Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
QH–30–T4Đ
Tác giả:
Nguyễn Quang Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời người viết:
–Bài viết này là nén nhang thắp lên
để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn Quang Khóa, nguyên Trung tá phi
công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không Đoàn 41 Chiến thuật,
xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
–Chân thành cảm ơn anh Phan Trừng, và
anh Đan Hoài Bửu (Phượng Hoàng Kim Cương), nguyên Trung tá phi
công phản lực, bạn học cùng khóa của anh tôi, đã giúp tôi hoàn
thành bút ký này.
–Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc
cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc
với tôi qua địa chỉ email:
nguyenpierre24@yahoo.com.
Gia
đình tôi ít anh em. Không phải do ba mẹ tôi hiếm muộn mà do thời
gian ba tôi ở Pháp khá lâu. Hơn mười năm từ khi mẹ tôi sinh ra
anh, hai ông bà mới gặp lại nhau, nên tôi kém anh tôi đúng một
con giáp.
Mặc
dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi đều
có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì
thế chúng tôi đều học ban khoa học toán và tình nguyện gia nhập
quân đội sau khi đậu tú tài toàn phần:
“Vòng
trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang
bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai, nam
bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong
bốn bể”
Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A
SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại có giấy báo nhập học ban Toán của
trường Đại học sư phạm gửi về nhà, ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại
nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ ngợi nhiều lắm.
Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại
học sư phạm, đồng thời làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt
để được sống và học tập trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của
vùng đất cao nguyên, mà tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai
Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của
người sinh viên sĩ quan Đà Lạt trong đoạn phim giới thiệu về
trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt, đã chiếu tại trường vào dịp cuối
năm lớp Đệ nhất (lớp 12) tại trường Quốc Học, Huế.
Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học
sư phạm nhưng không thấy giấy báo nhập học trường Võ Bị Quốc Gia
Đà Lạt gửi về nhà. Vì thế, sau này tôi đã trở thành một giáo sư
khoa học tại một trường nữ trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ
tôi, nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh hào hùng và lịch
lãm của người trai thế hệ mà mình mơ ước.
Sau khi học đại học sư phạm được vài
tháng, nhân một buổi ăn tối của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho
tôi biết là ông đã nhận được giấy báo của trường Võ Bị Quốc Gia
Đà Lạt gửi về nhà, nhưng ông không cho tôi biết, vì anh tôi đã là
pilote de guerre vào sinh ra tử trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi
có thói quen nói nửa Việt nửa Pháp, như ông thường viết các toa
thuốc cho bệnh nhân).
Anh tôi du học tại Hoa Kỳ năm 1961. Gia
đình tôi đều đặn nhận được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp
tại các trường huấn luyện phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi
cơ đã bay, hoặc các hình ảnh chụp tại các tiểu bang đã đi qua
nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ lạc. Tôi ước mơ một ngày nào
đó mình cũng được như vậy.
Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi
còn gửi cho chị M.T., sinh viên trường CSYT, con gái của một
người bạn của ba tôi, mà ba tôi đã chấm theo tiêu chuẩn
“Công–Dung–Ngôn–Hạnh” cho anh tôi, trong lúc hai người chưa một
lần gặp gỡ.
Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh gửi
cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:
“Người
ơi, gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có
duyên gì hay không”
Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên
trích trong tập truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào
trong bức thư, gửi cho chị M.T. như một định mệnh đã an bài.
Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha
mẹ chị, vì việc đi hỏi chị là do ba tôi đơn phương quyết định.
Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy
nghĩ nhiều lắm.
Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà,
cứ ở mãi Sài Gòn. Lúc đầu, anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn
cứ Tân Sơn Nhứt, sau đó chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn
cứ Biên Hòa.
Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một
người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu
tôi. Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài Gòn và cũng là
bạn cùng học tại ĐHLK với anh tôi (sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại
ghi danh học ĐHLK).
Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.
Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như
núi. Một lần vào cư xá thăm anh, tôi tò mò đọc được một lá thư
của chị gửi cho anh, với bài thơ mà tôi chỉ nhớ được hai câu:
“Đời
phi công có mấy người chung thủy
Mỗi
đường bay thay một cánh hoa yêu”
Hay một lá thư khác:
“Oublie,
c’est le nom d’une fleur
N’oubliez pas,
c’est le vœux de mon cœur”
(Xin người
giữ lấy hoa quên
Và đừng quên nhé lời
nguyền trong tâm)
Chị cũng không quên ép vào những trang
thư tình màu tím một con bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me
Not. Điều này làm tôi liên tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một
cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của anh tôi màu đen với khăn quàng cổ
màu tím, tôi thường thấy anh tôi mặc trong những phi vụ đặc biệt.
Đời phi công thật hào hùng và bay bướm.
Trong tủ sách anh tôi để lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc
cuốn Đời phi công của Toàn Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit),
Cõi người ta (Terre des hommes) của nhà văn phi công Saint
Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết Toàn Phong là bút hiệu của
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn Hình học Không gian không
thua kém gì các cuốn Géométrie dans L’espace của Le Bosse hoặc
của Caronner mà anh em tôi xem như là quyển Tự điển Toán Hình học
Không gian.
Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác
nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô
khan, nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm
là khởi đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.
Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự
ngày càng ác liệt, anh tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác
liệt nhất là trận đánh Tết Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972.
Phi
vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục
cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng
không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi
đã đáp bụng an toàn.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành
Quảng Trị, chiếc phản lực cơ A37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu
trời cổ thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực
thăng cứu thoát, đưa về căn cứ Đà Nẵng an toàn.
Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa
ra khỏi giảng đường, một con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn
vởn và đậu trên vai tôi vài tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp
một viên thiếu úy phi công trực thăng đến trường tìm một người
bạn, vô tình kể lại chuyên anh ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi
công phản lực A37 bị bắn rơi tại Quảng trị, tôi nghe chuyện và
hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra người phi công phản lực đó
chính là anh tôi.
Sau này, trong tập san Lý Tưởng của
Quân chủng Không quân có đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời
Cổ Thành Quảng Trị của ký giả L.R. viết về anh lúc cánh dù bung
ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn trên vùng trời lửa đạn.
Bạn bè cùng khóa 61A SVSQKQ và các khóa
sau đã có nhiều người ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ
Kinh Kha qua sông Dịch không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa
với mất mát, đau thương, cô đơn và giá lạnh:
“Hồn tử
sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi
dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”
Biến cố khó quên đối với gia đình tôi
xảy ra vào ngày 29/3/1975 sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự
vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư tại trường trung học được vài tháng.
Đà nẵng đang trong cơn hấp hối.
Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.
Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào
phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một
mình ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển.
Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập,
tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống một mương nước, và chiếc vali trong tay
tôi rơi lúc nào cũng không hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi
ngay trước mặt tôi chừng mươi thước, đúng lúc một chiếc xe jeep
trờ tới, mọi người trên xe bị hất tung lên và trở thành tro bụi
trong phút chốc.
Quá hoảng sợ, tôi chạy lùi theo một số
người tìm đường ra biển Sơn Trà.
Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút
qua, hướng ra biển Đông. Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao
có anh tôi thấy để cứu vớt tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa
cho đến khi chỉ còn là vài chấm đen trên nền trời ảm đạm.
Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà,
gặp được một chiếc tàu đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm
thước. Mừng quá, tôi cởi vội quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc
tay tôi chạm vào mạn tàu cũng là lúc trên bờ xuất hiện vài người
có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho tàu vào bờ. Một số người trên tàu
vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu nổ máy chạy thẳng ra khơi.
Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu
bắn liên tục nhưng chỉ làm bị thương một người trên tàu, còn lại
đều vô sự.
Một
tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu vớt và
chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa Kỳ.
Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào
phía đất liền. Mịt mù trùng khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng
sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự
nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh biệt của anh em tôi? Đột nhiên
bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã rơi nhanh xuống sàn tàu.
Sau này, qua một người quen cho biết:
khuya 29/3/1975 anh tôi đã lên và lái một chiếc phản lực cơ A37
ra phi đạo nhưng không thể cất cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế
anh tôi đã trở thành tù binh tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
Hơn một năm sau, trong lúc gia đình
đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên có một con bướm đen to bằng bàn tay,
bay vòng vòng trong phòng và đậu trên vai từng người rồi cuối
cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ gia đình. Năm phút sau, nhận
được tin báo là anh tôi đã chết, nằm trong một bụi cây bên ngoài
trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều sửng sốt, bàng hoàng nhưng
không dám bật thành tiếng khóc.
Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn
thờ, con bướm đen cũng đã vỗ cánh bay ra khỏi nhà.
Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc
bộ áo bay màu đen với khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe
jeep về nhà nhưng máu đã đẫm ướt phi bào.
Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi
cảm thấy một vị đắng, chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như
đâu đây phảng phất tiếng hát của một nữ ca sĩ nổi tiếng một thời:
“Ngày
xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu noi
gương người trước đặt lời
...
Người phi công giữ khung trời
Vẫn còn
mang số phận con người”
Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào
lúc nào không hay.
Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại
vùng rừng thiêng nước độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục.
Trại tù giờ đây chỉ là một vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác
định.
Nghĩ
mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ, chẳng lẽ
bó tay trở về.
Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn
nguyện anh tôi. Bỗng từ đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay
đến trước mặt tôi, như có ý dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện.
Con bướm đen bay vòng vòng, tôi chạy theo và bị té sấp vào một bờ
đất.
Sau phút
hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ nho nhỏ
nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ. Người dân
địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ Sơn. Tôi
vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu theo
số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.
Sáng hôm sau về lại Tam Kỳ, tìm đến nhà
một thầy ngoại cảm. Thầy cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.
Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai,
khi bài viết này của tôi được nhiều người biết đến, tôi có thể có
nhiều tin tức hữu ích và cụ thể để xác định chính xác mộ phần của
anh tôi.
Nguyễn Quang Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
April 25, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang