Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
xuân trong tù
Tác giả:
Vương Mộng Long/K20–VBĐL
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mặt
trời từ từ lặn xuống đáy Hồ Thác Bà...
Một ngày Tháng Giêng Âm Lịch năm Đinh
Tỵ 1977 đã đi qua...
Hôm nay tù cải tạo Đội 11 của Trại 4
được về sớm vì có buổi đọc báo sau bữa cơm chiều. Mỗi tuần có một
buổi đọc báo, đôi khi kéo dài cả giờ. Chúng tôi ngồi nghe mà buồn
ngủ muốn chết.
Cán bộ quản giáo Đội 11 là một trung úy
Việt cộng có tên Thu. Cán bộ Thu luôn luôn là người chủ trì các
buổi đọc báo hằng tuần của lán chúng tôi. Cán bộ Thu bị sứt môi
trên, nên chúng tôi lén gọi y bằng cái tên “Thu Sứt”. Thu Sứt
ngồi giữa phòng, chúng tôi ngồi vây quanh... Cầm tờ báo Quân Đội
Nhân Dân trên tay, với nét mặt thật trang nghiêm và trịnh trọng,
Thu Sứt mở lời:
– Qua mục “Đọc báo để học tập” hôm nay,
tôi sẽ thay mặt Đảng và Nhà Nước dạy các anh một bài học về vấn
đề nhân quyền!
Tiếp đó Thu giơ tờ báo lên cao, chỉ
ngón tay trỏ vào cái tiêu đề, lớn tiếng đọc từng chữ:
“Chuyện giết hai ông Mục sư da đen Ma
Tinh Lu Tơ Kinh”
Y ngừng lại một giây, gật gù cái đầu,
rồi tiếp tục giảng dạy:
– Học xong bài này, các anh sẽ hiểu lý
do vì sao bọn đế quốc Mỹ tàn ác đã giết 2 ông mục sư da đen là Ma
Tinh và Lu Tơ Kinh.
Xếp tờ báo lại, để trên đùi, Thu đảo
mắt nhìn quanh:
– Trong số các anh, có ai biết 2 ông da
đen này không? Các anh có biết vì sao mà 2 ông này bị chúng nó
giết không?
Hơn 3 chục mạng cải tạo viên của Lán 11 đều ngồi ớ ra, chẳng ai
hiểu gì.
Hầu
hết các cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà tù cải tạo ở đây đều biết
Mục Sư Martin Luther King là ai, vì lý do gì mà ông ta đã chết.
Nay bỗng dưng nghe cán bộ nói có tới 2
ông mục sư Mỹ đen bị sát hại, một ông tên là Ma Tinh, một ông tên
là Lu Tơ Kinh thì ngạc nhiên lắm!
Chẳng lẽ chỉ qua chưa tới 2 năm bị giam
cầm mà chúng tôi đã không hay biết gì về chuyện một ông mục sư da
đen Martin Luther King nay đã biến thành 2 ông mục sư da đen Ma
Tinh và Lu Tơ Kinh?
Tôi ngồi sát sau lưng cán bộ Thu nên
nhìn rõ cái đề bài in rất đậm: “Chuyện giết hại ông Mục sư da đen
Martin Luther King” nhưng chữ “hại” bị mất dấu nặng (.) thành ra
chữ “hai” do đó mà cán bộ quản giáo của chúng tôi mới đọc là
“2”... ông Ma Tinh và Lu Tơ Kinh!
Biết thế, nhưng tôi cứ giơ tay lên rồi
phát biểu ngay:
– Báo cáo cán bộ! Đế quốc đã giết 2 ông
này vì 2 ông này là chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền!
Bình thường thì trong trại này người ta
thấy tôi là một anh tù lờ ngờ, ngớ ngẩn, lù đù, chậm chạp trong
mọi lãnh vực, từ học tập tới sinh hoạt hằng ngày.
Cán bộ Thu là người phụ trách Đội 11.
Ngày nào y ta cũng dẫn chúng tôi đi lao
động.
Y ta
“quản lý” mọi hoạt động, mọi sinh hoạt của Đội 11, cả trong vòng
rào và ngoài vòng rào.
Y biết kỹ tính nết và khả năng của từng
tù cải tạo trong Đội 11.
Y ta đâu có lạ gì tôi?
Vì thế mà chẳng thèm trưng cầu ý kiến
anh em trong Đội 11, y tự tiện đặt cho tôi cái tên “Anh Long Lù
Đù”. Gặp tôi ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, cán bộ Thu cũng gọi
tôi là, “Anh Long Lù Đù! Anh Long Lù Đù!”
Ấy vậy mà hôm nay trước mắt cán bộ quản
giáo Thu thì tôi đã tỏ ra là một trại viên vô cùng tiến bộ.
Tên Thu gật đầu hài lòng:
– Đúng rồi! “Anh Long Lù Đù” hôm nay
giỏi lắm! Anh Long trả lời rất là đúng! Tôi tuyên dương anh đấy!
2 ông Ma Tinh và Lu Tơ Kinh bị Mỹ giết chỉ vì 2 ông ấy đã là da
đen mà còn dám đứng lên tranh đấu cho nhân quyền! Người ta chỉ
tranh đấu đòi nhân quyền, mà nhân quyền thì có ăn được đâu? Có
bán được đâu? Người ta đòi nhân quyền chứ có đòi cơm ăn, áo mặc,
nhà cửa, ruộng đất, tiền bạc gì đâu mà cũng giết người ta? Đấy!
Các anh thấy chưa? Đế quốc Mỹ khát máu như thế đó! Các anh có
thấy thương cho 2 ông này không?
Khi nói ra những lời này, nét mặt cán
bộ quản giáo của chúng tôi trông thật là thảm thương. Đôi mắt cán
bộ rươm rướm lệ.
Chắc cán bộ tiếc thương 2 ông mục sư
lắm? Chắc cán bộ oán giận bọn đế quốc lắm?
Cán bộ Thu đưa tờ báo cho anh tù đội
trưởng là cựu Đại úy Đặng Kim Bảng:
– “Anh Long Lù Đù” mà còn thấu triệt
được ý nghĩa của bài báo, chắc các anh khác cũng thấu triệt rồi!
Như thế là buổi đọc báo hôm nay đã đạt được mục tiêu. Tôi cho các
anh nghỉ sớm. Anh Bảng giữ tờ báo này rồi cho anh em chuyền tay
nhau mà đọc.
Tôi ngây người không cựa quậy nổi! Ai ngờ cái tên quản giáo này
vừa ngu, lại vừa lười!
Tôi cứ tưởng, sau khi tôi có ý kiến thì
y sẽ bắt ai đó đọc lại bài báo, sẽ thấy cái sai của y, và thấy
ngay cái sai của tôi.
Nếu sự việc diễn ra như thế, thì trước
mắt cán bộ Thu, tôi vẫn là một anh tù không những đã đần độn, ngớ
ngẩn, ngu ngơ, khù khờ, mà còn có tính a dua, nhanh nhảu đoảng!
Chủ ý của tôi một đàng, chuyện xảy ra
một nẻo!
Tôi
nào có ngờ? Tên Thu này còn ngu hơn cả con bò!
Buổi đọc báo để học tập hôm đó đã kết
thúc quá sớm.
Chờ cho tên cán bộ Việt cộng đi xa, ông tù cải tạo cựu Trung tá
Nguyễn Công Luận mới đứng giữa buồng mở trang báo ra chỉ cho mấy
người vây quanh:
– Mẹ nó! Rõ ràng cái tiêu đề của bài
báo là, “Chuyện giết hại ông Mục sư da đen Martin Luther King” ấy
vậy mà, khi in lên giấy chỉ thiếu một dấu nặng (.) dưới chữ “hại”
thế là 1 ông Martin Luther King biến thành 2 ông Ma Tinh và Lu Tơ
Kinh!
Anh Luận
ngồi cạnh tôi, chắc cũng đọc được cái đề bài. Anh ấy cũng giơ tay
xin phát biểu.
Có lẽ anh Luận định sửa sai tên Thu,
không ngờ tôi nhanh nhảu quá, khiến cho anh ấy không kịp mở lời
thì chúng tôi đã được nghỉ rồi!
Nghe anh Luận cặn kẽ giải thích, anh em
mới vỡ lẽ vì sao cán bộ Thu cứ nằng nặc kết tội đế quốc Mỹ khát
máu đã đang tay giết chết một lúc 2 nhân mạng can tội tranh đấu
cho nhân quyền.
Hết giờ đọc báo, tôi vội kéo tay anh
bạn tù Lê Thái Bình tức là cựu Đại úy Đại Đức Thích Trí Thọ ra
cửa để đi một vòng thăm hỏi bạn tù.
Tôi và Bình chui vào căn nhà đối diện
Lán 11 là Lán 4 của Đội 4.
Lúc này, trong hiên sau Lán 4, cũng có
cả chục ông tù đang ngồi tán gẫu.
Trong số các ông tù hiện diện, tôi cũng
có mấy người quen:
1) Cải tạo viên Lê Phong Ba, vốn là Đại
Đức Thích Giác An, cựu Đại úy Phó Giám Đốc Sở Tuyên Úy Phật Giáo
Quân Đoàn II.
2) Cải tạo viên Đức Già, tôi không nhớ họ của bác Đức. Bác Đức
vốn là Thiếu tá Trưởng Ban Thăng Thưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân
Đoàn II.
3)
Cải tạo viên Nguyễn Văn Triết, vốn là Thiếu tá Thiết Đoàn Trưởng
Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh.
Từ thời còn ở Pleiku thì 2 ông Đức và
Giác An biết tôi vì họ đã từng có mặt ở Sân Vận Động Pleiku ngày
15 tháng 9 năm 1974 để tham dự lễ khao quân và choàng vòng hoa
chiến thắng cho chiến sĩ Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi sau
33 ngày đêm tử thủ.
Bác Đức nhiều lần nhắc đi, nhắc lại
chuyện một ngày giữa tháng 8 năm 1974 tôi đang bị Sư Đoàn 320A
Cộng sản vây hãm, bác ấy được lệnh ôm cái gối con có cặp lon
trung tá mới toanh, theo chân ông Đại tá Phạm Duy Tất bay trực
thăng vào Pleime để thả xuống cho tôi, nhưng máy bay vừa tới Hàm
Rồng thì phải quay về, vì có lệnh của Sài Gòn giữ cái lon đó lại.
Thầy Giác An thì cứ thắc mắc rằng sao
tôi ngu quá? Gây thù chuốc oán với những vị quyền cao, chức trọng
ở Sài Gòn làm gì để bị đì tới nỗi không ngóc cổ lên được?
Còn ông Triết Xe Tank lại là bạn đồng
hành của tôi từ khi ông ta còn là Trung úy Chi đoàn trưởng Chi
Đoàn 1/3 Chiến Xa ở Pleiku.
Ngày mùng 1 Tết Mậu Thân 1968 tôi cùng
Trung úy Triết, Chi đoàn trưởng 1/3 và Thiếu úy Tài, Chi đoàn
trưởng 2/3 đều bị trọng thương và nằm trong Khu Ngoại Thương 2
của Bác sĩ Thới, trong Quân Y Viện Pleiku. Tôi và ông Triết
thương mến nhau từ đấy.
Bây giờ, qua ông Triết, tôi có thêm một
ông bạn mới thuộc giới đánh nhau bằng bút, đó là cựu Thiếu tá
Chiến Tranh Tâm Lý Tô Thùy Yên.
Trước đây tôi không quen ông thi sĩ Tô
Thùy Yên, nhưng vì ông này thân với ông Triết, nên có lúc kiếm
được củ khoai, củ mài, con cá, mớ rau, tôi đều chia cho 2 vị này.
Không lâu sau, ông Tô Thùy Yên tên thật
là Đinh Thành Tiên cũng có cảm tình với tôi, coi tôi là bạn để
ông ta tâm sự.
Cũng trong Lán 4 này, lâu lâu tôi gặp
một cựu Thiếu tá Biệt Cách 81 là cải tạo viên Phạm Châu Tài.
Thiếu tá Phạm Châu Tài là đàn em của
Đại tá Trần Phương Quế; ông Quế là chú tôi.
Anh Tài đồng trang lứa với tôi. Lúc nào
anh ta cũng lạc quan, yêu đời.
Sau một hồi tán dóc với mấy ông bạn Lán
4 thì Thầy Bình quay qua nói chuyện riêng với Thầy Giác An, còn
tôi cũng cáo từ để xuống bếp thăm thầy Thinh.
Thầy Thinh cũng là một Đại Đức Tuyên úy
Phật Giáo. Tôi không nhớ họ của thầy Thinh, nhưng nhớ pháp danh
của thầy là Thích Thiện Thanh.
Thầy Thinh giữ chân bổ củi và đốt lò
cho nhà bếp.
Tối tối, tôi thường xuống cửa nhà bếp ngồi chơi với thầy Thinh,
không phải để nghe ông ấy giảng giải đạo nghĩa tu hành hay đọc
kinh Phật, mà để nghe ông ấy độc tấu những bài tình ca tân nhạc
thật là mùi.
Có điều, cây đàn của thầy Thinh không phải là loại Tây Ban Cầm
bình thường, mà là một cây guitar phím lõm, còn gọi là guitar
vọng cổ.
Vì
phím đàn bị khoét lõm, nên khi ngón tay nhạc sĩ nhấn trên phím
thì âm thanh phát ra sẽ một nửa mang nét mạch lạc, dứt khoát của
Tây Ban Cầm, còn nửa kia lại mang nét dập dìu, uyển chuyển của Hạ
Uy Di Cầm.
Có
phải vì lý do đó mà khi nghe tiếng guitar phím lõm sô lô, tôi cảm
thấy lòng mình mềm yếu hơn nếu so sánh với lúc nghe tiếng guitar
bình thường?
Hầu như ngày nào tôi cũng được thầy Thinh cho nghe một lần bài
“Biệt Ly” của Doãn Mẫn. Tôi không biết vì lý do gì mà thầy Thinh
lại thích bản nhạc này. Tôi cũng không tiện hỏi thầy rằng, trong
đời, thầy đã trải qua một cuộc chia ly sầu thảm nào chưa?
Riêng tôi thì năm lên 4 tuổi, tôi đã
biết thế nào là nỗi buồn đau của một lần biệt ly.
Vào một buổi tối năm 1946, bố tôi đã
đưa tiễn Mẹ con tôi lên đường về quê nội Hải Dương. Ngồi trên toa
xe lửa khởi hành rời Hà Nội, tôi đã rơi nước mắt khi nghe tiếng
còi tàu rúc lên từng hồi. Đoàn tàu từ từ đi vào bóng đêm, cùng
lúc dưới sân Ga Hàng Cỏ trong ánh đèn vàng của điện đường, hình
bóng bố tôi đứng bên cái xe đạp cứ mờ dần, mờ dần...
Sau buổi biệt ly ngày ấy, tôi không còn
dịp nào gặp lại bố tôi nữa. Thế rồi, tôi đã trải qua không biết
bao nhiêu lần biệt ly nữa xảy ra trong đời. Mỗi lần đối diện một
cuộc chia tay, tôi đều hồi tưởng lại câu văn mà năm 1950 tôi đã
học thuộc lòng:
“Ôi! Cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!”
Câu văn này trích từ bài “Biệt Ly”
trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư Lớp Ba.
Đã biết hình ảnh một cuộc chia ly sẽ là
nỗi ám ảnh không thể quên cho một con người, vì thế mà ngày tôi
đi nộp mình cho kẻ địch, tôi đã lẳng lặng lên đường, tôi đã không
ôm hôn và đã không nói một lời từ biệt với vợ con tôi.
Thầy Thinh thuộc rất nhiều bài tình ca,
bài nhạc nào thầy đàn cũng hay. Ngón đàn của thầy Thinh quả là có
một không hai! Tiếng đàn cứ như là “nước chảy, hoa trôi...” Tôi
là cựu binh Biệt Động Quân, là con trai, mà còn mê mệt tiếng đàn
của thầy thì phải biết thầy đàn hay cỡ nào!
Chẳng biết ngày xưa, đã có bao nhiêu cô
con gái, bao nhiêu cô nữ sinh, bao nhiêu cô nữ Phật Tử phải đánh
rơi con tim vì tiếng đàn của thầy?
Rồi kẻng gióng lên “Keng! Keng!” báo
hiệu tắt đèn; không còn ai được phép đi chơi trong sân hay la cà
bên lán khác. Chỉ vài phút sau khi có tiếng kẻng, nhiều ông tù đã
ngáy ầm ầm...
Chừng nửa đêm, tôi thức giấc buồn đi tiểu. Vườn rau nằm sát Lán 4
là chỗ phóng uế ban đêm cho trại viên ở Lán 4, 10 và 11. Dù trời
khuya không có mây giăng và cũng không có sương mù, vậy mà vườn
rau trước mặt tôi cũng chỉ là một vũng tối đen.
Gió Bấc từng cơn lùa về... Trời lạnh
quá! Bên cạnh tôi là một bóng người. Anh ta cứ đứng co ro vừa run
vừa càm ràm cái gì đó. Tiểu tiện xong, tôi quay mình, tính đi vào
lán, thì nghe anh ta la to:
– Mẹ ơi! Mẹ có biết rằng con đang đói
rét lắm không?
Đúng là lá rụng về cội, vào những lúc
đau khổ nhất, tuyệt vọng nhất, người mà ta muốn chia sẻ chính là
người đã sinh ra ta.
Nghe tiếng anh bạn tù than van, bất
giác tôi cũng chạnh lòng nhớ Mẹ tôi, rồi buột miệng:
– Mẹ ơi! Con nhớ Mẹ! Con thương Mẹ lắm!
Mẹ ơi!
Đất
nước tang thương, Mẹ mất con, chồng xa vợ, tan đàn xẻ nghé bởi vì
đâu?
Đổ lỗi
cho ai bây giờ?
Lỗi vì chính ta đã không
chiến đấu hết mình, hết sức?
Lỗi tại
đồng minh bội bạc?
Lỗi vì cấp chỉ huy
bất tài?
Tôi chợt nhớ câu tuyên bố của
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:
“Đất nước còn, còn tất cả! Đất nước
mất, mất tất cả!”
Nếu chỉ xét về mặt tuyên truyền thì câu
nói đó của ông Tổng Thống thật là hay, thật là hữu lý. Còn xét về
mặt thực tế, thì chúng ta nhận ra ngay, những người nhanh chân bỏ
chạy, dù có mất nước, mất hết quyền lực, địa vị, nhà cửa, xe cộ,
ruộng vườn, họ vẫn còn vợ con, còn tiền gửi ở ngân hàng ngoại
quốc. Điều quan trọng nhất là họ còn tự do, còn cơ hội xây dựng
lại cuộc đời.
Họ có mất tất cả đâu?
Trái lại, để bảo vệ đất nước, bảo vệ
nền Cộng Hoà, chúng tôi đã không trốn chạy, đã chiến đấu tới giờ
phút chót, rồi chấp nhận đi tù, chúng tôi mới là những kẻ đã mất
tất cả.
Ấy vậy
mà, suy cho cùng thì chúng tôi cũng thấy mình còn chút gì đó để
tự an ủi. Chút gì đó chính là cái danh dự của một quân nhân!
Một ông binh nhì đã chiến đấu tới giờ
phút chót thì suốt cuộc đời còn lại, vẫn có thể ngửng mặt tự hào.
Còn một ông đại tướng, khi quân thù còn
ở cách Sài Gòn cả trăm cây số mà đã lo dắt díu vợ con giành giựt
một chỗ ngồi trên boong tàu di tản, thì sau này có dám nhìn mặt
ai hay không?
Lịch sử đã chứng minh rằng, đến khi đất nước lâm nguy mới lộ mặt
những cấp chỉ huy tham nhũng, bất tài và hèn nhát.
Lịch sử sẽ lưu giữ tất cả.
Rồi đây mọi người sẽ biết ai là người
tiếp tay với kẻ thù, giết chết hàng ngàn chiến hữu của tôi ở pháp
trường cát Thuận An.
Rồi đây mọi người sẽ biết ai là tác giả
cuộc hành quân tự sát trên Liên Tỉnh Lộ 7B tháng 3 năm 1975 khiến
cho hàng chục ngàn quân dân Vùng 2 phải bỏ mạng một cách oan
uổng.
Ngay
trước mắt tôi, cũng trong tháng 3 năm 1975, cấp chỉ huy trực tiếp
của tôi đã sớm hiện nguyên hình là thứ giòi bọ, tham sống sợ
chết, mặt xanh như tàu lá, vội vội, vàng vàng leo lên trực thăng
đào ngũ bỏ anh em.
Ấy vậy mà, trước tình hình dầu sôi, lửa
bỏng nguy kịch đó, dưới quyền chỉ huy của tôi, Liên Đoàn 24 Biệt
Động Quân vẫn là một đơn vị có kỷ luật.
Là những chiến binh cuối cùng còn hiện
diện trên Cao Nguyên Vùng 2, tới tháng 4 năm 1975, đồng ngũ Liên
Đoàn 24 Biệt Động Quân của tôi vẫn vững tay súng, bền gan, cam
chịu đói khát, rét mướt, vừa đánh vừa lui, chết từng giờ, chết
từng ngày, chết đâu, chôn đó, suốt con đường Liên Tỉnh Lộ 8B dặm
dài đầy gian khổ.
Một nửa quân số của Tiểu Đoàn 82 Biệt
Động Quân đã phơi thây trong cuộc rút lui này.
Nửa còn lại chưa kịp chấn chỉnh đội
hình đã phải gồng mình, chen vai, góp sức với các bạn Sư Đoàn 18
Bộ Binh để tạo dựng chiến thắng sau cùng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà trong trận Long Khánh kéo dài 12 đêm ngày.
Cho tới trưa 30 tháng Tư năm 1975, cả
giờ đồng hồ sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, sát nách
Thủ Đô Sài Gòn, những người lính của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân
vẫn còn chiến đấu.
Những chiến sĩ Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân đã ngã xuống bên nhau, linh hồn của họ bay lên trời, biến
thành những vì sao...
Thế rồi, gần 2 năm sau ngày thua trận,
tôi, con chim đầu đàn của Pleime Vùng 2 đang sống kiếp tù đày.
Đêm nay, một đêm Tháng Giêng Âm Lịch
năm Đinh Tỵ 1977, tôi đang đứng giữa sân Trại giam số 4 Cẩm Nhân,
Yên Bình, Yên Báy, Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt, ngửng mặt ngắm trời
mây.
Dõi mắt
về Nam, lòng tôi chợt chùng xuống rưng rưng...
Trên kia, dải Ngân Hà trôi lờ lững...
Tôi giơ cao tay vẫy gọi.
Dòng sông chứa đầy sao chầm chậm tiến
lại, mỗi lúc mỗi gần hơn, mỗi sáng hơn.
Tôi có cảm tưởng như là mình đang núp
dưới bóng che của Ngân Hà.
Rồi vào phút giây nào đó, tôi biết chắc
rằng những vì sao chói lóa trong dải Ngân Hà trên đầu tôi chính
là các bạn tôi; các bạn tôi đang cúi xuống nhìn tôi...
Lấp lánh, lấp lánh, ánh mắt của họ thật
là trìu mến và vô cùng ấm áp...
Con sông bạc cứ bồng bềnh...
Lòng tôi vui như mở hội.
Tôi rướn người lên bám lấy bờ sông.
Con sông chợt tròng trành chao đảo,
khiến cho tôi trượt chân rơi vào khoảng không, mắt tôi bỗng tối
sầm... Một giây sau, tôi mở mắt ra, thì thấy mình đang nằm đè
trên một luống rau dền...
Vậy là, khoảnh khắc trước đây tôi đã
sống trong ảo giác!
Vườn rau vẫn là một vũng tối đen...
Gió Bấc từng cơn lại lùa về...
Yên
Báy...
Đêm
Xuân lạnh buốt...
Vương Mộng Long
Nguồn:
Báo TRẺ Online
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tkd sưu tầm
Đăng ngày Thứ Hai, February 5, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang