Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký chiến trường
Chủ đề:
kỵ binh qlvnch
Tác giả:
KB Chuẩn tướng
Trần Quang Khôi
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Đây là một PDF file gồm 23
trang, xin trích lên thành nhiều lần, để các Chú và Anh đã từng
chiến đấu và biết Tướng Khôi cùng ôn lại, và thế hệ chúng ta đọc
để hiểu biết, vì có nhiều bạn chưa hiểu “KỴ BINH” là gì.
Xin kính chân thành đa tạ tác giả, kính ngưỡng mộ các tướng tá,
sĩ quan tài ba, và các Binh Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã
chiến đấu rất kiên cường, hào hùng, giành giật từng mảnh đất quê
hương tự do.
Những hình ảnh quý giá trong bài được cung
cấp bởi D.T.Vũ
Vào những tháng đầu năm 1974, khi người
bạn đồng minh Hoa Kỳ đã gần như hoàn tất lịch trình rút quân, bắt
đầu cho một cuộc tháo chạy. Giữa những biến động chính trị và
những vi phạm trầm trọng của cộng sản Bắc Việt về Hiệp Định Ba
Lê, và trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, thiếu thốn mọi phương
tiện và nhu cầu quân sự để chiến đấu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đã tạo nên một chiến thắng lẫy lừng trong quân sử: Trận phản công
chớp nhoáng giải vây đồn Đức Huệ. Đây là một trận đánh có bài
bản, theo đúng sách lược binh thư, cộng với những sáng kiến táo
bạo có tính toán, và yếu tố thần tốc bất ngờ đã đánh tan tành một
sư đoàn bộ chiến xâm lược của cộng sản Bắc Việt.
Bài viết
sau đây của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi sẽ tường thuật lại thật
đầy đủ chi tiết trận đánh lịch sử này. Và cũng để chia sẻ với độc
giả và các bạn trẻ về những kinh nghiệm chiến trường, tinh thần
bất khuất, và ý chí bảo vệ đất nước của những người trai thời
loạn, dù trong nghịch cảnh vẫn hoàn thành được sứ mạng.
Và
bây giờ xin các bạn chuẩn bị lên đường, tham dự cuộc hành quân
giải vây đồn Đức Huệ. Bây giờ là 22:00g đêm, ngày N, 28 tháng Tư
năm 1974.
–Trần Đức Huệ
1.
Tình hình chung ở Vùng 3 Chiến Thuật
Sau khi ký kết Hiệp Định Paris, đầu năm 1973, Quân đội Mỹ ở
Miền Nam Việt Nam (MNVN) bắt đầu rút quân về nước. Các đơn vị chủ
lực của CSVN ở Vùng 3 Chiến Thuật gồm có 3 Sư đoàn Bộ binh: 5, 7,
9, và các đơn vị đặc công ém quân bên kia biên giới Việt–Miên
thường xuyên xâm nhập vào lãnh thổ nước ta quấy nhiễu hoặc bao
vây tấn công các đồn biên phòng của chúng ta dọc theo biên giới ở
các tỉnh Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bình Long, và Phước Long.
Chủ lực của Quân đoàn III gồm có 3 Sư đoàn Bộ Binh 5, 18, 25, và
Lữ đoàn 3 Kỵ Binh được sự yểm trợ trực tiếp của Tiểu đoàn 46 Pháo
binh 155ly, Tiểu đoàn 61 PB 105ly, và Liên đoàn 30 Công Binh dưới
quyền chỉ huy của Trung tướng Nguyễn Văn Minh, một mặt phải lo
dàn mỏng quân ra thay thế Lực lượng II Dã chiến Hoa Kỳ để bảo vệ
lãnh thổ chống lại chủ trương “giành dân lấn đất” của cộng sản
sau khi Hiệp Định Paris ra đời; mặt khác, Trung tướng Nguyễn Văn
Minh, tư lệnh Quân Đoàn III phạm sai lầm rất lớn về tổ chức và sử
dụng lực lượng là giải tán 3 Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III và
phân tán nát Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ra từng mảnh nhỏ sau khi tôi rời
Lữ đoàn đi du học ở Hoa Kỳ năm 1972.
Hai sự kiện đó làm cho Quân đoàn III bị suy yếu trầm trọng và hoàn toàn bị mất đi tính di động. Vì thế mà Lộc Ninh bị địch chiếm và các đồn biên phòng ở Tây Ninh lần lần bị lọt vào tay địch. Tháng 7 năm 1973 tôi từ Mỹ trở về nước. Trung tướng Phạm Quốc Thuần cũng vừa thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Minh đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III. Ông nghe tiếng tôi đã từng chỉ huy chiến đoàn 318 và Lữ đoàn 3 Kỵ binh đánh thắng nhiều trận lớn trên chiến trường Campuchia từ thời Đại tướng Đỗ Cao Trí trong 2 năm 1970–1971, nên vận động xin tôi về trở lại Quân đoàn III với ông. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, tôi nhận quyền chỉ huy Lữ đoàn 3 Kỵ binh ở Biên Hòa.
Việc đầu tiên là tôi gom các đơn vị Thiết giáp bị
phân tán về lại Lữ đoàn và trình Trung tướng Thuần gấp rút tổ
chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III (LLXKQĐIII) theo mô
hình tổ chức của Đại tướng Đỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền
hành động.
Tình hình quân sự càng ngày càng nặng sau khi
quân Mỹ rút đi.
Trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, nhiều chiến xa
T–54 địch xuất hiện lần đầu tiên ở miền Nam trên chiến trường ở
An Lộc, nên tôi tiên đoán chiến trường tương lai chiến xa địch có
thể xuất hiện ở Biên Hòa; tôi xin Quân Đoàn trang bị cho tất cả
các đơn vị Địa Phương Quân ở Biên Hòa súng phóng hỏa tiễn M72
chống chiến xa, được phép huấn luyện họ sử dụng loại vũ khí này
và huấn luyện họ phối hợp tác chiến với Thiết giáp, đồng thời
tích cực tổ chức địa thế chống chiến xa địch chung quanh thành
phố Biên Hòa. Các đường xâm nhập vào thành phố đều được thiết kế
đặt mìn chống chiến xa và hầm hào chống chiến xa địch. Chính nhờ
nỗ lực này của Lữ đoàn 3 Kỵ binh mà sau này trong “Chiến Dịch Hồ
Chí Minh” năm 1975 của cộng sản Bắc Việt, Quân đoàn 4 CS đã thất
bại trong kế hoạch đánh chiếm tỉnh Biên Hòa và Sư đoàn 341 CS bị
quân ta đánh bại ở Biên Hòa trong ngày 30/4/1975.
Tôi ra sức cải tổ lại Lữ đoàn III KB cho phù hợp với địa thế Việt
Nam.
Mỗi Chi đội Chiến xa có 3 Chiến xa M48 thay vì 5
chiếc. Tôi cơ động hóa Pháo Binh bằng cách dùng xe xích M548 biến
cải chở pháo 105ly.
Tôi tổ chức
LLXKQĐIII
thành một đại
đơn vị liên binh Thiết giáp Biệt động quân – Pháo binh – Công
binh hoàn toàn cơ động gồm 3 chiến đoàn: 315, 318, và 322. Tôi
khẩn trương huấn luyện tác chiến liên binh nhuần nhuyễn và thường
xuyên làm công tác tư tưởng để mọi quân nhân hiểu rõ địch, hiểu
rõ nhiệm vụ, và mục tiêu chiến đấu của chúng ta, nhất là để mọi
chiến sĩ dưới quyền có niềm tin ở sự chỉ huy của tôi. Đến hạ tuần
tháng ba, 1974, LLXKQĐIII đã trở thành một đại đơn vị cơ động
tinh nhuệ sẵn sàng lên đường chiến đấu.
2. Tình
hình đặc biệt: Cuộc chiến đấu anh hùng của Tiểu đoàn 83 Biệt Động
Quân
Căn cứ Đức Huệ nằm gần biên giới Việt–Miên thuộc quận
Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa do Tiểu đoàn 83 BĐQ Biên phòng trấn giữ
với quân số trên dưới 420 người cùng với gia đình vợ con binh sĩ
vào khoảng 80 người sống trong căn cứ nguyên là một trại Lực
lượng Đặc biệt của Mỹ để lại. Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Hoa
Văn Hạnh. Khi xảy ra trận chiến thì Thiếu tá Hạnh đi nghỉ phép
vắng mặt. Thiếu tá Nguyễn Văn Bảo, tiểu đoàn phó thay thế chỉ
huy.
Tiểu đoàn 83 BĐQ có 4 Đại đội tác chiến và 1 Đại đội
Chỉ huy và Công vụ:
Trung úy Thạch Thông chỉ huy Đại đội
1,
Trung úy Hiền chỉ huy Đại đội 2,
Trung úy Thất chỉ huy
Đại đội 3,
Trung úy Tuội chỉ huy Đại đội 4, và
Thiếu úy
Vạng chỉ huy Đại đội Chỉ huy và Công vụ.
Được tin tình báo
VC sẽ đến đánh căn cứ, Thiếu tá Nguyễn Văn Bảo cho 3 Đại đội tác
chiến ra ngoài căn cứ: 1 đại đội bố trí các tiền đồn an ninh xa
và 2 đại đội hành quân tìm và diệt địch ngoài xa căn cứ.
Còn lại một đại đội tác chiến trừ bị bố phòng trong căn cứ.
(1) Đêm 27/3/1974:
Một Đại đội Đặc công CS xâm nhập
được vào bên trong căn cứ Đức Huệ; vào lúc 02:00g sáng ngày
28/3/1974, chúng chiếm được một góc trong căn cứ. Ngay từ những
phát súng nổ đầu tiên, Thiếu tá Bảo bị thương ở chân, gọi được 3
Đại đội tác chiến bên ngoài gấp rút trở về. Tiểu đoàn tập trung
lại phản công quyết liệt.
Bên ngoài căn cứ, Sư đoàn 5 CS
(Công Trường 5) bao vây chặt; pháo binh địch tập trung hỏa lực
pháo kích vào căn cứ rất dữ dội. Bên trong căn cứ Biệt động quân
và Đặc Công CS cận chiến giành nhau từng vị trí một, đánh nhau
bằng lưỡi lê và lựu đạn. Đến sáng thì đại đội Đặc công CS bị quân
ta tiêu diệt hết.
Tiểu đoàn 83 BĐQ làm chủ tình hình bên
trong căn cứ, tổ chức lại phòng thủ chặt chẽ, và sử dụng pháo
binh của Tiểu khu Hậu Nghĩa bắn yểm trợ hỏa lực chung quanh căn
cứ. Trong khi đó, các đại đội tác chiến BĐQ bố phòng bên trong
chặn đứng các đợt xung phong bên ngoài của các đơn vị Bộ binh Sư
đoàn 5 CS. Hai bên giao chiến ác liệt ngày đêm không ngừng nghỉ.
Tiểu đoàn 36 BĐQ do Thiếu tá Lê Quang Giai chỉ huy, tăng phái
cho Tiểu khu Hậu Nghĩa, vượt sông Vàm Cỏ Đông ở Đức Hòa tiến về
hướng căn cứ Đức Huệ bị phục binh của các đơn vị thuộc Sư đoàn 5
CS ở Giồng Thổ Địa thuộc xã Đức Huệ tấn công, buộc Tiểu đoàn phải
thối lui lại gần bờ sông Vàm Cỏ.
(2) Bộ Tư lệnh Quân đoàn
III
Liền điều động Bộ Chỉ huy Liên đoàn 33 BĐQ do Trung tá
Lê Tất Biên phụ trách sang Đức Hòa cùng với Tiểu đoàn 64 BĐQ do
Thiếu tá Nguyễn Chiêu Minh chỉ huy.
– Ngày 31/3/1974, Đại
đội 3 thuộc Tiểu đoàn 64 BĐQ (khoảng 50 người) do Trung úy Anh
chỉ huy được trực thăng vận xuống căn cứ Đức Huệ tăng cường cho
Tiểu đoàn 83 BĐQ, đồng thời Tiểu đoàn 64 BĐQ (–) vượt sông Vàm Cỏ
Đông ở gần nhà máy đường Hiệp Hòa, nhập với Tiểu đoàn 36 BĐQ làm
2 cánh quân tiến song song về hướng căn cứ Đức Huệ ở cách đó
chừng 10 cây số đường chim bay về hướng Tây. Tiến được chừng 2
cây số, khoảng hơn 1 Trung đoàn Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 CS từ
những vị trí hầm hào đào sẵn, xông lên tấn công mạnh, đồng thời
pháo binh địch tập trung hỏa lực bắn xối xả vào đội hình của hai
cánh quân này gây tổn thất nặng. Cuối cùng Tiểu đoàn 64 BĐQ (–)
và Tiểu đoàn 36 BĐQ buộc phải gom quân rút lui về lại bên này bờ
sông Vàm Cỏ.
(3) Sư đoàn 25 BB hành quân giải tỏa.
Tiếp theo, Bộ Tư lệnh QĐIII giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 25 BB do
Đại tá Nguyễn Hữu Toán chỉ huy, tổ chức hành quân giải tỏa căn cứ
Đức Huệ. Đại tá Toán liền điều động các đơn vị thuộc Sư đoàn đang
hành quân trong vùng lân cận biên giới từ phía Bắc đến giải tỏa.
Một căn cứ hỏa lực được thành lập tại làng Phước Chỉ thuộc tỉnh
Tây Ninh. Căn cứ này nằm cách biên giới khoảng 2km về phía Nam
đồn biên giới An Hòa và cách căn cứ Đức Huệ khoảng 13km về phía
Bắc. Ngoài Tiểu đoàn Pháo binh 105ly cơ hữu Sư đoàn phối trí
trong căn cứ Phước Chỉ, còn có Trung đoàn 46/SĐ25 BB được tăng
cường Chi đoàn 3/10 Thiết kỵ. Chi đoàn trưởng Chi đoàn này là Đại
úy Trần Văn Hiền. Tất cả lực lượng liên binh này được đặt dưới
quyền điều động của Trung tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng
Trung đoàn 46 BB và được giám sát chỉ huy bởi Bộ Tư lệnh Sư đoàn
25 BB ở Củ Chi.
Để đối phó với đoàn quân giải tỏa
của Sư đoàn 25 BB, quân địch đã chủ động tổ chức địa thế, bố trí
quân kín đáo chờ đánh quân tiếp viện. Chúng đặt các chốt chặn
trên trục tiến quân của ta không vượt qua được, đồng thời pháo
binh tầm xa của chúng nằm sâu bên kia biên giới mở những trận địa
pháo chính xác, liên tục và ác liệt gây nhiều thương vong cho
Trung đoàn 46 BB, làm tê liệt các cánh quân không điều động được,
nên kế hoạch giải tỏa của Sư đoàn 25 BB thất bại. Một phi cơ quan
sát L19 bị phòng không địch bắn rơi gần đó, Trung đoàn cũng không
tiếp cứu nổi phi hành đoàn. Sau đó quân địch pháo kích tập trung
hỏa lực thẳng vào căn cứ Phước Chỉ bằng hỏa tiễn 107ly và 122ly
khiến Trung tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng Trung đoàn
46/SĐ25 BB bị tử thương. Trong suốt thời gian gần một tháng trời,
quân bạn không đem lại một kết quả khả quan nào, hàng ngày vẫn bị
pháo kích dồn dập, trực thăng tản thương và tiếp tế bị bắn rớt
ngay trong căn cứ, 1 khu trục cơ Skyraider yểm trợ hành quân và 1
phi cơ DC3 thả dù tiếp tế bị hỏa tiễn SA–7 bắn rớt; những cánh dù
mang lương thực và đạn dược cho căn cứ Đức Huệ thường bay ra
ngoài vòng rào và lọt vào tay quân địch. Như vậy là cả hai nỗ lực
từ phía sông Vàm Cỏ Đông của BĐQ qua và từ phía Bắc của Sư đoàn
25 BB xuống đều bị thất bại trong việc tiếp cứu Tiểu đoàn 83 BĐQ
(xem bản đồ minh họa bên trên).
(4) Những “Anh hùng Alamo
Việt Nam”.
Bên trong căn cứ, trong lúc đó, các chiến sĩ
Tiểu đoàn 83 BĐQ và Đại đội 3 của Trung úy Anh thuộc Tiểu đoàn 64
BĐQ dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Nguyễn Văn Bảo chiến đấu vô
cùng dũng mãnh, càng đánh càng hăng từ lúc đầu cận chiến với Đặc
công địch bằng lưỡi lê và lựu đạn bên trong căn cứ cho đến về sau
này phải chiến đấu đẩy lui các đợt xung phong của địch ngày đêm
không ngừng nghỉ. Cuối cùng lương thực và đạn dược bắt đầu cạn,
căn cứ bị cô lập không được tiếp tế, không tản thương được, nhưng
không vì thế mà tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ BĐQ bị suy
giảm. Họ thề quyết tử chiến với quân thù. Gia đình vợ con của các
chiến sĩ BĐQ trong căn cứ cũng tích cực tham gia chiến đấu bên
cạnh chồng cha họ. Họ cổ võ, họ giúp tản thương, cứu thương, tiếp
tế đạn dược, và lo cơm nước. Có người còn cầm súng chiến đấu vô
cùng dũng cảm. Mặc dù tỷ lệ quân số giữa ta và địch quá chênh
lệch, quân địch không sao dứt điểm được. Xác địch chồng chất ngổn
ngang bên trong và bên ngoài căn cứ Đức Huệ.
So sánh sự tử
thủ nổi tiếng của Quân đội Mỹ ở Đồn binh “Alamo” năm 1836 do
Trung tá William Barret Travis chỉ huy với quân số 189 người
chống lại sự bao vây và tấn công của hơn 2,000 quân Mễ với tỷ lệ
quân số hai bên là 1/11. Sau 13 ngày đêm tử chiến, đồn binh bị
quân địch tràn ngập ngày 6/3/1836. Tất cả 189 chiến sĩ trong đồn
binh đều tử trận, chỉ còn sống sót 14 người là đàn bà và trẻ con.
Khoảng 1,600 quân Mễ bị giết. Hoặc so sánh sự tử thủ nổi tiếng
của quân Lê Dương Pháp ở làng “Camerone” ngày 30/4/1863 với 65
chiến sĩ do Đại úy Danjou chỉ huy chống lại sự bao vây và tấn
công của 2,000 quân Mễ với tỷ lệ quân số hai bên là 1/34. Sau 11
giờ tử chiến, quân Lê Dương Pháp giết hơn 300 quân Mễ, vị trí
phòng thủ bị tràn ngập, 62 quân Lê Dương Pháp bị giết, chỉ còn
sống sót 3 người bị trọng thương.
Tiểu đoàn 83 BĐQ phòng
thủ trong căn cứ Đức Huệ với quân số khoảng 420 người được tăng
cường 50 người của Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn 64 BĐQ. Tổng cộng
quân số là 470 người chống lại sự bao vây và tấn công của hơn
6,500 quân của Sư đoàn 5 CS với tỷ lệ quân số đôi bên là 1/13.
Sau hơn 1 tháng chiến đấu quyết liệt từ ngày 27/3/1974 đến ngày
28/4/1974, giữ vững vị trí phòng thủ, giết hơn 200 quân địch và
gây thương tích cho khoảng 500 tên khác. Tổn thất bên BĐQ là 24
chết và hơn 100 người bị thương. Mặc dù thời đại có khác nhau,
mẫu số chung của những anh hùng ở Alamo, Camerone, và Đức Huệ là
sự quyết tâm tử thủ bằng mọi giá. Với tỷ lệ quân số đôi bên chênh
lệch như thế, họ vẫn hiên ngang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng,
đến hơi thở cuối cùng. Có thể nói không quá đáng là những chiến
sĩ Biệt Động Quân chiến đấu ở Căn cứ Đức Huệ đích thật là những
“Anh hùng Alamo Việt Nam”.
Sự chiến đấu kiên cường và dũng
cảm của BĐQ ở Căn cứ Đức Huệ còn chứng minh hùng hồn cho thế giới
thấy rằng tinh thần và khả năng chiến đấu của quân lực chúng ta
không thua bất cứ quân đội tân tiến nào trên thế giới. Một số
người thiển cận và một số dư luận báo chí kỳ thị của Mỹ cho rằng
khi Quân đội Mỹ rút đi khỏi Miền Nam Việt Nam thì Quân lực VNCH
thiếu tinh thần chiến đấu đưa đến việc mất Miền Nam Việt Nam.
Nhận định này là vô lý và hoàn toàn sai sự thật.
** Mất Miền Nam
Việt Nam rõ ràng là vì quân ta thiếu phương tiện chiến đấu chứ
không phải thiếu tinh thần chiến đấu.
o0o
3. Lữ đoàn 3 Kỵ Binh – Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III Xuất Trận
Vấn đề vô cùng khẩn trương lúc đó là việc tản thương,
cứu thương và tiếp tế lương thực, nước uống, đạn dược cho căn cứ
Đức Huệ trong lúc mọi đường giao thông liên lạc vào căn cứ đều bị
Sư đoàn 5 CS hoàn toàn cắt đứt nhiều ngày. Căn cứ bị cô lập và bị
bao vây chặt. Tình hình bên trong căn cứ rất căng thẳng.
(1) Ngày 17/4/1974, Trung tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân
đoàn III, cho gọi tôi. Lúc bấy giờ tôi đang chỉ huy Lữ đoàn 3 Kỵ
binh hành quân thám sát “Khu Tam giác Sắt” và “Vùng Hố Bò”, sau
khi Chiến đoàn 315 của Trung tá Dư Ngọc Thanh đập tan Tiểu đoàn
Tây Sơn thuộc Trung đoàn 101 Địa phương Việt cộng, giải tỏa áp
lực địch chung quanh đồn Bò Cạp và đồn Chà Rày thuộc Chi khu
Tràng Bàng của tỉnh Tây Ninh.
Tôi lên trực thăng chỉ huy
bay về Biên Hòa trình diện Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn. Ông
tiếp tôi và cho tôi biết qua tình hình địch và bạn, và tình trạng
hiện nay bên trong căn cứ Đức Huệ. Sau đó trung tướng ra lệnh cho
tôi lấy trực thăng bay qua Đức Hòa xem xét tình hình chiến sự bên
đó rồi về trình cho ông biết ý kiến.
Tôi liền lên trực
thăng bay qua Đức Hòa. Trên đường bay, tôi mải mê lo nghĩ phải
làm gì để đối phó với Sư đoàn 5 CS đây? Linh tính cho tôi biết có
thể tôi sẽ được Bộ Tư lệnh Quân đoàn chỉ định giải quyết tình
trạng nguy kịch ở Căn cứ Đức Huệ. Đây là một nhiệm vụ rất khó
khăn. Cách đánh của quân địch từ trước tới nay vẫn là “Công Đồn
Đả Viện”. Địch chủ động tổ chức chiến trường nhiều ngày chờ ta
đến. Pháo binh tầm xa của chúng bố trí an toàn bên kia biên giới
và sẵn sàng mở những trận địa pháo chính xác và ác liệt khó lọt
qua được. Địch lại nắm ưu thế về quân số và địa thế. Ta có lực
lượng Thiết giáp hùng hậu, ta làm chủ không phận và có không lực
yểm trợ mạnh mẽ. Nhưng gần đây, quân địch được trang bị nhiều vũ
khí hiện đại của Liên Sô như hỏa tiễn phòng không tầm nhiệt SA7
đã gây cho Không lực ta nhiều tổn thất đáng kể, và hỏa tiễn chống
chiến xa AT–3, một loại hỏa tiễn lợi hại có bộ phận điều khiển
giống hỏa tiễn TOW chống xe tăng của Mỹ. Tôi đã từng gặp hỏa tiễn
AT–3 này một lần trên chiến trường Campuchia. Mải mê suy nghĩ,
trực thăng đáp xuống sân bay Đức Hòa lúc nào không biết khi một
loạt đạn pháo kích của địch nổ chát chúa chung quanh trực thăng
làm tôi giật mình bừng tỉnh. Tôi cầm bản đồ phóng nhanh xuống đất
và ra dấu cho trực thăng bay đi. Tôi vội lên xe Jeep đang chờ và
cho tài xế chạy nhanh đến nhà máy đường Hiệp Hòa là nơi Bộ Chỉ
huy Liên đoàn 33 BĐQ đang tạm đóng. Tôi leo lên tầng cao nhất của
nhà máy. Ở đây nhìn ra ngoài, ta thấy con sông Vàm Cỏ Đông uốn
khúc bên dưới. Bên kia sông là một dãy đất trải dài xa tắp đến
tận biên giới Việt–Miên. Trung tá Lê Tất Biên, liên đoàn trưởng
Liên đoàn 33 BĐQ, tiếp tôi và thuyết trình cho tôi rõ tình hình
của cánh quân BĐQ ở phía Đông căn cứ Đức Huệ. Sau khi vượt sông
Vàm Cỏ Đông thất bại, Tiểu đoàn 36 BĐQ và Tiểu đoàn 64 BĐQ đang
tổ chức lại hàng ngũ, bổ sung quân số và chờ lệnh mới của Bộ Tư
lệnh Quân đoàn.
(2) Kế hoạch hành quân của Lữ đoàn
3 Kỵ binh.
Rời Bộ Chỉ huy của Liên đoàn 33 BĐQ, tôi lên
trực thăng bay về hướng biên giới. Tôi cho trực thăng bay thật
cao để có cái nhìn tổng quát bên dưới và cũng để đề phòng phòng
không của địch bố trí dày đặc ở bên dưới. Bay qua khỏi sông Vàm
Cỏ Đông là đến vùng biên giới Việt–Miên. Bên này biên giới là một
dãy đất bằng phẳng sình lầy, chi chít những kinh lạch gần giống
như vùng Đồng Tháp Mười ở Miền Tây. Xa xa trên đất Miên là những
làng mạc rải rác vắng vẻ. Nằm xa tít về hướng Nam là căn cứ Đức
Huệ lẻ loi, cô độc. Tôi cho trực thăng bay sâu vào đất Miên. Thị
trấn ChiPu của Campuchia xuất hiện ở phía trước. Về phía Nam một
chút, có một khu rừng chừng 10 mẫu Tây gây sự chú ý của tôi. Tôi
chợt nhớ lại cách đó 4 năm, trong cuộc hành quân “Toàn Thắng 42”
cuối tháng 4/1970, tôi có đi qua khu rừng này và tôi có biết rất
rõ địa thế phía Nam của Thị trấn ChiPu.
Trong chớp mắt,
tôi thấy ngay là phải hành động như thế nào để đánh bại Sư đoàn 5
CS, cứu Tiểu đoàn 83 BĐQ ở căn cứ Đức Huệ. Quả thật giản dị đúng
như Napoléon nói: La guerre est un art simple et tout d’exécution
(Chiến tranh là một nghệ thuật giản dị và tất cả là cách thực
hiện trên chiến trường). Trong đầu tôi hiện ra cách thực hiện một
kế hoạch hành quân giản dị trong đó hành động táo bạo, nhanh
chóng, và hoàn toàn bất ngờ là chìa khóa của thắng lợi. Lòng tôi
cảm thấy nhẹ nhõm.
Trở về hậu cứ của Lữ đoàn ở Biên Hòa,
tôi liền tự tay phác họa ra kế hoạch phản công trong vòng 20
phút. Đặc điểm của kế hoạch này là sự giản dị tối đa và bất ngờ
hoàn toàn: Toàn bộ LLXKQĐIII sẽ cùng tôi vượt biên đêm và bí mật
tiến sâu vô lãnh thổ Campuchia về hướng ChiPu. Nỗ lực chính là
đột kích đêm vào hậu tuyến của Sư đoàn 5 CS từ hướng Nam ChiPu.
Phải hết sức giữ bí mật và hành động thật nhanh, tập trung toàn
bộ sức mạnh của Thiết giáp, khai thác tối đa tốc độ và “Shock
Action” trên trận địa, không cho địch trở tay kịp.
Tôi cầm
kế hoạch trong tay đi lên Bộ Tư lệnh Quân đoàn gặp Trung tướng
Phạm Quốc Thuần. Ông tiếp tôi và tôi xin được trình bày. Tôi trải
tấm bản đồ 1/50,000 ra bàn. Ông chăm chú lắng nghe tôi nói:
“Sáng nay, theo lệnh trung tướng, tôi đã bay đi thám sát mặt
trận ở Đức Hòa – Đức Huệ. Tình hình rất xấu, chúng ta phải hành
động ngay, sợ không kịp vì căn cứ Đức Huệ bị vây hãm từ 27/3 đến
nay hơn 20 ngày. Tiếp tế và tản thương cho căn cứ Đức Huệ bị địch
cắt đứt hoàn toàn. Tôi xin đề nghị lên trung tướng: Sử dụng
LLXKQĐIII phản công ở căn cứ Đức Huệ.
Kế hoạch phản công
của tôi có 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1:
Hành quân lừa
địch: Từ ngày N–6 đến ngày N: Rút LLXKQĐIII đang hành quân thám
sát trong tỉnh Tây Ninh về khu Comi ở Lái Thiêu (Thủ Đầu Một).
Tôi sẽ tung tin là LLXKQĐIII sẽ di chuyển lên Xuân Lộc (Long
Khánh). Mục đích của cuộc điều quân này là làm cho quân địch
tưởng là lực lượng Thiết giáp sẽ rút đi đến một nơi khác.
Giai đoạn 2:
Hành quân phản công: Từ ngày N: Xuất quân
đêm, trở lên Gò Dầu Hạ, vượt biên giới tiến sâu vào lãnh thổ
Campuchia về hướng ChiPu. Sau đó chuyển sang hướng Nam ChiPu, dựa
vào đêm tối tấn công toàn lực vào hậu tuyến của Sư đoàn 5 CS bố
trí ở phía Tây căn cứ Đức Huệ”.
Sau khi tôi trình bày
xong, trung tướng có vẻ băn khoăn lo lắng. Ông suy nghĩ một lúc
rồi nói: Tôi lo kế hoạch này của anh sẽ đưa đến những hậu quả
nghiêm trọng về chính trị. Vì như thế là chúng ta xâm phạm vào
lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền. Chính phủ Campuchia sẽ có
phản ứng và Liên Hiệp Quốc chắc chắn sẽ lên tiếng phản đối. Tôi
sẽ gặp khó khăn.
Nhưng thưa trung tướng, CSBV đâu có tôn
trọng chủ quyền của Campuchia. Chúng đang sử dụng lãnh thổ của
Campuchia để tấn công chúng ta. Tôi đáp lại.
– Đúng vậy,
nhưng đây là một vấn đề rất tế nhị. Anh có thể làm một kế hoạch
khác được không? Ông hỏi tôi. Tôi liền đáp:
– Thưa trung
tướng, tôi đã xem xét kỹ tình hình và địa thế, tôi nghĩ chỉ có kế
hoạch này chúng ta mới đánh bại Sư đoàn 5 CS, cứu Tiểu đoàn 83
BĐQ ở căn cứ Đức Huệ. Ông trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Thôi được, tôi sẽ trình kế hoạch này của anh lên Tổng thống
để ông quyết định. Nếu được chấp thuận, anh sẽ chỉ huy cuộc hành
quân này. Hãy về chuẩn bị lực lượng. Tôi nhận lệnh, đứng nghiêm
chào rồi lui ra.
Trên đường về Lữ đoàn, tôi nghĩ chắc rồi
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ chấp thuận vì chúng ta không thể
vì lo ngại Liên Hiệp Quốc mà hy sinh sinh mạng của hơn 500 chiến
sĩ BĐQ và gia đình họ ở căn cứ Đức Huệ.
Trong lòng tôi rất
vui mừng và biết ơn được vị tư lệnh Quân đoàn tín nhiệm. Đây là
lần đầu tiên tôi có trong tay sự tập trung một lực lượng Thiết
giáp lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam và cũng là lần đầu tiên
tôi được cho toàn quyền hành động để đương đầu trực diện với một
Sư đoàn CS kể từ khi Hiệp Định Paris ra đời.
Tôi vừa được
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp tướng một sao cùng với các
anh Nguyễn Văn Điềm Sư đoàn 1 BB, Phạm Ngọc Sang Không quân,
Hoàng Cơ Minh Hải quân... Đây là dịp tôi muốn chứng tỏ khả năng
chỉ huy của mình và muốn chứng tỏ một đại đơn vị Thiết giáp biết
sử dụng tập trung là một vũ khí lợi hại có thể đánh bại các đại
đơn vị CS trong thế công cũng như trong thế thủ.
– Ngày
20/4/1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận Kế hoạch Hành
quân của tôi, đồng thời ra lệnh cho Không lực VNCH trực tiếp yểm
trợ tác chiến cho Lữ đoàn 3 Kỵ binh 120 phi xuất (Tactical Air
Support) từ ngày N đến ngày N+3 theo yêu cầu của tôi. Tôi chọn
ngày N là ngày 28/4/1974.
(3) Công tác chuẩn bị
–
Ngày 21/4/1974, Bộ Tư lệnh Quân đoàn III triệu tập buổi họp hành
quân ở Biên Hòa do Trung tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân đoàn
III chủ tọa. Có mặt Bộ tham mưu Quân đoàn, Bộ Chỉ huy 3 Tiếp vận,
và 3 tư lệnh Sư đoàn 5, 18, 25: Đại tá Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng
Lê Minh Đảo, và Đại tá Nguyễn Hữu Toán. Sau khi Bộ Tham mưu trình
bày tình hình chung ở Vùng 3 Chiến thuật và tình hình đặc biệt ở
Căn cứ Đức Huệ, Trung tướng tư lệnh Quân đoàn tuyên bố chỉ định
tôi thay thế tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh chỉ huy mặt trận Đức Hòa
– Đức Huệ, và sử dụng LLXKQĐIII phản công, giải vây Căn cứ Đức
Huệ. Tôi đứng lên trình bày ngắn gọn trước hội nghị Kế hoạch Hành
quân vượt biên đêm của LLXKQĐIII ở Gò Dầu Hạ và Hành quân Phản
công của LLXKQĐIII trên lãnh thổ Campuchia.
Theo nhu cầu
hành quân của tôi, các đơn vị sau đây được Trung tướng tư lệnh
Quân đoàn III chỉ định tăng phái cho Lữ đoàn 3 KB đễ nằm trong tổ
chức của LLXKQĐIII:
– Tiểu đoàn 64 BĐQ đi với Thiết đoàn
15 KB, thành phần nòng cốt của Chiến đoàn 315 do Trung tá Dư Ngọc
Thanh chỉ huy;
– Tiểu đoàn 36 BĐQ đi với Thiết đoàn 18 KB,
thành phần nòng cốt của Chiến đoàn 318 do Trung tá Phan Văn Sĩ
chỉ huy;
– 1 Đại đội Bộ binh thuộc Tiểu đoàn 1/43 (Sư đoàn
18 BB) đi với Thiết đoàn 22 Chiến xa, thành phần nòng cốt của
Chiến đoàn 322 do Trung tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy;
–
Thiết đoàn 10 KB (Sư đoàn 25 BB) + Tiểu đoàn 1/43 BB (–)(Sư đoàn
18 BB) + 1 Chi đội Chiến xa M48 thuộc Thiết đoàn 22 Chiến xa do
Trung tá Trần Văn Nhuận chỉ huy;
– Tiểu đoàn 61 Pháo binh
105ly + 1 Pháo đội 155ly thuộc Tiểu đoàn 46 Pháo binh do Thiếu tá
Hoa Vạn Thọ chỉ huy;
– Tiểu đoàn 302 thuộc Liên đoàn 30
Công binh do Thiếu tá Lê Hồng Sơn chỉ huy;
– Một Trung đội
Điện tử (Quân đoàn) do Thiếu tá Hiển, Trưởng phòng 2 Lữ đoàn kiểm
soát;
– Một Trung đội Truyền tin Siêu tần số (Quân đoàn)
do Trung úy Bùi Đình Lộ Trưởng phòng Truyền tin Lữ đoàn giám sát;
– 1 Đại đội yểm trợ Tiếp vận thuộc Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận do
Thượng sĩ Nhất Phan Thanh Nhàn (Quân cụ) chỉ huy.
Ngoài ra
trung tướng còn ra lệnh cho 3 tư lệnh Sư đoàn Bộ binh cho tôi
mượn 6 giàn hỏa tiễn chống xe tăng TOW để phân phối cho mỗi Chiến
đoàn Thiết giáp vượt biên 2 giàn hỏa tiễn TOW gắn trên xe Thiết
vận xa M113 đề phòng trường hợp có chiến xa T–54 của địch xuất
hiện trên chiến trường Campuchia.
Trước khi kết thúc buổi
họp, Trung tướng tư lệnh Quân đoàn chúc tôi thành công trong
nhiệm vụ giao phó. Tôi đứng lên đáp lời cám ơn trung tướng. Lúc
đó trong lòng tôi có một sự tin tưởng mãnh liệt vào chiến thắng
của cuộc hành quân này, nên tự nhiên tôi buột miệng thốt ra:
– Thưa Trung tướng, chúng tôi sẽ đánh bại Sư đoàn 5 Cộng sản!
Trên đường về Lữ đoàn, tôi giật mình khi nghĩ lại những lời
mình vừa nói. Tại sao tôi dám liều lĩnh khẳng định trước hội nghị
là sẽ đánh bại Sư đoàn 5 Cộng sản? Mặc dù tôi có trong tay
LLXKQĐIII là một lực lượng chiến đấu tinh nhuệ chưa từng bị thất
trận và mặc dù tôi đã nắm chặt trong tay những yếu tố có tính
cách quyết định thắng lợi, nhưng vẫn còn 2 yếu tố khác ngoài tầm
tay của tôi có thể làm tôi bị thất bại trong cuộc hành quân này.
Đó là thời tiết và kế hoạch hành quân bị bại lộ. Thật vậy, nếu
đến ngày N là ngày xuất quân trời đổ mưa trong vùng hành quân,
địa thế trở nên lầy lội, tôi sẽ không thể điều động lực lượng
Thiết giáp như ý muốn được, hoặc kế hoạch hành quân của tôi được
trình lên phủ Tổng thống để xin quyết định, nếu bị tiết lộ ra
ngoài, chắc chắn sẽ đưa tôi đến thảm bại. Cứ nghĩ đến 2 yếu tố
này là tôi không ăn ngủ được. Tôi thấy hối tiếc đã thốt ra những
lời khẳng định trước là sẽ đánh thắng quân địch. Lời khẳng định
này cứ ám ảnh tôi ngày đêm. Cuối cùng tôi tự nhủ: phải giữ đúng
lời hứa; bằng mọi cách, mọi giá, phải đánh thắng Sư đoàn 5 Cộng
sản.
– Ngày 22/4/1974, tôi ra lệnh cho toàn bộ LLXKQĐIII
đang hành quân thám sát trong Chi khu Khiêm Hanh thuộc tỉnh Tây
Ninh rút quân về đóng ở Khu Cò–mi thuộc quận Lái Thiêu tỉnh Bình
Dương (Thủ Dầu Một). Tôi cho phao tin là
LLXKQĐIII
sẽ di chuyển
qua Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh. Mục đích của cuộc rút quân
này là để đánh lừa địch, làm cho chúng tưởng là quân Thiết giáp
sẽ rút đi luôn không trở lại. Tôi cho trung đội điện tử thường
xuyên nghe lén và theo dõi địch trao đổi tin tức với nhau. Khi
LLXKQĐIII vừa rút đi khỏi Gò Dầu Hạ về Lái Thiêu thì đài tình báo
của địch ở An Hòa – Gò Dầu lên tiếng báo cáo: “Quân Thiết giáp đã
rút đi”. Tôi biết chắc là chúng đã bị mắc lừa.
– Từ ngày
22/4/1974 đến ngày 28/4/1974, trong 6 ngày này đóng quân ở Khu
Cò–mi quận Lái Thiêu, các chiến đoàn 315, 318, và 322 theo lệnh
tôi ra sức ôn tập hợp đồng tác chiến giữa Thiết giáp – Biệt động
quân – Pháo binh từ cấp Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, Chiến đoàn
thật nhuần nhuyễn. Riêng tôi trong 6 ngày đó, tôi tích cực không
ngừng làm công tác tư tưởng. Karl Max nói: “Nếu tư tưởng được đả
thông, mọi người đều giác ngộ thì sức mạnh vật chất sẽ tăng lên
gấp đôi.” Kinh nghiệm chiến trường cho tôi thấy tinh thần hăng
say làm tăng sức mạnh của đơn vị lên gấp bội. Động viên được sự
chiến đấu của toàn quân là yếu tố số một của thắng lợi. Tôi lần
lượt đi xuống họp với các cấp chỉ huy Trung đội, Đại đội, Tiểu
đoàn của các binh chủng và với các chiến đoàn trưởng, nói rõ tình
hình của ta và địch, nói rõ nhiệm vụ và cách đánh của LLXKQĐIII
để mọi người đều thông suốt và tin tưởng sự tất thắng của chúng
ta. Tôi thuyết phục họ tin ở sự chỉ huy của tôi và nói rõ sự
quyết tâm của tôi là phải chiến thắng bằng mọi giá. Tôi động viên
họ, tôi nói đến tình đồng đội:
– Chúng ta không thể bỏ rơi
đồng đội của mình đang bị địch bao vây và mong chờ chúng ta đến
cứu họ.
Tôi nhắc đến những chiến thắng vẻ vang năm xưa
thời Đại tướng Đỗ Cao Trí:
– Chúng ta đã từng gặp nhiều
trận khó khăn gay cấn hơn trận này, chúng ta đều chiến thắng, đều
vượt qua.
Mỗi lần nói chuyện với các sĩ quan thuộc cấp tôi
đều kết luận:
– Kỳ này nhất định phải chiến thắng, tôi sẽ
cùng đi với các anh, kỳ này nếu thất bại thì tất cả chúng ta kể
cả tôi, sẽ không một ai trở về Việt Nam.
Ý của tôi, quyết
tâm của tôi đã rõ ràng: một là chiến thắng trở về, hai là chết
trên đất Miên. Không có con đường nào khác.
4. Veni, Vidi, Vici – “Tôi đến, tôi thấy, tôi chinh phục.”
–(Julius Caesar)
(4) Ngày N đã đến. Đó là ngày 28/4/1974. Chiều ngày
28/4/1974, Công binh đã sẵn sàng; Thiếu tá Lâm Hồng Sơn, tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 302 CB, theo lệnh tôi đã kín đáo cho bố trí
từ chiều tối ngày hôm trước ở hai bên bờ sông Gò Dầu Hạ, gần cầu,
các phà cao su để đưa chiến xa M48 qua sông. Lúc 20:00g, tôi cải
trang đích thân đến tận 2 bờ sông Gò Dầu Hạ kiểm tra Công binh
làm công tác chuẩn bị cho chiến xa vượt sông.
– Đúng
22:00g đêm, toàn bộ LLXKQĐIII gồm 3 Chiến đoàn 315, 318, và 322
cùng Bộ Chỉ huy nhẹ Lữ đoàn và Pháo binh Lữ đoàn bắt đầu rời vùng
tập trung ở Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) di chuyển bằng đèn mắt mèo và
im lặng truyền tin trực chỉ Gò Dầu Hạ.
(5) Ngày 29/4/1974,
lúc 00:00g, các chiến xa M48 bắt đầu xuống phà qua sông Gò Dầu
Hạ. Các loại xe xích khác và xe chạy bánh qua cầu Gò Dầu Hạ theo
Quốc lộ 1 trực chỉ ra hướng biên giới Việt–Miên.
– Từ
01:00g đến 03:00g, các Chiến đoàn, Bộ Chỉ huy nhẹ Lữ đoàn, và
Pháo binh Lữ đoàn lần lượt vượt biên sang lãnh thổ Campuchia và
vào vùng tập trung nằm sâu trong đất Miên về hướng Đông Nam thị
trấn Chipu.
– Đến 03:15g, tất cả các đơn vị đã bố trí
xong, trong vùng tập trung, sẵn sàng chờ lệnh xuất phát. Trung
đội điện tử theo dõi nghe địch, không thấy chỉ dấu gì chúng nghi
ngờ.
– Đúng 03:30g, tôi ra lệnh cho hai Chiến đoàn 315 và
318 vượt tuyến xuất phát, tấn công song song tiến xuống phía Nam,
Chiến đoàn 315 bên phải, Chiến đoàn 318 bên trái, Bộ Chỉ huy của
tôi theo sau Chiến đoàn 315; Chiến đoàn 322 trừ bị, bố trí phía
Nam Quốc lộ 1 chờ lệnh.
– Đúng 04:30g, Pháo binh Lữ đoàn
bắt đầu khai hỏa, tác xạ đồng loạt tập trung vào các mục tiêu của
địch nằm phía Tây căn cứ Đức Huệ, đồng thời Thiết đoàn 10 Kỵ binh
và Tiểu đoàn 1/43 BB(–) vượt tuyến xuất phát mở đường từ căn cứ
Phước Chỉ xuống Căn cứ Đức Huệ. (xem bản đồ minh họa bên trên)
– Đến 05:00g sáng ngày 29/4/74, các cánh quân của Chiến đoàn
315 và 318 báo cáo chạm địch. Quân ta liền điều động bao vây,
chia cắt, tấn công liên tục. Quân địch bị đánh bất ngờ tháo chạy,
quân ta truy đuổi chặn bắt. Các Bộ Chỉ huy Trung đoàn, Sư đoàn,
Bộ Chỉ huy Hậu cần, và các căn cứ Pháo binh của quân địch bị quân
ta tràn ngập và lần lượt bị quyét sạch. Nhiều giàn pháo các loại
4 ống, 8 ống, và 12 ống, và hàng ngàn hỏa tiễn 107ly và 122ly bị
quân ta tịch thu và tiêu hủy tại chỗ. Đặc biệt hơn cả có hơn 30
hỏa tiễn chống xe tăng AT–3 của Liên Xô nằm trên giàn phóng, chưa
kịp khai hỏa bị quân ta chiếm đoạt. Đến 08:00g sáng, Không quân
Chiến thuật lên vùng; Đại tá Trần Văn Thoàn, tư lệnh phó Lữ đoàn
bay trực thăng chỉ huy, điều khiển Không lực liên tục oanh kích
và oanh tạc địch từ sáng đến chiều tối.
– Đến 19:00g ngày
29/4/74, đại quân của Sư đoàn 5 CS bị đánh tan rã rút chạy về
hướng Mộc Hóa thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi liền tung cả ba Chiến
đoàn đồng loạt truy đuổi địch và cho Không quân Chiến thuật tập
trung truy kích chúng sâu trong lãnh thổ Vùng 4 Chiến thuật. Hàng
ngàn quân địch bị giết và bị thương, và hàng trăm tên bị quân ta
bắt sống.
(6) Sáng ngày 30/4/74, các đơn vị địch còn kẹt
lại chung quanh Căn cứ Đức Huệ chống trả yếu ớt, lần lượt bị quân
ta tiêu diệt gần hết. Đến trưa, một cánh quân của Thiết đoàn 10
đã bắt tay được với Biệt động quân trong căn cứ Đức Huệ, và đến
chiều toàn bộ Sư đoàn 5 CS hoàn toàn bị quân ta quyét sạch.
Bộ Chỉ huy của tôi nằm sâu trong lãnh thổ Campuchia về phía
Đông Nam Chipu trong một làng nhỏ hoang vắng. Tin chiến thắng làm
nức lòng mọi người. Màn đêm xuống, tiếng súng im bặt. Đêm hôm đó
thật êm ả, trời trong vắt, đầy sao, lòng tôi tràn ngập một niềm
sung sướng khó tả. Có lẽ đây là một đêm đẹp nhất trong đời tôi.
Tôi đã khẳng định trước với Quân đoàn là chúng tôi sẽ đánh bại Sư
đoàn 5 CS và bây giờ chúng tôi đã đánh bại chúng. Tôi đã nói
trước khi xuất quân với thuộc cấp là nếu thất bại thì sẽ không
một ai được trở về Việt Nam và bây giờ chúng tôi đã chiến thắng
có thể trở về. Đối với tôi cũng giống như một canh bạc mà tôi đã
lấy mạng sống của tôi ra đánh và bây giờ tôi đã thắng. Cho tới
ngày hôm đó trong đời tôi, thật không có một niềm hạnh phúc nào
lớn hơn được.
Chưa bao giờ trong lịch sử của hai cuộc
chiến tranh Việt Nam có một trận vận động chiến nào mà quân ta
hoặc quân Đồng Minh đã chiến thắng một đại đơn vị CS nhanh chóng
như thế, triệt để như thế. Tôi chợt nhớ đến cung cách và những
lời của Julius Ceasar trong chiến dịch thần tốc ở Zela vùng Tiểu
Á báo cáo chiến thắng về La Mã “Veni, Vidi, Vici: Tôi đến, Tôi
thấy, Tôi chiến thắng”, tôi liền lấy một mẫu giấy nhỏ, tự tay
thảo ngay bức Công điện ngắn báo cáo chiến thắng về Bộ Tư lệnh
Quân đoàn III.
Trân trọng báo cáo:
– Ngày 28/4/74:
Xuất quân
– Ngày 29/4/74: Phản công
– Ngày 30/4/74: Tiêu
diệt địch
– Ngày 1/5/74: Hoàn thành nhiệm vụ.
(7) Ngày
2/5/1974, tại Bộ Chỉ huy Hành quân của Lữ đoàn ở Gò Dầu Hạ, phóng
viên đài VOA phỏng vấn hỏi tôi:
– Có phải thiếu tướng đã
đưa quân sang lãnh thổ Campuchia không? Tôi liền đáp ngay:
– Không, tôi hành quân dọc theo biên giới trong lãnh thổ của
Việt Nam. Chính Cộng sản Việt Nam mới có quân trên lãnh thổ
Campuchia.
Tối đến, đài VOA và đài BBC loan tin chiến
thắng của Quân lực ta ở Căn cứ Đức Huệ. Riêng đài BBC nói thêm:
– Tướng Trần Quang Khôi nói không có đưa quân sang lãnh thổ
Campuchia, nhưng theo tin tức của chúng tôi nhận được thì Quân
lực VNCH có truy đuổi quân Cộng sản Bắc Việt trên lãnh thổ
Campuchia.
(8) Ngày 3/5/1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đi trực thăng đến Gò Dầu Hạ tham quan chiến trường. Trung tướng
Phạm Quốc Thuần và tôi tiếp đón Tổng thống. Ông vui vẻ bắt tay
chúng tôi rồi đi đến xem chiến lợi phẩm tịch thu của quân địch:
Rất nhiều vũ khí cộng đồng các loại. Nổi bật là các giàn phóng
hỏa tiễn 4 ống, 8 ống, và 12 ống cùng hàng trăm hỏa tiễn 107 và
122ly. Đặc biệt hơn cả là hơn 30 hỏa tiễn AT–3, loại mới nhất của
Liên Sô có hệ thống điều khiển chống tăng, lần đầu tiên bị quân
ta tịch thu trên chiến trường miền Nam. Các tùy viên quân sự Tây
phương mỗi người xin một quả nói để đem về nước nghiên cứu. Nhìn
số vũ khí khổng lồ của địch bị quân ta tịch thu mới hiểu được sự
tàn phá khủng khiếp trong căn cứ Đức Huệ và sự chiến đấu anh hùng
của Tiểu đoàn 83 BĐQ. Tiếp đến, Tổng thống đi thăm bộ tham mưu Lữ
đoàn 3 Kỵ binh và các đơn vị trưởng của các binh chủng trong tổ
chức LLXKQĐIII, ông bắt tay khen ngợi từng người và gắn cấp bậc
đại tá cho Trung tá Thiết giáp Dư Ngọc Thanh, Chiến đoàn trưởng
Chiến đoàn 315. Sau đó Tổng thống lên trực thăng chỉ huy của tôi
cùng tôi bay đến Đức Huệ. Các trực thăng của Trung tướng Phạm
Quốc Thuần và phái đoàn Phủ Tổng thống bay theo sau.
Trên
đường bay, Tổng thống bắt chuyện với tôi:
– Tôi rất thích
tính táo bạo liều lĩnh trong kế hoạch hành quân của anh.
–
Thưa Tổng thống, đây là sự liều lĩnh có tính toán. Tôi đáp lại.
Thấy Tổng thống vui vẻ, sự hân hoan hiện trên nét mặt, tôi
nói đùa một câu tiếng Pháp với Tổng thống:
– La chance
sourit toujours aux audacieux. (Sự may mắn luôn luôn “cười” với
những kẻ liều lĩnh). Ông gật gù cười có vẻ đắc ý lắm.
Trực
thăng đáp xuống căn cứ Đức Huệ. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 83 BĐQ và
Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn 64 BĐQ hân hoan tiếp đón Tổng thống.
Ông đi bộ một vòng viếng thăm, ủy lạo và ban thưởng. Doanh trại
trong căn cứ bị pháo binh địch tàn phá đổ sập gần hết, nhưng sự
hãnh diện giữ vững được đồn hiện ra trong đôi mắt của mỗi chiến
sĩ BĐQ. Một Chuẩn úy BĐQ còn rất trẻ đi đến tôi, đứng nghiêm
chào, rồi thình lình anh bước tới gần tôi, hai tay nắm chặt lấy
tay tôi bật khóc và nói:
– Cám ơn Thiếu tướng đã cứu mạng
chúng em.
Tôi cảm động ôn tồn đáp lại:
– Chính anh
phải cám ơn các em mới đúng. Sự chiến đấu vô cùng dũng cảm của
các em là một tấm gương sáng chói, là niềm hãnh diện chung của
Quân lực chúng ta. Chúng em mới thật sự là những anh hùng của
Quân đội mà mọi người Việt Nam Tự do phải mang ơn các em.
(9) Một tuần sau tôi nhận được một thư của DAO (Defense Attaché
Office) trong đó Tướng Homer Smith chuyển lời khen ngợi của Đại
sứ Graham Martin đến tôi: Đây là lần đầu tiên kể từ khi ký kết
Hòa Đàm Paris, một kế hoạch hành quân được thiết kế tuyệt hảo và
được thực hiện tuyệt hảo (very well planned and very well
executed).
Hai tuần sau, tôi nhận được một thư của Đại tá
Raymond Battreall nguyên Cố vấn trưởng của Bộ Chỉ huy Thiết Giáp
Binh QLVNCH. Battreall cho rằng đây là một chiến thắng ngoạn mục
và xuất sắc nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Cuối thư ông viết
bằng chữ Việt Nam: Kỵ Binh Việt Nam Muôn Năm.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến Gò Dầu Hạ quan sát chiến trường
5. Kết Luận
Trong chiến tranh Việt Nam,
Đại tá Raymond R. Battreall là một chuyên viên Thiết Giáp xuất
sắc của Lục Quân Hoa Kỳ. Ông vừa là Cố vấn trưởng của Bộ Chỉ huy
Thiết Giáp Binh QLVNCH trong hai nhiệm kỳ 1965–66 và 1970–72, vừa
là Cố vấn của Đại tướng W. Westmoreland và Đại tướng C. Abrams,
Tổng Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam, trong các vấn đề liên
quan đến tổ chức, huấn luyện, phát triển, và sử dụng Thiết Giáp
Binh QLVNCH. Battreall có công rất lớn trong việc tổ chức và phát
triển lực lượng Thiết Giáp VNCH hùng mạnh. Có thể nói Đại tá
Raymond R. Battreall là nhà kiến trúc của Thiết Giáp Binh QLVNCH.
Bằng chiến thắng đánh bại Sư đoàn 5 CS ở căn cứ Đức Huệ ngày
30/4/1974 và bằng chiến thắng đánh bại Sư đoàn 341 CS ở Biên Hòa
ngày 30/4/1975, Đại tá Thiết giáp Raymond Battreall ngày nay cho
rằng tôi là một trong các nhà chỉ huy Thiết giáp ưu việt của thế
kỷ 20 và xếp tôi đứng ngang hàng với bốn danh tướng Thiết giáp
Thế giới: Guderian, Patton, Rommel, và Abrams.
Trong thư
giới thiệu tôi vào học Cao học ở trường George Mason University
ngày 4 tháng 1, 1994, Battreall viết:
“...
Tran Quang Khoi is clearly one of the preeminent Armor
leaders of the 20th century: a member of a small fraternity
including such Greats as Heinz Guderian, George Patton, Erwin
Rommel, and Creighton Abrams. He was by a clear margin the finest
Armor leader in the RVNAF. His brigade was designed to control up
to six battalions, I have seen him control, as many as eighteen
(the equivalent of two divisions) in violent combat. He is quite
simply, a superb leader of men....”
Tôi rất hãnh diện nêu điểm này ra đây vì đã có công đưa chất
lượng của Thiết Giáp Binh QLVNCH lên ngang tầm của Thiết Giáp
Binh Thế giới. Lữ đoàn 3 Kỵ binh kể từ ngày thành lập tháng
11/1970 đến ngày 30/4/1975 do tôi chỉ huy, chưa bao giờ bị thất
trận dù ở ngoại biên hay trong nước, luôn luôn chiến thắng và đã
từng cứu nhiều đơn vị bạn thoát nạn trên chiến trường. Được như
vậy là nhờ tất cả Kỵ binh các cấp từ tham mưu đến tài xế, sửa
chữa, xạ thủ, truyền tin, trưởng xa, chi đội trưởng, chi đoàn
trưởng, thiết đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng trên dưới một lòng, mỗi
người đều tích cực đóng góp sức lực, trí tuệ, và sẵn sàng hy sinh
cả tính mạng của mình cho sự nghiệp vẻ vang của Thiết Giáp Binh
QLVNCH vì Danh Dự và Tổ Quốc.
Chuẩn tướng Trần Quang Khôi
Kỵ binh QLVNCH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nvt chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, December 7,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang