóng) ký kết tại
Paris, với các điều khoản hoàn toàn thất lợi cho phía VNCH.
Thực ra, nếu tính đầu người, vào thời gian ký kết Hiệp định
Paris, so sánh lực lượng bộ binh thì quân số của đôi bên ngang
ngửa, nhưng vì phải phòng thủ tới ¾ lãnh thổ miền Nam, lực lượng
VNCH đã bị phân tán mỏng. Từ đó, ưu thế của miền Nam tùy thuộc
phần lớn vào Không Quân.
Về phần KLVNCH, sau khi nhận được
F–5E Tiger II sẽ có đủ khả năng bảo vệ không phận và yểm trợ
chiến trường miền Nam, với hai điều kiện: CSBV không vi phạm Hiệp
định Paris, và Hoa Kỳ duy trì viện trợ quân sự (phụ tùng phi cơ,
nhiên liệu, bom đạn...)
Thế nhưng ngay sau khi đặt bút ký
vào bản Hiệp Định, CSBV đã bắt đầu tiến hành cuộc xâm lược miền
Nam, và tới tháng 7/1973, sau khi được Quốc Hội Mỹ bật đèn xanh
với Tu chính Cooper–Church (cấm các lực lượng Hoa Kỳ, trong đó có
Không Quân, tham chiến tại 3 quốc gia Đông Dương), Hà Nội đã công
khai tuyên bố nhiệm vụ của miền Bắc là “giải phóng miền Nam để
tiến tới thống nhất đất nước”.
Về phía Hoa Kỳ, Quốc Hội Mỹ
do các thế lực phản chiến lũng đoạn, đã cắt giảm viện trợ 1.6 tỷ
Mỹ kim trong tài khoá 1973–1974 do Chính phủ Nixon đề nghị xuống
còn 700 triệu. Số tiền này còn bị khấu trừ 220 triệu là giá thành
của 100 chiến đấu cơ F–5 dự trù chuyển giao, vị chi chỉ còn lại
480 triệu cho cả QLVNCH, trong khi viện trợ của Liên Xô và Trung
Cộng cho CSBV đã lên tới mức cao nhất trong suốt chiều dài cuộc
chiến.
Hậu cứ miền Bắc đã được (Hiệp định Paris) bảo đảm
không còn sợ bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc, nên toàn bộ hỏa tiễn SAM
và các loại súng phòng không tối tân, các giàn ra–đa hướng dẫn đã
được di chuyển vào Nam để đối phó với phi cơ của KLVNCH.
Cũng cần nhấn mạnh, tất cả mọi loại phi cơ do KQVN sử dụng đều
không được trang bị hệ thống điện tử chống ra–đa địch (ECM:
electronic counter–measures) như các chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, vì
thế khi hoạt động tại những vùng do địch kiểm soát, rất dễ dàng
trở thành mục tiêu cho hỏa tiễn SAM và các loại cao xạ hướng dẫn
bằng ra–đa.
Bên cạnh đó, CSVN còn được khối Cộng trang bị
loại vũ khí phòng không cá nhân mới nhất, tối tân nhất, hữu hiệu
nhất lúc bấy giờ là hỏa tiễn tầm nhiệt SA–7.
Nguyên nhân
đưa tới việc Liên Xô nghiên cứu chế tạo và viện trợ SA–7 cho CSVN
chính là sự hữu hiệu của KLVNCH trong công tác yểm trợ chiến
trường. Trong báo cáo gửi về cho thượng cấp, các chuyên viên về
phòng không của VC trong Nam cho biết khó khăn của họ là khi phi
cơ (của VNCH) bay trên cao làm nhiệm vụ oanh tạc thì đại bác
phòng không 37ly bắn không tới (lúc đó VC trong Nam chưa có
57ly), còn khi phi cơ xuống thấp làm nhiệm vụ yểm trợ tiếp cận
thì đại liên 12.8ly không đủ mạnh, đủ nhanh để bắn hạ, chưa kể có
thể còn bị hỏa lực của phi cơ tiêu diệt.
SA–7 đã giải
quyết được khó khăn nói trên, đã tỏ ra vô cùng hữu hiệu trong
việc bắn hạ các phi cơ bay thấp. SA–7 được sử dụng lần đầu tại
chiến trường Trị–Thiên trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, tới đầu năm 1973
đã được đưa vào chiến trường phía Nam cùng với đại bác phòng
không 57ly hướng dẫn bằng ra–đa.
Kể từ khi có sự xuất hiện
của hỏa tiễn địa không SA–7 tại chiến trường miền Nam, số lượng
phi cơ bị tổn thất và số phi công hy sinh đã gia tăng một cách
đáng ngại.
Trong sáu tháng đầu năm 1973, đã có ít nhất 22
hỏa tiễn SA–7 được địch phóng lên, hạ tám phi cơ của VNCH, gồm
một A–37, một F–5A, ba A–1, hai UH–1, và một CH–47. Tất cả tám
phi hành đoàn hy sinh.
Trong sáu tháng cuối năm, có thêm 20 phi cơ khác bị SA–7 bắn
hạ.
Qua năm 1974, trong số tám chiếc A–37 bị địch bắn hạ
trong nửa năm đầu, có tới năm chiếc rớt vì hỏa tiễn SA–7.
Nhưng dù gặp khó khăn, nguy hiểm gấp mấy lần thời gian trước mùa
hè 1972, và cho dù đã có những thay đổi về chiến thuật tác chiến
(không được xuống thấp trong nhiều trường hợp), trong những phi
vụ yểm trợ quân bạn đang giao tranh với địch, các phi công khu
trục A–1, A–37, và F–5 thay vì chỉ oanh tạc từ trên cao, vẫn
xuống thấp để oanh kích, xạ kích địch quân một cách chính xác,
bất chấp mọi hiểm nguy.
Trong giai đoạn này, tính chung về
mọi mặt, A–37 là loại phi cơ hữu hiệu nhất vì vừa nhanh nhẹn (có
vòng quẹo tương đối hẹp) vừa được trang bị để có thể oanh tạc
theo sự hướng dẫn của hệ thống BOBS (Beacon Only Bombing System),
giúp phi cơ có khả năng hoạt động về đêm hoặc trong điều kiện
thời tiết xấu.
(Khu trục cơ cánh quạt A–1 và phản lực cơ
siêu thanh F–5 cũng được trang bị hệ thống BOBS, tuy nhiên toàn
bộ A–1 sau này đã bị đình động, còn F–5 thì giữ nhiệm vụ chính là
phòng thủ không phận nên cũng ít khi thi hành các phi vụ BOBS).
Trong tháng 11/1973, các phi cơ A–37 của Phi Đoàn 524 Thiên
Lôi (SĐ2KQ) đã lập công đầu trong trận Quảng Đức, nơi Trung Đoàn
53 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh tái chiếm Quốc lộ 14 từ tay Công
trường 9 của VC. Đây là trận đánh lớn nhất kể từ ngày Hiệp Định
Paris được ký kết.
Bước sang đầu năm 1974, việc Hoa Kỳ cắt
giảm viện trợ cho tài khoá 1973–1974 cùng với cuộc khủng hoảng
dầu hỏa ở Trung Đông đã ảnh hưởng trầm trọng tới hoạt động của
KQVN.
Nhưng dù phương tiện hoạt động bị hạn chế, trong năm
1974, lực lượng A–37 cũng đã lập được một chiến công để đời, nếu
không muốn nói là vô tiền khoáng hậu: tiêu diệt nguyên một đoàn
xe vận tải dài hàng chục cây số của CSBV.
Được tin tình
báo do Quân Đoàn II cung cấp, phi cơ quan sát của Phi Đoàn 118
Bắc Đẩu (SĐ6KQ) đã theo dõi và phát hiện một đoàn xe Molotova vận
chuyển vũ khí, đạn dược tại một đoạn đèo trong mật khu An Lão ở
vùng Tam Biên. Lập tức, lực lượng A–37 của các Sư Đoàn KQ được
điều động tới nơi, và áp dụng chiến thuật “đánh đầu chặn đuôi”.
Vì đoàn xe đang ở trên đèo, một bên là vách núi một bên là
vực thẳm, cho nên sau khi những chiếc đi đầu và đi cuối bị tiêu
diệt, cả đoàn xe bị kẹt cứng, trở thành những mục tiêu bất động
cho A–37. Kết quả toàn bộ đoàn xe đã bị tiêu diệt.
Tuy
nhiên, chiến tích nói trên cũng chỉ là một trường hợp hiếm hoi,
và ít nhiều do sự chủ quan bất cẩn tới mức không thể chấp nhận
của các cấp chỉ huy đoàn xe Molotova!
* * *
Tại
Vùng 1 Chiến Thuật, mức giới hạn hoạt động của KQVN còn cao hơn
nữa do việc CSBV đã đưa các giàn hỏa tiễn địa không (SAM) SA–2
vào tận Quảng Trị. Bốn trong tổng số tám chiếc phản lực cơ thám
tính RF–5 của KQVN đã bị SA–2 bắn hạ trong lúc thực hiện công tác
chụp không ảnh trên đường mòn Hồ Chí Minh.
Tại
Vùng 4 Chiến Thuật – vùng đồng bằng sông Cửu Long – trước kia
thường được xem là tương đối an toàn nhất cho phi cơ vì địa thế
bằng phẳng, trống trải, không thuận lợi cho việc bố trí các giàn
phòng không, nay lại trở nên nguy hiểm nhất sau khi có sự xuất
hiện của hỏa tiễn tầm nhiệt SA–7 (vì thế, đa số SA–7 của địch đã
được đưa vào Vùng 3 và vùng 4 Chiến Thuật).
Trong năm
1974, SĐ4KQ đã bị thiệt hại nặng nề về phi cơ cũng như phi hành
đoàn khi tham gia hai trận đánh lớn, một giữa Sư Đoàn 7 Bộ Binh
và Công Trường 3 VC tại Kiến Tường, một giữa lực lượng Tiểu khu
Kiến Hòa và Trung Đoàn chủ lực Đồng Tháp của địch.
Tổng
cộng trong năm 1974, KQVN đã mất 299 phi cơ các loại, phần lớn do
hỏa lực phòng không địch.
Bước sang năm 1975, theo con số
của Khối Đặc Trách Khu Trục BTL/KQ, chỉ trong tháng 1 đã có 17
phi cơ thuộc ngành khu trục bị bắn rớt, gồm 13 A–37, ba A–1, và
một F–5. Đây là mức độ thảm hại nhất trong lịch sử ngành khu
trục!
Tình hình càng thêm bi đát sau khi Quốc Hội Hoa Kỳ
lại quyết định cắt giảm viện trợ quân sự cho tài khoá 1974–1975
xuống chỉ còn 300 triệu Mỹ kim cho cả QLVNCH (nên biết trong tài
khoá 1971–1972, chỉ riêng viện trợ cho KQVN đã lên tới gần 500
triệu).
Vì thiếu bom đạn và nhiên liệu dự trữ chỉ đủ cho
thời gian hai tháng, các phi vụ đã bị hạn chế tới mức tối đa. Bị
ảnh hưởng nặng nề nhất là ngành khu trục, các phi cơ chỉ được
trang bị phân nửa bom đạn, và mỗi trái bom được thả phải báo cáo
chi tiết về Bộ tư lệnh Không Quân
(Chú thích 12)
* * *
Giữa tháng 12/1974, CSBV thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ bằng
cách cho hai Sư Đoàn chính quy Bắc Việt, được sự yểm trợ của pháo
binh, xe bọc thép, và các lực lượng phòng không, tấn công Phước
Long. Ngày 7/1/1975, tỉnh lỵ Phước Long thất thủ. Hoa Kỳ không hề
có một phản ứng gì, cho dù chỉ là một lời tuyên bố suông!
Được “an tâm” về phía Hoa Kỳ, CSBV liền cho tiến hành cuộc tổng
tấn công miền Nam VN, mà theo dự trù trước đây của Hà Nội, phải
đợi tới năm 1976.
Sau khi chiếm Phước Long, CSBV đưa thêm
hai Sư Đoàn quân chính quy vào Nam, nâng tổng số lên tới 15 Sư
Đoàn (lúc đó CSBV có tổng cộng 18 Sư Đoàn).
Đêm 9/3/1975,
cuộc tổng tấn công của CSBV bắt đầu với việc tiến đánh thành phố
Ban Mê Thuột tại Vùng 2 Chiến Thuật. Mặc dù lực lượng đồn trú anh
dũng chống trả, và các phản lực cơ A–37 tận tình yểm trợ, bắn
cháy năm chiến xa T–54, nhưng với tỷ lệ quân số 1 chọi 5, tới
chiều ngày 10/3/1975, phi trường và phân nửa thành phố đã lọt vào
tay địch.
Từ Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh
cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh phải giữ Ban Mê Thuột bằng mọi giá. Tuy
nhiên trước một lực lượng địch áp đảo, cho dù các phi cơ A–37
(chủ yếu là của Phi Đoàn 532 Gấu Đen tới từ Phù Cát) đã thực hiện
trên 200 phi xuất yểm trợ tiếp cận, gây cho địch những tổn thất
đáng kể, tới ngày 14/3/1975, Ban Mê Thuột đã bị thất thủ.
Sau khi mất Ban Mê
Thuột, Kontum và Pleiku “di tản chiến thuật”. Tới ngày 29/3/1975,
Đà Nẵng lọt vào tay địch.
Sau khi Huế, Đà Nẵng ở Vùng 1
Chiến Thuật lọt vào tay Bắc quân, tới ngày 31/3/1975, thành phố
Quy Nhơn ở Vùng 2 Chiến Thuật cũng bị mất. Tuy nhiên, địch quân
đã phải trả một giá khá đắt trước tinh thần chiến đấu dũng cảm
tới giờ phút chót của các phi công A–37.
Toàn bộ lực lượng
A–37 của Không Đoàn 82 Chiến Thuật (Phù Cát) và Không Đoàn 92
Chiến Thuật (Phan Rang), gồm các Phi Đoàn 532 Gấu Đen, 524 Thiên
Lôi, 534 Kim Ngưu, và 548 Ó Đen đã tham gia trận phản công, tiêu
diệt hơn phân nửa tổng số chiến xa địch.
Tới đầu tháng
4/1975, tại phòng tuyến Phan Rang, sau khi Chuẩn tướng Phạm Ngọc
Sang, Sư đoàn trưởng SĐ6KQ (từ Pleiku di tản về) được Bộ Tổng
Tham Mưu QLVNCH chỉ định đặc trách việc phòng thủ Phan Rang, toàn
bộ A–37 của Không Đoàn 92 Chiến Thuật – gồm ba Phi Đoàn 524, 534,
và 548 – dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Văn Thảo, đã xuất kích
ngày đêm để chận địch.
Sau khi Phan Rang và Xuân Lộc thất
thủ, một trong những hoạt động sau cùng của các phản lực A–37
được ghi nhận là phi vụ oanh tạc trả đũa Phan Rang sau khi Tân
Sơn Nhất bị Nguyễn Thành Trung và phi công địch tấn công.
Nguyên vào chiều ngày 28/4/1975, Nguyễn Thành Trung – viên Trung
úy phi công F–5 phản bội đã oanh tạc Dinh Độc Lập ngày 8/4/1975 –
hướng dẫn bốn chiếc A–37 của ta bị bỏ lại, từ Phan Rang bay về
Tân Sơn Nhất oanh tạc các bãi đậu phi cơ với ý đồ ngăn chận việc
di tản; kết quả ba chiếc AC–119, một số C–47 bị hư hại, một số
A–37 trang bị sẵn bom đạn bị phát nổ.
Ngay trong đêm đó,
một Phi Tuần gồm bốn chiếc A–37 do Thiếu tá Nguyễn Phấn Chấn
(Phi Đoàn 548 Ó Đen) hướng dẫn đã bay ngược ra Phan Rang trả đũa,
oanh kích phi trường đã bị địch chiếm.
Tại Vùng 4 Chiến
Thuật, cho tới 9:00g sáng ngày 30/4/1975, phi công A–37 của các
Phi Đoàn 520, 526 vẫn tiếp tục cất cánh bay về Vùng 3 để thi hành
các phi vụ tác chiến, yểm trợ quân bạn ở vòng đai thủ đô Sài Gòn.
Khoảng 10:00g sáng, sau khi được tin quân cộng sản đã tràn
qua Lộ Tẻ Ba Xe (thành phố Cần Thơ), Phòng Hành Quân Chiến Cuộc
đã ra lệnh cho các phi công A–37 của PĐ–520 thực hiện phi vụ oanh
kích ở ngay vành đai khu vực an ninh phi trường.
Sau này,
một phi công hồi tưởng:
“...
Khi chúng tôi vác dù ra phi
đạo lấy tàu đánh giặc, thì rất nhiều anh em quân nhân các cấp
trong Sư Ðoàn 4 Không Quân lúc ấy đã tràn ra dọc theo bãi đậu và
cất tiếng hoan hô cổ vũ chúng tôi. Khi cất cánh thi hành công
tác, tôi mở máy nghe lệnh đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh
mà nước mắt của mình tuôn trào...”
(Phạm Văn Bản – Những chuyến
bay định mệnh)
Cùng lúc, các phi công A–37 thực hiện các
phi vụ trên không phận thủ đô Sài Gòn, trên đường bay về căn cứ
cũng có cùng tâm trạng bi ai khi nghe lệnh buông súng của vị
“tổng thống ba ngày”...
THAY LỜI KẾT
Chiều
30/4/1975, khi những chiếc phi cơ (di tản) cuối cùng rời phi
trường Cần Thơ, nơi đặt bản doanh của SĐ4KQ, trang sử cuối cùng
của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức khép lại.
Tính từ ngày 1/7/1955, ngày lá cờ vàng ba sọc đỏ được thượng lên
tại CCKQ Nha Trang, đánh dấu ngày quân chủng Không Quân Việt Nam
Cộng Hòa được chính thức thành lập, chưa đủ 20 năm.
Riêng
ngành khu trục, tính từ ngày 1/6/1956, ngày thành lập Phi Đoàn 1
Khu Trục & Trinh Sát tại CCKQ Biên Hòa, chưa tròn 19 tuổi.
Nhưng sau ngày tấm màn nhung đã hạ xuống trên sân khấu chính
trị Việt Nam, KLVNCH nói chung, ngành khu trục nói riêng, đã
không bị chìm vào quên lãng, mà những tiếng thơm, những chiến
tích, những huyền thoại trong thời gian tồn tại ngắn ngủi ấy vẫn
được trân trọng ghi lại trong lịch sử hàng không quân sự quốc tế.
Bài viết này chỉ là một đóng góp nhỏ bé vào việc xác định vị
trí xứng đáng của ngành khu trục KLVNCH trong dòng lịch sử ấy.
Nguyễn Hữu Thiện
Melbourne, Australia
(chỉnh sửa lần cuối tháng 11/2017)
LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cám ơn sự quan tâm và những
lời khích lệ quý báu của quý niên trưởng, chiến hữu trong Ngành
Khu Trục đã dành cho chúng tôi trong việc biên soạn tài liệu này;
cũng không quên cám ơn “Bắc Đẩu” Võ Ý – cựu Phi đoàn trưởng
PĐ–118 (SĐ6KQ) – đã giúp đỡ chúng tôi liên lạc được với các niên
trưởng, chiến hữu nói trên. –KQ Nguyễn Hữu Thiện
Biệt Đoàn 83 và Phi Đoàn 522
Trong quá trình biên soạn
loạt bài Ngành Khu Trục trong KLVNCH, vì các nguồn tài liệu tham
khảo do một số tác giả ghi lại khác nhau, chúng tôi đã cố gắng
liên lạc với nhiều vị niên trưởng tên tuổi từng phục vụ tại Biệt
Đoàn 83 để tìm hiểu về đơn vị đặc biệt này, và liên hệ giữa Biệt
Đội khu trục A–1 của Biệt Đoàn với Phi Đoàn 522 khu trục A–1
(trước khi PĐ–522 trở thành Phi Đoàn phản lực siêu thanh F–5 đầu
tiên của KQVN vào tháng 6/1967).
Thế nhưng càng tìm hiểu,
chúng tôi càng sa vào “mê hồn trận”. Khi bày tỏ tâm tư với một vị
NT trong ngành khu trục mà bản thân rất quý trọng, chúng tôi đã
được ông khuyên, đại ý như sau:
“Biệt Đoàn 83 và Phi Đoàn
522 là hai đơn vị đặc biệt trong một giai đoạn bất ổn chính trị,
bị chi phối bởi nhiều yếu tố phức tạp. Vì thế, có những sự thật
không nên tìm hiểu, những sự kiện không nên mổ xẻ, những câu hỏi
không nên đặt ra.”
Thành thử mặc dù trong lòng vẫn còn “ấm
ức”, cuối cùng chúng tôi đã phải kết thúc phần này một cách vô
thưởng vô phạt, và... vô tích sự, như sau:
“Biệt Đội khu
trục của Biệt Đoàn 83 và Phi Đoàn 522 khu trục là những lực lượng
tác chiến được thành lập để thi hành những phi vụ đặc biệt, hoặc
bí mật.”
Nay đọc lại bài “Nhớ Cả Khung Trời Mây Trắng
Bay!” của NT Trần Ngọc Nguyên Vũ, chúng tôi mới vơi bớt “ấm ức”,
bởi ngay chính tác giả – một phi công khu trục kỳ cựu từng phục
vụ tại Biệt Đoàn 83 – cũng đã phải dừng lại ở một giới hạn cần
thiết.
Sau đây chúng tôi xin phép trích đăng phần viết về
Biệt Đoàn 83 của tác giả:
“Biệt Đoàn 83! Đơn vị đầu đời:
Biệt Đoàn 83! Cái tên nghe vừa bí mật lại vừa hào hùng và
lãng mạn. Nhưng chiếc áo không làm nên thầy tu, một cái tên không
tự nó tạo ra huyền thoại mà là do những người mà phong độ và việc
làm của họ đã đi vào huyền thoại tạo nên... những cái tên như Cò
Trắng: Nguyễn Cao Kỳ, Phan Thanh Vân, Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc
Khoa, Nguyễn Văn Tâm... Thần Phong: Nguyễn Văn Tường, Huỳnh Văn
Vui, Nguyễn Huy Cương, Nguyễn Thế Tế, Nguyễn V. Quý, Nguyễn Quốc
Phiên, Trần Bá Hợi, Nguyễn Quốc Thành, Nguyễn Ngọc Thức... Long
Mã: Hồ Bảo Định, Nguyễn Văn Nghĩa, Đỗ Văn Hiếu, Nguyễn Quý An,
Nguyễn Văn Thắng, Phạm Công Khanh... Queen Bee Trương Văn Vinh...
Những người mà ngày đêm vẫn thản nhiên
đi–về trên quãng đường sinh–tử để thi hành những công tác cực kỳ
khó khăn và nguy hiểm... Những công việc họ làm tưởng chừng như
chỉ được nghe kể trong những câu chuyện thần thoại... Họ chính là
những người đã viết ra một pho ‘huyền sử’ được mang tên là ‘Biệt
Đoàn 83’”.
Hồi còn ở ngoài dân sự, tôi thường hay ghé
phòng đọc sách của Trung Tâm Văn Hoá Việt–Mỹ ở góc đường Lê
Lợi–Nguyễn Huệ để mượn những tạp chí có bài viết đăng hình ảnh
của KQVNCH. Tôi say mê nhìn ngắm chiếc áo bay đen có thêu tấm huy
hiệu “Thần Phong” và ước ao sau này mình được mặc nó... Khi ra
nhập KQ và được huấn luyện để trở thành một phi công khu trục,
rồi được thuyên chuyển về BĐ83, tôi tưởng mình đang nằm mơ...
nhưng giấc mơ ấy đã trở thành sự thật...
Khi viết bài này
tôi không viết “lịch sử của Biệt Đoàn 83” vì tôi không đủ tư cách
mà chỉ viết theo cảm nhận và những trải nghiệm riêng của mình...
“Biệt Đoàn 83”! Một đơn vị mà từ sự thành lập đến cách điều hành
nhân sự quá phức tạp. Phạm vi hoạt động của nó trải khắp lãnh thổ
hai miền Nam Bắc, vượt qua biên giới Lào, Thái, Miên... và liên
quan đến nhiều tổ chức khác nhau...
Từ “Sở Liên Lạc” của
Trung tá Kính thuộc “Tổng thống phủ” thời “đệ nhất Cộng Hoà” đến
“Nha Kỹ Thuật” của Đại tá Nu thuộc phòng 7 của bộ Tổng Tham Mưu
thời “đệ nhị Cộng Hoà” tới các cơ quan MACV, MACSOG của Hoa Kỳ.
“Biệt Đoàn 83” tuy là một đơn vị KQ nhưng lại không thuộc quân số
của BTL KQ, nó có thể coi như là một “Bộ Tư Lệnh KQ” thu nhỏ, nó
sở hữu hầu hết các loại phi cơ của Không Lực VNCH thời bấy giờ,
từ vận tải, trực thăng, quan sát đến khu trục...
Sự có mặt
của “Phi Đoàn Khu Trục 522” cạnh BĐ cũng đã gây ra sự “hiểu lầm”
cho giới quan sát thời bấy giờ. Thật ra thì PĐ–522 không thuộc
quân số của BĐ mà thuộc quân số của “Không Đoàn 33 Chiến Thuật”.
Hầu hết những “nhân vật gạo cội” của Biệt Đoàn ngày xưa đã không
còn nữa. Hiện nay người duy nhất có đủ uy tín để viết về BĐ 83 là
Trung tá Nguyễn Ngọc Khoa, nhưng ông đã “rửa tay gác kiếm” giã từ
“giang hồ” từ lâu... –Nguyễn Hữu Thiện
Chiếc A–37B S/N 10779 nguyên của Phi Đoàn 516 Phi Hổ, được Viện Bảo Tàng Hàng
Không Temora, Úc–đại–lợi, phục hồi và “sao y bản chánh” màu sơn,
phù hiệu..., đã tung cánh trở lại vào đầu tháng 9 năm 2018 trong
Air Show nhân weekend Father’s Day ở Úc:
“After extensive
restoration work on VH–XVA by the Temora Aviation Museum’s
Engineering Team, the aircraft returned to flight in 2018 and
regularly participates in Aircraft Showcase Days.” (Chú thích của
Temora Aviation Museum, Australia / Photos by courtesy of Duncan Fenn Photography)
Nguyễn Hữu Thiện
nguồn:
hội quán phi dũng
(1) Ông Nguyễn Văn Hinh là
con trai của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, sinh năm 1915 tại Mỹ Tho,
Định Tường. Năm 1936, ông gia nhập Không Quân Pháp, được theo học
khoá 2 tại Trường Võ Bị Không Quân Pháp (Salon–de–Provence).
Trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, ông chỉ huy một Liên Phi Đoàn
Oanh tạc, bay phi cơ B–26 “Marauder” đóng tại Blida, Algeria,
phục vụ dưới cờ Pháp Quốc Tự Do do Tướng De Gaulle lãnh đạo.
Ông đã thi hành nhiều phi vụ oanh tạc tại miền Nam nước Ý do
quân Đức Quốc Xã chiếm đóng, và rất được người Pháp nể trọng. Sau
Đệ Nhị Thế Chiến, ông chuyển sang ngành vận tải, giữ chức Chỉ huy
trưởng Phi Đoàn GT 2/62 Franche–Comté.
Phi Đoàn này tới
đồn trú tại Biên Hòa năm 1949. Qua năm 1950, ông xin ra khỏi
Không Quân Pháp để giữ chức Tổng Thư ký Bộ Quốc Phòng của Việt
Nam Quốc Gia mới được thành lập (Bộ trưởng là BS Phan Huy Quát).
Năm 1952, ông được Quốc trưởng Bảo Đại thăng cấp đặc cách từ
trung tá lên thiếu tướng, trở thành vị Tổng tham mưu trưởng đầu
tiên của Quân Đội Quốc Gia VN, tiền thân của QLVNCH.
(2)
Trước sau, Phi Đoàn 1 Khu Trục (PĐ–514 Phượng Hoàng) có 10 đời
Chỉ huy trưởng/Phi đoàn trưởng, gồm các vị sau đây (với cấp bậc
vào lúc bắt đầu đảm trách chức vụ):
1 – Đại úy Huỳnh Hữu
Hiền, 1956
2 – Đại úy Hà Xuân Vịnh, 1958
3 – Đại úy Lưu Văn
Đức, 1959
4 – Đại úy Nguyễn Quang Tri, 1960
5 – Đại úy Võ
Xuân Lành, 1963
6 – Đại úy Võ Văn Sĩ, 1964
7 – Trung úy Chế
Văn Nghĩa, 1965
8 – Đại úy Hoàng Thanh Nhã, 1967
9 – Đại úy
Dan Hoài Bửu, 1970
10 – Thiếu tá Dương Bá Trát, 1974.
(3) Có hai giả thuyết về nguyên nhân gây ra cái chết của Đại úy
Lưu Văn Đức: thứ nhất, khung phòng phi cơ quá cũ đưa tới việc
cánh phải bị gẫy; thứ hai, đạn đại bác 20ly bị kẹt và phát nổ
trong ổ súng đã làm gẫy cánh phi cơ. Một số người còn đưa ra giả
thuyết thứ ba: phi cơ bị địch bắn hạ bằng súng phóng hỏa tiễn.
Một sự trùng hợp với giả thuyết thứ ba là sau đó không lâu, một
toán tuần tiễu của QLVNCH khi tới được chỗ phi cơ bị rớt, đã tìm
thấy một xác người cháy đen trong tay còn ôm khẩu súng phóng hỏa
tiễn (bazooka), cạnh đó là những mảnh vụn của xác phi cơ. Tuy
nhiên, về sau các viên chức điều tra đã không có đủ dữ kiện để đi
tới một kết luận chính thức về nguyên nhân gây ra tai nạn.
(4) Một số tác giả khi viết về T–28 đã viết rằng “Trojan” là
tên gọi kiểu huấn luyện, “Nomad” là tên gọi kiểu võ trang. Viết
như thế là không chính xác!
“Trojan” là tên nguyên thủy và
chính thức của T–28, kể cả loại sử dụng để huấn luyện lẫn loại
được cải biến thành khu trục – oanh tạc cơ hạng nhẹ. Chỉ có một
số nhỏ T–28A khi được cải biến để sử dụng trong Chương trình Viện
trợ Phòng thủ Hỗ tương (MDAP) mới có tên “Nomad”; còn lại tất cả
các loại T–28 khác, trong đó có loại T–28D của Phi Đoàn 1 Cảm Tử
(Hoa Kỳ) và Phi Đoàn 2 Khu Trục (VN) đều được gọi là “Trojan”.
Còn trong hồ sơ, văn kiện chính thức của Hoa Kỳ, tất cả mọi kiểu
T–28 đều mang tên “Trojan”.
(5) Cùng với cuốn USAF and
VNAF A–1 Skyraider Units of the Vietnam War của tác giả Byron E
Hukee, mới đây NT Trần Bá Hợi, người từng phục vụ tại Biệt Đoàn
83, và NT Nguyễn Ngọc Khoa (Khoa “đen”), nguyên Chỉ huy trưởng
Biệt Đoàn 83 (sau khi Thiếu tá Lưu Kim Cương xuống Cần Thơ thành
lập Biệt Đoàn 74, tiền thân của Không Đoàn 74 Chiến Thuật vào đầu
năm 1964), cũng xác nhận PĐ–522 không có trong tổ chức của Biệt
Đoàn 83, đồng thời danh xưng tiếng Anh của Biệt Đoàn là “83rd
Special Air Group” (SAG) chứ không phải “83rd Special Operations
Group” (SOG) như tác giả Robert C Mikesh đã viết trong cuốn
Flying Dragons.
Cũng nên biết, trong quân đội Hoa Kỳ ba
chữ viết tắt SOG là thay cho Studies and Observations Group, một
đơn vị đa năng đặc biệt tối mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam, trực
thuộc MACV, thường được gọi một cách đầy đủ là MACV–SOG.
Trang mạng Wikipedia viết:
“Established on 24 January
1964, the unit (MACV–SOG) conducted strategic reconnaissance
missions in the Republic of Vietnam (South Vietnam), the
Democratic Republic of Vietnam (North Vietnam), Laos, and
Cambodia; carried out the capture of enemy prisoners, rescued
downed pilots, and conducted rescue operations to retrieve
prisoners of war throughout Southeast Asia; and conducted
clandestine agent team activities and psychological operations.”
Trong số những số đơn vị phi hành của KLVNCH từng hợp tác với
MACV–SOG, nổi tiếng nhất phải là Phi Đoàn 219 Long Mã, call sign
“King Bee”, chuyên nghề thả Biệt Kích và cấp cứu các phi hành
đoàn lâm nạn. Năm 1972, cùng với việc Hoa Kỳ rút quân khỏi VN,
MACV–SOG bị giải thể.
* * *
NT Trần Bá Hợi hiện vẫn
còn giữ được phù hiệu “SAG” của Biệt Đội khu trục thuộc Biệt
Đoàn 83 mà các phi công mang trên vai áo bên phải, có hàng chữ
“THE LAST REAL FIGHTERS – 83 SAG”; tác giả của phù hiệu này là NT
Nguyễn Quốc Phiên.
Về nhân sự của
Biệt Đoàn 83, NT Trần Bá Hợi cho biết nguyên văn như sau:
“Phi công vận tải, quan sát, trực thăng, và khu trục đều từ các
đơn vị trong KLVNCH thuyên chuyển về BĐ 83. Nhưng tất cả đều qua
lời yêu cầu hoặc phải được sự đồng ý của Chỉ huy trưởng hoặc
Trưởng phòng Hành quân BĐ 83. Sau khi đã trực thuộc BĐ rồi thì
các phi công sẽ qua một chương trình huấn luyện đặc biệt để thi
hành những loại phi vụ theo ngành của đương sự... Riêng Biệt
Đội Khu Trục BĐ 83 thì ngay thời gian khởi sự được Huấn Luyện
Viên Hải Quân Hoa Kỳ (US Naval Air Commando) huấn luyện tại Việt
Nam bằng phi cơ A–1H...
Một số phi công khu trục như Trung
úy Phạm Phú Quốc (không thuộc BĐ 83), Thiếu úy Nguyễn Hữu Bách,
Thiếu úy Nguyễn Văn Long, Thiếu úy Nguyễn Quốc Thành... bay thực
tập những phi vụ truy kích với phi cơ A–1H, cần những sự chính
xác về thời gian, hướng bay, và cao độ thấp, cách mặt đất hoặc
mặt biển độ chừng 50 feet cho ban ngày và 200 feet cho ban đêm
qua Radar Altimeter, tức là cao độ chính xác từ mặt đất tới bụng
phi cơ, cất cánh lúc tờ mờ sáng để bay tập những phi vụ này để
sẵn sàng thi hành những phi vụ cảm tử trong tương lai, nhưng
chương trình này đã bị hủy bỏ.
Huy hiệu Thần Phong trên
thân phi cơ và chữ Cửu Sừng Cửu Sách, v.v. hai bên nắp đậy động
cơ (cowling) của phi cơ A–1H thuộc Biệt Đội Khu Trục của BĐ 83
là do sáng kiến của anh Nguyễn Huy Cương (Cương khào), một Phi
tuần trưởng khu trục thuộc BĐ 83.”
(6) Một tác giả viết
về F–5 cho biết như sau “... trên thực tế theo Đại úy Bob Terbet
trong ‘Air Enthusiast’ số 105 May/June 2003 thì lượng bom đạn F–5
trang bị trong các phi vụ hành quân tương đương với F–100”.
Theo chúng tôi, nếu có sự “tương đương” ấy là do F–100 mang
ít hơn số lượng cho phép. Tất cả mọi tài liệu chúng tôi tham khảo
từ trước tới nay, trong đó có Freedom Fighter (USA) – F–5A– USNI
Military Database, đều cho biết khả năng trang bị bom đạn của
F–5A là 6, 200lbs (2 812kg), trong khi của F–100 là 7040lbs
(3190kg).
(7)
Sau này người ta được biết chắc chắn công
việc cải tiến hệ thống vũ khí trên F–5 đã không kéo dài tới... 5
năm! Bằng chứng là khi chương trình Tăng Cường Thêm (Enhance
Plus) được tiến hành gấp rút vào cuối năm 1972, để có đủ số lượng
phản lực cơ trang bị cho KLVNCH, Hoa Kỳ đã “mượn tạm” F–5A, F–5B
của các Không Lực Nam Hàn, Đài Loan, Iran, và tất cả những chiếc
F–5A, F–5B này đều ĐÃ ĐƯỢC cải tiến hệ thống vũ khí. Suy ra, việc
Hoa Kỳ tạm ngưng cung cấp F–5 cho KLVNCH vào năm 1967, 1968 phải
có một nguyên nhân khó hiểu nào đó.
(8) Theo ký ức của một vị sĩ quan từng phục vụ tại Khối
Đặc Trách Khu Trục BTL/KQ, ngày ấy đã có kế hoạch thành lập hai
Phi Đoàn sử dụng F–4 Phantom II và sáu Phi Đoàn sử dụng A–10
Thunderbolt cho KQVN.
Chương trình F–4 sẽ khởi sự thực
hiện vào tháng 7 năm 1975: một số hoa tiêu F–5 nhiều kinh nghiệm
cùng với những hoa tiêu trẻ được gửi sang Hoa Kỳ để xuyên huấn
trên F–4. Kế tiếp vào khoảng tháng 9/1975 sẽ lần lượt gửi các hoa
tiêu A–37 sang Hoa Kỳ để được xuyên huấn trên A–10. Chương trình
“hẫp dẫn” này đã có trên giấy mực. Rất tiếc, vận nước sớm suy
vong!
(9) Nguyên nhân khiến phía Hoa Kỳ không tiết lộ tổng
số F–5E được chuyển giao có lẽ vì lúc đó việc “một đổi một” này
đã bị phía CSBV tố cáo là vi phạm Hiệp Định Paris: Hà Nội cho
rằng F–5E là một loại chiến đấu cơ mới, khác hẳn F–5A. Cũng nên
biết nguyên tắc căn bản trong việc “một đổi một” là “hàng cũ” và
“hàng mới” phải cùng một loại. Thế nhưng trong khi Hoa Kỳ âm thầm
đổi F–5E cho VNCH, một phi công F–5E (cấp tá) của KQVN khi được
các phóng viên tiếp xúc đã ra sức đề cao khả năng không chiến của
loại phi cơ mới, vô tình gây ra rắc rối ngoại giao. Sau đó, đích
thân Chuẩn tướng Võ Dinh, Tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh KQ, đã phải
mở một cuộc họp báo để “đính chính”, cho biết khả năng của F–5E
cũng chỉ tương đương với F–5A.
Đa số tác giả tin
rằng tổng số F–5E được chuyển giao cho KQVN là 40 chiếc, mà theo
Ralph Wetterhahn, tác giả bài viết “Escape to U Taphao”, chỉ có
21 chiếc F–5E bay được sang Thái Lan trong những ngày cuối tháng
4/1975. Như vậy số F–5E bị bỏ lại VN phải lên tới hàng chục.
Theo những
nguồn tin không chính thức, ít nhất đã có hai F–5E trong số bị bỏ
lại VN sau đó đã được tháo gỡ, chở sang Liên Xô để lượng giá. Tuy
nhiên, trong một tuyên bố chính thức, các giới chức thẩm quyền
của Hoa Kỳ cho biết trong số tất cả các loại phi cơ bị bỏ lại VN
không loại nào có những trang bị “tối tân tới mức phải quan ngại”
(khi bị lọt vào tay địch). Dĩ nhiên, với không ít người, “tuyên
bố chính thức” nói trên không đủ sức thuyết phục!
Sau đây
mời độc giả đọc thêm một đoạn mới được cập nhật hóa trên trang
mạng Wikiwand viết về số phận những chiếc F–5 bị lọt vào tay
CSVN:
“Khi miền Nam VN bị quân cộng sản Bắc Việt tràn ngập
vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, có khoảng 877 phi cơ bị lọt vào tay
địch. Trong số đó, nghe nói có 87 chiếc F–5A và 27 chiếc F–5E.
Tới tháng 11 năm đó, nhà cầm quyền CSVN đã ‘mời’ Liên Xô lựa chọn
bất cứ chiến cụ nào của Hoa Kỳ bị tịch thu đem về để lượng giá,
và Liên Xô đã đem một chiếc tàu tới chở một chiếc F–5, hai động
cơ (J–85) rời, tất cả các loại phụ tùng và thiết bị bảo trì về
Liên Xô. Một số F–5 khác được gửi tới Ba–lan, Tiệp–khắc để tìm
hiểu thêm về kỹ thuật hàng không của Hoa Kỳ, một số bị phế thải
được đem trưng bày tại các viện bảo tàng ở VN. Đoàn Khu Trục 935
thuộc Sư Đoàn 372 Không Quân Nhân Dân (CSVN) là đơn vị không quân
duy nhất trên thế giới vừa sử dụng MiG–21 vừa sử dụng F–5. Theo
thời gian, việc thiếu phụ tùng thay thế đã đưa tới tình trạng
toàn bộ F–5 bị cho nằm ụ. Nhưng mới đây, vào tháng 5 năm 2017,
nghe nói CSVN đang có ý định khôi phục một số để đưa vào hoạt
động trở lại.” (http://www.wikiwand.com/en/Northrop_F-5)
(10) Mặc
dù sau này cũng được bán cho một vài không lực “nhà nghèo”, lúc
ban đầu việc chế tạo A–37 Dragonfly chỉ nhằm mục đích duy nhất là
thay thế các khu trục cơ cánh quạt A–1 Skyraider đã quá cũ và
chậm chạp của KLVNCH. Nhiều người còn tin rằng chính vì được dành
riêng cho KQVN nên A–37 mới được người Mỹ đặt tên “Dragonfly” và
chương trình thử nghiệm A–37 tại chiến trường VN được gọi là dự
án “Combat Dragon”, chỉ vì con rồng là biểu tượng của KQVN!
(11)
Vào năm 2014, nhân đánh dấu 40 năm cuộc Hải chiến Hoàng Sa giữa
Trung cộng và VNCH, báo Thanh Niên ở trong nước đã đăng một loạt
bài về trận hải chiến này, trong số đó có bài phỏng vấn “Đại tá
CSVN Nguyễn Thành Trung”, tức viên Trung úy phi công F–5 phản bội
đã oanh tạc Dinh Độc Lập ngày 8/4/1975, và tới chiều 28/4/1975 đã
hướng dẫn bốn chiếc A–37 từ Phan Rang bay về oanh tạc Tân Sơn
Nhất.
Trong bài phỏng vấn, Nguyễn Thành Trung (NTT) đã bịa
đặt, thêu dệt nhiều tình tiết, phóng đại các dữ kiện với mục đích
để các thế hệ sinh sau đẻ muộn tin rằng ngày ấy việc “tái chiếm”
Hoàng Sa dễ như trở bàn tay, và đổ tội cho Tổng thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu đã không chịu cho tiến hành, không ngoài mục đích đánh
lạc hướng dư luận, để người dân quên đi cái “công hàm bán nước”
của CSVN do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958, nhìn nhận chủ
quyền của đàn anh Trung cộng trên toàn cõi biển Đông, trong đó có
Hoàng Sa.
Bài phỏng vấn NTT đã
bị nhiều cựu đồng đội, cấp chỉ huy cũ lên tiếng bác bỏ, vạch trần
mưu đồ “chạy tội” của chế độ CSVN.
Độc giả có thể tìm đọc
bài phỏng vấn cựu Thiếu tá Hồ Kim Giàu, nguyên Phi đoàn phó
PĐ–538, có thời gian giữ chức vụ quyền Phi đoàn trưởng PĐ–538
(khi Trung tá Phạm Đình Anh, Phi đoàn trưởng, đi du học), hiện
được Ủy Ban Hoàng Sa phổ biến rộng rãi trên các website của người
Việt hải ngoại, trong đó có Cánh Thép và Hội Quán Phi Dũng (tựa
đề: KQVNCH và cuộc hải chiến Hoàng Sa).
Riêng tác giả bài
viết này đã được cựu Đại úy phi công F–5 Phan Huy Bách, nguyên
Phi đội trưởng Phi Đội 1, PĐ–542 Kim Ưng, thuật lại nguyên văn
như sau:
“Về kế hoạch đánh trả đũa cuộc lấn chiếm Hoàng Sa
của Trung cộng thì trước Tết năm 1974, tôi về trình diện Bộ Tư
Lệnh KQ để làm thủ tục đi học khoá ‘Tactical Weapons Delivery
Instructor’, trong thời gian ở Bộ Tư Lệnh, tôi đã được gọi vào
Khối Đặc Trách Khu Trục và được chỉ thị tính khả năng của F–5 ra
Hoàng Sa tấn công chiến hạm của TC. Sau khi tính xong, tôi đã báo
cáo là F–5 có thể ra Hoàng Sa được nhưng có một số vấn đề cần
giải quyết như sau:
– Mặc dù F–5A luôn mang theo hai bình
xăng phụ ở đầu cánh và một bình xăng phụ lớn ở dưới bụng nhưng vì
khoảng cách ra Hoàng Sa quá xa nên sẽ phải mang thêm hai bình
xăng phụ lớn nữa ở dưới cánh.
– Máy liên lạc UHF trên F–5
sẽ ra ngoài tầm hoạt động để có thể liên lạc được với đài kiểm
báo Panama ở Đà Nẵng, do đó cần có một phi cơ bay giữa Đà Nẵng và
Hoàng Sa để relay [chuyển tiếp].
– F–5 có bốn pylon ở
dưới cánh nên khi phải mang thêm hai bình xăng phụ nữa thì chỉ
còn chỗ mang hai quả bom. Cũng vì khoảng cách xa nên chỉ có thể
mang hai quả bom nổ loại 250lbs.
– Thời gian trên vùng
không quá 15 phút và mỗi phi cơ chỉ làm hai pass để thả bom.
Người Mỹ ngoài việc không hỗ trợ cuộc trả đũa này còn cho
biết là Hạm Đội 7 ở trong vùng nếu có thấy được MiG của TC cất
cánh từ Hải Nam lên thì cũng sẽ không thông báo cho phía VN, và
họ cũng sẽ không tham gia việc cứu vớt phi công VN khi phải nhảy
dù xuống biển. Theo tôi, đây cũng là lý do khiến Tổng thống Thiệu
phải ra lệnh hủy bỏ kế hoạch này.”
(12) Chương
trình “tiết giảm” không chỉ dành cho Không Quân mà áp dụng cho
toàn thể QLVNCH. Chẳng hạn về phía Hải Quân, các hoạt động trên
biển bị giảm 50%, còn hoạt động trên sông ngòi giảm tới 72% (theo
Air War in Vietnam, Phil Chinnery, trang 182). Trong cuốn Not
With Guns Alone, một nhà báo Úc kể lại tại miền Tây, một Tiểu
đoàn VNCH đã bị địch tiêu diệt sau khi bắn hết đạn, và tại miền
Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ được cấp mỗi ngày 4 viên đạn!
Phần IV
Tài Liệu tham khảo
– Quân
Sử Không Quân VNCH (Liên Hội Ái Hữu Không Quân – Úc Châu, 2005)
– Phi Đoàn 1 Khu Trục, Nguyễn Quang Tri
– Phi Đoàn 1 Khu Trục,
Phi Đoàn 518 Phi Long, Phượng Hoàng Kim Cương
– Phi Đoàn 2 Khu
Trục, Trần Bá Hợi
– Sơ lược về sự thành lập các đơn vị Không
Quân, Trần Mạnh Khôi
– South Vietnamese Air Force, Jim Mesko
– Flying Dragons, Robert C Mikesh
– USAF and VNAF A–1
Skyraider Units of the Vietnam War, Byron E Hukee.
– Phi cơ
Phản lực và KQ/VNCH, Trần Lý
– Ký ức của các niên trưởng,
chiến hữu KQ: Trần Bá Hợi, Dan Hoài Bửu, Nguyễn Quí Chấn, Lê Như
Hoàn, Nguyễn Thiện Ân, Lê Tuấn Đạt, Phan Huy Bách, Hoàng Văn
Hùng...
KQ Nguyễn Hữu Thiện
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tkd sưu tầm
Đăng ngày Thứ Năm, February 20, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang