Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: Hồi ký Chiến trường
Tác giả: Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Để tưởng nhớ cố
Trung úy phi công khu trục Hoàng Phi Hùng, thứ nam Bác sĩ Hoàng Văn
Đức, đã “về với đất...” tại chiến trường An Lộc năm 1972.
Đồng thời, xin thân tặng các phi công Thái
Dương phi đoàn 530 khu trục, Pleiku, những “đao phủ thủ lừng danh”
của vòm trời Tam Biên với những định mệnh nghiệt ngã và đau đớn cuối
cùng...
Người sĩ
quan ban 3 thuyết trình xong, phòng họp hành quân của sư đoàn trở
nên im lặng lạ thường. Người ta nghe rõ được tiếng tíc tắc của chiếc
đồng hồ treo cuối phòng. Bỗng trung tá trung đoàn trưởng đứng dậy,
tiến lên bục thuyết trình. Ông là một sĩ quan trẻ, mới về nắm trung
đoàn chưa tới ba tháng. Áo quần ông nhăn nhúm, mắt ông ngầu đỏ, tóc
ông rối bời.
Đứng
trên bục, ông đưa mắt nhìn xuống phòng họp, đặc biệt ở dãy bàn có lố
nhố mấy chiếc áo bay. Cái nhìn của ông thật khó hiểu. Người sĩ quan
trung đoàn trưởng bộ binh trẻ tuổi đứng lặng yên như vậy một lúc.
Mấy ông phi công của Sư đoàn VI Không Quân tự nhiên thấy mình được
để ý, liền sửa thế ngồi, ngoan ngoãn nhìn lên.
Ông trung tá lên tiếng:
–Các ông tiểu đoàn trưởng của tôi chắc
biết hai ngày sắp tới sẽ quan trọng như thế nào rồi, khỏi cần phải
nói...
Rồi ông
mỉm cười. Nụ cười chẳng ai mong đợi nở lên lúc này không làm giảm
bớt được bầu không khí căng thẳng của phòng họp. Ông nói liền như sợ
mất đi cái giá trị của nụ cười mình vừa biểu diễn:
–Thuyết trình xong, tôi sẽ có vài lời tâm
tình với mấy anh em Không Quân một chút...
Mấy người mặc áo bay phía sau nghe tới đó
lại... sửa thêm thế ngồi một lần nữa, mặt mày ai nấy đều cố gắng làm
ra vẻ nghiêm trọng. Một trong những người mặc áo bay đó là Đại úy
Trần anh Trí, trẻ măng, phi tuần trưởng sáng giá nhất của Không Lực
Việt Nam vùng II chiến thuật, người vang danh là “đệ nhất đao phủ
thủ” của Phi đoàn Khu trục 530.
–Các anh em biết, cách đây vài ngày, tổng
thống ta vừa tuyên bố một câu rất... giật gân là chúng ta phải “đánh
giặc theo lối con nhà nghèo”...
Đây không phải là lần đầu tiên Trí đi họp
hành quân với bộ binh. Thông thường những buổi họp này rất giống
nhau. Mới đầu, sĩ quan ban 3 của trung đoàn hay sư đoàn lên thuyết
trình. Đại khái ông sẽ trình bày một lô tin tình báo như: Sư đoàn
sao vàng sư đoàn sao đỏ hay gì đó đã xâm nhập, trang bị những vũ khí
nặng đủ cỡ với những cái tên mà Trí không thể nào nhớ hết. Tiếp đến
là ý đồ “thâm độc” của địch, âm mưu cắt khúc này, đánh chỗ nọ. Phần
thứ ba là quân ta đang mở một cuộc hành quân tại tọa độ... Mục đích
của mọi cuộc hành quân, dĩ nhiên là để tiêu diệt và bao vây địch, là
“đánh chết mẹ nó ra”. Hào hứng nhứt là phần hội thảo và kế hoạch.
Sau đó, thông thường là một vị cấp bậc cao nhất trong phòng họp lên
cho chỉ thị hay phương thức tấn công và cuối cùng, trước khi chấm
dứt buổi họp thì thế nào cũng có màn yêu cầu khu trục yểm trợ tối
đa, hay trực thăng bốc cho thật đẹp, v.v.
Hôm nay, Trí thấy phòng họp có không khí
lạ vì ông trung đoàn trưởng này mới tinh. Gặp lần đầu là thấy chịu
liền. Trí nhận xét ông ta có khẩu khí hoàn toàn khác hẳn những ông
trước. Sĩ quan trẻ xuất thân từ lò Đà Lạt ra có khác. Dám chê tổng
thống là ăn nói giật gân thì ắt phải là “nhân tài.” Mà ông ta muốn
tâm tình gì với anh em khu trục đây, Trí thắc mắc.
–Anh em biết, tổng thống nói đúng, nhưng
chỉ đúng... một phần. Thứ nhất, trên chiến trường không có vấn đề
giàu nghèo mà chỉ có thắng bại, sống hay chết, tủi nhục hay vinh
quang. Nhưng, anh em cũng như tôi, chúng ta đều biết rằng từ ngày
hiệp ước ngưng bắn ký xong, chính phủ Hoa kỳ cúp bớt viện trợ cho
chúng ta rất nhiều...
Ông dừng lại một chút như chờ cho mọi
người thấm ý câu nói rồi tiếp tục:
–Tôi không ngu đến độ không biết những gì
đang xảy ra trên đất nước mình. Tiếp tế và tiếp liệu của chúng ta
càng ngày càng cạn đi. Ngay cả chiếc xe díp của tôi, thiếu cái bình
điện mà còm–măng cả tháng chưa có, phải lấy xe của người khác đi...
Nói như vậy để anh em hiểu tình hình bi đát như thế nào. Ngày xưa
chúng ta đánh giặc kiểu Mỹ, bây giờ, tôi không muốn nói chúng ta
phải đánh giặc kiểu con nhà nghèo, nhưng chúng ta phải đánh giặc
kiểu Việt Nam. Đúng. Tôi nhấn mạnh, đánh kiểu Việt Nam. Ý tôi muốn
nói là mình phải “Suy nghĩ ba lần trước khi bắn một trái pháo, suy
nghĩ bảy lần trước khi thả một trái bom...”
Thật là một câu “châm ngôn” nghe rất tới
nhưng không kém đau thương. Trí nhớ lại câu tục ngữ của người Pháp:
“Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” mà thuở xa xưa có lần thầy giáo đã
bắt chàng chép 500 lần vì tội ăn nói bạy bạ trong lớp.
Rồi ông trung tá trẻ tuổi xoay người, cầm
lấy cây thước, chỉ vào một cao độ trên tấm bản đồ treo phía sau.
Khỏi cần nhìn Trí cũng biết cái “hột lạc” mà ông ta nhắc đến là ngọn
đồi chiến lược 982 nằm ở phía bắc Kontum, nơi chàng đã đánh xuống
không biết [bao] nhiêu là trái bom suốt mấy năm qua. Ngọn đồi chiến
lược này là “con mắt” của thành phố Kontum. Ai đứng trên này có thể
nhìn thấy hết được thành phố. Ngày xưa ngọn đồi này được một đơn vị
LLĐB Hoa Kỳ trấn đóng, nhưng sau khi Mỹ rút đi thì ta và giặc thay
phiên nhau làm chủ ngọn đồi này.
–Trước khi đi vào chi tiết, anh em cho tôi
bắt đầu bằng câu này: Bằng mọi giá, vào lúc 1800 giờ ngày mốt, anh
em phải...”đem nó về cho tôi.” Để tôi lập lại một lần nữa lệnh của
tôi cho quý vị tiểu đoàn trưởng nghe rõ: Trễ lắm là 1800 giờ ngày
mốt, chúng ta phải chiếm được ngọn đồi này.
Ông đưa mắt nhìn xuống cuối phòng, nơi có
treo cái đồng hồ:
–Bây giờ là 17 giờ 45 phút. Các anh có 48
giờ 15 phút đúng để “đem” ngọn đồi đó về cho tôi.
Một “giàn” bốn ông tiểu đoàn trưởng và mấy
ông tá khác đen đủi sạm nắng trong bộ đồ nhà binh bạc màu ngồi ở bàn
đầu im lìm nhìn lên. Cũng như Trí, mấy ông tiểu đoàn trưởng này đâu
có lạ gì với cao điểm 982. Giày họ đã vẹt gót khắp “giang sơn” của
vùng hai chiến thuật, nhiều người bạn đồng đội của họ đã nằm xuống,
hoặc đã bị tàn phế để gìn giữ những địa danh vô nghĩa như tên của
ngọn đồi máu này.
–Sĩ quan ban 3 vừa trình bày cho các anh
biết tình hình địch. Với quân số 3 tiểu đoàn của ta tấn công 1 tiểu
đoàn của chúng, theo binh pháp thì quá ít. Con số lý tưởng là 7–1
chứ không phải 3–1. Anh em thấy chốt nó nằm dài dài bắt đầu từ dưới
chân đồi lên tới trên đỉnh. Mấy hôm nay bay trực thăng quan sát
chiến trường, tôi đã đi đến một kế hoạch tấn công như thế này...
Ông lật tấm bản đồ thứ hai. Trí nhìn lên
thấy toàn những ô vuông đánh dấu vị trí của quân bạn và địch.
–Trước khi tiếp tục, tôi xin giới thiệu
với anh em một nhân vật quan trọng của cuộc hành quân này.
Ông đưa tay ra, hướng về phía một người sĩ
quan bộ binh nãy giờ ngồi im lặng trong một góc phòng:
–Mời Trung úy An đứng dậy.
Một ông trung úy bộ binh trẻ tuổi, nhỏ
người đứng lên dơ tay chào mọi người. Tất cả đều quay nhìn nhân vật
được giới thiệu. Trí cũng nhìn sang và thoáng giật mình vì khuôn mặt
của người này thấy hơi quen quen. Chắc chắn Trí đã gặp hắn ở một nơi
nào đó...
–Tôi
xin giới thiệu với anh em, Trung úy An là đại đội trưởng đại đội 45
trinh sát của trung đoàn, đơn vị nắm phần quyết định cho trận đánh
này. Trung úy có thể ngồi xuống được rồi.
Trí nhìn người trung úy trẻ hơn tuổi mình
ngồi xuống và cố moi óc để nhớ xem đã gặp anh chàng này ở đâu.
Tất cả các đơn vị bộ binh từ cấp trung
đoàn trở lên, đều có một đại đội trinh sát. Hai chữ trinh sát thôi
đủ nói lên sự hiểm nghèo. Đơn vị này luôn luôn là con cưng của trung
đoàn trưởng. Trong quân đội, người ta không có thì giờ để đi “cưng”
bạy bạ. Được “cưng” thì phiền toái lắm. Những công tác nguy hiểm,
những công việc không ai làm nổi đều giao khoán cho mấy đứa con cưng
này. Vì thế, tuổi thâm niên trung bình của lính trong đại đội trinh
sát rất thấp và cấp chỉ huy thì thay đổi luôn luôn. Có vinh quang
nào mà không được xây bằng máu kìa?
Trí biết trung úy trẻ măng như vậy mà nắm
được đại đội trinh sát thì phải là “nhân tài.” Mà chắc phải là tài
lắm vì bộ binh ít có khi nào thèm biểu diễn mấy cái màn giới thiệu
vớ vẩn như vậy.
Vị trung tá chỉ vào một chỗ phía đông ngọn đồi tiếp tục:
–Nội trong sáng mốt, tiểu đoàn một phải
sẵn sàng ở tuyến xuất phát tại đây, tiểu đoàn hai bên này, tiểu đoàn
ba sẽ nằm ngay đây làm trừ bị và để chặn luôn quân cứu viện của
chúng nó nếu có. Khu trục tiền oanh kích xong là hai ông một và hai
cho chúng nó xung phong lên...
Tới đây, ông dừng lại, và nhìn xuống hàng
ghế có mấy chiếc áo bay. Cả phòng họp lại im lặng như tờ.
Rồi ông chỉ cây thước vào lưng chừng phía
Đông của ngọn đồi trên bản đồ, tiết lộ một bí mật bất ngờ:
–Vào khoảng giữa trưa hay tùy theo tình
hình cho phép, tôi sẽ cho thằng 45 Trinh sát nhảy vào đây, ngay chỗ
này này. Từ trên cao, chúng nó sẽ đánh xuống, vòng ra hai bên để bắt
tay với anh một và hai.
Cả phòng họp im lặng đến rợn người. Biết
ngay mà, trong quân đội, hễ có chút vinh quang thì thế nào cũng có
một cú “chết người” như vậy kèm theo.
–Tiểu đoàn một và tiểu đoàn hai phải ráng
làm cho đẹp. Mấy thằng nhỏ trinh sát của tôi đánh thọc xuống mà
không gặp được các anh để bắt tay thì hết đường quay lui...
Trí liếc mắt nhìn qua bàn ông Trung úy An,
thấy gã vẫn ngồi yên, bình thản.
Ông trung tá xoay người, bước vài bước tới
trước, thảy cây thước trên bàn thuyết trình rồi hỏi:
–Những chi tiết nhỏ khác, anh em có thể
liên lạc và phối hợp với ban 3 Trung đoàn để giải quyết. Có ai thắc
mắc gì không?
Một
ông tiểu đoàn trưởng bộ binh dơ tay lên liền.
–Mời anh.
–Thưa trung tá, trung tá vừa nói tiền oanh
kích, xin trung tá cho biết sẽ có bao nhiêu phi tuần và sẽ đánh vào
đâu?
Một nụ cười
gượng hiện ra trên khuôn mặt ông trung tá. Hình như ông biết câu hỏi
này sẽ được hỏi, và ông thì không muốn trả lời.
–Phòng không trợ Sư đoàn cho tôi biết
chúng ta sẽ có hai phi tuần A1 sẽ làm việc với chúng ta. Một phi
tuần tiền oanh kích và một phi tuần đánh yểm trợ tiếp cận.
–Vậy là chỉ có một phi tuần A1 tiền oanh
kích?
–Đúng, một
phi tuần A1.
Lần
đầu tiên kể từ khi bước vào đây, Trí nghe được những tiếng xì xầm to
nhỏ.
Trả lời xong
câu này, ông trung đoàn trưởng thấy nhói trong tim. Rừng núi tam
biên dày đặc, chúng nó lại có công sự phòng thủ vững chắc, hai chục
phi tuần còn chưa thấy thấm thía vào đâu thì hai phi tuần nghĩa lý
gì? Lính của ông làm sao đánh giặc nổi? Ông lại nhớ đến những ngày
còn quân đội Đồng Minh yểm trợ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên thì
nào là “F–4”, “F–111” đủ thứ “F” bay trên trời, thậm chí nếu muốn có
cả B–52 cũng được. Nhưng tình thế bây giờ đã khác rồi.
Ông trung tá gõ nhè nhẹ ngón tay vào bục
thuyết trình. Chờ cho phòng họp trở lại yên lặng, ông tiếp:
–Các anh em có nhớ khi bắt đầu buổi họp,
tôi có nói là tôi có vài lời muốn tâm tình với anh em Không Quân?
Ông dừng lại một chút rồi tiếp tục:
–Lời tâm tình rất chân thật của tôi với
anh em Không Quân là: Mong anh em ráng giúp chúng tôi. Anh em biết
pháo của ta bắn không xa bằng pháo địch, chúng ta lại không được
chọn chiến trường. Vậy, sự chiến thắng tùy thuộc rất nhiều vào các
anh em Không Quân. Nếu anh em cố gắng giúp, chúng tôi sẽ tiết kiệm
được rất nhiều xương máu của binh sĩ tôi, bằng không, chúng tôi vẫn
đánh được chúng nó, nhưng cái giá của chiến thắng có thể sẽ rất
mắc...
Đi họp
hành quân đã bao lần, Trí chưa bao giờ nghe được một lời nói thống
thiết của một vị chỉ huy như ngày hôm nay. Trí nhìn lên bục chỉ huy.
Chàng cảm thấy khâm phục hơn khi nhận ra vẻ bơ phờ mệt mỏi của ông
trung đoàn trưởng trẻ tuổi. Mắt ông quầng sâu vì thiếu ngủ, áo quần
nhăn nhó dính đầy bụi đỏ cao nguyên.
Ông kết luận:
–Nếu không còn gì, anh em có thể ra về
liền bây giờ để chuẩn bị cuộc hành quân. Mong anh em hiểu rõ những
gì tôi nói. 18 giờ ngày mốt, chính tôi sẽ có mặt trên đỉnh ngọn 982.
Cám ơn tất cả các anh em.
Từng người một, họ từ từ rời phòng họp,
không ai nói với ai một câu nào. Ngay cả những cái bắt tay thông
thường cũng không có. Trí đón được Trung úy An khi hắn vừa leo lên
xe díp:
–Tôi thấy
anh quen quen.
An
cũng nói:
–Tôi
thấy đại úy cũng quen quen... Đúng rồi, phải hồi xưa đại úy học
Lasan Tabert không?
Trí cười hớn hở:
–Tôi nhớ ra rồi, anh học Lasan Tabert sau
tôi hai lớp phải không?
–Dạ phải. Đại úy hay lái chiếc Vélo Solex
đen. Ngày đại úy tình nguyện đi lính Không Quân, cả trường đều
biết...
–Gọi tôi
là anh đi, đại úy mẹ gì... Có rảnh không, mình ghé vào câu lạc bộ
này làm một ly cà–phê?
–Dạ rảnh thì không nhưng với đại úy thì
được.
–Đại úy mẹ
gì, mình học chung trường, gọi anh em cho tiện.
Trí quay lui kêu mấy người bạn mình về
trước rồi cùng An bước vào câu lạc bộ. Khi người hầu bàn xuất hiện,
thay vì gọi cà–phê, Trí dơ 2 ngón tay:
–Cho hai chai 33 đi “cưng”...
Hai người nói đủ chuyện đời xưa của tuổi
học trò yêu dấu. Trí hỏi:
–Ông tình nguyện đi lính à?
–Dạ không... Ngu gì. Em thi rớt tú II hai
lần, bị lọt sổ phong trần.
Trí uống một ngụm bia:
–Ông làm gì mà trung đoàn trưởng để ý dữ
vậy? Vài hôm nữa được thay lon là cái chắc.
An lắc đầu, cười:
–May mắn thôi anh. Ông này hồi trước là
tiểu đoàn trưởng của em. Năm 72, tiểu đoàn bị chúng nó vây kín ở Võ
Định, tưởng tan hàng rồi. Tối đó, ổng dụ em: “Đù mẹ đàng nào cũng
chết. Tụi nó vây mình mấy ngày nay rồi, đang chắc ăn như bắp. Tối
nay chú mày bất ngờ dắt lính đột kích thẳng vào bộ chỉ huy chúng nó.
Không xanh cỏ thì thế nào cũng đỏ ngực. Tao sẽ thừa cơ đánh thốc ra,
mình có hy vọng dọt về...”
Nghe như chuyện thời tam quốc. Trí hỏi:
–Rồi có đỏ ngực được không?
–Không nhưng tụi em đánh một trận ra gì,
phá tan nát bộ chỉ huy của chúng nó. Tiểu đoàn thoát về được gần
hết... Ổng lên nắm trung đoàn là giao trinh sát cho em liền.
–Làm ăn gì được chưa?
An mồi điếu thuốc, lý luận:
–Đại đội còn nhiều lính mới quá. Người cũ
chết hết rồi. Từ sĩ quan xuống tới lính, ông nào thâm niên nhất là 6
tháng chiến trường. Cần phải huấn luyện nhiều thì mới đánh giặc tới
được.
–Bây giờ
sẵn sàng chưa? Đủ khả năng để từ trên đánh thốc xuống chưa?
–Nói sẵn sàng thì chẳng bao giờ được như ý
mình cả, nhưng cũng tạm được. Nhưng em có thể bảo đảm với anh là
trận này mình nhất định thắng.
–Chắc ăn vậy? –Có gì đâu, ông trung đoàn
trưởng đánh “xa luân chiến”, đem mấy tiểu đoàn thay phiên nhau quần
chúng nó cả tháng nay rồi, bây giờ xông vô dứt điểm làm sao chúng nó
chịu nổi?
Trí
uống cạn ly bia, tính kêu thêm thì nghe tiếng gọi tên mình. Tưởng
ai, té ra Thiếu tá Quân, người bạn thân trong phi đoàn đang lù lù
bước vào. Ông tướng này từ ngày đeo lon thiếu tá làm việc gì cũng có
vẻ nghiêm trọng như... đi hỏi vợ.
–Bố Trí, tụi tôi kiếm bố mãi.
–Kiếm làm gì, ngồi xuống đây làm một ly
đã.
Quân lắc đầu,
giọng có vẻ nghiêm trọng, pha lẫn một chút buồn phiền:
–Phi đoàn trưởng kêu về họp liền, có
chuyện không hay rồi.
Nhìn sắc mặt và lời nói, Trí biết Quân
không đùa. Chàng gọi bồi tính tiền nhưng An cản lại:
–Anh để đó cho em.
Khỏi cần khách sáo từ chối, Trí đứng lên
ngay, siết chặt tay An:
–Chúc ông may mắn. Ngày mốt tôi sẽ cố gắng
đánh thật đẹp cho ông.
–Cám ơn anh. Anh ráng đánh cho đẹp giùm.
Chỉ sợ trực thăng đáp không được. Nếu chạm được đôi bốt đờ sô xuống
đất, con cái sẽ làm đẹp.
–OK. Hẹn lúc khác mình gặp lại.
Ngồi bên phải chiếc pick up do Quân lái,
Trí hỏi dồn dập:
–Có chuyện gì mà gấp vậy mày, lâu lâu gặp lại một người bạn học cũ
mà mày cũng không cho tụi tao có thì giờ uống với nhau vài chai bia.
Quân im lặng. Trí biết xưa nay ông phi
công này là một người có tật ham đấu. Chuyện gì cũng vậy, chưa ai
hỏi là đã mở miệng ra bô bô lên rồi. Vậy mà hôm nay hắn câm như thế
thì nhất định là có chuyện rồi, mà phải là chuyện lớn chứ chẳng
chơi. Trí thắc mắc:
–Có việc gì thế? Hay có thằng nào mới rớt
tàu?
Quân vẫn im
lìm không nói gì. Quái lạ, phi đoàn lâu lâu cũng có đứa “đi không ai
tìm xác rơi” mà Quân đâu có phản ứng kỳ cục vậy? Vào phi trường, Trí
nhìn thấy những chiếc khu trục A1 nằm im lìm thành từng dãy. Dưới
trời chiều cao nguyên đang tắt nắng, coi chúng oai hùng như những
con mãnh hổ đang nằm thiêm thiếp ngủ sau một ngày chiến đấu oanh
liệt.
Tự nhiên,
Trí để ý thấy hai hàng nước mắt ứa ra từ đôi mắt Quân. Quen biết
Quân từ bao nhiêu lâu, chàng biết bạn không phải là hạng mau nước
mắt. Ngày thằng Sanh, bạn thân nhất của Quân bị SA–7 bắn nổ tung
giữa trời, hắn đã không khóc. Nhất định phải có chuyện lớn rồi. Đù
mẹ bạn bè với nhau từ đời nào, có cái gì không biết mà lại giấu kỹ
vậy. Trí bực tức, gầm lên:
–Có chuyện gì? Đù mẹ có chuyện gì thì nói
mẹ nó ra, sao mày cứ giấu tao. Đù mẹ lớn hết rồi, đủ sức lái tàu bay
đánh giặc thì đủ can đảm để nghe bất cứ nguồn tin nào dù nó bi thảm
đến đâu. Mày nói đi, thằng nào vừa chết?
Quân thắng xe, quẹo vào bờ cỏ rồi tắt máy.
Vẫn không thèm nói năng gì, chàng leo xuống, bước từng bước một tới
phía hàng rào, đứng nhìn vào bãi đậu có những chiếc khu trục A1 của
phi đoàn. Trí lắc đầu, mở cửa phóng xuống theo.
Đứng bên cạnh Trí nơi hàng rào, Quân lắc
đầu nói:
–Chẳng
có đứa nào trong phi đoàn mình chết cả...
Rồi chàng đưa tay chỉ vào những chiếc tàu
bay, giọng nói thẫn thờ như người mất hồn:
–Đúng ra, tất cả những con chim kia đều
sắp chết hết. Chúng nó đều sắp sửa bị bức tử hàng loạt, chỉ trong
vòng vài ngày thôi.
Trí kinh hoảng:
–Mày nói gì? Ai giết chúng nó? Không có nó
thì mình làm sao sống được?
Lần này thì hai hàng nước mắt Quân xuất
hiện rõ ràng trên gò má:
–Bộ tư lệnh vừa đánh điện ra, cho lệnh
ground [lệnh cấm cất cánh/không được phép bay] hết tất cả phi cơ của
phi đoàn mình.
Trí gầm lên, phẫn nộ:
–Ground, ground, đù mẹ lệnh lạc c[ặc]...
gì mà ngu vậy? Chúng nó vừa mở một loạt các cuộc tổng tấn công ở
khắp nơi. Tại sao lại ground?
Giọng Quân lạc đi, chua xót và buồn thảm:
–Đơn giản lắm: Hết xăng và không có phụ
tùng thay thế. Không ground thì cũng chẳng kiếm đâu ra xăng mà bay.
Chính phủ không còn đủ xăng cho khu trục cơ A1 nữa. Phi vụ của mày
là phi vụ cuối cùng. Sau đó, A37 sẽ bao vùng. Chúng nó xài Jet Fuel,
nên còn nhiều...
Không còn gì để cãi nữa. Trí đưa hai tay bưng lấy mặt. Cái tin này
quả kinh khủng hơn chàng nghĩ. Có sống đến một ngàn năm nữa, Trí vẫn
không tưởng tượng được chuyện này sẽ xảy ra. Dù từ ngày hiệp ước
ngưng bắn ký, Trí đã biết tiếp liệu của quân đội bị cắt rất nhiều.
Tàu bay hư không có cơ phận thay thế, phải lấy từ chiếc này để sửa
chiếc khác. Bom đạn nếu không đánh được thì phải đem về mà đáp.
Nhưng ai có thể ngờ được lại có một ngày như hôm nay. Ngay đến cả
xăng cũng không còn.
Trí hỏi Quân, lần này thì chính giọng của
chàng lạc đi:
–Mày nói thật, mày không đùa dai với tao đấy hả Quân?
Quân không trả lời nhưng Trí cũng biết là
bạn mình không đùa. Ai thèm đùa cái chuyện đau thương như vầy. Chàng
hỏi để mà hỏi, buồn quá mà hỏi. Chẳng cần nghe trả lời.
Hai người phi công khu trục đứng yên lặng
bên nhau cạnh hàng rào, nhìn đăm đăm vào nơi bãi đậu phi cơ. Dưới
những tia nắng yếu ớt của trời chiều cao nguyên, đoàn khu trục cơ A1
vẫn nằm im lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng cao cả và oai hùng như những con
cọp già trở về hang mình nằm yên chờ chết sau một đời tung hoành
ngang dọc...
Trí
thấy đôi mắt mình ngứa ngứa, chàng đưa tay lên chùi theo phản ứng và
nhận ra là mặt mình đã đầm đìa nước mắt...
Cả hai người đứng đó thẫn thờ nhìn vào đàn
chim sắt và đốt thuốc lá liên miên cho đến khi mặt trời lặn, phi
trường lên đèn. Cuối cùng, Trí hỏi:
–Mày kêu tao về họp cũng chỉ để nghe
chuyện này thôi phải không?
–Ờ. Nhưng giờ này thì họp hành gì nữa, trễ
rồi.
Trí quay lại
nhìn Quân, giọng chắc nịch:
–Vậy thì đi. Đù mẹ đi. Mày đi với tao ra
phố, tao cầm cái đồng hồ rồi hai đứa mình kiếm một chỗ nào ngồi uống
rượu tới sáng để ghi nhớ ngày đại tang của mấy con chim sắt yêu quý
này.
–Sáng mốt,
tao và mày sẽ dẫn hai phi tuần đánh 2 phi vụ cuối cùng...
Hai người trở lại, leo lên chiếc pick–up.
Lần này Trí lái. Chàng sang số nhấn ga, miệng vẫn còn lẩm bẩm:
–Phi vụ cuối cùng...
Sáng ngày N, ngày tấn công đồi 982, Trí
thức dậy vào lúc 5 giờ. Tối qua, chàng thức đến 3 giờ sáng để biên
lá thư gởi cho Trang, người yêu của Trí. Trí có một thói quen đáng
yêu là những khi gặp chuyện buồn bực, chàng hay lấy giấy bút ra để
biên thư tâm sự cho người yêu. Mỗi lần gởi lá thư đi, Trí cảm thấy
tâm hồn nhẹ nhõm thư thái. Tối qua, Trí viết thư cho Trang như sau:
Pleiku ngày 24 tháng 10, năm 1974
Trang yêu dấu,
Nhận được thư anh, chắc thế nào em cũng
nhăn mặt nói: “Mon petit prince lại có tâm sự u uẩn rồi đây...”
Không, lần nay em trật lất. Chiều nay biên thư cho em, anh chẳng có
tâm sự gì u uẩn cả mà chỉ có một tin buồn muốn nói cho em biết. Nghe
xong, anh cấm Trang không được khóc, không được than vãn gì cả vì
phần số nước mình nó như vậy rồi em ạ.
Em biết là anh mê nghiệp bay bổng như thế
nào rồi. Anh mê lái tàu bay như người nghiện á phiện nhớ thuốc. Đối
với anh, đời anh, kể từ ngày anh được đeo cánh, anh chỉ biết có một
cách sống. Đó là sống ngang dọc trên trời, trong không gian bát
ngát, với mây ngàn gió lộng...
Nhưng, khốn nạn thay, tất cả những chuyện
đó sắp hết rồi Trang ơi. Bộ tư lệnh vừa ra lệnh ground tất cả các
phi cơ của phi đoàn anh lại. Tại sao em biết không? Vì một lý do mà
có sống đến ngàn năm anh cũng không thể nào ngờ được: Mình không còn
loại xăng đó cho phi cơ nữa.
Nhưng em đừng vội sợ cho anh thất nghiệp.
Quân đội không bao giờ để cho những phi công như bọn anh ngồi chơi
xơi nước. Bọn anh sẽ được thuyên chuyển qua các phi đoàn khác để bay
A37, loại phi cơ phản lực mà anh thường gọi là “tàu bay con rệp” vì
nó có hình dáng giống con rệp.
Chắc em sẽ thắc mắc, tàu bay gì cũng là
tàu bay, sao lại u buồn quá sức như vậy?
Trang yêu dấu,
Em chưa bao giờ lái tàu bay, nên em chắc
sẽ không thể hiểu được sự ràng buộc kỳ lạ giữa con người và chiếc
phi cơ mình đang lái. Mỗi lần cất cánh đem tàu lên cao giữa không
gian bát ngát, với mây ngàn và gió lộng, anh luôn luôn coi chiếc phi
cơ của anh là một con thiên mã mà anh là người chiến sĩ cỡi nó. Nó
đã gần gũi anh suốt bao nhiêu năm qua, đã cùng anh xông pha khắp nơi
trong cõi sơn hà, đã chia sẻ với anh từng hòn tên mũi đạn, đã đem
vinh quang đến cho anh khi chiến thắng, cũng như đã cùng anh nghẹn
ngào xót thương khi nhìn thấy bạn mình tan nát giữa trời...
Anh nhớ mãi một lần, sau trận yểm trợ tiếp
cận đồn Dakto, con thiên mã bị bắn rách bươm. Nó khục khặc, nó ho ra
khói, nó mửa ra dầu nhớt văng đầy cả kính tàu bay. Vậy mà, dù sắp
chết, nó vẫn gượng hết sức tàn để khập khễnh đưa anh về bến đậu. Em
biết không, khi anh leo xuống tàu, nhìn thấy thân thể nó rách tươm,
thịt da nát nhừ từng chỗ mà cảm giác như chính người mình bị ai dày
xéo hành hạ. Lớn nhỏ gần một trăm lỗ đạn, chắc gì ai sẽ vá nổi. Và
anh đã ngậm ngùi khi biết người ta quyết định đưa nó vào ụ phế thải
để chết già ở đó...
Sáng ngày mai, anh sẽ cỡi con thiên mã yêu
dấu của anh một lần cuối cùng. Sau đó, người ta sẽ leo lên bịt mắt
nó lại, lấy vải phủ kín thân người nó như người ta tẩm liệm những
xác chết. Anh còn nhớ, khi làm lễ đón nhận nó từ tay những người bạn
Hoa Kỳ, chúng ta đã mở party, đã khui sâm–banh, đã đọc diễn văn diễn
từ rất là long trọng. Bây giờ, sau bao nhiêu năm góp công sức để gìn
giữ và phục vụ Tổ quốc chúng ta, chúng ta chôn sống chúng đồng loạt
mà không thổi được một hồi kèn đưa linh... Riêng anh, ngày mai đi
bay về, anh sẽ đốt cho chúng nó vài cây nhang rồi cắm trong phòng
lái. Người Việt Nam mình vốn trọng lễ nghĩa tình cảm mà em, anh
không thể bạc như thế được.
Trang,
Cổ truyện có nhiều điển tích mà khi còn bé
anh không thể nào hiểu nổi, như chuyện Chung Bá Nha và Trương Tử Kỳ.
Chắc em còn nhớ chuyện này. Bá Nha đánh đàn hay, và Tử Kỳ thì biết
nghe đàn nên hai người trở thành tương đắc. Một ngày, Bá Nha nghe
tin Tử Kỳ chết, ông liền đập cây đàn vất đi và từ đó về sau chẳng
bao giờ rờ tới đàn nữa. Hồi còn đi học, anh luôn luôn cho rằng là
Chung Bá Nha đã quá “quân tử tàu”. Chiều hôm kia, khi đứng với anh
Quân nơi hàng rào để ngắm nhìn những chiếc khu trục sắp sửa bị bức
tử, anh đã thấm thía hiểu được tâm trạng đau khổ của Chung Bá Nha
ngày nào. Và, Trang ơi, có lẽ em không thể nào hiểu nổi nhưng anh
lại đang có một tâm trạng như Chung Bá Nha ngày xưa vậy. Nếu không
lái được A1, anh có lẽ sẽ chẳng bao giờ thèm lái một thứ tàu bay nào
khác nữa. Có lẽ anh sẽ xin xuống đất để chôn đời mình trong bốn bức
tường, treo một chiếc áo bay đen trong văn phòng để cho thiên hạ
biết là ta đây cũng đã một thời “cỡi gió lướt mây” như ai, và sống
bình dị âm thầm như những anh công chức nhà binh khác. Hoặc anh sẽ
xin ra bộ binh, hay, khốn nạn hơn, anh sẽ đào ngũ...
Nói vậy thôi nhưng anh biết nỗi buồn nào
cũng qua đi, nỗi nhớ thương nào rồi cũng theo thời gian mà âm thầm
chìm xuống, kể cả sự mất mát này. Anh không viết lá thư này chỉ để
nói bấy nhiêu. Điều làm anh lo sợ đến mất ăn mất ngủ là, Trang ơi,
nếu ngày hôm nay chúng ta không có đủ xăng cho phi cơ A1 thì ai dám
chắc rằng ngày mai chúng ta sẽ còn đủ xăng cho phi cơ A37? Anh theo
dõi báo chí hằng ngày và mơ hồ cảm thấy một ngày như vậy sẽ xảy ra.
Chỉ cần nghĩ đến đó là anh thấy lạnh mình. Anh muốn nhấn mạnh một
lần nữa cho em hiểu là anh như mơ hồ nhìn thấy một chuyện gì đại bất
hạnh sẽ xảy ra cho đất nước mình. Anh thấy như vậy.
Bây giờ là 1 một giờ sáng. Chỉ còn vài
tiếng đồng hồ nữa là anh lên yên ngựa để rong đuổi nơi cõi trời
thênh thang lần cuối cùng với con thiên mã yêu dấu của anh. Anh
thường nói với em, đời anh, anh chỉ biết một cách sống. Anh hiểu,
khi anh đem tàu trở về đáp, đời anh sẽ chẳng còn bao giờ như xưa
nữa. Sau ngày mai, cả em nữa, chúng mình phải bắt đầu học lại từ đầu
để sống một cách khác... Một cách sống khác mà chúng ta chưa bao giờ
biết tới, chưa bao giờ nghĩ đến...
Trước khi dừng bút, Trang này, anh có bao
giờ nói là anh yêu em chưa nhỉ? Anh quên rồi. Nếu chưa, cho phép anh
tâm tình là “Anh yêu em từ lúc mới gặp em”. Còn nếu đã, thì cho anh
nói thêm là, anh chưa bao giờ thấy mình cô đơn và cần em như sáng
hôm nay...
Bức
hình em tặng hồi tết, anh để trong bóp, nằm ngay trong túi áo bay
bên trái, sát ngay trái tim anh.
Yêu em,
Trần anh
Trí
Đọc lại lá thư
thêm một lần nữa, Trí bỏ vào phong bì rồi dán lại, viết địa chỉ lên.
Vừa cất lá thư vào túi, Trí chợt nhớ đến một điều gì, liền phóng như
bay chạy ra ngoài nhìn lên trời. Hãy còn tối mịt, chưa thấy gì cả.
Trí chỉ sợ thời tiết xấu, phi vụ bị trì hoãn thì coi như không cất
cánh phi vụ cuối cùng được. Đúng hơn, Trí sợ người ta cúp luôn cái
phi vụ cuối cùng của chàng. Thời buổi này, lệnh lạt ra rất bất ngờ,
bất cứ chuyện gì cũng có thể thay đổi.
Trí là người có mặt đầu tiên trong phi
đoàn. Ông thiếu úy sĩ quan trực đêm còn đang nằm ngủ ngáy khò khò
trên đi văng, cây P–38 để dưới tấm nệm lòi cán ra ngoài làm như đang
ở trong rừng vậy. Những anh chàng thiếu úy sữa mới về phi đoàn luôn
luôn là như vậy. Thích mặc áo bay đi tán gái, thích đeo súng trệ trệ
như Dăng–gô trong phim cao bồi và vô tư yêu đời một cách hồn nhiên,
chân thật. Trí lắc đầu cười và nhớ lại lúc chàng mới ra trường, cũng
trực phi đoàn và cũng nằm ngủ như vậy ban đêm. Chàng bỏ lá thư vào
hộp thư, nhẹ nhàng đánh thức sĩ quan trực dậy rồi gọi điện thoại lên
phòng khí tượng để xin tiên đoán thời tiết trong ngày.
Tốt. Trời hôm nay tương đối khá, tuy buổi
sáng có mây broken ở khoảng 8000 bộ. Trí trao đổi vài câu nói bâng
quơ với người sĩ quan trực rồi lặng lẽ qua phòng locker để trang bị
phi hành.
Vừa
xách nón ra khỏi phi đoàn, nhìn thấy một dàn phi cơ A1 nằm im lìm
dưới ánh đèn của bến đậu, Trí lại thấy nhói trong tim. Dù đã chuẩn
bị trước, tâm hồn Trí vẫn không tránh khỏi những thổn thức.
Sinh hoạt của phi đạo hôm nay cũng có một
vẻ buồn thảm lạ lùng. Không khí tang tóc như bao trùm cả không gian.
Những người cơ khí viên xưa nay ưa cười ưa nói vậy mà bây giờ mặt
mày ai nấy cũng thấy ủ rũ. Ủ rũ đến độ Trí phải bắt chuyện với họ để
kiếm vài nụ cười.
Trí leo cánh con tàu được cắt cho chàng
bay ngày hôm nay: chiếc NB 167. N–B tức November–Bravo, đọc theo âm
thoại truyền tin của hàng không thế giới, hay “Non Nước–Bắc Bình”
theo âm thoại của QLVNCH. Trí vừa đẩy kiếng cockpit
[buồng lái] ra
sau vừa lẩm bẩm: “Non Nước Bắc Bình, Non Nước Bắc Bình...”
Mặt trời rồi cũng từ từ ló lên ở đằng xa.
Trí chầm chậm làm các phương thức tiền phi
[preflight checks] của
người phi công trước khi cất cánh. Chàng làm việc chậm rãi và trịnh
trọng như ông linh mục thi hành các nghi lễ thờ phượng ở trong nhà
thờ.
Kiểm soát
trong phòng lái xong, Trí leo ra, đứng trên chiếc cánh đầy dầu mỡ
của chiếc phi cơ, nhìn lên những cao độ chập chùng của dãy Trường
Sơn mờ mờ sau làn sương mỏng. Núi non hùng vĩ như thế này, giang sơn
cẩm tú như thế này mà biết chừng nào mới được gặp lại? Gió cao
nguyên buổi sớm thổi phần phật vào chiếc khăn quàng cổ màu trắng của
chàng...
Trí leo
xuống tàu, đánh một vòng thật chậm chung quanh để kiểm soát tiền
phi. Chàng gõ gõ vào thân tàu mà cảm thấy như mình đang vỗ vào lưng
một người bạn già thân thiết. Càng vỗ thì lòng càng thấy dâng lên
một niềm nhớ thương và tiếc nuối vô vàn. Rồi không cầm được, nước
mắt Trí tự nhiên ứa ra. Ôi, hỡi con tàu vô tri giác, không biết
ngươi có linh hồn hay không mà sao làm cho lòng ta xao xuyến quá
đỗi. Trí có cảm giác như mình là người nông phu cần mẫn vì túng quẫn
đành phải đem con trâu yêu quý nhất đời ra chợ bán. Trí vuốt ve thân
tàu, nghẹn ngào tâm sự: “Người bạn già thân thiết, người bạn đã cùng
tôi sống qua một quãng đời, tôi biết nói gì để diễn tả hết tâm trạng
của tôi cho bạn hiểu? Bạn là sản phẩm của một nền văn minh giàu
mạnh, một quốc gia phú cường bậc nhất thế giới. Còn tôi, một ‘anh
lính’ của một nước nghèo. Bạn đã đến đây từ một chân trời xa lạ và
chúng ta đã trở thành một đôi bạn thân khắng khít. Bạn và tôi, chúng
ta đã cùng nhau chia sẻ những giây phút vinh quanh cũng như những
khoảnh khắc u buồn để làm hết bổn phận mình, đã cùng nhau chia ngọt
sẻ bùi qua bao nhiêu ngày tháng. Tôi biết rằng trước sau gì chúng
mình sẽ có ngày chia tay nhau nhưng không ngờ lại trong một hoàn
cảnh như thế này. Sau chuyến bay này, người ta sẽ xếp cánh bạn, đẩy
vào ụ để bạn chìm vào quên lãng...”
Trí đã ra đến đầu phi cơ, đưa tay cầm cánh
quạt và ngước nhìn lên đầu máy như ngắm nhìn một kiệt tác bất hủ,
một kỳ công tuyệt hảo của nhân loại: “Số phận bạn vậy, còn tôi chưa
chắc đã hơn gì. Tôi cũng không biết ngày mai đời mình sẽ ra sao?”
Trí vuốt ve thân cánh quạt: “Thôi, dù sao
thì cũng xin chúc bạn được yên nghỉ an bình. Sinh Ly Tử Biệt bạn ạ.
Bạn đã làm xong bổn phận của mình. Còn tôi, bạn biết, vẫn còn trách
nhiệm nặng nề của một người trai thời loạn. Tôi sẽ bay một loại phi
cơ khác...”
Trí
nhìn ra xa, nơi mặt trời vừa từ từ ló dạng đàng sau dãy Trường Sơn,
giọng đanh lại: “Tôi sẽ chiến đấu đến giây phút cuối cùng để bảo vệ
quê hương tôi. Nếu ngày nào đó, không còn điều kiện để bay nữa, tôi
sẽ xuống đất cầm súng. Hoặc, ví dù có ngày chẳng còn súng đạn nữa,
chúng tôi sẽ mài đá làm dao để bảo vệ mảnh đất thân yêu này...”
Chừng mười lăm phút trước giờ phi tuần thứ
nhất cất cánh, Trí, Quân, Dương và Hiển tụ tập chung quanh tấm bản
đồ trải trên mặt đất. Quân bắt đầu phần briefing:
–Mấy ông biết hết mục tiêu rồi, ngọn đồi
này đây, đánh nó cả ngàn lần rồi, còn lạ gì nữa. L–19 sẽ cho biết
đích xác đánh chỗ nào. Thời tiết sáng nay tương đối tốt, có một ít
mây broken ở khoảng 8 ngàn bộ. Mình sẽ piqué từ trên 8000. Quân báo
cho biết phòng không của chúng nó rất dữ dội, đan kín bầu trời.
Ngoài hỏa tiễn tầm nhiệt SA–7, lần đầu tiên họ ghi nhận có đại bác
phòng không 100ly bắn bằng Ra–đa. Súng này bắn cả B–52 cũng rớt chứ
nói gì khu trục mình. Anh em nên cẩn thận, có gì thay đổi L–19 sẽ
thông báo thêm. Có ai hỏi gì không?
Ngừng một chút, Quân nhìn Trí tiếp:
–Tôi và Hiển sẽ bay phi tuần đầu, đánh
tiền oanh kích. Ông Trí và ông Dương bay phi tuần thứ hai đánh yểm
trợ tiếp cận. Còn ai có ý kiến gì không?
Bốn năm cái đầu... phi công cùng cúi xuống
im lìm, không ai nói với ai một lời nào. Quân chép miệng than:
–Phi vụ cuối cùng trước khi gói tàu bay
lại trả cho chính phủ... Đù mẹ chúng nó đặt súng dầy đặc như rừng để
chờ mình vào mà tập bắn, bom thì chỉ có mấy trái 500 cân và quân ta
thì nhất định lấy cho được ngọn đồi này... Rắc rối quá, lần cuối
cùng, mấy ông cố gắng đánh cho đẹp một phát để... làm kỷ niệm. Vài
hôm nữa muốn chụp một tấm hình đứng cười nhe răng dưới chân chiếc A1
chưa chắc đã có mà chụp.
Họp xong, Quân và Hiển lững thững xách nón
bay ra phi cơ. Trí hỏi Trung úy Dương, người phi tuần viên của
chàng:
–Còn lâu
mới tới phiên mình, ông cà–phê cà pháo gì chưa?
–Dạ rồi.
–Rồi thì uống thêm một ly cũng chả chết
thằng Tây nào, ông vào đây tôi mời ông một ly...
Hai người sóng bước vào căn nhà nhỏ dùng
làm nơi làm việc của anh em phi đạo. Tại đây, bên cạnh chiếc bàn dài
có một bộ domino và vài bộ cờ tướng, một anh thợ máy nào đó đã nảy
ra sáng kiến kê cái bình cà–phê bí tất lớn cỡ... 15 lít. Cà–phê đen
được bán với giá 25 đồng một ly. Ai muốn uống sữa, xin chi thêm 5
đồng. Rẻ chán và uống rất ngon. Trí có hơi thắc mắc là từ khi về phi
đoàn đến giờ, chàng chưa bao giờ nhìn thấy người ta lôi cái bít tất
ra thay. Phi công khu trục vốn là những người ít thắc mắc những
chuyện lặt vặt nên không ai để ý. Miễn cà–phê uống ngon và có tí
mùi... cà–phê là được.
Trí mua cho Dương một ly cà–phê. Hai người
thả bộ ra sân bay, ngồi trên mặt đất ngó mông lung ra phi trường. Xa
xa, hình ảnh của hai chiếc A1 nối đuôi nhau tà tà ra phi đạo. Chong
chóng đánh từng vòng đều đặn chậm rãi, con tàu run lên nhẹ nhàng sau
làn khói xanh của động cơ.
Trí lại thấy nhói trong tim. Chàng hỏi
Dương:
–Ông có
biết là sau phi vụ này mình sẽ xếp cánh mấy chiếc Skyraider lại
không?
–Dạ biết.
Rồi cả hai bỗng im lặng như vừa cắn phải
một trái đắng không thể nào nuốt nổi. Trí cắn răng che dấu một nỗi
nghẹn ngào vừa xông lên. Suốt từ khi được tin phi đoàn sẽ ground mấy
chiếc phi cơ, tâm hồn chàng đâm ra thờ thẫn như người vừa bị mất mát
một cái gì to lớn lắm. Chàng hỏi Dương:
–Thất nghiệp, ông tính làm gì?
Dương dụi điếu thuốc lá:
–Em tốt nghiệp trường bộ binh Thủ Đức, có
bằng trung đội trưởng bộ binh. Nếu không đánh nhau trên trời được
thì mình đánh nhau dưới đất...
–Ông thấy rồi tương lai đất nước mình sẽ
như thế nào?
–Đen
tối quá. Tụi Mỹ đã phủi được bàn tay của họ. Quốc hội Hoa Kỳ càng
ngày càng siết chặt cái vòng viện trợ quanh cổ mình. Nước mình bây
giờ như một con bệnh bị xuất huyết trầm trọng, đang nằm chờ tử thần.
Cái bi kịch đau đớn nhất của mình là biết rằng trước sau gì cũng
chết mà không ai đủ sáng suốt và can đảm tự tìm lấy cho mình một con
đường nào để tự giải thoát...
Trí cảm thấy hơi ngạc nhiên về những nhận
định của ông trung úy trẻ tuổi:
–Theo ông, mình sẽ tự giải thoát được bằng
cách nào?
–Có gì
khó đâu, đằng nào cũng chết, mình đem hết lực lượng đổ ra miền Bắc
sống mái với chúng nó một trận “trời sầu đất thảm.” Mày đốt nhà tao
thì tao đốt nhà mày, nếu có chết thì cũng chết được một cái chết ra
hồn, đỡ hơn chờ chúng nó đến cắt cổ...
–Còn yếu tố Mỹ...
Mắt Dương long lên, oán hận:
–Xin lỗi đại úy, đấm c[ặc]... thằng Mỹ. Nó
bắt mình chết, mình có quyền chọn lựa cách chết cho mình. Mình có
quyền bắt hàng khối đứa đi theo...
Trí đã nhiều lần nghĩ đến chuyện này nhưng
làm gì được? Mình chỉ là một đại úy phi công hạng bét. Nói loạng
quạng không vừa ý, chúng nó đì cho hộc máu. Chàng cười:
–Ông biết muốn chơi chúng nó, có cách nào
làm chúng nó sợ nhất không?
–Cách nào?
–Chỉ có đem bom thả tận nhà chúng là chúng
mới sợ. Mình cứ chờ vào ngày lễ lao động hay lễ quốc khánh, đúng lúc
cha con chúng nó tập họp đầy đủ, lẳng lặng chất vài trái bom con heo
lên C–130, bay tuốt ra Hà Nội, biến cái Bắc bộ phủ của chúng nó
thành một cái hố bom khổng lồ thì có hòa bình liền chớ gì.
Dương khoái chí nhe răng cười, nhưng nghĩ
ra điều gì, gã chặc lưỡi:
–Hay quá đại úy nhưng bom con heo của Mỹ,
sức mấy mà nó đưa cho mình khơi khơi như vậy.
–Tôi đã nghĩ đến chuyện này, mình chế lấy
cũng được. Có gì khó đâu, chỉ việc gom chừng vài chục trái bom 500
pound lại cột thành một chùm, tăng cường thêm chừng chục phuy xăng ở
chung quanh, đóng chung chúng nó lại thành một thùng rồi mở cửa
C–130 đẩy lên. Tới nơi cứ việc bung cửa ra mà cho nó rớt xuống. Bom
con heo cũng nổ đến như vậy là hết cỡ...
–Ý kiến hay vậy mà sao không thấy mình áp
dụng nhỉ?
Trí lắc
đầu:
–Ông biết
rồi. Lãnh đạo của mình là một bọn tham nhũng, hèn nhát và thụ động.
Chúng nó đâu biết rằng chúng nó đang xé nát cái quê hương này ra
hàng trăm mảnh...
Mắt Dương tự nhiên thoáng một tia nhìn bí
ẩn:
–Vậy thì diệt
chúng đi. Mình lái khu trục, mình làm được.
Trí nói nhỏ vào tai Dương:
–Nói nhỏ thôi, tai vách mạch rừng. Tôi đã
nghĩ đến chuyện này rồi nhưng ông nghĩ coi, diệt nó đi thì biết ai
đủ khả năng để lên thay thế? Ông không nhớ cái thời “Đông châu liệt
quốc” ở Sài Gòn sau năm 1963 à?
Dương nhún vai, nhìn lên trời:
–Tôi nghĩ thời thế sẽ tạo được anh hùng
đại úy. Có nhiều người muốn làm chuyện này mà không bao giờ có cơ
hội. Mình lái khu trục, có bom đạn trong tay nếu không dám xả thân
một lần thì sau nay chắc sẽ hối hận...
Trí vỗ vai Dương:
–Ông muốn “làm” thiệt không?
Dương nhìn thẳng vào mắt Trí:
–Một người biết mình sắp chết chẳng có gì
để sợ cả.
–Nếu
vậy thì tối nay qua barrack tôi, anh em mình bàn lại. Vài hôm nữa
lái A37 mình có nhiều cơ hội hơn...
Ngồi tán gẫu một lúc mà mặt trời lên cao
lúc nào không hay. Quân đã dắt thằng em về đáp. Thân tàu loang lỗ
những lỗ đạn. Chàng nhìn đồng hồ rồi nói với Dương:
–Tới giờ cất cánh rồi ông, mình ra quay
máy. Phi vụ cuối, ráng đánh cho đẹp.
Dương cười:
–Tôi đánh phi vụ này mà không đẹp thì nghỉ
ăn lương chính phủ.
Trí trịnh trọng leo lên tàu, ngồi vào
phòng lái. Chàng đeo đôi găng tay vào rồi run run nâng từng sợi dây
an toàn, thắt vào người. Trí siết dây thật chặt, và càng chặt thì
càng cảm thấy mình như gắn liền với con chim sắt yêu dấu này. Trí ra
dấu cho người thợ máy dưới đất chuẩn bị rồi mở nút xăng, nhấn động
cơ quay máy. Con chim sắt khổng lồ khục khặc cái đầu, run mình, cánh
quạt quay uể oải vài vòng. Trí nói nhỏ:
–Ráng lên bạn, phi vụ này là “kỷ niệm cuối
cùng của đôi ta”.
Chiếc khu trục bỗng thở ra một mớ khói đen
rồi máy nổ lên dòn dã. Chong chóng đánh những vòng tròn đều đặn,
“quý phái.”
Dù đã
bay hàng ngàn phi vụ, mỗi lần nghe tiếng động cơ nổ lên ròn rã lòng
Trí tự nhiên lại rộn lên một nỗi niềm cảm khoái lâng lâng khó tả. Đó
là âm thanh của niềm vui, của ngày xanh êm ái lúc nghe mẹ gọi tên để
cho một món quà, của thuở học trò trắng tinh màu giấy khi nghe tên
mình vừa trúng tuyển một kỳ thi, của tuổi đôi mươi chất ngất khi
nghe một người con gái thì thầm kêu tên mình một cách bẽn lẽn. Những
tiếng động cơ của máy móc vô tri giác mà sao nghe ấm cúng, thân
thiện, hiền hòa. Một lần nữa, Trí lại tự hỏi rằng không biết chiếc
phi cơ này có linh hồn hay không. Sao nó làm người ta xao xuyến quá
đỗi...
Và ngàn
lần như một, hễ chong chóng bắt đầu quay đều thì Trí liền biến thành
một con người khác. Giống y như một cái radio đang khò khè bỗng được
vặn vào trúng băng tần có đài phát thanh cực mạnh. Chàng thấy bình
tĩnh, tự tin, lạc quan và thoải mái như một con người mới. Mọi ưu
phiền, mọi khó khăn vụn vặt của kiếp người bỗng biến mất.
Đâu đây, xa thẳm trong đáy trái tim của
Trí, hình như dậy lên bài hát “Xuất quân”.
“Này, bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang
lừng câu quyết chiến...”
Hai bàn tay của Trí chuyển động mau lẹ,
nhịp nhàng. Điều chỉnh máy, sửa lại đồng hồ, mở vô tuyến, check in
với thằng hai.
–Pleiku đây Thái Dương 22, thử vô tuyến và xin chỉ thị di chuyển hai
phi cơ A1–H.
–Thái Dương 22 đây Pleiku. Bạn di chuyển ra đầu phi đạo 26, gió êm,
áp lực là 30.03.
Trí “Roger” [5/5] rồi ra đưa hai tay trỏ lên trời. Hai người thợ máy
dưới đất nhận được dấu hiệu, gỡ chèn bánh ra...
“Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung
hoành, quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành...”
Chàng mớm nhẹ tay ga, con tàu ngoan ngoãn
nhào tới. Trí đạp nhẹ thắng. “Từ từ, làm gì gấp vậy bạn hiền, trước
sau gì mình cũng lên trời...”
Dương nối đuôi Trí đem phi cơ đến cuối cầu
phi đạo, hai chiếc đậu xéo xéo bên nhau thử máy lần cuối cùng. Trí
kéo cần lái vào người, đạp mạnh thắng, tống ga lên 1700 vòng phút.
Con tàu rung chuyển và gầm lên dữ tợn như cọp rống. Gió đánh phần
phật vào thân tàu, thổi rạp cả một bãi cỏ rộng phía sau. Tay chân
Trí cử động nhịp nhàng theo từng động tác phải làm. Tốt, máy móc và
tất cả mọi cơ phận trong phi cơ hoạt động hoàn hảo. Trí cười. Con
chim sắt này ra đời khi đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, đến bây giờ
tuổi hạc đã cao mà vẫn còn oai phong lẫm liệt không thua lão tướng
Hoàng Trung thời Tam Quốc.
Thử máy xong, Trí quay đầu phi cơ vào núi,
thòng hai tay ra ngoài phòng lái cho chuyên viên vũ khí được... an
tâm tháo chốt an toàn. Buổi sáng hôm nay trời trong xanh và đẹp lạ
thường trong không khí gây gây lạnh của những ngày tháng mười...
–Pleiku, Thái Dương 22 số một cuối đường
bay xin ra phi đạo cất cánh hai phi cơ A1.
–Thái Dương 22 chấp thuận ra phi đạo, gió
yên. Chúc bạn may mắn.
“Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành,
Đi là đi chiến đấu,
đi là đi chiến thắng,
đi là mang mối thù thiên thu...”
Trí hạ cánh cản, đóng cửa phòng lái rồi
mớm chút ga cho tàu ra so hàng nơi phi đạo. Dương lái chiếc thứ hai
bám theo như một cái đuôi. Chờ cho số hai xếp hàng ngay ngắn, Trí
quan sát phi cụ một lần chót rồi đẩy hết cần ga tới trước, lút cán.
2800 mã lực của sản phẩm cơ khí tuyệt hảo và vĩ đại được xử dụng tận
lực, rống lên một tiếng gào khủng khiếp tưởng có thể xé nát không
gian. Trí cảm thấy như máu tự nhiên chảy rần rần trong người chàng.
Cánh quạt xoay tít như điên cuồng, ép gió thổi ra sau, biến hơi nước
trong không khí thành những đường chỉ trắng chạy dài chung quanh.
Chiếc phi cơ run lên, lồng lộn như con ngựa chứng.
Trí giữ cần lái và nhả thắng ra. Con chim
sắt vĩ đại với cái bụng đầy ắp bom ào tới trước, hung hãn và dũng
mãnh như một con bò mộng.
“Đi là đi chiến thắng,
đi là đi chiến đấu,
bước lên đây người Việt
Nam...”
Hai chiếc
phi cơ A1–H cùng bốc lên cao một lúc ở khoảng giữa phi đạo. Tiếng
gầm thét của động cơ sáng hôm nay nghe như những [tiếng] gầm than
thở ai oán của hai chú mãnh hổ biết mình chỉ được rong chơi lần cuối
cùng. Trí nghiêng phi cơ rời vòng kiểm soát không lưu phi trường.
Ôi, quê hương đất nước dưới cánh chiếc khu trục đẹp không làm sao
nói được. Đồi núi chập chùng xanh biếc với những con sông con lạch
nhỏ. Theo luật địa lý, đã có núi cao, thì phải có sông rộng đi kèm
mới hòa hợp. Núi của dãy Trường Sơn quá cao, mà sông lạch thì ít,
lại ngoằn ngoèo
Trí leo lên 10 ngàn bộ, Dương bám sát phía sau. Trí rời tần số đài
kiểm soát Pleiku sang đài kiểm báo Peacock. Giọng chàng ồ ồ vang
vang:
–Peacock
đây Thái Dương 22!
–Thái Dương 22 Peacock! nghe.
–Thái Dương 22, hai phi cơ A1–H, cất cánh
được 5 phút lên làm việc với Sao Mai 10 ở tọa độ Zulu Papa...
–Roger! Sao mai 10 chờ bạn ở tần số 226.7
Rồi Peacock... im luôn, không thấy thông
báo tác xạ pháo binh. Trí thấy nhói trong tim. Vậy là quân ta ngay
đến đạn pháo binh cũng gần hết. Chàng nhớ ngày xưa, đánh lớn như thế
này thì một đoạn đường từ Pleiku đến Dakto có ít những khoảng vài
trăm khẩu pháo đặt khắp nơi gây thành một trận địa pháo như thiên la
địa võng. Bây giờ mọi chuyện đã đổi khác. “Đánh giặc kiểu con nhà
nghèo” là như vậy sao?
Đường đến điểm hẹn với cô Lan 19 bay không
đến mười phút là tới nơi. Đang đấu loạn cào cào với mấy cánh quân
dưới đất, nghe Trí lên, người phi công L–19 mừng rỡ:
–Thái Dương 22 đây Sao Mai 10.
–Nghe năm. Hai A1–H, tám trái 500 pounds
và hai... trái tim rực lửa căm thù.
Có tiếng cười hềnh hệch trong máy:
–Thái Dương nói nghe được. Phòng không của
chúng nó dày đặc như thế này, không rực lửa thì nên về nhà mà ngủ
cho nó được việc.
–OK, chúng tôi đang ở phía bắc mục tiêu
khoảng 10 ngàn, cho biết tình hình đi bạn.
–Tình hình đại khái như thế này: bộ binh
xung phong lên hai lần mới mớm được một chút nơi chân đồi. Đù mẹ
chưa kịp làm ăn gì thì pháo chúng nó đã lồng khung sẵn rớt tùm lum
xuống quân mình.
Mình cũng phản pháo đẹp đáo để, hai bên đang đấu pháo loạn xị xà
ngầu.
–Bây giờ
bạn muốn tôi đánh đâu?
–Đánh đâu thì dễ quá, có khoảng vài trăm
mục tiêu cho bạn đánh. Nhưng chuyện quan trọng nhất hiện giờ là tụi
chuồn chuồn sắp vào để đổ thằng 45 trinh sát, kẹt một cái là cây
phòng không 100ly nằm trên đỉnh đồi. Từ trên đó, nó có thể quất sụm
bất kỳ một hợp đoàn nào của mình.
Khỏi cần suy nghĩ lâu Trí cũng hiểu được
sự thành công của lối đánh diều hâu táo bạo này tùy thuộc vào yếu
tố... chuồn chuồn. Trực thăng không vào được thì lấy gì mà nhảy?
Cũng không thể vào lần thứ hai vì yếu tố bất ngờ sẽ bị mất. Chúng nó
sẽ gom súng trên đỉnh đồi chờ mình vào để tập bắn... tàu bay lên
thẳng.
Trí đề
nghị:
–Vậy bạn
muốn đánh nó phải không?
–Biết còn phải hỏi. Bạn bứng giùm nó thì
may ra hợp đoàn trực thăng mới vào được.
–Xong ngay. Vào cho trái khói đi bạn.
–Có ngay.
Trí lắc nhẹ cánh và hỏi Dương qua vô
tuyến:
–Hai đây
một.
–Nghe năm.
–Ông nghe Sao Mai nói rồi chớ gì, mình qua
combat formation.
–Hai nhận rõ. Combat formation.
–Mình sẽ piqué ở 10 ngàn. Phòng không như
thế này thì phải đánh 60 độ bank.
–Hai rõ.
Chiếc L–19 quẹo một vòng rất quý phái nhàn
nhã rồi tự nhiên cắm đầu thẳng xuống từ 8 ngàn bộ. Nàng lắc lư thân
mình rồi xịt ra một trái khói. Trí mỉm cười. Ông nội nào lái chiếc
L–19 này chắc là có máu khu trục trong người. Bắn rất đẹp, gần ngay
trên đỉnh ngọn đồi.
–Thái Dương 22 đây Sao Mai mười.
–Thấy trái khói rồi bạn.
–OK phía bắc trái khói khoảng 200 thước là
cây phòng không 100ly đó. Phòng không mạnh quá, bạn muốn đánh trục
nào cũng được. Chúc bạn may mắn, coi chừng súng chúng nó đặt khắp
mọi nơi.
Hình như
Trí lại nghe được bài tiến quân văng vẳng trong nón bay:
“Kèn vang theo tiếng chân đang dập dồn xa
xa, Tiếng gào thiết tha...”
Trí sửa lại đôi găng tay, mở nút bom, nói
thật chậm vào máy vô tuyến:
–Số một Dô.
Trí nghiêng cánh, cắt ga. Con tàu rơi
xuống gần như thẳng đứng. Ở khoảng 8 ngàn bộ, hoa khói bắt đầu nở
chung quanh tàu. Đù mẹ bắn gì... sớm vậy? Trí lẩm bẩm. Rõ là quân
thừa đạn bắn vãi.
Trí tiếp tục cho tàu cắm xuống. Kia rồi,
từ đàng xa, Trí nhận rõ được vị trí của ít nhất mười mấy cây phòng
không. Tất cả đồng loạt nổ vang rền. Đù mẹ sao chúng nó lắm súng thế
này. Những giây phút đối diện với tử thần thật là khủng khiếp. Thằng
nào lái tàu bay mà nói coi phòng không giặc không ra gì là những
thằng nói phét. Làm người, ai lại không sợ chết, tại sao lại phải
phét lác nhỉ?
Xuống thêm một chút nữa, Trí vẫn không nhìn thấy cây 100ly đâu cả.
Câu nói của ông trung đoàn trưởng bộ binh lại vang vang trong đầu
chàng: “Suy nghĩ bảy lần trước khi thả một trái bom...” Không thể
được, mình phải kéo tàu lên làm một vòng khác. Mấy cây 12.7ly nhí
này không xứng đáng để lãnh bom của chàng. Trí tống hết ga, lướt tàu
qua mục tiêu rồi kéo lên. Phòng không vẫn bám cứng lấy phía sau.
–Sao mai đây Thái Dương.
–Nghe năm, không thấy bom của một nổ.
–Có thả đâu mà nổ. Không tìm thấy súng của
nó, thả uổng bạn ơi.
–Thái Dương hôm nay đánh lỳ quá. Lúc nãy
bạn xuống, tôi thấy nó khạc lửa lên đó bạn.
–Để thằng hai xuống tôi quan sát thử coi.
Dương thông báo rồi cũng nghiêng cánh nhào
xuống như một cành lá. Trí quẹo ngược trở lại, đảo mắt quan sát.
Nhìn chúng nó bắn thằng số hai Trí mới thấy xót ruột. Vừa lớn vừa
nhỏ, ít nhất cả trăm khẩu. Phòng không chúng nó không những chỉ đặt
trên ngọn đồi 982 thôi, ngay cả những ngọn đồi chung quanh nó cũng
đầy những súng.
Chiếc phi cơ của Dương như con thuyền nhỏ bé ngụp lặn trong một biển
lửa hãi hùng. Nó kia rồi, cây 100ly mà chàng đang tìm kiếm vừa khạc
lửa ra dữ dội. Ông đã thấy rồi thì mày có chạy đàng trời.
Dương xuống sâu thêm nữa rồi bấm rớt bom,
kéo lên. Hai đóa hoa khói đen nở tung trên mặt đất. Sao mai la ùm
trời đất:
–Số hai
đánh trúng mấy cây phòng không rồi đó bạn. Số một thấy cây 100ly của
nó chưa?
–Thấy
rồi bạn, số một “Dô” lại đây.
Lần này Trí nhắm thẳng vào hướng cây
100ly, cứ thế mà tới. Hình như chúng nó cũng biết đã bị lộ mục tiêu,
nên khạc lửa lên rất dữ dội. Trí nhìn thấy những viên đạn lửa bay
lên, tưởng như cắm thẳng vào mặt mình nhưng khi đến gần thì lại biến
mất. Và tiếng nổ mới là khiếp đảm. Tiếng nổ phát ra từ họng súng
đang chĩa thẳng vào người mình khác hẳn bất cứ một loại tiếng động
nào khác trên thế giới này mà chàng đã nghe được. Nó lạnh, sắc, khô
và rờn rợn.
6
ngàn bộ, Trí biết mồ hôi trán mình toát ra đầy trong nón bay. Chàng
còn biết là có vài viên đạn đã ghim vào thân tàu. Mặc kệ, “Mày sinh
Bắc Tử Nam” thì tao “Sinh Nam chôn sống mày”. Tiếng Sao Mai la chói
lói trong tần số:
–Thái Dương 22, bạn xuống thấp quá bạn ơi,
nguy hiểm lắm.
5
ngàn, Trí bấm rớt bom rồi nghiến răng kéo phi cơ lên. Tốc độ quá
cao, cả người chàng bị một tảng đá nặng nghìn cân đè dính vào ghế.
Trí nghe tiếng nói của người phi công L–19:
–Đẹp quá bạn ơi, nhưng... hụt mẹ nó rồi.
Chưa lấy hết cao độ nhưng Trí đã thấy muốn
nhào xuống trở lại ngay. Công dã tràng. Chàng bấm máy:
–Hai đây một.
–Nghe năm.
–Ông thấy cây 100ly của nó không?
–Thấy!
–Pass cuối cùng, ráng làm đẹp đi.
–OK! Roll.
Dương nghiêng cánh chúi mũi xuống. Lại một
lần nữa Trí căm phẫn nhìn những tràng đạn của quân thù bắn lên như
muốn xé cả bầu trời ra hàng trăm mảnh. Chàng cứ suy nghĩ và không
hiểu sao chúng nó chuyển được hàng núi súng vào đây được.
Số hai vừa kéo tàu lên, Trí biết ngay là
Dương đánh không trúng. Chúng nó bắn rát quá, làm sao thả bom cho
chính xác? Trí mím môi nghiêng cánh vào thử một lần chót.
Quái lạ, từ lúc cất cánh đến giờ, Trí mới
để ý là văng vẳng trong nón bay có bài hát “Tiến quân ca” như đến từ
một cõi vô hình.
“Này bao hùng binh tiến lên,
bờ cõi vang
lừng câu quyết chiến,
bước oai nghiêm theo
tiếng súng đi tung hoành,
quân Việt Nam đem
hồn non nước xây thành...”
Lần này, với một quyết tâm trong đầu Trí
bình thản lượn chiếc phi cơ hầu như thẳng góc xuống mặt đất. Dù đã
cắt hết ga, chỉ trong phút chốc, tàu đã đạt đến tốc độ tối đa. Gió
ép vào thân tàu, làm cặp cánh như uốn cong lên. Đến 6 ngàn bộ, Trí
hơi kéo nhẹ cần lái. Tàu hơi chếch mũi lên, tốc độ giảm vừa đủ để
Trí đưa cây 100ly của giặc vào đường nhắm.
Có tiếng la hốt hoảng của Sao Mai trong
nón bay: “Thái Dương 22, bạn xuống thấp quá, coi chừng...” Nhưng Trí
đâu còn nghe thấy gì nữa. Ở gần 400 dặm một giờ trên vùng địch, giữa
những lằn đạn thù nổ chung quanh, người phi công không còn nghe thấy
gì ngoại trừ tiếng gọi của non sông và trách nhiệm. Phi cơ chàng cứ
nhắm cây súng mà vùn vụt lao tới như một mũi tên sắt. Trời đất như
trở thành mờ ảo ở chung quanh. Cuối cùng thì nó cũng nằm trên đường
bắn của chàng. Trí bấm rớt bom, tống hết ga và kéo phi cơ lên. Cú
này không trúng không ăn tiền. Chàng thoáng nhìn thấy nhiều bộ đồ
ka–ki Nam Định từ trong ổ súng bỏ chạy loạn cào cào.
Vừa bốc tàu lên, Trí đã nghe được hai
tiếng nổ liên tiếp và tiếng hò reo vui mừng của Sao Mai 10 “Xong
rồi, Thái Dương 22, xong rồi.” Đù mẹ thật là sướng hơn... chơi. Trí
ôm cần lái sát vào bụng, người chàng bị áp lực như đè lún sâu vào
trong ghế ngồi nhưng lòng chàng lâng lâng một niềm cảm khoái vô bờ
bến.
Số hai không
bỏ phí một giây đồng hồ nào, lật ngửa tàu bay, cắm đầu thẳng xuống
như một chiếc lá tre để tiếp tục trò chơi dang dở. Có qua có lại,
cuộc tranh hùng bắt đầu trở [nên] hào hứng kể từ giây phút này. Trí
mỉm cười: “Ai bảo đi bay là khổ, đi bay sướng lắm chứ...”
Lấy được một chút cao độ, Trí xoay đầu
nhìn lại “tác phẩm” của mình. Một cục lửa lớn cháy bùng lên, khói
đen bốc cao thành từng cụm. Trí đang quan sát Dương thì nghe được
tiếng gọi của hợp đoàn trực thăng. Một C & C, 12 slick và 4 gunship
đang xình xình bay tới.
Trí cảm thấy yên bụng khi thấy Dương kéo
tàu lên. Thêm hai ổ phòng không bị bứng mất gốc. Tốt. Chúng nó chỉ
còn mấy cây 12.7ly lẻ tẻ này làm sao bắn lại Minigun của Gunship.
Thua là cái chắc.
Dương đã kéo tàu lên, vào hợp đoàn trở lại
với Trí. Hết bom rồi, coi như nhiệm vụ đã xong nhưng Trí vẫn chưa
muốn đi về. Phi vụ cuối cùng thật hào hứng nhưng ngắn quá. Trí muốn
kéo dài thời gian ly biệt này để được gần gũi với người bạn già càng
lâu càng tốt.
Dương hiểu ý Trí, cho tàu bay vào thật sát bên người phi tuần
trưởng. Sát đến độ nếu rờ tay ra, Dương có thể chạm vào cánh bay của
Trí. Trong phòng lái phi cơ, Trí như một chàng dũng sĩ trên yên ngựa
bách thắng của mình. Lúc nãy, nhìn những tràng đạn thù bắn lên, ít
ai có thể tưởng tượng được chiếc phi cơ sẽ “còn nguyên một miếng”.
Vậy mà không có một viên nào trúng tàu mới là tài.
Trí lượn những vòng tròn lớn quanh tàu,
đưa mắt nhìn xuống hợp đoàn trực thăng đang nối đuôi nhau tiến tới.
Ủa, sao chúng nó không bay thẳng vào đỉnh đồi mà lại bay ngược lên
hướng Bắc làm gì kìa? Bọn chuồn chuồn chấm lộn tọa độ chăng? Nhưng
rồi Trí nghĩ ra liền. Ra là mấy anh bay như vậy để đánh lạc hướng
địch quân. Xuất kỳ bất ý, làm cái quẹo gắt rồi “rớt” gọn gàng xuống
đỉnh thì ai mà biết được. Hay lắm, hay lắm. Quả đúng là “Ôi phi công
danh tiếng muôn đời...”
Trí xuống 8 ngàn bộ, Dương bám sát phía
sau, đánh những vòng lớn ngay trên mục tiêu. Địch quân trên đồi 982
hình như đang bối rối vì tiếng động cơ trực thăng xuất hiện bất ngờ.
Phòng không bắn đã thấy rời rạc. Cú này cho chúng mày đi theo Bác
luôn. Bỗng Trí nảy ra một ý tưởng ngộ nghĩnh. Chàng bấm máy hỏi
Dương:
–Hai đây
một.
–Nghe năm.
–Phi vụ cuối cùng rồi, ông muốn xuống dưới
đó “ngao du một vòng” không?
–Sợ thằng Tây nào mà không xuống. Xuống để
coi thử phòng không chúng nó bắn hay tới cỡ nào.
–Ông nhớ bám cứng theo tôi.
Trí gọi máy cho Sao Mai, thông báo mình sẽ
xuống thấp để quan sát một vòng. Phi công L–19 có lẽ đang bận rộn
điều chỉnh pháo cho bộ binh nên không có ý kiến.
Trí nghiêng cánh và đạp bàn đạp cho tàu
trượt xuống. Hàng chục đóa hoa khói vây lấy con tàu liền. Dương bám
theo cứng ngắc như nhựa đường. Thằng này bay hay thật, không thua gì
Pilot Navy, Trí thầm nghĩ. Trí cứ để cho tàu trượt xuống, rơi mãi
cho đến gần sát ngọn cây, mới lấy thăng bằng lại. Thấp như thế này
thì mấy chú có muốn bắn cũng không biết đường đâu mà mò.
Nhìn “thiên hạ” ở cao độ trên ngọn cây coi
thấy rõ ràng quá. Phi cơ chàng lướt qua trên những hàng cây dầy đặc
bằng một tốc độ nhanh như hỏa tiễn. Dưới cánh chàng, thỉnh thoảng là
hình ảnh của những giao thông hào và hầm hố cá nhân không hiểu của
ta hay của địch lướt qua thật mau.
Trí lượn một vòng ra quốc lộ, nơi phe ta
vừa mớm được một tí ở chân đồi. Đây rồi, mấy ông bộ binh đang đánh
nhau tưng bừng cũng phải ngạc nhiên dở nón sắt nhìn lên hai chiếc
khu trục bay sát ngọn cây, chơi trò chơi táo bạo...
Lượn đến vòng thứ ba Trí mới có một ý niệm
về tình hình bên dưới. Quân ta vừa hùng hổ xung phong lên, không
biết lần thứ mấy sau một loạt pháo mở đường. Hình như họ muốn đánh
lạc hướng để hợp đoàn trực thăng có thể vào đáp bất ngờ. Trí nghe
tiếng C & C vừa chỉ thị cho hợp đoàn trực thăng đổi hướng, bay thẳng
vào mục tiêu. Trí thoáng nhìn được những cây 12.7ly từ trên cao,
chĩa nòng xuống nổ ròn rã vào những người lính của Sư đoàn 23 bộ
binh. Còn 300 viên cà–nông để làm gì, Trí gọi máy cho Dương, bảo mở
nút cà–nông và chuẩn bị tấn công. Chàng ước lượng mấy con chuồn
chuồn phải ít nhất 15 phút nữa mới đến mục tiêu được, dư sức cho
chàng cùng Dương làm vài strafing pass. Trí lắc cánh, Dương hiểu ý,
nới rộng khoảng cách để chuẩn bị cho trò chơi mới.
Hết vòng thứ tư, Trí quẹo ra xa để chuẩn
bị một đường bắn dài. Dương làm một vòng lớn hơn ở phía sau. Bỗng
chàng kinh ngạc suýt reo lên một tiếng. Cặp mắt thần của người phi
công khu trục vừa thoáng nhìn thấy một đám bộ đội bu quanh cây súng
ở ngọn đồi kế bên ngọn đồi 982. Cây súng lớn lắm, không biết là bao
nhiêu ly với cái nòng dài thòng lòng. Tiên sư, chúng nó giấu kín như
thế này thì tàu bay nào kiếm ra được? Trí thấy toát mồ hôi lạnh. Rõ
ràng là chúng nó dấu súng ở đây để yểm trợ cho ngọn đồi 982. Từ cao
điểm đó, nếu chúng nó bắn thì nãy giờ chắc chàng và Dương đã rụng từ
lâu rồi. Vậy tại sao nãy giờ chúng không bắn mình kìa? Trí thắc mắc.
Trí bấm máy báo cho Dương “Ông ở ngoài này
chờ tôi một chút” rồi bất thình lình đổi mục tiêu, lấy cây cao xạ
vừa nhìn thấy làm chuẩn, quẹo một vòng tròn lớn chung quanh đó. Cha
con chúng nó đang hì hục quay nòng xuống hướng về phía đỉnh ngọn
982. Chàng có thể nhìn thấy rõ hai ba thằng xạ thủ cầm mấy cái tay
quay quay lấy quay để.
Đù mẹ chúng mày, muốn quay súng để bắn ông
sao? Câu chửi thề vừa dứt thì Trí biết ngay là mình lầm. Tàu bay khu
trục mà hết bom thì cũng như con rắn không có nọc, chỉ có nước đi
bay duyệt binh cho đẹp, chúng nó đâu thèm bắn. Bọn khát máu này đang
quay súng để chờ đón một món mồi ngon hơn gấp ngàn lần hai chiếc khu
trục... già nua ốm yếu: Một hợp đoàn trực thăng mười mấy chiếc với
hàng trăm chiến sĩ trinh sát tinh nhuệ nhất của Sư đoàn 23 bộ binh.
Trí quẹo tàu trở ra, thầm cám ơn trời đất.
Chàng ráng bình tĩnh để suy nghĩ thật mau những gì mình phải làm.
Trước hết, Trí có thể gọi máy cho C & C để kêu họ cho hợp đoàn trực
thăng... thôi đáp, chở lính về nhà. Không được. QLVNCH ít khi nào
làm như vậy, dù ngay cả khi biết rằng đi là chết. Hơn nữa, nếu bỏ về
thì chừng nào cờ ta mới cắm được trên ngọn 982 đồi. Và chưa chắc đã
còn xăng để làm chuyến thứ hai. Hoặc chàng có thể gọi cho Sao Mai
biết để hắn xin pháo binh hỏa tập. Dẹp chuyện này đi. Mấy ông nội
bay tuốt trên mây xanh làm sao điều động pháo kịp. Hợp đoàn trực
thăng lại đang xình xình tống hết ga bay vào, phải nghĩ ra cách nào
để khóa họng cây súng này liền lập tức trước khi đại họa xảy ra.
Một lần nữa, văng vẳng trong nón bay của
Trí, bài tiến quân ca lại vang lên. Lần này nhịp nhàng dồn dập:
“Đi là đi chiến đấu,
đi là đi chiến thắng,
đi là mang mối thù
thiên thu...”
Xong rồi, Trí đã có quyết định. Trận này thắng hay bại là do Trần
Anh Trí này đây! Chàng nghiến răng tống hết ga, vừa quẹo vừa kéo tàu
lên để chuẩn bị tấn công.
Nhưng, người phi công khu trục của QLVNCH
với mấy ngàn giờ bay vừa phạm phải một lỗi lầm nặng quá. Ở những nơi
mà “phòng không kèm cứng một rừng” như vậy, ngoại trừ những khi tấn
công, một là bay thật thấp, hoặc là bay thật cao, ai lại kéo tàu lên
đưa cái bụng trắng hếu cho chúng nó tập bắn bao giờ? Cái chuyện căn
bản này thằng phi công mới ra trường cũng biết, nhưng Trí quên mất.
Tàu vừa quẹo lên được vài ngàn bộ thì Trí
nghe hàng loạt đạn chát chúa của ít nhất một chục cây súng nổ lên
dòn dã. Trí biết là mình vừa phạm một lỗi lầm không thể nào tha thứ
được, tàu bị trúng đạn nặng lắm. Và chính chàng, chàng cũng thấy đau
nhói nơi ba sườn. Trí chưa bao giờ bị đau như vậy trong đời mình.
Phản ứng tự nhiên của người phi công gần
mười năm bay bổng, bàn tay Trí ôm cần ga đẩy mạnh tới và đồng thời
tay kia đè mũi con tàu xuống và lộn một vòng tránh đạn. Khốn nạn
thay, mấy chục cây súng quái ác kia vẫn bám cứng chàng như sam. Trí
nhận thêm vài chục viên nữa.
Có tiếng la hốt hoảng của Dương trong máy:
–Một đây hai, một đây hai, nghe không trả
lời...
Ngay lúc
đó, khi hai chiếc gunship đang xình xình bay vào, vừa cách mục tiêu
độ 5 dặm thì một tràng đạn từ cây súng bí mật dấu ở sườn đồi bên
cạnh nổ lớn lên nghe khủng khiếp.
Đạn đạo này chúng nó đã nghiên cứu và lồng
khung bao nhiêu ngày nên bắn làm sao trật được. Loạt đạn nổ chưa hết
đã thấy một chiếc gunship bốc cháy bùng lên như bó đuốc, cắm đầu
xuống. Chiếc kia hốt hoảng cho tàu rớt xuống theo để mong tránh
tràng đạn. Mấy cây Minigun cũng trả đũa như mưa nhưng đâu có thấm
thía gì. Chúng nó dấu súng trong hầm trong hố làm sao đạn của
minigun lách vào nổi.
Hợp đoàn đổ quân từ phía sau vẫn chưa biết
tại họa, đang xếp hàng dọc xình xình quẹo vào. Hai chiếc gunship còn
lại của hợp đoàn đang hùng hổ bắn phá trên đỉnh ngọn đồi 982. Hình
như chưa ai biết những gì đang chờ đón họ ở cao điểm kế cận.
Giây phút quan trọng và hãi hùng nhất của
cuộc đổ quân đã bắt đầu. C & C, L–19, pháo binh và bộ binh gọi nhau
trên tần số nghe loạn xạ. Không hiểu tại sao trong giây phút mà ai
cũng căng thẳng tột cùng đó, dù tàu vừa bị trúng đạn, Trí thấy bình
thản lạ thường. Chìa khóa của cuộc đổ quân ngày hôm nay là cây phòng
không quái ác kia. Khóa họng được nó là thành công. Bằng không thì
có vào cả Sư đoàn cũng chết nữa, nói gì một hợp đoàn lẻ.
Hợp đoàn trực thăng bây giờ đã bay gần đến
nơi phòng không lồng khung của chúng nó lắm rồi. Trễ một chút là
từng chiếc một của hợp đoàn sẽ rụng như sung chín cho mà coi. Trí
xuống thấp được một chút, không có thì giờ kiểm soát phi cụ và tình
trạng tàu, quẹo lại thật gắt, mở nút cà–nông nhắm cây cao xạ lao
tới.
Bây giờ thì
cả bầu trời biến thành một biển lửa. Ra là bọn chúng nó đã bố trí
sẵn súng để yểm trợ lẫn nhau. Mình nhắm thằng này thì thằng kia ở
phía đối diện bắn sang, đánh thằng kia thì thằng này bắn tới. Đạn
đan kín cả bầu trời. Trí vẫn nghiến răng lao tới như một con thuyền
giữa con bão.
Nhìn thấy mục tiêu, chàng bóp cò, kéo một tràng cà–nông dài từ phía
ngoài vào tới tận cây súng rồi quẹo tàu lên. Ngay lúc ấy, chàng nghe
thấy một tiếng nổ to khủng khiếp trong phòng lái. Mặt chàng như bị
ai đấm vào một trái thôi sơn.
Cặp mắt Trí nhắm tít lại theo phản ứng tự
nhiên. Khi mở ra, Trí nhận ra kính phòng lái đã vỡ nát, gió, khói,
và dầu của tàu bay ùa vào khắp nơi trong phòng lái.
Chàng chỉ còn thấy mờ mờ nhưng trí óc thì
minh mẫn vô cùng. Phải thoát ra khỏi nơi này cái đã rồi sẽ nhảy dù.
Chàng kéo tàu lên nhưng quái lạ, sao mà nó nặng thế này. Dù đã dùng
hết hai tay mà kéo, con tàu chỉ lơ lửng lướt qua đỉnh mấy ngọn cây.
Hơn ai hết, Trí biết nếu không lên kịp thì tàu sẽ đâm vào núi. Mà
con chim sắt như bị thương nặng quá rồi, nhất định không thèm lên
nữa. Trí đành nghiến răng đạp hết bàn dạp trái và nghiêng hết về bên
trái.
Chiếc A1–H
quẹo sát ngọn cây, cánh phi cơ móc theo một mớ lá. Trí lại nghe
tiếng la hốt hoảng của Dương trong máy:
–Một đây hai, một đây hai, tàu của một bốc
khói rồi. Nhảy đi, nhảy đi...
Nguy hiểm nhất là chàng không biết mình
đang ở đâu và ở cao độ nào. Trí bấm máy tính hỏi Dương nhưng radio
không còn làm việc nữa. Đó là lần cuối cùng chàng nghe được tiếng
gọi của Dương. Kể từ giây phút này, Đại úy Trần Anh Trí đơn độc một
mình trên bầu trời, không liên lạc được với ai và không biết mình ở
đâu.
Mắt mình sao
mờ vậy kìa? Trí đưa tay lên dụi và nhận ra là mặt mũi tay chân toàn
những máu là máu. Càng dụi càng không thấy đường. Thế này thì đành
phải nhảy dù ra vậy. Vĩnh biệt người bạn già thân thiết. Chẳng còn
gì để suy nghĩ nữa. Phải nhảy ra ngoài trước khi tàu đâm vào núi hay
nổ tung trên trời bởi đạn phòng không. Có thể mình sẽ nhảy ngay
xuống đầu địch và sẽ được đi “du học Bắc Việt” nhưng ít nhất, xuống
dưới đất còn có hy vọng sống để lập kế thoát hiểm.
Trí thò tay xuống nắm chặt cần thoát hiểm
và kéo mạnh. Không thấy gì. Trí kéo lần nữa, và lần nữa cũng chẳng
thấy gì. Tiên sư, hỏa tiển bắn ghế thoát hiểm ra ngoài đã xì mẹ nó
từ đời nào rồi.
Vậy là hết. Chàng bị kẹt cứng trong phòng lái, không biết mình bị
thương ở đâu, mắt không thấy đường và con tàu chỉ bay nghiêng mà
không bay lên được. Lần đầu tiên, Trí nghĩ đến cái chết. Đời người
trước sau ai cũng một lần chết mà. Điều quan trọng là cái chết của
mình có hữu ích cho gia đình, cho Tổ quốc, cho tha nhân hay không
kìa?
Chàng nhận
ra là mình đã bay nghiêng như vậy được hai phút mà không đụng núi.
Với độ nghiêng này, hai phút là đủ để làm thành một vòng tròn. Sách
hình học dạy rằng quỹ tích của những điểm cách đều một điểm cố định
sẽ là vòng tròn mà điểm cố định là tâm. Sách cơ học phi hành dạy
rằng nếu quẹo một phi cơ và giữ mãi ở một độ nghiêng cố định, phi cơ
sẽ làm một vòng tròn và quan trọng nhất, sẽ trở về điểm khởi hành.
Trí bỗng tìm ra đáp số cho số mạng của
mình và cây súng phòng không khốn nạn kia. “Ông sẽ lao nguyên chiếc
phi cơ này vào chúng mày, coi thử còn bắn được không cho biết.”
Dù chỉ thấy đường mờ mờ, Trí biết là nếu
mình giữ được tàu ở một độ nghiêng cố định, mình sẽ trở về được điểm
khởi hành tức là điểm có cây cao xạ của chúng nó, lúc chàng vừa kéo
tàu lên.
Bằng cảm
giác, Trí giữ cho tàu quẹo ở một độ nghiêng không thay đổi.
Giữa cảnh bi đát thê lương đó, tự nhiên
lòng Trí thấy thanh thản vô cùng. Thanh thản như lần đầu tiên được
lái máy bay đi solo, rong đuổi con tàu một mình trong vùng trời
thênh thang im vắng. Nếu lấy cái chết của Đại úy Trí để thế cho mấy
trăm cái chết của các anh em bộ binh và trực thăng thì mình lời
chán. Từ những ngày bắt đầu bay khu trục, Trí chưa bao giờ phục hay
thích cái hình ảnh đâm tàu bay vào mục tiêu để tự sát của các phi
công Nhật. Chàng cho như vậy là bất trí và dã man. Nhưng trong hoàn
cảnh này, mình đã chiến đấu hết sức để làm trọn bổn phận, đã làm mọi
cách để sống còn nhưng không được, thì sự lựa chọn “đâm cả phi cơ
vào chúng mày” là một quyết định can đảm và sáng suốt, không phải là
một cuộc tự sát điên cuồng.
Quyết định xong là thực hành liền. Khi
quẹo đến vòng thứ hai, nhờ chút nhãn quan lờ mờ và tiếng tiếng nổ to
lớn dị thường phát ra từ họng cây súng vĩ đại, Trí tìm được vị trí
nó ngay.
Nhìn
thấy là mắt Trí long lên sòng sọc, mắt tóe lửa ra, uất hận thấu
trời. Bọn khốn nạn! Chúng mày đem quỷ thuyết ngoại bang về đầu độc
dân tộc, đem súng đạn ngoại bang về tàn phá và giết chóc đồng bào
anh em, đã biến cả một nửa quê hương thành một địa ngục tăm tối nhất
trần gian, chúng mày chưa biết hối hận hay sao mà còn muốn nuốt thêm
cả mảnh đất thân yêu còn lại này? Tội lỗi này của bọn chúng mày biết
mấy dòng sông mới rửa cho sạch? Bốn ngàn năm dựng nước của dân tộc
có bao giờ đất nước lại lầm than và khốn nạn như thế này chưa? Tao
chỉ tiếc lãnh đạo miền Nam yếu hèn để đến nỗi quê hương gấm vóc phải
tả tơi như thế này, và số mạng tao nửa đường đứt gánh, nhưng Trần
Anh Trí này chết đi thì vẫn còn trăm ngàn Trần Anh Trí khác sẵn sàng
đem máu đào ra để bảo vệ mảnh đất này.
Chẳng còn gì để suy nghĩ và tiếc nuối nữa.
Ai rồi cũng một lần chết. Được chết mà lấy xác khu trục bọc thân
mình như ngày xưa người ta lấy da ngựa bọc thây là một vinh hạnh của
người chiến sĩ. Đời người mấy ai được chết như thế?
Trí nghiến răng, thét lên một tiếng kêu bi
ai rùng rợn rồi lật úp tàu bay, cắm đầu thẳng xuống, nhắm cây phòng
không đang nổ ròn rã lao tới. Làm sao trật được. Tuy nhãn quan bị
giới hạn nhưng trước khi phi cơ đâm vào ụ súng, Trí còn nhìn thấy rõ
ràng mấy thằng lính bộ đội xâm lược hoảng hốt bỏ chạy lấy thân khi
chiếc phi cơ lao tới...
Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên khi
chiếc Skyraider A1–H cắm đầu xuống ổ súng. Bụi và khói bốc lên cao
đến nỗi từ dưới chân đồi 982, các chiến sĩ của Trung đoàn 45 bộ binh
ai ai cũng nhìn thấy rõ. Trên cao, bất kể phòng không, chiếc A1 còn
lại bay những vòng tròn dài nặng nhọc chung quanh đám bụi đất điêu
tàn. Giữa những tiếng súng nổ, tiếng pháo rớt, tiếng cánh quạt trực
thăng vừa đáp trên đỉnh đồi, tiếng động cơ lẻ loi của chiếc khu trục
đơn độc trên bầu trời nghe u buồn và ai oán như tiếng tru thảm thiết
của một con diều hâu khóc bạn...
16 giờ chiều ngày hôm đó, đúng như lời
hứa, Trung tá Trung đoàn trường Trung đoàn 45 bộ binh đáp trực
thăng, đặt chân lên đỉnh ngọn đồi 982 để gắn lon Đại úy cho Trung úy
An, đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát.
Trận này, dù hiếm xăng hết đạn, quân ta đã
thắng lớn. Xác chúng nó nằm dài dài khắp nơi...
Thư
viện Trần Quốc Tuấn 2 giờ sáng Oct 17, 1990,
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: bkt
sưu tầm & trình bày
http://phidoan114.blogspot.ca/2014/07/khu-truc-boc-thay.html
Đăng ngày Thứ Sáu, February 23, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang