Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký Chiến trường
Chủ đề:
mặt trận pleime – 74
Tác giả:
Vương Mộng Long/K20–VBĐL
Mục
Lục
1. Chương 1
2. Chương 2
3. Chương 3
4. Chương 4
5. Chương 5
6. Chương 6
7. Chương 7
8. Chương 8
9. Chương 9
10. Chương 10
Kết. Chương 11
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những
bài viết do cùng Tác giả
Đêm Xuân ngoài Yên Báy
Mừng Xuân Giáp Thìn
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Lời Tác giả: Qua hai chiến dịch trường
kỳ và đẫm máu của những năm 1965 và 1974, địa danh Pleime đã trở
thành huyền thoại. Tôi không có mặt trong trận Pleime năm 1965.
Nhưng năm 1974 thì chính tôi, Thiếu tá Vương Mộng Long, Tiểu Ðoàn
Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng là người đã cầm vận
mệnh Pleime trong suốt 33 ngày đêm sinh tử.
Giờ đây tôi sẽ
kể lại toàn bộ diễn tiến chiến dịch này để lớp trẻ hậu sinh biết
ngày ấy những chiến binh của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chiến
đấu như thế nào, và vì sao tên Pleime đã có thêm một lần được ghi
vào chiến sử. –VML
Pleime lên tiếng gọi...
Vào một đêm cuối tháng 11 năm 1965 nơi Vũ Ðình
Trường Lê Lợi của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam trên Ðà Lạt, lần
đầu tôi nghe biết cái tên “Pleime”.
Hôm đó chúng tôi đang tập quỳ gối gắn
lon thiếu úy hiện dịch để chuẩn bị lên đường ra chiến trường.
Bỗng từ xa, bên kia núi, có tiếng âm
vang của bom đạn dội về. Thiếu tá Nguyễn Bá Thịnh, Liên Ðoàn
Trưởng Liên Ðoàn Sinh Viên Sĩ quan lớn tiếng giải thích:
– Pleime đang đánh lớn. Tiếng ì ầm vừa
rồi là tiếng B52 đang “trải thảm” trên thung lũng Ia–Drang đó!
Dù sau này đã dạn dày chinh chiến, đã
biết rằng nếu đứng trên đồi 1515 Ðà Lạt, dù có đôi tai thiên lý
nhĩ, chúng tôi cũng không thể nào nghe được tiếng bom nổ trong
thung lũng Ia–Drang, Pleiku; nhưng từ đó, địa danh “Pleime” đã
ghim sâu trong tâm trí tôi.
Cuối năm
1966 tôi từ Vùng 1 Chiến Thuật thuyên chuyển vào Pleiku.
Sau đó tôi gắn bó với Cao Nguyên mưa
bùn, nắng bụi gần mười năm trời, tôi đã thành một trong những Thổ
Ðịa của vùng này.
Cao Nguyên Trung Phần là nơi có nhiều
sắc dân thiểu số sinh sống. Mỗi sắc dân gọi nơi cư trú của họ với
âm khác nhau; vì vậy làng của người Lào là “Bản”, làng của người
Rhadé là “Buôn”; làng của người Jharai lại là “Plei” hay “Trà”.
Tên Pleime mà người ta thường gọi,
chính thực là một danh từ ghép với hai chữ “Plei” và “Mé” theo
tiếng Thượng Jharai. Vì vậy, “Pleime” hay “Pleimé” cũng chỉ là
một. Pleime nằm cách Pleiku hơn 30 cây số về hướng Tây Nam.
Nhân một chuyến quá giang tàu bay chở
thư của Mỹ, tôi đặt chân tới Trại Pleime lần đầu khi căn cứ này
vừa được di chuyển từ chân núi Chư Hô về Ðồi 403 trên Tỉnh lộ 6C.
Trại Pleime mới có hình lục giác với hệ thống tường đất cao hai
thước bao quanh chỉ huy sở. Còn Trại Pleime cũ thời 1965 có hình
tam giác; trại đó đã bị phá đi rồi.
Từ Noel năm 1973 tôi đã được lệnh vào
Pleime thay thế Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân, vậy mà cứ nhùng nhằng
mãi, hai tháng sau tôi mới chính thức nhận chức Tiểu Ðoàn Trưởng
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dưới sự chứng kiến của
Trung tá Chính, Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.
Tôi trở thành người chỉ huy chính thức
thứ bảy, và cũng là tiểu đoàn trưởng sau cùng của Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân Biên Phòng.
Tôi đã biết, theo lịch trình “Việt Nam
Hóa” thì cuối năm 1970 những chiến binh Dân Sự Chiến Ðấu của trại
Pleime đã được cải tuyển thành quân nhân chính quy trực thuộc
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Vậy mà hơn ba năm qua,
với sáu lần thay đổi tiểu đoàn trưởng mà đơn vị này vẫn chưa
thoát ra khỏi cái cốt CIDG của nó (Civilian Irregular Defense
Group = Phòng Vệ Dân Sự = Dân Sự Chiến Ðấu)
Chỉ
nhìn vào hình thức thôi, nó chẳng có vẻ gì là một đơn vị chính
quy, chứ đừng nói tới đó là một đơn vị trực thuộc lực lượng nòng
cốt của Vùng 2.
Không biết quân trang quân dụng của
tiểu đoàn này đã bị thất thoát đi đâu mà đội ngũ Biệt Ðộng Quân
trước mắt tôi và Trung tá Chính lại ăn mặc như một đoàn người ô
hợp. Trừ ra những sĩ quan có quần áo rằn ri, các quân nhân khác
thì mang đủ thứ trang phục của Bộ Binh, Cảnh Sát Dã Chiến, Thủy
Quân Lục Chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, áo 4 túi lẫn với áo 2
túi, có người còn mặc cả đồ ka–ki vàng, chân mang dép Nhựt!
Ngay sau ngày ký biên bản bàn giao, tôi
bắt Thiếu úy Nghị, sĩ quan tiếp liệu của đơn vị làm một phúc
trình xin ứng trước quân trang bổ sung vì lý do hành quân.
Ông Nghị là người rất giỏi ngoại giao,
ông ta quen nhiều vị có quyền uy trong Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận 5 dưới
Qui Nhơn, nên chỉ một tuần lễ sau, bộ mã của tiểu đoàn tôi đã đổi
khác ngay.
Khi
kiểm tra quân số bàn giao hiện diện, tôi mới té ngửa: Theo giấy
tờ thì ngày đó quân số thực hiện của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân
là trên 400 người, nhưng tới khi điểm danh đếm số thì lòi ra 92
quân nhân chỉ có tên mà không có mặt!
Phải một tuần lễ sau tôi mới truy cứu
ra, trong số 92 ông lính vắng mặt thì một nửa là lính kiểng, nửa
kia là lính ma, có người đào ngũ đã nửa năm nhưng chưa ngưng
lương, chưa có báo thị tầm nã; có người biệt phái tới tận Sài Gòn
để làm thợ mộc mà vẫn hưởng hàng tháng bốn nghìn đồng phụ cấp
hành quân.
Từ
ngày mới ra trường, nhận chức trung đội trưởng cho tới khi chỉ
huy tiểu đoàn, tôi chưa từng đem một người lính nào về làm công
việc trong nhà tôi.
Tôi quan niệm rằng, đem lính về làm
việc nhà là một hành động ăn cắp công quỹ, lạm dụng chức quyền.
Tôi từ chối thẳng thừng mọi yêu cầu của
thượng cấp khi các vị này muốn tôi cung ứng cho họ một vài người
giúp việc trong nhà dù chỉ là trong thời gian một hay hai ngày
thôi.
Tôi nhất
định không ký chứng nhận hành quân cho những anh lính kiểng, nên
chỉ một kỳ lãnh lương đi qua, không nhận được 4000 đồng phụ trội,
những người này tự động quay về trình diện.
Những anh lính kiểng nào không về trình
diện đều nhận được giấy báo cáo vắng mặt bất hợp pháp; sau đó họ
sẽ bị báo cáo đào ngũ. Ông quan to nào còn lưu giữ những anh lính
này sẽ đương nhiên can tội “tán trợ đào binh”.
Một tháng sau khi tôi vào Pleime thì
những vị quan nào đang giữ người của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân
để giúp việc trong nhà đều phải ngậm đắng nuốt cay mà trả lại
lính cho tôi.
Thế rồi, những anh “Biệt Dạng Quân” dần dần lộ diện, theo nhau
trở về rừng, tiếp tục kiếp sống ngang tàng của Cọp, coi cái chết
tựa lông hồng.
Tôi đã không tiếc công sức, không nản
lòng để chấn chỉnh đơn vị này. Cuối cùng tôi đã thành công; chưa
tới hai tháng sau, tất cả đã vào khuôn, vào phép.
Sau này, từ một đơn vị vô danh tiểu
tốt, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã ngoi lên, nhanh chóng trở
thành một tiểu đoàn lừng danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Cũng phải kể đến sự đóng góp công khó
của các bạn trẻ, sĩ quan và hạ sĩ quan đầy nhiệt huyết của tiểu
đoàn đã tiếp tay tôi xây dựng đơn vị mỗi ngày mỗi tiến bộ hơn.
Nếu không có họ, tôi cũng đành thúc thủ.
Mỗi khi nhắc tới Pleime 1974, thì trong
lòng tôi lại dấy lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào, cùng
những hình ảnh thân yêu theo nhau hiện về trong trí nhớ: Phạm Ðại
Việt, Nguyễn Công Minh, Phạm Văn Thủy, Nguyễn Văn Trâm, Trần Văn
Phước, Nguyễn Hữu Phước, Huỳnh Kim Hoàng, Lý Ngọc Châu, Trần Dân
Chủ, Trương Trọng Tài, Lê Ðình Khay, Phan Quốc Thiều, Lưu Ðức
Hoàn, Phạm Hoa, Nguyễn Văn Năng, Nông Văn Út, vân vân.
Ðóng đồn tức là chấp nhận đối đầu với
địch quân bất cứ lúc nào. Xung quanh đồn là rừng, xung quanh ta
là địch. Tốt nhất là lúc nào ta cũng phải ở trong tư thế sẵn
sàng.
Với kinh
nghiệm của một người cầm quân đã nhiều năm, tôi biết chắc chắn
rằng:
“Tay
nghề của người lính tiên phong mà không chuyên, thì sự thất bại
của một đơn vị tác chiến coi như cầm chắc mỗi khi đối đầu với
địch.”
Nói ra
thì nhiều người sẽ không tin, nhưng thực tế, tôi đã chứng kiến
cái cảnh xảy ra thường xuyên là, những tân binh mới ra trận lần
đầu, nghe súng nổ, thường nằm úp mặt xuống đất, chổng mông lên
trời, nhắm mắt bóp cò, đạn nối đuôi nhau, chẳng biết bay về đâu.
Có người khi đối diện địch quân thì đứng chết trân không phản ứng
được gì cả. Có người thấy địch thì quýnh quáng quá, bắn cả vào
chân của mình.
Muốn nâng cao tay nghề của những người
lính dưới quyền mình thì người chỉ huy phải thường xuyên rèn
luyện quân sự cho đàn em.
Những quân nhân dưới quyền tôi hầu như
đã quen với cái thông lệ tự huấn luyện sau khi hành quân, nên
không có ai than van hay phiền muộn vì chuyện này.
Ngay khi nắm quyền chỉ huy Pleime, tôi
liền cấp tốc lập chương trình huấn luyện tại chỗ cho các đại đội.
Trong kho của tiểu đoàn, đạn thặng dư
không có giấy tờ kiểm kê do Mỹ để lại còn cả đống. Số đạn tồn kho
này đã cũ, nên thay vì đem ra thiêu hủy thì tôi lại sử dụng cho
công tác huấn luyện.
Tôi đã đích thân dẫn từng trung đội ra
bãi tập, rồi đứng giảng giải cho từng người lính biết cách “bóp
cò” khẩu súng của anh ta làm sao vừa nhanh, vừa hiệu quả khi chạm
trận; tôi bắt họ mở mắt cho to, nhìn về phía địch, rồi cầm tay
họ, chỉ cho họ kỹ thuật ghìm súng để cho viên đạn bay cao tối đa
là từ ngang cỡ đầu gối một người đứng thẳng.
Bằng cách đặt hai khẩu đại liên 30 trên
giàn cao quá đầu người, quay nòng về hướng núi bóp cò; rồi cho
quân lính luân phiên nhau tập bò, tập chạy, tập đi, tập nằm trước
họng súng bắn ngược chiều. Ngày nào cũng nghe tiếng đạn thật bắn
ngược như đang đánh nhau, thét rồi lính hết nhát, hết sợ.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Chính vì có những buổi thực
tập dã ngoại thường xuyên này mà những đơn vị dưới quyền tôi hiếm
có cảnh “nằm úp mặt xuống đất, chổng mông lên trời, siết ngón tay
trỏ, đạn vút lên mây” khi trực diện với địch quân.
Người ta nói “văn ôn võ luyện” cũng
đúng!
Công tác
chấn chỉnh và cải tổ đơn vị của tôi chưa hoàn tất thì Sư Ðoàn
320A Cộng sản đã ra tay trước.
Giữa tháng Tư năm 1974, một trận đánh
đẫm máu và ác liệt đã xảy ra ở Căn cứ Hỏa Lực 711 khiến đài BBC
mô tả trong một bài tường thuật: “Ðây là trận đánh mà tổn thất
của đôi bên được coi là cao nhất kể từ sau Hiệp Ðịnh Paris.”
Thế rồi chiến tranh tiếp tục leo thang,
Hiệp định Paris không còn hiệu lực, Việt cộng công khai tấn công
lấn chiếm, mở rộng vùng kiểm soát. Tháng 5 năm 1974 chúng ngang
nhiên đánh chiếm Dak Pek và Mang Buk giữa ban ngày, mặc dù hai
địa danh này hiện diện rành rành trên bản đồ đình chiến là của
Việt Nam Cộng Hoà, vậy mà Ủy Hội Quốc Tế cũng chỉ trơ mắt ngó mà
thôi. Hiển nhiên mục tiêu sắp tới của Cộng quân chắc chắn sẽ là
Pleime!
o O o
Từ ngày tiếp nhận Căn cứ Pleime, tôi đã
bỏ ra rất nhiều công sức để tổ chức nội vi căn cứ này thành một
cứ điểm phòng thủ vững chắc.
Trên mặt đất của trại Pleime đúng là
một “Trận Ðồ” chằng chịt hàng rào kẽm gai và giao thông hào. Hai
cái cổng Bắc và Nam lại là nơi rào kỹ nhất. Từ dốc vườn rau, vào
tới trung tâm hành quân xa không tới hai trăm thước, vậy mà muốn
đi qua đoạn đường này cũng mất cả chục phút loanh quanh trong
hàng rào gai dích dắc.
Trại Pleime có 6 cạnh, 6 góc, mỗi góc
có một pháo đài kiên cố xây bằng xi măng cốt sắt. Tôi đặt tên cho
các pháo đài theo thứ tự 1 tới 6, theo chiều quay của kim đồng
hồ. Hướng Ðông là các pháo đài 1, 2, 3, hướng Tây là các pháo đài
4, 5, 6.
Sau
khi tôi dựng thêm hai lô cốt phụ nơi cổng Bắc và cổng Nam thì
vòng đai trong của trại này có 8 pháo đài kiên cố.
Bình thường các quân nhân trong đồn chỉ
cần nói họ đang ở gần pháo đài số mấy, người nghe sẽ biết vị trí
hiện tại của anh ta ngay.
Các đại đội cũng được phân chia khu vực
trách nhiệm cố định, họ sẽ quen với cảnh vật hàng ngày trước mắt
họ, nếu có gì khác lạ, họ sẽ nhận ra ngay.
Tôi tiên đoán mặt Tây sẽ là hướng tấn
công chính của địch, do đó tôi cho dựng một cái hầm chỉ huy ngay
giữa sân cờ. Từ đây, tôi có thể theo giao thông hào mà di chuyển
tới các Pháo đài 1 (Ðông Bắc), Pháo đài 6 (Tây Bắc), Pháo đài 5
(Tây), và Pháo đài 4 (Tây Nam). Ông tiểu đoàn phó giữ Pháo đài số
2, còn Pháo đài số 3 nằm ngay sát trung đội pháo binh nên Trung
úy Nguyễn Như, Trung đội trưởng pháo binh biên phòng, sẽ kiêm
nhiệm chỉ huy cứ điểm này. Trong hầm chỉ huy dã chiến có ban
Truyền Tin của Trung úy Nguyễn Công Minh và Binh nhì Y Don Nier,
người mang máy nội bộ của tiểu đoàn trưởng.
Tôi và Thiếu úy Trần Văn Phước, sĩ quan
Ban 2 ở chung một hầm, cách hầm chỉ huy vài mét về hướng hàng
rào.
Vây quanh
căn hầm của tôi là ba cụm tam tam của ba toán viễn thám, mỗi toán
trang bị hai thùng lựu đạn M26 và một đại liên M60.
Những ngày tình hình căng thẳng nhứt
thì mặt đất chứa đầy mìn Claymore phòng khi bị địch tràn ngập.
Suốt thời gian xảy ra chiến dịch Pleime
1974, tôi đã phải đích thân chỉ huy, điều khiển các điểm tác
chiến, từng lô cốt, từng pháo đài, từng khẩu đội, vì nếu xảy ra
một hoạt động không ăn khớp có thể sẽ đưa tới thảm họa.
Chỉ cần mở được một cửa khẩu, Ðặc công
Việt cộng có thể đánh thẳng vào
trung thâm. Nếu Việt cộng vào
được trung thâm, triển khai được giai đoạn “Hoa nở trong lòng
địch” là ta mất đồn! (Trung thâm: Danh từ của Ðặc công Việt cộng
dùng để chỉ nơi đặt chỉ huy sở hay vị trí đầu não của ta) – (Hoa
nở trong lòng địch: Từ trong đánh ra theo nhiều hướng. Ðây là
giai đoạn cuối cùng trong một trận đánh đặc công của Việt cộng)
Tôi làm việc bằng điện thoại, khẩu
lệnh, thủ lệnh và máy truyền tin nội bộ. Vì thế mà nhiều khi,
liên đoàn muốn ra lệnh cho tôi, họ phải gọi qua trung tâm hành
quân của trại, từ đây sĩ quan Ban 3 của tôi sẽ chuyển lại cho
tôi.
Trung tâm
hành quân tiểu đoàn vì có cái anten cao do Mỹ để lại nên trở
thành nơi độc nhứt có thể liên lạc vô tuyến với Căn cứ 711 và đài
tiếp vận Hàm Rồng.
Trung tâm hành quân là một lô cốt kiên
cố, xây bằng xi măng, cốt sắt, thêm hai tầng nóc lợp bằng bao cát
và vỉ sắt tổ ong chống đạn nổ chậm. Ngồi trong hầm, đôi khi không
nghe được tiếng đạn cối nổ ở ngoài sân cờ.
Sát cạnh trung tâm hành quân là một hầm
lộ thiên hình tròn xây bằng bao cát, trong vòng tròn là mũi tên
lửa chỉ điểm mục tiêu.
Mũi tên lửa này được đốt bằng dầu
Diesel thắp sáng suốt đêm, nó có thể quay 360 độ một cách dễ
dàng, đầu nhọn của nó luôn luôn quay về hướng địch.
Nếu không có nhu cầu tác xạ, thì trước
khi rời vùng, để giải tỏa bom đạn, máy bay Hỏa Long hay Gunship
cứ việc phóng hỏa tiễn hay bắn phá cách xa Pleime 3 cây số theo
hướng mũi tên.
Tiểu đội Lao Công Chiến Trường đã hoàn
thành những công trình này dưới sự chỉ huy của Thiếu úy Huỳnh Kim
Hoàng đại đội trưởng đại đội chỉ huy.
Tiểu đoàn 82 có một tiểu đội Lao Công
Chiến Trường. Họ là những cựu quân nhân can tội khác nhau nên bị
đày ra tiền tuyến làm những công việc hiểm nguy và cực nhọc.
Tôi đặc biệt lưu ý tới những người này,
bố trí cho họ vào từng vị trí thích hợp với khả năng của mỗi
người. Dưới bàn tay tôi, những tội nhân đó đã trở về với vị trí
chuyên môn của họ, họ trở thành xạ thủ đại liên, xạ thủ cối 81ly,
trinh sát viên, tiểu đội trưởng, toán trưởng toán thám sát, hoặc
chuyên viên sửa chữa vũ khí.
Ðể tất cả binh sĩ chú tâm vào công tác
tổ chức phòng thủ, tôi ra lệnh cho tất cả thân nhân gia đình binh
sĩ phải rời Pleime theo chuyến tiếp tế thường kỳ ngay sau ngày
phát lương cuối tháng 6 năm 1974. Ở Pleiku tôi vừa tiếp nhận
doanh trại của Ðại đội 2 Quân Y Biệt Ðộng Quân, doanh trại này
rất đầy đủ tiện nghi, nên những anh em có gia đình không phải lo
lắng chuyện nơi ăn chốn ở của vợ con họ.
Tôi là dân Tình Báo Tác Chiến, nên ngày
nào tôi cũng duyệt các bản tin A2 mà Ban Truyền Tin của đơn vị
trình lên.
Tôi
lấy làm lạ là ngày nào cũng vậy, cứ mình vừa gửi công điện báo
cáo vị trí đêm của các cánh quân về Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng
Quân/Quân Khu 2 thì chỉ hai giờ sau bản tin A2 đã thông báo rằng
Việt cộng vừa gửi cho nhau toàn bộ vị trí đóng quân của quân bạn,
chính xác tới độ y như nguyên văn!
Tôi nghĩ rằng ở bộ chỉ huy có nội
tuyến, hoặc là đặc lệnh truyền tin của bộ chỉ huy đã bị tiết lộ
nên mới có tình trạng này.
Ðể phòng thân, tôi nghĩ ra một bản mã
riêng, rồi photocopy ra 2 bản, ban truyền tin của Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân giữ một bản, bản kia tôi đem về trao tận tay cho
Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2.
Mỗi đêm tiểu đoàn tôi gửi về Pleiku bản
tin đóng quân dưới bộ mã mới. Vì thế, từ ấy, chỉ có một mình tiểu
đoàn tôi là không bị địch phát giác vị trí đêm và các vị trí dã
ngoại.
Gần nửa
thế kỷ sau ngày đó, chú Hoạ Mi 82 tức Trung úy Nguyễn Công Minh,
trưởng ban truyền tin của đơn vị tôi vẫn chưa quên chuyện cái đặc
lệnh truyền tin ngoại lệ này.
Và 40 năm sau chiến tranh, nhân một lần
trò chuyện bằng điện thoại, cựu Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã hỏi
tôi:
– Ngày đó
Long có nghi thằng đại đội trưởng đại đội truyền tin của mình là
Việt cộng không?
Tôi nói:
– Ðúng là chuyện trời sập! Thuở ấy ai
mà dám nghi cho nó! Nó là dân gốc Lực Lượng Ðặc Biệt! Nó lại là
đồ đệ ruột của Trường An! Trường An tin tưởng nó còn hơn ai hết.
Sau này có lệnh của trung ương bắt các sĩ quan không tác chiến
phải ra đơn vị hành quân, ít ra là sáu tháng, Trường An đưa nó đi
tiểu đoàn nào vậy?
“Trường An” là biệt danh của Ðại tá
(sau là Chuẩn tướng) Phạm Duy Tất. Ông Tất cười hì hì:
– Thì anh ta vẫn còn ở bộ chỉ huy chứ
có đi đâu đâu! Ngày Pleiku di tản không rõ anh ta núp chỗ nào?
Mãi về sau mới nghe đồn rằng anh ta là nội tuyến!
Sơ đồ phòng thủ trại Pleime tháng 7 năm
1974
Tôi chợt
nhớ ra, có một hôm anh đại úy này gặp tôi trong sân bộ chỉ huy,
anh ta năn nỉ tôi ghi tên cho anh ta giữ chức đại đội trưởng một
đại đội của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, nhưng chỉ trên giấy tờ
thôi, còn bản thân thì anh ta vẫn làm việc ở Pleiku. Chỉ khi nào
có thanh tra của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân Trung Ương hay Bộ Tổng
Tham Mưu thì anh ta sẽ có mặt ở đơn vị.
Tôi không đồng ý giúp anh ta diễn cái
trò ma mãnh này nhằm hợp thức hóa tình trạng chỉ huy tác chiến
của anh ta; tôi khuyên anh ta hãy đi tìm người khác mà nhờ vả.
Thật là hú hồn! Nếu ngày đó anh ta
không đòi hỏi được ở Pleiku mà vui vẻ tình nguyện vào chỉ huy đại
đội thì có khi tôi đã mất đồn vào tay anh ta rồi!
Ai mà ngờ? Cả năm trước ngày Pleiku di
tản, người cung cấp những đặc lệnh truyền tin và mật mã hàng
tháng của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 cho địch lại là
ông đại úy đại đội trưởng Ðại đội Truyền Tin Biệt Ðộng Quân/Quân
Khu 2!
Vào
những năm sau Hòa Ðàm Paris, Việt cộng đã đẩy mạnh công tác xâm
nhập từ chiến lược tới chiến thuật.
Ở cấp trung ương, đã có những gián điệp
cấp cao của địch nằm trong Tổng Thống Phủ, trong Bộ Tổng Tham
Mưu.
Vì thế ở
Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 Pleiku có một tên nội tuyến
cấp đại úy thì cũng không phải là chuyện lạ.
Thời gian này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng
Quân nằm dưới quyền giám sát hành quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 22
đồn trú trong Căn Cứ Bình Tây 3 ở Hàm Rồng. Căn cứ Bình Tây 3 vốn
dĩ là Camp Enari cũ, nơi từng là bản doanh của Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ.
Hầu như cứ cách hai, hoặc ba ngày,
Chuẩn tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh lại ghé
Pleime thăm đơn vị tôi. Ông tướng này đã chịu khó bỏ ra hàng giờ
để tỉ mỉ quan sát công việc thiết trí công sự phòng thủ, và điều
quân trinh sát của tôi trong thời gian chuẩn bị cho một trận
chiến chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. Ông lấy làm lạ là tại
sao giao thông hào của tôi lại đào sâu gần hai thước, cao quá một
đầu, một với của người thường? Tại sao dưới giao thông hào tôi
lại cho moi rất nhiều hàm ếch? Tại sao mặt đất lại rào thép gai
chằng chịt khiến cho việc di chuyển từ lô cốt này, tới lô cốt kia
cứ phải đi dích dắc tới chóng mặt?
Tôi đã phải từ tốn giải thích với ông
Tướng rằng:
“Thưa Chuẩn tướng, sở dĩ giao thông hào phải đào sâu là để sự di
chuyển được an toàn khi giao tranh. Hào sâu thì người ngồi trong
hào khi bị pháo kích nghe tiếng nổ của đạn sẽ thấy nhỏ hơn, sẽ
bớt sợ hãi hơn. Hàm ếch giúp cho lính an toàn vì có che chở. Nếu
rủi có quả đạn delay (nổ chậm) rơi trúng hầm thì chỉ chết một
người, không chết chùm như trường hợp tác chiến lộ thiên. Còn hệ
thống kẽm gai chằng chịt là để chống đặc công, lệnh của tôi là
ban đêm nếu có tiếng súng nổ thì ai ở yên vị trí đó, người nào đi
trên mặt đất sẽ bị bắn chết. Thói thường thì đặc công sau khi xâm
nhập sẽ chạy vòng vòng khắp nơi, ném bộc phá vào các lô cốt và
nhà cửa. Gặp thứ hàng rào chóng mặt của tôi thì đặc công chỉ có
nước khóc ròng, làm sao mà chạy vòng vòng để ném bộc phá được
nữa!”
Tướng Tư
Lệnh nghe xong thì thấm ý, gật gù.
Thời gian này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng
Quân được tăng cường thêm một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh
để đảm trách nhiệm vụ phòng thủ vùng. Tiểu đoàn bộ binh này do
Ðại úy Nguyễn Hữu Chấn chỉ huy, Ðại úy Chấn xuất thân khóa 21 Võ
Bị, là khóa đàn em của tôi.
Tôi và Chấn cùng xuất thân từ Ðại Ðội B
Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Tôi là một
trong những đàn anh Khóa 20 đã huấn luyện chú Chấn, vì thế anh em
tôi rất thân thiết, thương yêu nhau.
Tôi giao cho chú Chấn giữ an ninh vùng
Bắc Pleime, còn tôi chịu trách nhiệm vùng Tây và Nam của căn cứ
này.
Người chỉ
huy trực tiếp của tôi và chú Chấn là Ðại tá Nguyễn Hữu Thông,
Trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 Bộ Binh, Ðại tá Thông xuất thân
từ Khóa 16 Võ Bị.
Mỗi lần vào thăm Pleime bằng đường bộ,
niên trưởng Thông đều than phiền,
– Chu choa! Ði qua cái hàng rào “Bát
Quái Trận Ðồ” của Long anh cứ chóng mặt muốn té!
Thấy thế tôi không khỏi bật cười:
– Ngày nào tôi cũng đi ra, đi vào cái
trận đồ này mà vẫn còn bị chóng mặt, huống hồ gì niên trưởng là
người lâu lâu mới tới thăm Pleime một lần.
o O o
Tri kỷ tri bỉ
(biết ta, biết địch)
Thế rồi, vào một ngày cuối tháng 6 năm
1974, toàn bộ Trung Ðoàn 42 Bộ Binh đột nhiên rút khỏi vùng Bắc
Pleime, thay thế là Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân và Bộ Chỉ Huy
Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân trú đóng tại Căn cứ Hỏa lực 711.
Thời gian này nếu tính cả hai khẩu
155ly đặt trong chi khu Phú Nhơn, thì khả năng yểm trợ của Liên
Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân chỉ mạnh bằng một nửa, so với hỏa lực cơ
hữu của một trung đoàn bộ binh.
Ðây cũng là thời gian tôi bận rộn suốt
ngày. Cả tháng trời tôi không dám bỏ đồn về Pleiku thăm hậu cứ
lần nào.
Về
phần an ninh khu vực trách nhiệm, lúc nào tôi cũng phải cảnh giác
đề phòng một cuộc tấn công với quy mô lớn của đối phương có thể
xảy ra bất thình lình.
Ðối diện với Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng
Quân của tôi là cả một sư đoàn bộ binh, một sư đoàn vận tải, một
trung đoàn pháo, và một tiểu đoàn xe tank của địch.
Lực lượng hùng hậu và đáng sợ này của
Cộng quân ngang nhiên trú đóng trong vùng núi Chư Prong và thung
lũng Ia–Drang, chỉ cách Pleime hơn mười cây số đường chim bay.
Tôi ước tính, chỉ cần chưa tới hai giờ
đồng hồ vận chuyển bộ, Cộng quân đã có thể cắt đứt Tỉnh lộ 6C và
bắt đầu vây hãm Pleime rồi.
Nếu so sánh tương quan lực lượng khi
phải giao tranh thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ phải đương cự
với một địch thủ có quân số đông hơn mình cả chục lần về nhân
lực, chưa kể tới cơ giới và pháo binh.
Nhiều đêm, với điếu thuốc Lucky trên
môi, một mình ngồi hàng giờ trên nóc lô cốt, tôi tự hỏi:
“Nếu địch tấn công Pleime thì mình sẽ
đối phó cách nào đây?”
Sau nhiều đêm vắt óc suy nghĩ và cân
nhắc, tôi mới tìm ra giải đáp:
“Muốn sống còn, tôi phải tránh bị đánh
úp bất ngờ, phải biết khi nào địch bắt đầu triển khai chiến dịch
để xin thượng cấp dự trù quân tăng viện. Phải cố gắng giữ đồn và
trì hoãn chiến để chờ viện binh”.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Muốn không bị đánh úp thì
phải biết động tĩnh của địch. Muốn biết động tĩnh của địch thì
phải tận dụng viễn thám và trinh sát. Chuyện này đối với tôi
không phải là điều khó giải quyết vì chỉ huy viễn thám và trinh
sát vốn là nghề của tôi. Tôi có 6 toán viễn thám rất tinh nhuệ,
trong đó 2 toán là do tôi đem theo từ Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt
Ðộng Quân/Quân Khu 2 ngày tôi đáo nhậm đơn vị này.
Vấn đề kế tiếp là: làm sao trì hoãn
chiến?
Muốn
trì hoãn chiến cần thực hiện hai điều:
Một là, nếu ở trong đồn thì phải phòng
thủ thật chắc.
Hai là, nếu phải đánh nhau dã ngoại thì
phải cố sức bám địch, cầm chân địch bằng mọi giá.
Trong đồn thì tôi không lo, vì với mạng
lưới kẽm gai chằng chịt và hệ thống giao thông hào đặc biệt mà
tôi mới thiết trí có thể giúp cho người lính vững tâm hơn khi
chiến đấu.
Nhưng nếu phải đánh nhau dã ngoại thì điều quan trọng nhất lại là
tình hình địch.
Phải biết địch cỡ nào thì ta đánh, địch
cỡ nào thì ta phải tránh.
Cho dù thời tiết đã sang mùa mưa, mưa
tầm tã hết ngày này qua ngày khác, sáu toán viễn thám vẫn phải
liên tục thay nhau xâm nhập vào Ia–Drang để canh chừng mọi chỉ
dấu mới của Sư Ðoàn 320A Cộng sản.
Làm trái độn cho viễn thám là một lực
lượng tiếp cứu nằm cách Pleime 6 cây số về hướng Tây Bắc. Nơi đây
là vị trí trú quân của một đại đội ưu tiên nghênh cản. Nhiệm vụ
của đại đội nghênh cản là cố gắng đánh cầm chân quân địch nếu
trận chiến xảy ra.
Các đại đội trực thuộc tiểu đoàn phải
thay phiên nhau giữ vai trò nghênh cản. Ðại đội này sẽ không đem
theo nồi niêu, trên lưng mỗi người chỉ có ba ngày cơm vắt cùng
hai cấp số đạn. Sau phiên trực kéo dài ba ngày, ba đêm thì có
người thay.
Ðầu tháng 7 tôi được bổ sung một sĩ quan tiểu đoàn phó là Ðại úy
Nguyễn Hữu Tài khóa 10 Thủ Ðức. Ðại úy Tài là một đệ tử của Ðại
tá Tất hồi ông Tất còn ở trong Vùng 4.
Tuần sau, để cho Ðại úy Tài quen với
địa thế vùng rừng núi, tôi cho ông ta điều khiển một cuộc đổi
quân của hai đại đội nghênh cản.
Theo đúng chương trình thì Ðại úy tiểu
đoàn phó sẽ dẫn đơn vị thượng phiên tới vùng 6 cây số Tây Bắc
Pleime, kiểm soát hệ thống phòng ngự của đơn vị, chấm các tọa độ
pháo binh dự phòng trên các đường nghi ngờ địch sẽ xâm nhập. Ngày
hôm sau ông ta sẽ theo đơn vị hạ phiên trở về trại, giao nộp
phóng đồ hỏa yểm dự trù cho tôi.
Nhưng vừa ra khỏi cổng, Ðại úy Tài đã
cùng vài người lính tùy tùng, leo lên tiền đồn Bắc nằm chờ hai
đơn vị dưới quyền tự làm công tác hoán chuyển nhiệm vụ. Hôm sau
đại đội hạ phiên về tới căn cứ cả giờ rồi, thầy trò Ðại úy tiểu
đoàn phó mới lò dò xuống đồi.
Tôi đã nghiêm khắc nhắc nhở Ðại úy Tài
rằng, từ nay về sau không được làm việc tắc trách như vậy nữa.
Ông Tài đã tỏ ra hối lỗi, và hứa sẽ không tái phạm.
Nào ngờ, vài hôm sau, tôi lệnh cho Ðại
úy Tài cùng Ðại đội 1/82 đi thám sát vùng 5 cây số Tây Nam Pleime
thì ông ta lại phạm lỗi lần nữa.
Chiều ngày ra quân, Ðại úy Tài báo cáo
với tôi rằng đơn vị của ông ta đã lục soát xong khu vực trách
nhiệm.
Tới
đêm, Thiếu úy Lê Ðình Khay, đại đội trưởng 1/82 lại cho tôi biết
anh ta cùng với hai trung đội sẽ ngủ qua đêm trên mục tiêu, còn
ông Ðại úy tiểu đoàn phó thì vừa ra khỏi trại đã cùng một trung
đội chui vào đóng quân trong khu rừng thưa cuối phi đạo Pleime!
Từ đó, tôi không dám cho ông Tài chỉ
huy các cánh quân hoạt động dã ngoại nữa.
Vì biết rõ khả năng và tính nết của
người phụ tá của mình rồi, nên tôi chỉ giao cho ông Tài những
công việc lặt vặt như mai táng, tải thương và rào giậu.
Tôi phải đích thân điều hành những công
việc liên quan tới tác chiến, phòng thủ và yểm trợ.
Tôi có một Chuẩn úy pháo binh tiền sát
viên rất trẻ, chú này tên là Khánh. Hình như chú Khánh là dân Chợ
Lớn, danh hiệu của chú ấy là Sầm Mi. Có lần tôi thắc mắc với
Khánh:
– Có
phải Sầm Mi là cô sẩm mà chú đang thương yêu chăng? (xẩm=sẩm=cô
gái Trung Hoa)
Trả lời câu hỏi của tôi, chú Khánh chỉ
đỏ mặt nhoẻn miệng cười.
Giữa sân bộ chỉ huy có cái chòi cao
bằng tre, với mái rơm. Hàng ngày Sầm Mi ngồi thu mình trên chòi
từ mờ sáng tới chiều tối. Bất cứ tiếng “depart” pháo cối nào của
địch vừa dội tới, trung tâm hành quân của tôi đã có ngay hai yếu
tố được Sầm Mi báo cáo thật gọn gàng:
“Hướng X ly giác, tầm xa Y mét...”
Cho đến một hôm, địch bắn tới tấp hàng
trăm trái, với đủ loại đạn và từ chục hướng khác nhau, Sầm Mi
phải tụt xuống đất chui vào hầm hàm ếch dưới giao thông hào.
Từ ngày đó, tôi cho Sầm Mi cùng với
người lính nấu cơm của chú ấy vào làm việc với Ban 3 tiểu đoàn
nơi hầm trú của trung tâm hành quân.
Yểm trợ gần cho Pleime hoàn toàn phụ
thuộc vào hai khẩu 105ly cơ hữu.
Yểm trợ xa chỉ có hai trung đội 155ly
đặt ngoài Chi khu Phú Nhơn và Căn cứ 711.
Bốn khẩu pháo binh này bắn mút tầm cũng
còn cách Trại Pleime gần 5 cây số.
Khi pháo binh bắn mút tầm thì rất dễ
gây ra tai nạn tản đạn. Do đó, tôi lưu ý Chuẩn úy Khánh và Trung
úy Chủ mỗi khi chạm trận cần đánh những mục tiêu hướng Ðông và
Tây, ta phải gọi Căn cứ 711, nếu cần đánh những mục tiêu hướng
Bắc và Nam, thì phải nhờ Chi khu Phú Nhơn.
Cứ theo đó, trên tường của trung tâm
hành quân đã có một bảng ghi đầy đủ tên từng hỏa tập, kèm với
danh hiệu truyền tin của đơn vị yểm trợ.
Từ giữa tháng Bảy, hầu như ngày nào
địch cũng bắn vào trại Pleime từ 10 tới 15 viên trái phá mỗi
loại. Có lẽ chúng đang điều chỉnh để lấy yếu tố tác xạ tiên liệu,
khi cần sẽ bắn tập trung. Như thế là hai bên đều trong thời kỳ
chuẩn bị, kỳ này “chưa biết mèo nào cắn mỉu nào!”
Trong số gần hai chục quả 130ly đại bác
nòng dài của Việt cộng nhắm vào Pleime thì chỉ có một viên rơi
trong rào, số còn lại đều bay qua đầu, xuống suối.
Trái 130ly nổ chậm (delay) rơi sát vị
trí hai khẩu 105ly, đào một hố sâu cỡ đầu người với đường kính
chừng sáu thước. Chỉ cần hai viên 130ly rơi đúng mục tiêu thì
toàn bộ trung đội pháo binh biên phòng này sẽ bị tiêu diệt!
Từ khi lập trại, vị trí hai khẩu 105ly
chỉ trực xạ cận phòng được nửa vòng tròn từ Ðông, tới Nam qua
Tây. Còn các hướng Bắc, Ðông Bắc, Tây Bắc đều nằm trong tử giác,
không trực xạ được.
Trường hợp bị địch tấn công từ hướng
chính Bắc, Ðông Bắc, và Tây Bắc thì hướng bắn của hai khẩu súng
này bị nhà cửa, pháo đài và thành lũy che khuất, đành thúc thủ.
Rút kinh nghiệm mà tôi đã tận mắt chứng
kiến ngày Căn cứ Biên phòng Lệ Minh bị tràn ngập. Hôm đó tôi bay
trên trời, tôi thấy cái cổng trại mở toang, pháo địch nổ rền,
toàn doanh trại bao trùm một màn bụi khói.
Khói súng chưa tan, Cộng quân đã ào ào
chạy vào cổng, chia nhau chiếm giữ các lô cốt, theo sau là lá cờ
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam xanh, đỏ, sao vàng.
Từ trên trực thăng nhìn xuống, thấy
cảnh xảy ra cứ như đang xem phim!
Tôi nghĩ, nếu tấn công Pleime, chắc
Việt cộng cũng áp dụng chiến thuật tiền pháo, hậu xung như thế.
Muốn chống lại chiến thuật này việc ưu
tiên phải làm là đóng chặt cổng ngoài, rồi cố gắng cầm chân địch
từ xa bằng những hàng rào kẽm gai concertina cách nhau vài chục
thước. Sau đó dùng hỏa lực đốn ngã toán quân xung phong đầu tiên
của địch. Vũ khí chống biển người hữu hiệu nhứt là những viên đạn
pháo binh bắn tên sắt.
Tôi ra lệnh cho Trung úy Như tách ra
một khẩu 105ly đem lên cổng Bắc.
Chuyện tách rời 2 khẩu 105ly là điều
hoàn toàn sái nguyên tắc; nhưng trong tình huống này thì sự tồn
vong của Pleime là ưu tiên hàng đầu, Trung úy Như đã vui vẻ thi
hành lệnh mà không tỏ vẻ muộn phiền gì.
Trong ụ súng cổng Bắc, tôi chuẩn bị gần
hai chục đạn Beehive chống biển người, mỗi viên Beehive khi ra
khỏi nòng súng sẽ phóng đi 8000 mũi tên sắt. Chỉ cần 2 trái
Beehive bắn đúng lúc địch xung phong, chúng sẽ chết như rạ!
Ngày phát lương tháng Bảy, trời nắng
ráo, Trung tá Hoàng Kim Thanh, liên đoàn phó theo trực thăng chở
phát hướng viên xuống thăm Pleime.
Anh Thanh báo cho tôi biết, từ hôm đó,
Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân được quân đoàn chỉ định thay thế Thiếu
tá Hoàng Ðình Mẫn để chỉ huy Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân ít ra
cũng trong thời gian của chiến dịch này, vì so với ông Mẫn thì
ông Lân thông thuộc địa thế Pleime hơn ông Mẫn.
Anh Thanh không quên mang tặng tôi một
két bia cổ cao. Rồi năm anh em, Hoàng Kim Thanh, Vương Mộng Long,
Nguyễn Hữu Tài, Nguyễn Công Minh, và Trần Văn Phước quây quần
quanh chiếc bàn tròn.
Kịp khi năm chai bia mới mở nắp, ba con
khô mực nướng vừa xong thì bất ngờ:
“Oành! Oành! Oành!” ba viên không giựt
57ly theo nhau xé gió bay tới, nổ tung giữa sân cờ!
Tôi quơ vội chiếc PRC–25 nhảy xuống
giao thông hào.
Tay bóp ống liên hợp, tôi la lớn:
– 821! Ra chận đường lấy cho được khẩu
57ly!
Thay vì
ra lệnh cho pháo binh phản pháo, tôi lại gọi toán viễn thám 821
của Hạ sĩ Mom Sol.
Toán của Mom Sol đã ra đi từ mờ sáng,
ém trong rừng, cách Pleime hơn ba cây số.
Mom Sol sẽ kéo ra con đường mòn chặn
đánh khi địch rút lui.
Chưa tới mười phút sau, có ba tràng M16
bắn ngược chiều, rồi tiếng Mom Sol reo vui:
– Trình Thái Sơn! Em lấy được khẩu 57ly
rồi!
Tôi đã
đoán chắc thế nào địch cũng xâm nhập bằng đường rừng, pháo tới
tấp hết số đạn mang theo, rồi chạy thục mạng theo con đường mòn
dẫn về Tây. Quân ta cứ chặn đường chúng rút là có ăn ngay.
Trong quá khứ, đã có hai lần địch áp
dụng ngón đòn đánh trộm rồi chạy.
Với một khẩu đội chừng ba hay bốn tên, vác theo cái nòng 57ly
cùng vài viên đạn, chúng xâm nhập bằng đường rừng. Khi tới vạt
đất trống, cách hàng rào trại vài trăm mét thì chúng chui ra, vội
vàng nạp đạn, bóp cò. Chưa đầy vài phút, sau khi hết đạn, chúng
liền phóng ra con đường xe be cũ chạy một mạch về hướng Tây.
Tới khi người trong đồn phát giác ra vị
trí đặt súng, lấy xong yếu tố tác xạ để phản pháo thì chúng đã
cách xa Pleime cả cây số rồi!
Ði đêm lâu ngày thế nào cũng gặp ma!
Bọn bắn trộm ăn quen, rồi cũng có ngày chết mất mạng, mất súng.
Hôm ấy đúng như tôi dự liệu, tính từ
lúc trái đạn đầu tiên phát nổ, chưa tới hai mươi phút sau Hạ sĩ
Mom Sol đã bước vào cổng Nam Pleime với khẩu 57ly chiến lợi phẩm
trên vai.
Ba
chai bia cổ cao được trao tận tay ba anh viễn thám, còn khẩu 57ly
được bay theo Trung tá Hoàng Kim Thanh về Pleiku.
Ngày 22 tháng 7 có chiếc trực thăng bay
vào Pleime bốc tôi về trình diện Trung tướng Tư Lệnh Quân Khu 2
để nhận một chỉ thị đặc biệt.
Tôi được Quân Cảnh đưa lên lầu thì đã
có ba vị chỉ huy chờ sẵn, đó là Trung tướng Toàn, Chuẩn tướng
Niệm và Trung tá Tiếu.
Cuộc gặp mặt chỉ kéo dài chừng mười
phút.
Tướng
Toàn xua tay cho tôi miễn trình diện, rồi chỉ cho tôi ngồi xuống
cái ghế dựa đặt trước mặt ông, hai bên tôi là Tướng Niệm và Trung
tá Tiếu.
Ông
Tướng vào đề ngay:
– Chắc chắn vài ngày nữa tụi nó sẽ đánh
lấy cho được Pleime. Ta ra giá cho mi cố giữ đồn được ba ngày là
ta cho mi lên trung tá. Sau đó cứ làm theo kế hoạch mà ông Tiếu
sẽ bàn với mi. Nghe rõ chưa?
Tôi băn khoăn chưa biết kế hoạch của
thượng cấp đề ra như thế nào thì Tư Lệnh đã tiếp:
– Chuyện này đứa khác làm không được,
nhưng ta tin chắc mi sẽ làm được! Thôi mi nói chuyện với ông
Tiếu, ta mắc bận phải đi!
Dứt lời, Tướng Toàn khoát tay ra dấu
cho Tướng Niệm, hai người sánh vai đứng lên.
Tới cửa, tôi thấy Tướng Niệm quay đầu
lại, chỉ tay về hướng tôi, rồi nói nhỏ với Tướng Toàn:
– Từ ngày đi lính tới giờ, tôi thấy đây
là sĩ quan mà tôi cho là ưu tú nhất. Hy vọng ngày nào đó tôi sẽ
có người sĩ quan này!
Ông Toàn quay mặt lại, hơi lớn tiếng,
chắc là cố ý cho tôi nghe:
– Ðù mạ! Phải cố gắng lên chứ! Quân đội
gì mà cứ đánh là thua, cứ đánh là chạy, làm sao mà ăn nói với Mỹ,
mà chìa tay ra xin người ta chi viện trợ cho được?
Trong phòng còn lại tôi và Trung tá
Tiếu. Ông Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn II cho tôi biết chi tiết kế
hoạch của Quân Ðoàn là:
Nếu Sư Ðoàn 320A Cộng sản động binh thì
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân phải tận lực giữ đồn không bị tràn
ngập trong vòng ba ngày. Sau đó tôi được quyền chui ra khỏi rào,
leo lên chỏm núi nào đó, tiếp tục báo cáo với đài tiếp vận Hàm
Rồng rằng quân trú phòng đang đánh nhau giành giật với địch quân
từng phần đất của Pleime. Cứ thế, cho tới một tuần lễ sau thì hô
hoán lên rằng Pleime đã mất. Rồi tôi được quyền chọn một trong
hai hướng thoát thân, muốn về trình diện Quận Phú Nhơn hay Quận
Thuần Mẫn là tùy ý tôi.
Tôi nghĩ rằng,
chưa đánh nhau mà Tướng Tư Lệnh Vùng đã hứa chỉ cần tôi giữ
Pleime được ba ngày thôi, sau đó thì có quyền bỏ đồn, rút chạy mà
không sợ bị mất lon thì chắc chắn trận này sẽ lớn lắm.
Tướng Nguyễn Văn Toàn là một người thô
lỗ, cộc cằn, mở miệng ra là văng tục, chửi thề, nhưng cũng rất
thẳng thắn. Chuyện gì ông ta cũng nói huỵch toẹt, không che đậy.
Sở dĩ Tướng Toàn đòi hỏi tôi nếu không
giữ được Pleime mà vẫn phải “đánh trận giả” chỉ vì sợ quốc tế
nhìn vào, thấy Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà yếu đuối quá, không đủ
sức cản chân Cộng quân, cứ đánh nhau là thua, lại thua nhanh quá,
không xứng đáng nhận thêm viện trợ nữa.
Như vậy, chiến công của chúng tôi, nếu
có được, sẽ trở thành món hàng quý giá của lòng tin, để chính
quyền ta trả giá với đồng minh Hoa Kỳ xin quân viện.
Tôi thấy mình vừa khoác lên vai một
trách nhiệm rất nặng nề. Trận này thắng hay bại có ảnh hưởng rất
quan trọng tới ngân sách của quốc gia, tức là liên quan tới sự
tồn vong của đất nước.
Tôi tự hứa với lòng mình rằng sẽ cố
gắng hoàn thành cái sứ mạng cam go này.
Qua những lần tiếp xúc với các giới
chức có thẩm quyền mà tôi thấy được, đất nước chúng ta đang bước
vào thời kỳ khan hiếm xăng dầu và đạn dược do ngân sách bị cắt
giảm. Vì lý do đó, ở cấp tiểu đoàn, xăng nhớt chỉ được cấp phát
cho hai xe Jeep và một xe GMC mười bánh. Tôi cũng nghe nói, chỉ
một giờ bay của trực thăng đã làm hao tốn tới 200 đô la viện trợ!
Mỗi khẩu pháo chỉ được quyền bắn tối đa là 4 viên mỗi ngày. Nếu ở
mặt trận này mà pháo binh bắn lố hơn cấp số 4 viên một ngày thì
để bù đắp lại, khẩu súng ở mặt trận khác sẽ bị khóa nòng, không
sử dụng.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Cái thời vàng son khi Ðồng
Minh còn hiện diện, xăng nhớt như nước, bom đạn như mưa đã qua
rồi!
Cái thời
nằm xoài trên bãi, miệng rít xì gà chờ B52 trải thảm rồi bay vào
vùng lượm súng đã qua rồi! Bây giờ là lúc đánh nhau với cung cách
“thắt lưng buộc bụng”.
Bây giờ cũng là lúc, muốn sinh tồn,
người cầm quân phải vận dụng đầu óc nhiều hơn, dùng mưu trí nhiều
hơn. Chỉ ơ hờ một chút là mất mạng, hay biến thành tù binh.
Nhận lệnh xong, rời quân đoàn, tôi phải
bay thẳng một lèo về Pleime, không được ghé bất cứ nơi nào.
Ngày 23 tháng 7 tôi chuẩn bị 6 toán,
mỗi toán 3 người, dưới quyền Thượng sĩ Năng đào hai đường hào
dùng để rút quân. Một đường xuất phát từ kho đạn pháo binh, đường
thứ nhì bắt đầu từ bể nước dự trữ. Hai đường hào này gặp nhau nơi
cổng Nam. Trường hợp bị tràn ngập chúng tôi có thể vừa đánh vừa
lui theo hai đoạn đường giao thông hào này.
Ngày 24 tháng 7 tôi dẫn theo Thiếu úy
Trần Văn Phước cùng một toán viễn thám leo lên đỉnh Chư Gô để cất
giấu hai chục khẩu phần lương khô, hai thùng nước uống và một máy
truyền tin PRC–25 với 4 cục điện trì, dự trù nếu phải di tản còn
có một điểm tiếp liệu.
Trưa hôm đó Hạ sĩ Nguyễn Ba và Binh nhì
Lê Văn Bích đang nóng lòng trông đợi tôi về ăn cơm. Thấy tôi bước
vào cổng trại, đầu tóc, mặt mũi đẫm mồ hôi, chú Ba vội chạy tới
vừa giơ tay gỡ cái dây ba chạc khỏi vai tôi, vừa nói:
– Ông thầy đi đâu mà không cho tụi tôi
biết, tụi tôi lo quá!
Binh nhì Bích cũng đon đả:
– Thiếu tá ăn cơm nhé?
Hạ sĩ Ba vừa châm cho tôi một điếu
Lucky vừa bùi ngùi:
– Sáng mai em phải vào vùng thay cho
toán của thằng Yang rồi, không biết em có còn sống để về gặp ông
thầy hay không?
Kể từ cuối năm 1972, dưới quyền tôi,
chú Ba đã là lính nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) của Phòng 2. Tới
khi tôi vào Pleime thì chú Ba tình nguyện đem toán đi theo tôi.
Trong lúc tôi ngồi ăn cơm, chú Ba và
chú Bích cứ lăng xăng xung quanh, chờ tôi sai vặt. Nhìn bộ dạng
của hai thằng em, tôi nghiệm ra rằng nhất cử, nhất động của mình
đều có ảnh hưởng tâm lý tới mọi người dưới quyền. Bao lâu nay,
tôi đã là niềm tin, là chỗ dựa của họ. Tôi chỉ đi vắng có vài giờ
mà thuộc cấp đã lo lắng như vậy, nếu như tôi không có mặt, chắc
họ sẽ còn lo lắng gấp nhiều lần hơn.
o O o
Pleime bão lửa ngợp trời...
Ngày 25 tháng 7 chúng tôi được lệnh
chuẩn bị mở đường Tỉnh lộ 6C để nhận tiếp tế thường kỳ.
Trong đêm 26 tháng 7 tôi cho hai Ðại
đội 2/82 và 3/82 di chuyển tới vị trí tập kết, thiết lập vị trí
phòng ngự để đối phó với một trận bôn tập có thể xảy ra.
Ðại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm Ðại Việt
là cánh quân xa nhứt, chỉ cách ranh giới của Tiểu Ðoàn 81 Biệt
Ðộng Quân chừng hơn một cây số. Kế đó là Ðại đội 2/82 của Trung
úy Nguyễn Hữu Anh chốt chặn cách Pleime 4 cây số về hướng chính
Bắc.
Ðại đội
4/82 giữ nhiệm vụ nghênh cản vùng Tây Bắc nên hiện thời trong đồn
còn lại Ðại đội chỉ huy cùng với Ðại đội 1/82 trừ (–) vì thiếu
hai trung đội đóng tiền đồn cố định trên Chư Hô và trên cao điểm
509.
Sáng 27
tháng 7 năm 1974, Căn cứ Pleime hoàn toàn yên tĩnh, nhưng toán
viễn thám của Hạ sĩ Nguyễn Ba và Ðại đội 4/82 của Thiếu úy Phạm
Văn Thủy đều báo cơ giới địch bắt đầu chuyển quân bằng xe từ Chư
Prong nhắm về hướng Ðông.
Ðại đội nghênh cản 4/82 của Thiếu úy
Thủy không dám ra mặt đương cự với đoàn xe chở quân của địch chỉ
vì hỏa lực rất mạnh của bốn khẩu 12.7ly đặt trên hai chiếc xe be
đi đầu khạc đạn như mưa trên từng thước đất dọc đường đi.
Ðịch đã dùng hỏa lực, thay vì nhân lực
để mở đường. Ðại đội 4/82 chỉ còn nước nằm bẹp sát đất tránh đạn,
rồi rút xuống suối ẩn núp chờ địch đi qua.
Tới khi thấy bộ binh địch từng đoàn
chạy bộ theo con đường xe be tiến lên thì Ðại đội 4/82 đồng loạt
nổ súng.
Quân
của Ðại đội 4/82 đã chặn đánh địch trên hai vị trí định sẵn trong
khoảng thời gian chừng một giờ thì phải rút, vì sợ viện binh địch
bao vây, sẽ mất đường về.
Còn toán viễn thám của Hạ sĩ Nguyễn Ba
sau khi bắn cháy được một xe chở đạn của địch thì bị lộ, bèn cắm
đầu chạy. Tối hôm đó toán này mới về tới cổng Nam của trại.
Ðúng 9:00g sáng ngày 27 tháng 7 địch mở
màn một cơn mưa pháo dọc hai bên Tỉnh lộ 6C từ chân núi lửa Chư
Mréa tới cổng trại Pleime.
Pháo binh Việt cộng bắn như trống chầu.
Ước tính trong thời gian chừng nửa giờ đồng hồ, địch đã bắn phủ
vùng 10 cây số của tỉnh lộ với hàng ngàn viên đạn đủ loại gồm đại
bác 130ly, đại bác 105ly, đại bác 122 nòng dài, cối 120ly, cối
82ly.
Tỉnh lộ
6C chỉ còn là một con rồng bụi đỏ khổng lồ uốn khúc, vừa dài, vừa
cao ngút tới mây.
Sau khi tận dụng pháo binh, bộ binh
địch bắt đầu reo hò xung phong chiếm lĩnh mặt Tỉnh lộ 6C vùng
hướng Bắc ngã ba làng Plei Xome.
Ðiều đáng ngạc nhiên là trận đánh đã
diễn ra trước khi đoàn quân xa tiếp tế cho Pleime và Căn cứ 711
vào vùng.
Trên
hệ thống vô tuyến của Liên đoàn, tôi nghe Thiếu tá Nguyễn Ngọc
Lân báo cáo rằng hai đại đội dưới quyền ông đang bị một lực lượng
rất đông của Việt cộng chặn đánh. Cánh quân cực Nam của Tiểu Ðoàn
81 Biệt Ðộng Quân đã bị mất liên lạc, đại đội đi tiên phong này
do Thiếu tá Trần Văn Ngọc, Tiểu Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 81 chỉ huy.
Quân của ông Ngọc nằm cách tiền quân của tiểu đoàn tôi chừng hơn
một cây số.
Hai đại đội của Tiểu Ðoàn 82 đều thủ trong bìa rừng hướng Ðông
của tỉnh lộ, dưới hố cá nhân và giao thông hào, nên không bị pháo
binh địch gây tổn hại.
Ði mở đường, tôi không cho quân trải
dài theo lộ như nhiều đơn vị khác.
Vì với nhiều năm kinh nghiệm, tôi thấy
quân đội ta khi giữ đường, thường có thói quen cứ cách nhau vài
chục thước lại cho một anh lính đứng gác; người đi trên xe nhìn
thấy lính gác đường thì cảm thấy yên tâm. Nhưng chỉ cần một trung
đội Việt cộng tập trung hỏa lực, vừa bắn vừa tiến, những người
lính đứng đơn độc sẽ bị tiêu diệt ngay.
Cứ như thế, một đại đội Việt cộng có
thể đánh tan một tiểu đoàn khai lộ của ta không khó khăn.
Khi hành quân khai lộ, tôi chỉ bố quân
một bên đường, phía đường bên kia được hai khinh binh đi rà soát
liên tục. Một người đi trong rừng, một người đi ngoài trống, nếu
phát hiện địch thì hai khinh binh này nổ súng báo động rồi thoát
chạy ngay.
Sáng nay pháo binh địch bất ngờ tới tấp nổ trùm mặt lộ, khiến cho
bốn anh lính rà đường của hai Ðại đội 2/82 và 3/82 phải chạy bán
sống, bán chết về trại.
Giờ phút đó, trên đỉnh đồi 407, cách
Pleime 4 cây số, tôi đang ngồi với Trung úy Nguyễn Hữu Anh đại
đội trưởng 2/82.
Vừa nghe tiếng “Ùm!” từ đằng xa, tôi
vội đứng dậy, gọi cho Trung úy Chủ báo cho quân trú phòng trong
trại đóng chặt cổng rào.
Trong lúc lộn xộn, chân tôi đạp nhằm
cẳng một anh lính truyền tin của Ðại đội 2/82, anh này vừa xoa
chân vừa chu chéo: “Ui cha ui! Thiếu tá đạp gãy chân em rồi!”
Nhìn bộ dạng anh lính, tôi phải phì
cười:
– Không
xuống hố, cứ nằm đó mà la đi! Việt cộng nó pháo đứt đầu bây giờ!
Nghe tôi hù, thằng em sợ quá vội ôm
chiếc ba lô có cái máy PRC–25 nhảy xuống hố.
Về phần trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân thì trận đánh đã diễn ra hoàn toàn như tôi đã dự
đoán. Vì bị Ðại đội 4/82 cầm chân nên cánh quân bộ binh này của
Việt cộng đã tới mục tiêu rất trễ.
Ðịch đang ngơ ngác trên mặt lộ trống
trơn thì quân ta bắt đầu nổ súng. Hầu như toàn bộ đơn vị tiền
phong Việt cộng hiện diện trên mặt đường đều bị tiêu diệt.
Tuy vậy, trong lúc giao tranh, Ðại đội
3/82 cũng đã có một người chết và ba bị thương. Thấy địch càng
lúc càng đông, Thiếu úy Việt đành cho quân bám đất và xin tôi cứu
viện.
Cùng lúc
đó, từ Căn cứ Hỏa lực 711, Ðại tá Từ Vấn, Liên đoàn trưởng Liên
Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ra lệnh cho tôi phải bằng mọi giá tiến lên
cứu Thiếu tá Ngọc.
Tuy Ðại đội 3/82 đang ở cách Thiếu tá
Ngọc một đoạn đường hơn một cây số, nhưng tôi không thể cho lệnh
Ðại đội 3/82 bỏ hầm hố để tiếp tay cho quân bạn, vì nếu địch
chiếm được khu hầm hào đó thì Ðại đội 3/82 không còn đường lui,
mà quân từ hướng Nam tiến lên cũng bị chặn đứng.
Tôi chỉ còn cách ra lệnh cho phần còn
lại của Ðại đội 1/82 ra trám chỗ cho Ðại đội 2/82 giữ lưng cho
tôi và Ðại đội 2/82 tiến lên.
Như thế là tôi đã đem gần hết quân trú
phòng ra trận, trong đồn chỉ còn đại đội chỉ huy công vụ cùng với
trung đội pháo binh và hai khẩu đội súng cối 106ly, 81ly.
Khi tôi và Ðại đội 2/82 bắt tay được
Ðại đội 3/82 cũng là lúc quân tăng viện của địch từ vạt rừng
hướng Tây ào ào tiến sang. Chúng dàn thành đội hình hàng ngang,
xung phong từng đợt, mỗi đợt cách nhau chừng mười phút.
Bốn tháng trước, tôi đã biết cách đánh
này là thói quen của Trung Ðoàn 48/320A. Chiến binh của E 48/320A
có nhiều người thuộc sắc tộc Tày, Nùng rất gan dạ.
Ðơn vị này có sở trường là khi tấn công
thì họ cứ miệng thét “Xung phong! Xung Phong!” từng đợt ào lên
mục tiêu, bắn giết rồi vượt qua luôn, hết đợt này tới đợt khác,
không ngừng lại kiểm soát trận địa hay thu nhặt chiến lợi phẩm.
Kỳ này chúng tôi có lợi thế là ẩn trong
rừng hướng Ðông của Tỉnh lộ. Ðịch phải xung phong qua hai vạt
rừng đã khai quang và một mặt lộ trống trải rồi mới tới tuyến
phòng ngự của Biệt Ðộng Quân. Vì vậy địch tiến lên đợt nào, chết
hết đợt ấy.
Cũng may mắn là vào lúc hai khẩu M60 của Ðại Ðội 3/82 vừa bắn hết
đạn thì tiếng súng của địch cũng lơi đi. Hình như địch rút về
hướng Bắc, khu ranh giới của hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân.
Sau khi Miền Nam thất thủ, tôi đã có
dịp gặp mặt người chỉ huy Trung Ðoàn 48/320A này, và biết thêm
rằng ông ta cũng là người bị tôi phục kích giết hụt hồi tháng 6
năm 1974 nơi ngã ba làng Plei Xome. Ông ta thổ lộ rằng trận
Pleime 1974 đơn vị dưới quyền ông đã bị thiệt hại rất nặng, phải
rút về Ia–Drang tái bổ sung và trang bị.
Ðịch rút đi, tôi dẫn quân tiến lên còn
cách ngã ba làng Plei Xome chưa đầy nửa cây số thì tạm ngừng để
hỏi Ðại tá Từ Vấn cánh quân hướng Nam của Tiểu Ðoàn 81 nằm chỗ
nào, Ðại tá Vấn trả lời không biết.
Tôi lại vừa đánh vừa tiến. Bên kia ngã
ba là vùng trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân.
Lại có tiếng xe chuyển quân của địch từ
hướng Tây. Sau đó, quân tăng viện của Việt cộng ào ào tiến ra
đường theo con lộ mà chúng đã phát quang từ hơn một năm về trước.
Ngay lập tức cánh quân này đã bị chúng tôi đánh tan.
Khi tôi tiến tới vị trí cách làng Plei
Xome chừng hai trăm mét thì chạm một bức tường hỏa lực phòng
không của địch.
Có ít nhất ba khẩu đại liên 12.7ly bắn
liên tục để cản đoàn quân của tôi. Tôi phải cho quân dạt xuống
triền Ðông của con lộ để tránh đạn.
Ðại đội 3/82 có thêm bốn người chết và
năm, sáu người khác bị thương. Toán viễn thám Mom Sol cận vệ của
tôi có một người bị thương, một cái máy PRC–25 bị bắn bể.
Trên tần số liên đoàn, Ðại tá Vấn liên
tục gọi Thiếu tá Lân nhưng không có tiếng trả lời. Trong lúc đó
trên trời có một trinh sát cơ O2 đang bao vùng.
Tôi nói với Ðại tá Vấn:
– Mụ “Ðầm già” bay trên kia có phải của
Hai Lẻ Chín không? Nếu niên trưởng không dùng thì giao nó cho
tôi!
– Ừ! Lấy
đi!
(Ðầm già =
Tên xưa của quan sát cơ. Hai Lẻ Chín = Ðại tá Vấn)
Tôi vào tần số không lục:
– Bắc Ðẩu đây Thái Sơn!
Người trên tàu đáp lại:
– Bắc Ðẩu nghe! Một phi tuần A37 sẵn
sàng! Thái Sơn cần chỗ nào tôi thỏa mãn ngay!
– Okay! Bắc Ðẩu có thấy trên tọa độ
ZA... có ba bốn khẩu 12.7ly không? Tôi ở chỗ khói vàng. Mục tiêu
cách tôi 200 mét hướng 4800ly giác! Yêu cầu cứ đánh giùm tôi từ
đó kéo dài về hướng Tây!
– Tôi thấy lâu rồi! Chỉ chờ bộ binh yêu
cầu là tụi này ra tay ngay!
Tôi cho lệnh đánh dấu ba trái khói
vàng, rồi ngồi chờ.
Chỉ ít phút sau, hai phi xuất A37 đã
theo nhau thét gào, nhào lộn trên ngã ba làng Plei Xome.
Tiếng bom vừa dứt, thì tôi ngỡ tai mình
nghe lầm:
–
Thái Sơn! Ðây là Hai Lẻ Chín! Tôi ra lệnh cho Thái Sơn! Bất cứ
giá nào cũng phải lên cứu cho được thằng Lê Lai!
(Lê Lai là Thiếu tá Lân)
Tôi nói:
– Tôi không biết các cánh quân của
thằng chín nút (81) nằm chỗ nào, tôi không thể liên lạc được với
họ thì làm sao mà cứu họ?
Nghe tôi nói vậy, thì Ðại tá Vấn lớn
tiếng dọa:
–
Lệnh là lệnh! Nếu anh không lên, tôi truy tố anh ra tòa!
Tôi nghĩ người chỉ huy trực tiếp của
tôi đang bấn loạn tinh thần nên nói năng chẳng còn cân nhắc. Ông
Vấn gọi ông Lân như gọi đò cả tiếng đồng hồ rồi mà chẳng có ai
đáp máy. Có khi giờ này toàn bộ Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân đã bị
địch đánh tan rồi.
Tôi trì hoãn:
– Ðể tôi chiếm cái ngã ba rồi tính
tiếp.
Lúc đó,
trên máy của thằng Y Don Nier, Trung úy Trần Dân Chủ từ trung tâm
hành quân của tiểu đoàn báo cáo rằng, pháo địch bắt đầu nổ trên
nóc trại Pleime. Ông Chủ cũng cho tôi biết tin Ðại đội 4/82 của
Thiếu úy Thủy đã về tới căn cứ và chỉ có năm quân nhân bị thương
nhẹ.
Tôi thấy
tình hình sắp nguy khốn, vì nếu địch mở một mũi tiến công mới,
nhắm ngay cổng trại thì tôi hết đường về. Tôi sẽ bị lâm vào thế
lưỡng đầu thọ địch. Nếu tôi không về kịp thì chắc chắn sẽ mất
đồn.
Tôi cũng
chợt nhớ ra, nhiệm vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn giao cho tôi là giữ đồn
Pleime, không phải là bỏ đồn đem quân đi cứu người khác. Nếu tôi
bị cầm chân ở đây mà để mất đồn thì tôi là người gánh trách nhiệm
chứ không phải Ðại tá Vấn.
Tôi nói với Ðại tá Từ Vấn:
– Chúng nó bắt đầu đánh vào Pleime! Báo
cho Hai Lẻ Chín biết giờ này tôi rút quân!
Không chờ phản ứng của ông Liên đoàn
trưởng, tôi ra lệnh cho quân mình dừng lại, bố trí theo bờ suối
hướng Ðông của Tỉnh lộ, chuẩn bị đội hình.
Ngay lúc đó có tiếng Thiếu úy Mạch
Thiệu Hùng, sĩ quan Tùy viên của Ðại tá Tất:
– Trường An ra lệnh cho Thái Sơn quay
về giữ đồn!
Thì ra Ðại tá Tất đang bay trên trời. Ông Tất có tần số nội bộ
của tôi. Chắc ông Tất đã hay biết toàn bộ diễn tiến xảy ra dưới
đất, nên đã trực tiếp can thiệp.
Chạm địch, tôi ít khi cầm máy Liên
đoàn, tôi thường có mặt trên tần số nội bộ không giây phút nào
rời. Vì thế, mỗi khi bay giám sát trận địa, Ðại tá Phạm Duy Tất
và Tướng Nguyễn Văn Toàn đều vào tần số này, vừa tiện theo dõi
tình hình, vừa dễ ra lệnh trực tiếp cho tôi.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Trước khi ra quân, tôi đã
dự trù một hỏa tập rào cản dài một cây số hướng Tây, Tỉnh lộ tên
là “Sầm Mi 1” để đề phòng viện quân địch ào lên. Tôi khẩn cấp gọi
Sầm Mi:
– Sầm
Mi! Ðây Thái Sơn! Gọi chú Như ưu tiên cho anh hai chục tràng hỗn
tạp trên Sầm Mi 1! Mau lên!
Sau đó, tôi để lại Ðại Ðội 2/82 đánh
trì hoãn cho tôi và Ðại Ðội 3/82 băng rừng rút lui. Cuộc rút quân
này gấp rút tới nỗi tôi phải cho lệnh ưu tiên di tản thương binh,
bỏ lại tất cả những đồng đội tử trận, vứt bỏ tất cả vũ khí nặng
và chiến lợi phẩm.
Tôi đã yêu cầu hỏa tập Sầm Mi 1 bắn hơi
trễ, nên khi tôi về tới cổng trại cũng là lúc địch reo hò xung
phong tràn ngập tiền đồn Bắc, sáu khinh binh đóng chốt trên đồi
không biết sống chết ra sao.
Ðại đội 3/82 vừa bố trí thành một vòng
cánh cung dưới chân tiền đồn đã sớm trở thành mục tiêu cho hai
khẩu 12.7ly của địch từ trên đồi bắn xuống. Tôi và Ðại Ðội 3/82
vội tụt xuống trấn thủ con dốc trước cổng Bắc. Toán gác cổng đã
mở hé hai cánh cửa cho anh em theo nhau luồn vào trại.
Xuống tới bờ dốc là có vị trí ẩn núp,
tôi khẩn cấp cho lệnh khẩu 105ly của Trung úy Như bắn ngay mười
tràng hỗn tạp trên tiền đồn Bắc, hai khẩu 12.7ly của địch mới
chịu im.
Lúc
này Ðại Ðội 2/82 của Trung úy Anh bị địch cô lập trên đoạn đường
một cây số Bắc Pleime.
Trời đã xế chiều, tôi nói với Trung úy
Anh rằng tôi sẽ cho quân bạn bắn tối đa về hướng Bắc nhưng bắn
lên trời, còn quân của Ðại Ðội 2/82 thì cứ vừa chạy về hướng
trại, vừa liên tục tác xạ, tới sát rào Bắc sẽ có quân bạn tiếp
đón.
Súng nổ
liên hồi trong khoảng thời gian nửa tiếng đồng hồ. Thiếu úy Trần
Văn Phước là người chỉ huy lực lượng trấn thủ cổng Bắc báo cho
tôi hay Ðại Ðội 2/82 còn được 22 quân nhân vừa nhập trại. Trung
úy Nguyễn Hữu Anh và Chuẩn úy Lê Văn Phước còn tụt lại đằng sau,
họ đang tìm cách đi bọc về hướng suối rồi tiến về cổng Nam.
[Có tác giả khi viết về trận Pleime
1974 đã ghi là Ðại Ðội 2/81 chỉ còn 22 người chạy về trại. Ðiều
này sai, đây là Ðại Ðội 2/82 không phải Ðại Ðội 2/81. Vì ngày 28
tháng 7 Ðại Ðội 2/81 mới được không vận vào Pleime.]
Tôi ngồi bên máy truyền tin trực chờ tiếng nói của Trung úy
Anh và Chuẩn úy Phước suốt đêm nhưng không thấy động tĩnh. Ba
ngày sau hai vị sĩ quan này cùng năm người lính lội bộ tới Chi
Khu Phú Nhơn trình diện, cái máy truyền tin của họ đã bị chìm khi
qua suối Lé (Ia Glaé).
Lúc này, kể cả một tiểu đội canh gác cố
định trên Pháo đài 2 thì quân số của Ðại Ðội 2/82 chỉ còn trên
dưới 30 người, lại không có sĩ quan, nên tôi giao số quân nhân
này tăng cường cho Ðại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm Ðại Việt.
Thế là tiền đồn Pleime bị cô lập kể từ
tối 27 tháng 7 năm 1974.
Ðêm 27 tháng 7 có hai chiếc máy bay võ
trang Hỏa Long bay trên vùng Bắc Pleime, nhưng máy bay chỉ thả
hỏa châu, mà không bắn, vì họ sợ bắn lầm quân bạn còn thất lạc
trong rừng. Vô tình, hỏa châu của ta lại soi đường cho địch xung
phong!
Dưới
ánh sáng hỏa châu, Việt cộng xông lên ngời ngời! Ba lần biển
người ào xuống cái dốc cổng Bắc, cùng những tiếng thét “Xung
phong! Xung phong!” đều tắc nghẽn ngay sau khi khẩu 105ly cổng
Bắc phóng ra liên tiếp hai trái Beehive.
Suốt đêm đó khẩu 105ly của Trung úy Như
phải làm việc liên tục, bắn từng đợt trên ngã ba tiền đồn Bắc với
những trái đạn nổ cao để ngăn địch.
Hôm sau, đọc bản tin tổng kết tình hình
24 giờ qua của Liên đoàn, tôi được biết, trưa 27 tháng 7 Thiếu tá
Nguyễn Ngọc Lân đã bị Việt cộng chặt đầu, Thiếu tá Trần Văn Ngọc
đã bị Việt cộng bắt sống. Không ngờ chỉ trong khoảng thời gian
vài giờ đồng hồ giao chiến mà một Tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân đã bị
Sư Ðoàn 320A Cộng sản đánh tan.
Mặt khác, một tin A2 ghi nhận rằng đơn
vị địch chận đánh Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân là Trung Ðoàn 64
của Sư Ðoàn 320A, còn đơn vị Cộng sản giữ nhiệm vụ tấn công Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là Trung Ðoàn 48/320A.
Tin A2 còn cho biết ngay sau khi đánh
tan Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân thì E 64/320A sẽ thay thế E
48/320A liên tục tấn công Pleime cho tới khi chiếm được căn cứ
biên phòng này. Tiểu Ðoàn D20 Trinh Sát của Sư Ðoàn 320A và một
tiểu đoàn phòng không sẽ giữ nhiệm vụ chặn viện binh Việt Nam
Cộng Hoà trên đoạn đường từ núi Chư Mréa tới ngã ba làng Plei
Xome.
Trung
Ðoàn 48 của Sư Ðoàn 320A vì bị tổn thất khá nặng nên bị chuyển
sang vùng Ðông Pleime, giữ nhiệm vụ săn bắt những quân nhân thoát
chạy từ Pleime ra Quốc lộ 14, đồng thời chặn đánh bất cứ đơn vị
nào xuất phát từ quận lỵ Phú Nhơn tiến vào tiếp cứu cho Pleime.
Mờ sáng 28 tháng 7 địch mở màn trận mưa
pháo chưa từng thấy trên nóc trại. Hàng ngàn quả đạn đã rơi khắp
nơi, trong rào, ngoài rào, trên sân bay, dưới suối. Hầu như địch
bắn mà không cần biết đạn sẽ rơi xuống chỗ nào!
Khoảng 8:00g sáng từ hướng Bắc và Tây
có hai chiếc loa phát đi lời kêu gọi Biệt Ðộng Quân mau buông
súng đầu hàng.
Hai cái loa cứ oang oang lặp đi, lặp
lại bốn tiếng, “Hàng sống! Chống chết!”
Tiếng loa trộn lẫn tiếng súng của hai
phe đang bắn nhau làm cho người nghe ù cả tai.
Rồi từ đỉnh đồi hướng Bắc, một đoàn
quân chính quy Bắc Việt, vừa bắn vừa hô “Xung phong” lao xuống
con dốc dẫn vào vườn rau. Ði sau đoàn quân này là một tên cán
binh rất cao lớn vai vác lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thật
to.
Cách đánh
ồ ạt vũ bão này là sở trường đặc biệt chỉ thấy ở Trung Ðoàn 64 Sư
Ðoàn 320A.
Lúc
này tôi ngồi trong ụ súng 105ly cổng Bắc.
Tôi hét:
– Beehive!
Anh xạ thủ người Thượng nhanh tay giựt
cò.
“Ðoàng!”
Ðạn ra khỏi nòng, tiếp đó là một tiếng
“Í! Ách!” có lẽ là tiếng đầu đạn kích hỏa để phun hàng ngàn mũi
tên sắt bay xa.
“Ðoàng!”
Viên thứ hai tiếp liền theo viên thứ
nhất. Khói từ nòng súng còn khét lẹt, tôi và anh lính Thượng đã
vội tụt xuống giao thông hào.
Khẩu đội 105ly cổng Bắc có bốn người,
nhưng trong ụ súng lúc nào cũng có mặt một người thôi. Ðó là một
anh hạ sĩ người Thượng nhanh như cheo. Mới thấy anh ta giựt cò,
“Ðoàng!” họng súng vừa phà khói trắng, thoắt cái, anh ta đã biến
mất dưới giao thông hào.
Thấy anh chàng này ẩn hiện nhanh như
con chuột nhắt, tôi bèn đặt tên cho hắn ta là “Con chuột Cổng
Bắc”. Muốn ra lệnh bắn, tôi chỉ cần hô “Con chuột!” thế là có một
viên đạn chống biển người bay đi.
Phụ lực với “Con chuột Cổng Bắc” lúc
nào cũng có hai khẩu đại liên 30 trong lô cốt cổng Bắc và Pháo
đài số 1 siết cò liên tục, chỉ một hướng cố định, đường đạn bắn
giao nhau. Ðịch chết đè lên nhau, chết trước khi kịp quay đầu
chạy.
Từ hố cá
nhân bên ụ súng đại bác 105ly cổng Bắc, tôi nhìn thấy địch nằm
chết như xếp cá sát nhau, chân chúng nằm trên dốc, đầu chúng
hướng về phía cuối dốc, như đang theo nhau trôi xuống vườn rau
trước cổng trại.
Tới trưa 28 tháng 7 tôi được lệnh ngừng
mọi hoạt động pháo binh để dành không gian cho một đoàn trực
thăng chuyển vận viện binh.
Lúc đó giao tranh còn đang diễn ra từng
đợt nơi cổng Bắc. Tôi phải giao quyền chỉ huy tuyến phòng thủ Bắc
cho Thiếu úy Phạm Ðại Việt rồi theo giao thông hào để ra phi
trường đón những người đồng đội đến tăng cường cho mình.
Phòng không địch đan lưới trên không,
nhưng không thể ngăn những chiếc trực thăng của Phi đoàn 229 bay
sát đất, thả Ðại đội 2 của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân xuống phi
đạo Pleime.
Ði
theo đoàn quân này có Thiếu tá Trương Hoàng Phi Trưởng Phòng 2 Bộ
Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân, Quân Khu 2 và hai quân nhân của Tiểu Ðoàn
82 là Trung sĩ Nguyễn Phượng Hoàng và Thiếu úy Lý Ngọc Châu.
Hai thầy trò chú Châu nghe nói Pleime
đánh lớn nên nóng lòng, theo chân đoàn quân cứu viện để vào chiến
đấu sát cánh với ông tiểu đoàn trưởng.
Từ đầu năm 1966 Binh nhì Nguyễn Phượng
Hoàng đã theo tôi vào, ra trăm trận, cho tới đầu năm 1974 chú
Hoàng đã là trung sĩ, tôi mới sắp xếp được một vị trí bán tác
chiến để chú Hoàng làm việc ở hậu cứ tiểu đoàn coi như đền bù
công lao cho một người trải qua gần mười năm làm người lính đi
đầu.
Còn Thiếu
úy Lý Ngọc Châu là người đã có sự vụ lệnh theo học khóa Tâm Lý
Chiến ở trường Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt. Thiếu úy Châu đang
chờ phương tiện đi học, nếu đem chú ấy vào đây thì chắc chắn sẽ
bị loại khỏi lớp. Ðó là chưa kể tới yếu tố tâm lý, dị đoan, xưa
nay những quân nhân đã có tên đi phép, hoặc thuyên chuyển, hay
thụ huấn mà cứ chần chờ ở đơn vị cũ thường bị chết bất đắc kỳ tử.
Ngay lúc chú Châu và chú Hoàng vừa đạp
chân xuống đất, tôi đã nẹt:
– Hai thằng này lên tàu về Pleiku mau!
Hai người đàn em nghe tôi quát tháo thì
sợ quá, vội vàng nhảy lên trực thăng ngay.
Những quân nhân tăng phái của Ðại đội
2/81 nhanh chóng bố trí hai bên phi đạo với vị thế sẵn sàng chiến
đấu.
Hợp đoàn
chuyển quân cất cánh, trên sân bay còn lại một mình Thiếu tá
Trương Hoàng Phi đầu đội bê rê, lưng đeo súng Colt, chân đi đôi
giầy Sault bóng loáng, đứng bên cái giường bố bằng nhôm mới toanh
của quân đội Mỹ.
Thiếu tá Phi ra trận mà không đem ba
lô, nón sắt, lương khô, poncho, mền võng, mà chỉ vác theo cái
giường bố nylon gọng nhôm, như người đi nghỉ mát ở bờ biển Vũng
Tàu.
Ông Phi
chạy tới trình diện tôi và cho tôi hay rằng, Ðại tá chỉ huy
trưởng muốn ông ta xuống Pleime để phụ tá cho tôi theo dõi tình
hình địch rồi báo cáo về cho Bộ Chỉ Huy ở Pleiku.
Tôi không giấu nổi sự ngạc nhiên: Tôi
có một đại úy thâm niên là tiểu đoàn phó, có một thiếu úy tốt
nghiệp trường Quân Báo Cây Mai làm sĩ quan Ban 2, cá nhân tôi là
một sĩ quan gạo cội của ngành Tình Báo thì một ông Thiếu tá
trưởng phòng 2 của Bộ Chỉ Huy có mặt ở Pleime này sẽ giúp ích gì
cho tôi?
Không
cần suy nghĩ tìm hiểu vì lý do gì ông Phi bị gửi vào đây, tôi nói
với ông:
– Tôi
cho phép anh theo chuyến bay kế tiếp trở về Pleiku ngay. Nếu
Trường An có hỏi tại sao, thì anh cứ nói rằng tôi ra lệnh cho anh
làm như vậy.
Thiếu tá Phi trợn tròn hai mắt nhìn tôi:
– Ủa! Thiếu tá cho phép tôi về Pleiku
ư? Nếu tôi về thì có bị Ðại tá quở phạt không?
Tôi hất hàm đáp gọn:
– Ði đi! Tôi cho anh đi đó! Ðừng sợ!
Sau đó tôi lo phân phối nhiệm vụ bố
quân cho số người vừa đạp đất của Ðại đội 2/81 nên quên khuấy
chuyện ở hay đi của Thiếu tá Phi. Tới tối thì chú Phước báo cho
tôi hay ông Phi đã leo lên chiếc trực thăng đầu tiên của đợt đổ
quân thứ nhì. Ông Phi nhờ chú Phước gửi lời cám ơn của ông ấy tới
tôi.
Ông Phi
ra đi quá vội vàng, bỏ quên cái giường bố Mỹ gọng nhôm trên sân
bay. Sau này tôi không biết ông Phi thuyên chuyển đi đơn vị nào,
và làm công việc gì.
Khi việc vận chuyển đại đội tăng viện
chấm dứt, hợp đoàn trực thăng đã khuất dạng, thì Thiếu úy Việt
báo cho tôi biết địch vừa ngưng bắn nơi cổng Bắc.
Tôi chợt nghĩ ra, mặt Tây đang bỏ
trống, nếu địch bỏ cổng Bắc, đánh vào cổng Nam thì bãi đáp sẽ bị
đặt trong tình trạng nguy ngập, muốn gọi Ðại đội 4/82 ra ứng
chiến cũng mất mười phút, chi bằng đem hết 18 anh viễn thám ra
chận địch là nhanh nhứt.
Hai toán của Mom Sol và Yang đang đi
theo tôi, nên bị chỉ định ưu tiên làm công tác ngăn địch. Năm
phút sau 4 toán còn lại đã có mặt trên phi đạo.
Tôi đã biết địch chuyển quân theo hướng
Bắc Nam, nên cho lệnh ba khẩu đại liên 30 từ các pháo đài hướng
Tây cứ liên tục tác xạ ngăn địch.
Ðại đội 2 của Tiểu Ðoàn 81 vào tới
trong vòng rào thì giao tranh mới bắt đầu nơi cuối phi trường,
hướng Tây.
Sáu
toán viễn thám bắn nhau với địch chỉ chừng mười phút thì địch rút
chạy, bỏ lại năm sáu cái xác cán binh trên đường lui.
Ðại đội 2/81 Biệt Ðộng Quân có quân số
gần bảy chục người, do Trung úy Nguyễn Văn Song chỉ huy.
Trước khi thuyên chuyển ra Tiểu Ðoàn 11
Biệt Ðộng Quân rồi sang Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân thì Trung úy
Nguyễn Văn Song đã làm việc chung với tôi một thời gian ở Bộ Chỉ
Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2, do đó lệnh tôi truyền ra, chú Song
thi hành không khó khăn gì.
Tôi giao cho Ðại đội 2/81 trấn giữ đoạn
giao thông hào hướng chính Tây, kéo dài từ sân cờ tới cổng Nam.
Căn lều của Trung úy Song chỉ cách lều chỉ huy của tôi chừng mười
mét. Vị trí này là cố định không thay đổi suốt thời gian Pleime
bị vây hãm.
Khu vực trách nhiệm của Ðại Ðội 2/81 hoàn toàn trống trải, không
có các ngõ ngách giao thông hào và dây kẽm gai dích dắc, nên dù
mới tới đây, binh sĩ của đại đội này sẽ không sợ bị lạc đường.
Trong lúc Ðại đội 2/81 lo đào công sự
phòng thủ thì Binh Nhứt Yang khệ nệ ôm về cho tôi năm chiếc ba lô
mới tịch thu được của Việt cộng.
Giấy tờ lưu trên tài liệu tịch thu cho
ta biết đơn vị đánh nhau với chúng tôi sáng 28 tháng 7 là Tiểu
Ðoàn K9 trực thuộc Trung Ðoàn E 64 của Sư Ðoàn 320A.
Năm 1972, khi xâm nhập lãnh thổ Cao
Nguyên Vùng 2 của Việt Nam Cộng Hoà thì Sư Ðoàn F 320A Cộng sản
có 3 trung đoàn bộ chiến là E 48, E 52 và E 64.
Trung Ðoàn E 48 có 3 tiểu đoàn đánh số
K1, K2, K3; Trung Ðoàn E 52 có 3 tiểu đoàn đánh số K4, K5, K6;
Trung Ðoàn 64 có 3 tiểu đoàn đánh số K7, K8, K9.
Sau đó, Trung Ðoàn E 52 đã di chuyển về
Bình Ðịnh, bổ sung cho Sư Ðoàn F3 Sao Vàng của Quân Khu 5. Từ ấy
Sư Ðoàn F 320A chỉ còn 2 trung đoàn bộ chiến là E 64 và E 48.
Có lẽ Ban Trận Liệt của Phòng 2 Quân
Khu 2 đã đọc sai tin tức khai thác tài liệu do Tiểu Ðoàn 82 Biệt
Ðộng Quân gửi về, nên có sự ngộ nhận, cho rằng Trung Ðoàn E 9 của
Cộng sản đã hiện diện trong chiến dịch này, nhưng thực ra, đơn vị
Việt cộng mang tên Trung Ðoàn E 9 trực thuộc Sư Ðoàn F 968 chỉ có
mặt ở Tây Nguyên sau Tết Dương Lịch 1975.
Tôi còn tìm thấy trong ba lô của một
cán binh tên là Bế Văn Tập có lá thư của bố anh ta tên là Bế Văn
Thu gửi đi từ Cao Bằng. Những người dân tộc Tày mang họ Bế không
nhiều. Ở Hội An, gia đình tôi có quen một người của Tỉnh Ðoàn Bảo
An Quảng Nam là Thượng sĩ Bế Văn Thương cũng quê quán Cao Bằng.
Sau chiến dịch, tôi có gửi thư về Hội
An báo cho bác Bế Văn Thương biết tên người ghi trên thư gửi đi
từ Cao Bằng để bác xem có phải là bà con không, thì bác Thương
cho tôi hay ông Bế Văn Thu là anh ruột của bác.
Như thế thì anh cán binh Việt cộng tên
Bế Văn Tập tử trận ở Pleime ngày 28 tháng 7 năm 1974 là cháu gọi
Thượng sĩ Việt Nam Cộng Hoà tên Bế Văn Thương là chú!
Suốt đêm 28 tháng 7 tôi phải đích thân
dẫn theo một toán cận vệ đi tuần tra liên tục qua các pháo đài và
tuyến phòng thủ.
Gần sáng, tôi đang ngồi dật dờ nửa
thức, nửa ngủ thì nghe “Con chuột” nổ “Ðùng! Ðùng!” hai phát, rồi
nghe trong máy, tiếng Trung úy Minh hỏi:
– Cái gì đó?
Có tiếng Thiếu úy Việt trả lời:
– Tui cho “Con chuột” đuổi mấy thằng Vi
Xi (Việt cộng) đang lần mò vào thu lượm xác đồng bọn.
Tôi có thói quen bật lên câu hỏi, “Cái
gì đó?” mỗi khi nghe có tiếng động lạ.
Vì thế, cứ có chuyện khác thường thì
nhân viên trực truyền tin lại phát đi câu hỏi này. Lập tức, có
người trả lời ngay.
Trời sáng rõ, tôi theo giao thông hào
tới Pháo đài Bắc quan sát thì không còn thấy cái xác nào của địch
nữa.
Tới trưa
29 tháng 7 có một chiếc trực thăng bay sát mặt đất, ngừng giữa
trại, hai người nhảy xuống nóc cái bể chứa nước dự trữ, chiếc
trực thăng vội bay đi.
Chiếc phi cơ bay đi rồi, địch mới phát
giác, chúng bắn đùng đùng vài tràng 12.7ly lên trời một hồi để
thị uy.
Hai
người vừa đạp đất là Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân Quân
Khu 2 và Thiếu úy Mạch Thiệu Hùng, sĩ quan tùy viên của ông.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Tôi chạy ra sân kéo Ðại tá
Tất vào hầm chỉ huy nằm trong trung tâm trại. Tôi tóm tắt cho
người chỉ huy biết tình hình mấy ngày qua.
Lúc đó trong hầm hành quân còn có mặt
ông Trung úy Trần Dân Chủ, sĩ quan hành quân của tiểu đoàn.
Ông Chủ xuất thân khóa 22 Thủ Ðức, tuy
đeo lon trung úy nhưng thực ra còn là cấp thiếu úy. Ông ta bị
gián đoạn công vụ một thời gian vì bị Cộng quân bắt giam từ tháng
5 năm 1969 tới cuối năm 1973 mới được trao đổi tù binh.
Khi bị địch bắt ông Chủ mới mang cấp
bậc thiếu úy vừa tròn một năm.
Tôi đề nghị Ðại tá Tất cố gắng hợp thức
hóa cái lon trung úy cho ông Chủ để sau trận này, tôi có thể chạy
lon đại úy cho ông ta. Ðại tá Tất hứa sau khi trở về Pleiku ông
sẽ thỏa mãn lời yêu cầu của tôi.
Thiếu úy Mạch Thiệu Hùng ghé tai tôi
nói nhỏ,
– Kỳ
này chắc chắn ông thầy sẽ thêm một mai bạc! Nhớ đãi tụi em một
chầu nhe! Hai tháng trước có vài thằng đặc công mò về Căn cứ 333,
hai bên bắn nhau đì đẹt. Chỉ có mấy thằng Việt cộng chết mà
Trường An đã đề nghị cho ông tiểu đoàn trưởng lên trung tá rồi
đó!
Thiếu úy
Mạch Thiệu Hùng và Thiếu úy Trần Văn Phước đều xuất thân từ Phòng
2 Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2. Hai sĩ quan này chập
chững vào chiến trận dưới bàn tay dìu dắt của Thái Sơn Vương Mộng
Long. Vì thế mà gặp nhau bất cứ ở đâu họ đều gọi tôi là “Ông
thầy” thay vì gọi tôi với cấp bực.
Tôi nghĩ rằng, một chiến binh, khi nhận
nhiệm vụ ít người hy vọng được thăng chức lên cấp, mà chỉ mong
hoàn thành trách nhiệm là mừng rồi.
Ngay cả tới cái mạng của mình mà không
biết có giữ được không thì mong gì tới những thứ phù du khác.
Cứ nhìn vào chuyện xảy ra gần đây thôi.
Tôi và Thiếu tá Nguyễn Ngọc Di Trưởng Phòng An Ninh Quân Ðội Bộ
Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 cùng ra đơn vị một ngày. Ông Di
lên Dak Pek, tôi vào Pleime. Nay Dak Pek đã thất thủ, Thiếu tá Di
chết rồi, còn tôi thì đang bị vây.
Tôi nói với chú Hùn:
– Cứ chờ đi! Không biết anh có được lên
lon hay lại theo chân ông Di cũng chưa biết chừng!
Ðại tá Tất tỏ ý muốn tôi dẫn ông đi
quan sát một vòng quanh trại, nhưng tôi thấy điều này có thể gây
nguy hiểm đến tánh mạng của ông nên tôi không cho ông thực hiện
chuyện này.
Ông Tất nói cấp trên đã lên kế hoạch tiếp cứu Pleime rồi, ông
khuyên tôi gắng kiên tâm “Tử thủ”.
Tôi không rõ Tướng Nguyễn Văn Toàn có
cho ông Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 biết rằng
tôi được phép rút chạy sau ba ngày cố thủ và một tuần “đánh trận
giả” hay không, nên tôi chỉ trả lời ông Tất rằng tôi sẽ cố gắng.
Một giờ sau, tôi hướng dẫn chiếc trực
thăng núp theo triền Bắc núi Chư Gô đáp ngay cổng Nam Pleime bốc
hai thầy trò ông Ðại tá, có sáu thương binh được đi theo. Chiếc
phi cơ mở hết tốc độ bay thẳng hướng Tây, bay một mạch, tít mù
xa, rồi mới quẹo về hướng Phú Nhơn.
o O o
Công đồn đả viện...
Hầu như ba ngày đầu tôi chỉ bận rộn với
chuyện gom góp quân thất lạc và chống đỡ những đợt tấn công từ
hướng Bắc.
Ðêm
31 tháng 7 địch đẩy hai khẩu 75ly không giựt lên đỉnh dốc nhắm
bắn vào trại. Sau bốn năm trái 75ly thì cái câu lạc bộ tan hoang,
vách ván, mái tôn bay tung toé.
Tôi chưa gọi được điện thoại cho khẩu
105ly cổng Bắc thì anh lính Thượng đã giựt cò bắn đi hai quả
Beehive. Chắc xạ thủ của hai khẩu đội 75ly chết hết rồi, nên
không còn trái 75ly nào bay vào nữa.
Suốt đêm 31 tháng 7 cho tới sáng 1
tháng 8 phi cơ Hỏa Long liên tục thả hỏa châu và bắn cận phòng
vùng một cây số Bắc Pleime.
Tôi cũng được thông báo hai Box 1×1km
đánh bom tập trung trong vùng hướng Tây làng Plei Xome đã được
một đoàn oanh tạc cơ A37 thực hiện trong đêm qua. Những Box bom
1×1km này có thể coi như những Box B52 Mini do Không Quân Việt
Nam mới sáng chế ra. Nếu địch tập trung đông trên một diện tích
hẹp mà bị một Box này thì thiệt hại không phải là nhỏ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1974 Trung tá Hoàng
Kim Thanh thông báo cho tôi biết rằng, Trung Ðoàn 41 của Sư Ðoàn
22 Bộ Binh đang gửi Tiểu Ðoàn 3/41 vào khu vực Bắc của núi lửa.
Tôi có ba người anh vợ đều là sĩ quan,
hai ông anh đầu chết rồi, ông anh thứ ba thì đang phục vụ trong
Tiểu Ðoàn 3/41, nên tôi xin tần số của tiểu đoàn này để hỏi tin
tức.
Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 3/41 là Thiếu tá Phan Ðình Thành, khóa 22 Ðà
Lạt.
Tôi nói
với Thành:
–
Trong đơn vị của Thành có ông anh vợ của tôi. Tên anh ấy là Ðinh
Văn Thọ, cấp bậc chuẩn úy. Thành cho tôi gửi lời thăm anh ấy,
nhắn với anh ấy rằng tôi vẫn bình yên.
Tôi vừa dứt lời thì Thành đã nhanh
nhảu:
– Ủa!
Chuẩn úy Thọ là anh vợ của niên trưởng hả? Trung đội của ông ấy
đi đầu, nhưng mất liên lạc hai ngày rồi!
Sau này ông Chuẩn úy Ðinh Văn Thọ tức
là ông anh thứ ba của vợ tôi về nhà kể lại: Trung đội của ông ấy
tổng cộng có 11 người, Chuẩn úy Ðinh Văn Thọ là trung đội phó,
trung đội trưởng là một chuẩn úy ra trường Thủ Ðức trước ông một
khóa. Dưới quyền hai vị chuẩn úy là một ông trung sĩ và tám ông
lính. Họ được lệnh mở đường tiến vào Pleime, nhưng mới rời bộ chỉ
huy tiểu đoàn chưa được hai trăm mét thì đụng đầu một đơn vị địch
rất đông. Trung đội này chạy lạc vào một làng Thượng đã bỏ hoang.
Họ rủ nhau chui vào khu vườn cây um tùm để ẩn núp. Mấy ngày sau
toán này lợi dụng đêm tối lần mò ra Quốc lộ 14 tới quận lỵ Phú
Nhơn trình diện.
Sau chiến tranh, ông chuẩn úy anh vợ
tôi cũng bị tù cải tạo, nhưng thời gian ở tù của ông ấy chưa tới
3 năm. Ông không đủ điều kiện đi Mỹ định cư theo diện H.O. nên
đành về quê Ban Mê Thuột, trồng tiêu, nuôi gà.
Nay ở tuổi gần thất thập, ông vẫn chưa
quên cái lần ông ra trận đem quân vào Pleime cứu thằng em rể.
Có thể nói, thời gian từ 27 tháng 7 năm
1974 tới 10 tháng 8 năm 1974 là giai đoạn “Công đồn đả viện” của
địch.
Tôi
không biết các cánh quân của Trung Ðoàn 41 đi được bao xa, nhưng
đoạn đường từ ngã ba làng Plei Xome tới vùng Bắc Pleime thì hoàn
toàn do địch kiểm soát.
Tôi nghe nói, sau khi Trung Ðoàn 41 Bộ
Binh thất bại phải rút ra ngoài, thì tiếp đó một tiểu đoàn Biệt
Ðộng Quân đã được gửi vào vùng, nhưng đơn vị này mới qua khỏi Căn
cứ 711 đã bị chặn lại.
Tôi còn biết thêm một chuyện đau lòng,
đó là cái chết của ba anh viễn thám của Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt
Ðộng Quân/Quân Khu 2.
Toán này nhận lệnh vào thám sát lấy tin
tức vùng núi lửa Chư Mréa. Khi trở về họ đã bị ngộ nhận vì họ mặc
quân phục Việt cộng trang bị AK 47. Họ bị quân bạn bắn chết ngay
ngoài vòng rào vào ngày thu quân.
Trước khi vào Pleime, tôi là “Anh Hai”
của họ. Giữa năm 1971 tôi đã bay tới 12 căn cứ Biên Phòng của
Quân Khu 2 tuyển dụng họ về Pleiku, đích thân huấn luyện cho họ
thành những viễn thám viên lành nghề.
Tôi đã từng bốc thả họ nhiều lần để do
thám các mật khu, khai thác những mục tiêu B52 vừa oanh kích,
hoặc thi hành những cuộc phục kích bắt tù binh trên Ðường Mòn Hồ
Chí Minh; đáng ghi nhớ nhất là lần nhảy xuống đánh mìn phá hủy
cây cầu ngầm N 24 bắc qua sông Sé San.
Ðầu năm 1974 tôi còn nhảy toán theo họ
xuống vùng địch để thu thập tin tức yểm trợ cho cuộc hành quân
tái chiếm căn cứ Lệ Minh.
Lần này họ vào vùng với mục đích thám
sát lộ trình dự trù cho các đơn vị sẽ vào cứu “Anh Hai” của họ,
và họ đã chết một cách oan uổng.
Ðêm đó, trong một căn hầm giữa sân trại
Pleime, hai cựu trưởng toán viễn thám của Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt
Ðộng Quân/Quân Khu 2 là Binh 1 Yang và Hạ sĩ Nguyễn Ba đã thấy
“Anh Hai” rơi nước mắt.
Tiền đồn Chư Hô bị bao vây tới ngày thứ
năm thì hết lương thực. Tôi không còn quân để tiếp viện và tiếp
tế cho tiền đồn này, nên cho lệnh trung đội trên Chư Hô nửa đêm
tụt xuống đồi, rút về cổng Nam. Ðêm 2 tháng 8 tôi cũng cho lệnh
trung đội đóng trên Cao điểm 509 rút lui. Chỉ một ngày sau hai
cao điểm này đã trở thành nơi đặt súng 12.7ly và 57ly của Cộng
quân.
Coi như
tôi không còn cánh quân nào hoạt động xa, ngoại trừ những toán
tuần tra sát vòng rào Nam và Tây. Hai hướng Ðông và Bắc bị bỏ
ngỏ, chỉ kiểm soát bằng hỏa lực đại liên và cối 60ly.
Tính từ ngày đầu bị cô lập tới 10 tháng
8 đã có hơn một chục lần xung phong của địch bị đẩy lui, hàng
trăm cán binh Bắc Việt đã bị giết.
Hàng ngày, cứ chờ cho trời vừa tối,
chúng tôi mới lục tục leo lên mặt đất thay quần áo và kiếm đồ ăn.
Trời tối thì tiền sát viên của địch nằm trên đỉnh 509 không còn
nhìn thấy doanh trại của chúng tôi nữa.
Một hôm tôi chưa thay xong bộ quần áo
ướt thì được Trung sĩ Hoàn, Hạ sĩ quan Ban 3 thông báo:
– Trình Thái Sơn, có Hai Lẻ Chín muốn
gặp!
Trong
trung tâm hành quân có tiếng Ðại tá Từ Vấn oang oang qua loa
khuếch âm:
–
Thái Sơn có mặt chưa? Ðây là Hai Lẻ Chín! Trả lời!
– Thái Sơn nghe!
– Này! Tình hình hôm nay ra sao? Có còn
chịu nổi không thì cho anh biết đi!
– Ðêm qua tụi nó xung phong hai ba đợt
nhưng bị tụi tôi đánh văng ra ngoài! Xác tụi nó vắt đầy trên dây
kẽm gai! Bangalore đã đục thủng 6 lớp rào, nhưng Hai Lẻ Chín cứ
yên tâm, tôi sẽ đập bể đầu chúng nó!
(Bangalore: Ống kim loại chứa thuốc nổ
dùng để phá hàng rào.)
Giọng nói của ông Liên đoàn trưởng tỏ
ra vô cùng lo lắng:
– Trời đất! Có sao không? Tụi nó đánh
thủng 6 lớp rào rồi à! Vậy chứ Pleime có tổng cộng là bao nhiêu
lớp rào?
Tôi
chột dạ á khẩu! Tần số mà tôi và ông Từ Vấn đang nói chuyện là
của máy PRC–25.
Thời gian này không tần số nào là không
bị địch nghe lóm. Ông Vấn hỏi tôi tổng cộng có bao nhiêu lớp rào,
nếu tôi trả lời ông ta, thì có khác nào tôi đã trực tiếp báo cáo
cho Tư Lệnh Sư đoàn 320A rằng còn bao nhiêu lớp rào nữa thì cán
binh của Ðại tá Kim Tuấn (Cộng sản) có thể ném bộc phá vào hầm
chỉ huy của tôi?
Tôi vội đánh trống lảng:
– Mưa liên miên, lạnh quá, nếu có thể
được thì Hai Lẻ Chín thả cho tụi tôi vài bao thuốc lá nhé!
– Ừ! Mấy hôm nay trời lạnh thật đấy! Ðể
mai anh bay vào thả cho chú vài bao!
May quá! Ông Liên đoàn trưởng quên câu
hỏi Pleime có tổng cộng bao nhiêu lớp rào rồi! Chỉ có hai người
biết Pleime có bao nhiêu lớp rào, đó là tôi và Ðại tá Phạm Duy
Tất.
Ngày Căn
cứ 711 thất thủ, địch đã lấy được sơ đồ phòng thủ Trại Pleime,
trên đó có bản vẽ 6 lớp hàng rào và bãi mìn chống người do Công
Binh Hoa Kỳ thiết trí.
Tôi giấu nhẹm chuyện này, không báo cáo
với Quân đoàn.
Hai ngày sau khi tái chiếm Căn cứ 711,
tôi đã khẩn cấp xin Ðại tá Tất cho hai GMC chở kẽm gai cọc sắt
vào Pleime.
Ðằng đẵng cả tháng trường, chúng tôi cấp tốc âm thầm thiết trí
một hệ thống phòng thủ thứ nhì cho Trại Pleime, dựng thêm 6 lớp
rào kẽm gai mới, gài thêm mìn bẫy, giống y hệt sơ đồ hệ thống
phòng thủ cũ.
Ðại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm Ðại Việt được tôi giao phó đảm
trách công việc này.
Thiếu úy Việt là người chỉ huy xây dựng
6 lớp rào mới, nhưng chú Việt không biết có bao nhiêu lớp rào cũ;
các quân nhân khác lại càng mù tịt về chuyện này.
Như thế là, từ tháng 6 năm 1974, quanh
đồn Pleime, có hai hệ thống hàng rào phòng thủ; hệ thống mới nằm
bên ngoài và cách hệ thống cũ một khoảng đất trống rộng hai mươi
mét gài đầy mìn và lựu đạn. Nếu địch tấn công đồn này, với tin
tức khai thác từ sơ đồ phòng thủ cũ, chúng sẽ bị hố nặng.
Khi hoàn tất việc rào giậu, tôi báo
riêng cho Ðại tá Tất biết, và đề nghị ông kín tiếng. Biết đâu sau
này địch quân sẽ đánh Pleime, chúng sẽ bị mình đánh lừa.
Quả nhiên địch đã mắc bẫy! Chúng tiến
vào đồn theo đường phá của Bangalore, tới khu đất trống thì tưởng
trước mặt mình, sau những bụi lau sậy là nhà cửa, lô cốt, nên
nhắm mắt xung phong, đâu ngờ lại gặp 6 lớp kẽm gai nữa của hệ
thống phòng thủ cũ, chúng đang ngỡ ngàng thì từng tràng đạn đại
liên đã nổ giòn, khiến chúng chết đè lên nhau.
Hôm sau trời mưa. Trên trời cao là
chiếc C&C của Ðại tá Từ Vấn. Vừa nghe tiếng “Bạch! Bạch! Bạch!”
trên mây, phòng không 37ly và 12.7ly của địch đã bắt đầu đua nhau
nhả đạn.
Có
tiếng ông phi công người Thượng (hay người Miên) rè rè trong máy:
– Thái Sơn chuẩn bị nhận tiếp tế! Bạn
cho biết vô hướng nào an toàn nhứt?
– Vòng xa ra biên giới, vào từ hướng
Tây, ra hướng Ðông! Nhớ bay sát đất!
– Okay!
Mấy phút sau, bất thình lình hai chiếc
trực thăng nổ “Bình! Bình! Bình!...” ngừng lại chừng năm hay sáu
giây đồng hồ trên không, hai anh cơ phi vội vã đạp xuống mấy
thùng đồ tiếp tế.
Sau đó như con cá heo lật mình, hai
chiếc tàu nghiêng cánh nép sát chân Chư Gô vun vút thoát về hướng
Ðông.
Khẩu
81ly của trại vội vàng phóng đi hai quả đạn nhằm khóa họng hai
khẩu 12.7ly của địch trên tiền đồn Chư Hô. Hai khẩu phòng không
này đang bắn với theo đuôi hai cái trực thăng.
Tôi gửi lời cám ơn các phi công:
– Lạc Long đây Thái Sơn! Cám ơn bạn đã
liều mình vào tiếp tế!
Ðáp lại, tôi nghe, cùng với tiếng động
cơ “È! È! È!” là tiếng của ông phi công:
– Ố là la! Cám ơn gì nữa! Bị bắn què
chân rồi nè!
Ðại tá Vấn còn bay trên trời, nhưng tôi không nghe ông nói gì
thêm thì chắc là đoàn trực thăng đã an toàn rời vùng rồi.
Tôi vui vô cùng vì thấy chuyến tiếp tế
đã hoàn tất.
Một bao đồ tiếp tế đánh sập hầm của Thiếu úy Phạm Văn Thủy. Một
bao khác rơi giữa sân cờ. Nhiều bao và thùng giấy rơi trên lô
cốt, vắt trên hàng rào.
Vài người lính nhào ra giành giựt nhau
những đồ vật vừa được thả xuống khiến cho Trung úy Song và Thiếu
úy Phước phải rút súng bắn chỉ thiên để chặn đứng tình trạng “hôi
của” đang diễn ra. Ở đâu có sự đói kém, thì ở đó xuất hiện những
đồ vô loại.
Hai tên vô loại bị điệu tới trước mặt tôi, tôi định sút cho mỗi
đứa một cú đá, nhưng kịp ngừng. Tôi ôn tồn:
– Về chỗ đi! Ít nhiều gì thì anh em
cũng phải chờ chia nhau. Chia nhau một cách đồng đều! Nghe rõ
chưa?
Chúng
tôi moi tung những bao tải vừa thả xuống, chỉ có những thùng đạn
M16, M60, điện trì, gạo sấy, cá khô, và mìn Claymore; tuyệt nhiên
không có hai thứ cần thiết là rượu cồn, bông băng và cũng chẳng
tìm thấy bao thuốc lá nào cả. Hình như hai thùng lớn đựng đồ nhẹ
đã bay ra khỏi rào rơi trên bờ suối Lé.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Đêm ấy gió theo hướng Ðông
Tây. Những người trấn thủ mặt Ðông của trại, đều ngửi thấy mùi
thuốc lá thơm bay trong gió! Thùng thuốc lá tiếp tế của Ðại tá Từ
Vấn đã rơi ngay giữa đội hình của Trung Đoàn 48 Sư Ðoàn 320A Cộng
sản Bắc Việt!
Trong những ngày sau tôi không được thông báo tin tức gì liên
quan đến các hoạt động của quân bạn, nhưng trên máy thu thanh thì
đài BBC loan báo nhiều đơn vị tác chiến Việt Nam Cộng Hoà đang
được điều động từ Ban Mê Thuột lên Pleiku để tăng viện cho quân
trú phòng ở Pleime.
Tin tức này làm cho tinh thần tôi thêm
phấn chấn, vì thấy Tướng Nguyễn Văn Toàn tiếp tục tung thêm quân
vào trận địa thì tôi chỉ cần cố gắng gồng mình chịu đựng ít lâu
nữa, sứ mạng của Tướng Toàn sẽ hoàn thành, đem chiến thắng đặt
trên bàn hội nghị xin thêm viện trợ.
Từ Căn cứ Hỏa lực 711 qua tần số của
máy truyền tin PRC–74 có một phóng viên chiến trường của nhật báo
Trắng Ðen xin gặp tôi để phỏng vấn.
Hôm đó anh phóng viên đã được tận tai
nghe người chỉ huy Pleime kể lại chi tiết diễn tiến trong gần hai
tuần lễ ác chiến giữa một Tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng và
hai Trung Đoàn thiện chiến bậc nhất của quân đội Bắc Việt.
Anh ký giả này nài nỉ tôi cho phép anh
ta đáp xuống Pleime, ở lại đây cho hết thời gian chiến dịch, hầu
có tin tức sốt dẻo hằng ngày gửi về Sài Gòn.
Tôi cũng rất ngưỡng mộ sự can đảm của
anh ký giả, đồng thời đáp lại sự đam mê của người bạn mới quen
ấy, tôi vui vẻ nhận lời cho anh vào cùng Biệt Ðộng Quân chung
lưng đội pháo, núp đạn, lặn ngụp trong giao thông hào ít lâu cho
biết.
Tiếc
thay anh bạn nhà báo này chờ cả tuần lễ mà không ai cấp phương
tiện cho anh ta vào trại. Cũng thời gian này, mặt trận Thường Ðức
bắt đầu bùng nổ. Anh phóng viên báo Trắng Ðen được lệnh bay ra Ðà
Nẵng lấy tin. Ít lâu sau tôi nghe tin anh bạn này đã tử thương.
Trực thăng chở anh trên đường vào trại Thường Ðức đã bị Cộng quân
bắn hạ.
Ngày
xưa, trên các mục phân ưu đăng trên báo chí hằng ngày, người ta
thường đọc được những tin chia buồn, tiếc thương các quân nhân
đền nợ nước.
Lần đầu người ta đọc được lời phân ưu của một Thiếu tá Biệt Ðộng
Quân và toàn thể quân nhân các cấp dưới quyền ông gửi lời thương
tiếc một ký giả Nhật Báo Trắng Ðen vừa bỏ mình trên chiến địa.
Chợt một hôm, Liên đoàn báo cho tôi hay
rằng, trong ngày hôm đó sẽ có một cánh quân của Trung Đoàn 53 Bộ
Binh tiến vào bắt tay với Pleime.
Hôm đó trời nắng và không có trận pháo
kích rạng đông như thường nhật của địch quân.
Tôi leo lên chòi canh, đảo mắt quan sát
một vòng quanh trại. Hầu như không một thước đất nào không có dấu
đạn, đạn cối của ta chen lẫn đạn pháo cối của địch quân. Xác Cộng
quân còn nằm phơi đầy trong rừng lau sậy ngoài rào. Trong gió,
vang vang tiếng “Quang quác!...” của loài quạ đen đang gọi bạn.
Xa xa về hướng Ðông Bắc có nhiều cụm
khói trắng ngùn ngụt bốc lên, rõ ràng một đơn vị di chuyển bộ
đang có mặt trong vùng. Tôi nghĩ đoàn quân đang đi tới là Trung
Đoàn 53 Bộ Binh; có lẽ họ đang đốt lửa để nấu cơm, hay hong khô
quần áo.
Họ
còn cách tôi chừng ba hay bốn cây số đường chim bay.
Trong máy PRC–25 của tôi bỗng có tiếng
quân bạn gọi:
“Thái Sơn đây Thanh Dương! Nghe được trả lời?”
Tôi đã được thông báo “Thanh Dương” là
danh xưng truyền tin của Thiếu tá Nguyễn Dương Lâm, người chỉ huy
hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đang tiến vào.
Tôi vội trả lời:
– Thái Sơn nghe Thanh Dương!
Thiếu tá Lâm nói:
– Báo cho Cùi 20 hay, kỳ này anh dẫn
theo một thằng em Cùi 21 tiếp tay cho chú. Ba anh em mình chung
lưng thì không thằng Vi Xi (Việt cộng) nào địch nổi. Chú Nhẫn 21
cũng là dân Ðại đội B, Thái Sơn có nhớ ra hắn ta không?
Dứt lời anh Lâm cười khà khà vui vẻ.
(Cùi=danh từ dùng để gọi những sĩ quan xuất thân trường Võ Bị từ
khóa 16 trở về sau)
Tôi cũng cười theo anh:
– Nhớ chứ! Anh ra trường thì chú Nhẫn
nhập trường. Anh và chú Nhẫn ở Trung đội 5, còn tôi ở Trung đội
6.
Tiếp đó là
tiếng Thiếu tá Cao Mạnh Nhẫn, người chỉ huy Tiểu đoàn 3/53 đi
chung với bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu tá Lâm:
– Thái Sơn ơi! Hồi đó các ông khóa 20
“quần” tụi tôi mệt muốn chết luôn!
Tôi vui vẻ đáp:
– Ðừng than van nữa! Các hung thần khóa
19 cũng quay tụi này như quay dế! Có thế anh em mình mới nên
người!
Chúng
tôi, ba người đang có mặt trong trận Pleime này cùng xuất thân từ
Ðại Ðội B Sinh Viên Sĩ Quan của trường Võ Bị, với ba khóa kế tiếp
nhau, Nguyễn Dương Lâm khóa 19, Vương Mộng Long khóa 20 và Cao
Mạnh Nhẫn khóa 21.
Chú Nhẫn la oang oang :
– Tôi còn cách niên trưởng chừng ba
“click” nữa. Tình hình yên tĩnh như đi nghỉ mát! Hai ngày nay tui
tìm hoài mà chẳng thấy thằng Vi Xi nào cả! (Click=Cây số)
Thấy một ông đàn anh và một ông đàn em
chuyện trò thực vô tư, hồn nhiên, tôi cũng cảm thấy vững tâm, hy
vọng họ sớm bắt tay với đơn vị mình.
Nhìn vào những cụm khói trắng bao phủ
một vùng phía xa xa, tôi đoán chắc hai tiểu đoàn của quân bạn
đang dừng quân trên vùng bình nguyên Bắc suối Lé. Ðịa thế ở đây
là đồng tranh, xen kẽ cỏ lau cùng những cụm tre gai thấp, cách
nhau vài chục mét.
Ðất của vùng này rất mềm, có thể dùng
tay không mà moi, chỉ một lúc sau đã có cái hố cá nhân. Có điều
mạch nước cũng nhiều, hố vừa moi xong, vài phút sau đã đầy nước,
đất xung quanh hố sụp xuống, thế là cái hố trở thành một vũng
nước.
Nếu phải
đánh nhau trong vùng này, cách tốt nhất là ào xuống suối, bám bờ
suối mà chiến đấu.
Tôi nghĩ, đoàn quân tăng viện đi lồ lộ
thênh thang như thế đã hai ngày mà chưa xảy ra biến cố gì thì có
thể địch đã rút lui rồi. Tôi cũng đang cầu mong địch đừng đánh
nữa.
Nhưng hôm
nay sao tình hình yên ắng quá! Mà tình hình càng yên tĩnh lại
càng đáng sợ.
Tôi biết chắc chắn rằng từ mùa Hè năm 1972, ở xứ Tây Nguyên này
Sư Ðoàn 320A Cộng sản là một địch thủ mà bất cứ ai cũng không thể
coi thường.
Kỳ
này mục đích của Sư Ðoàn 320A là xóa sổ trại Pleime. Pleime còn
đứng vững, chưa chắc gì chúng đã chịu bỏ dở mục tiêu nửa chừng.
Tôi nghĩ, nếu bị địch tập kích từ hướng
Tây thì hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 chỉ có một con đường
thoát hiểm là chạy thẳng về hướng Ðông Nam, chỉ có vùng đó là
không có địch.
Tôi định góp ý với hai vị sĩ quan đồng
môn, khuyên họ nên cẩn thận đề phòng, nhưng e ngại sẽ đụng chạm
tới tự ái của họ.
Tôi nhỏ nhẹ:
– Hai vị nhớ cẩn thận! Nếu có chuyện gì
thì gắng giữ hướng hai ngàn bốn trăm ly giác!
Lợi dụng buổi trời trong, tôi dùng ống
nhòm để quan sát những vạt rừng phía ngoài xa. Có một chiếc quan
sát cơ đang bay vòng vòng trên vùng cách Pleime chừng năm cây số.
Có lẽ cái máy bay thám thính này đang yểm trợ cho cánh quân của
niên trưởng Nguyễn Dương Lâm.
Ðột nhiên tai tôi nghe “Ùm! Ùm! Ùm!...”
tiếng pháo địch “depart” liên tiếp rộ lên từ biên giới Việt–Miên.
Trong đồn Pleime kẻng báo động khua
vang, mọi người chui vào hàm ếch.
Tôi vẫn còn trên chòi canh. Tôi đã thấy
những đụn khói đen cuồn cuộn bốc lên trong rừng khói trắng! Những
trái đạn đại bác 122ly nòng dài bay nhanh hơn những viên cối bắn
cầu vồng. Khói đen đang bốc lên là do những viên 122ly vừa chạm
đất.
Ðoàn quân
bạn đang trên đường tiếp viện cho tôi bắt đầu nếm mùi mưa trái
phá!
Trong
thời gian dài chừng nửa giờ, ước lượng hàng ngàn quả đạn 122ly,
105ly, 120ly, và 82ly đã rơi trên ngọn đồi lá thấp chỉ có tre gai
và cỏ tranh.
Khi hai đợt pháo tập trung đánh trên khoảng rừng có diện tích
chưa đầy hai cây số vuông vừa ngừng, thì tôi bắt đầu nghe vọng
lại tiếng súng tay nổ rền.
Cùng lúc đó hàng chục khẩu phòng không
nhả đạn nhắm vào chiếc thám sát cơ.
Không rõ chiếc máy bay có bị trúng đạn
hay không, mà sau đó tôi không còn thấy bóng dáng nó nữa.
Trong máy PRC–25 tôi nghe Cao Mạnh Nhẫn
hoảng hốt:
–
Thái Sơn ơi! Nguy quá! Biết làm sao đây?
Tôi gào lên:
– Hai ngàn bốn trăm ly giác! Chạy mau!
Hai ngàn bốn trăm ly giác!
Trong ống nghe, tôi thấy Nhẫn lặp lại,
y chang, chắc là chú ấy đang ra lệnh cho đơn vị dưới quyền:
“Hướng hai ngàn tư! Chạy mau!”
Sư Ðoàn 320A Cộng sản đang thực hành
chiến thuật “Bôn tập tập kích” sở trường của họ! Cánh quân đang
trên đường tiếp cứu Pleime chưa phải là địch thủ ngang cơ của Sư
Ðoàn Cộng sản này!
Lúc này Căn cứ 711 đang bị pháo kích,
các pháo thủ mắc bận phản pháo. Pháo binh ngoài Phú Nhơn ở quá
xa, với không tới khu vực giao tranh, nên muốn giúp quân bạn, tôi
chỉ còn cách dùng khẩu 105 cơ hữu của mình bắn một tuyến dài dọc
theo Tỉnh lộ để ngăn địch.
Chờ một hồi lâu, tôi không nghe thêm
tiếng nói nào của người đàn em khóa 21 là Cao Mạnh Nhẫn. Tôi cũng
không nghe được tiếng nói nào của người niên trưởng khóa 19 là
Nguyễn Dương Lâm.
Cho tới ngày chiến dịch tàn, tôi mới
biết niên trưởng Nguyễn Dương Lâm đã chết và bị bỏ xác tại chiến
trường.
Trong
khi đó, cấp chỉ huy của anh Lâm thì đóng quân ở ngoài ngã ba Mỹ
Thạch, trên Quốc lộ 14, cách xa nơi anh Lâm tử trận một đoạn
đường dài gần hai mươi cây số!
Chiều hôm đó Pleime lại bị pháo, trận
pháo kích dài khoảng một giờ. Không ai ngồi đếm có bao nhiêu trái
đạn đã rơi trên đầu chúng tôi, thôi thì cứ báo cáo là hàng trăm
trái.
Không
lâu sau là trận mưa truyền đơn, kêu gọi Biệt Ðộng Quân buông súng
đầu hàng.
Tiếp
đó, hướng Tây, nơi những liều Bangalore đã mở ra con đường dẫn
tới khu đất trống giữa hai lớp rào cũ và mới hứng chịu đợt xung
phong thứ mười hai! Lần này có vài cán binh Việt cộng mang theo
những tấm ván để làm thang.
Chỉ sau mười phút, đợt xung phong đã bị
bẻ gãy vì thang ván của địch không đủ dài, địch rơi xuống đất,
dưới đất là bãi mìn của Công Binh.
Có những cán binh Cộng sản vừa bị bắn
ngã, thân mình đè trên một quả mìn, quả mìn nổ, thân xác anh ta
liền banh ra thành nhiều mảnh.
Ðứng trên nóc Pháo đài số 5, tôi thấy
thấp thoáng bóng người chạy qua, chạy lại trong đám lau sậy nơi
khoảng đất trống giữa hai hệ thống hàng rào cũ và mới.
Lúc khẩu đại liên tạm ngừng để thay dây
đạn mới, tôi nghe tiếng bọn Việt cộng gọi nhau:
“Ðồng chí Quang! Ðừng lên nữa! Còn
rào!”
Cùng
tiếng kêu la:
“Chết tôi! Á! A! A! Mẹ ơi!” lẫn trong tiếng mìn và lựu đạn gài
vừa phát nổ “Ùm! Ùm! Ùm! Oành! Oành!Oành!”
Dưới chân pháo đài, đang lúc hứng chí,
hai anh xạ thủ phóng lựu M79 của Ðại đội 2/81 vừa bóp cò vừa la
oang oang “Biệt Ðộng Quân! Sát!” – “Biệt Ðộng Quân! Sát!”
Khẩu đại liên 30 trong Pháo đài số 5
lại tiếp tục nổ giòn. Mãi tới khi Trung úy Song và Thiếu úy Phước
phải gào lên “Thôi bắn! Thôi bắn!” thì tiếng súng mới im.
Hôm đó về phần “đả viện” thì địch đã
thành công, nhưng về mặt “công đồn” thì chúng đã thảm bại.
Những ngày sau địch gia tăng pháo kích
ban ngày, ban đêm liên tục dùng Bangalore phá rào. Có ít nhất là
bốn cửa khẩu có chiều ngang cỡ hai thước đã bị bộc phá của địch
mở xuyên qua 6 lớp hàng rào ngoài. Cho tới nay thì 6 lớp rào
trong vẫn chưa bị suy suyển.
Vì ngày nào cũng thấy cảnh vật xung
quanh, nên vừa phát giác những cụm đất đỏ mới xuất hiện trên mặt
đất sát vườn rau, lính gác cổng Bắc biết ngay đó là đường hầm do
Ðặc công Việt cộng vừa tạo thành, nên lập tức nổ súng báo động
ngay.
Chỉ vài
chục phút sau thì đường hầm này đã bị lấp kín và bị gài vài trái
lựu đạn M26.
Cao Nguyên đang giữa mùa mưa, hôm trước trời trong, mây cao, chỉ
qua một đêm trời đã âm u xám xịt, với những trận mưa giông, mưa
nguồn.
Trong
mưa tháng Tám, hàng ngày, trên tiền đồn biên phòng Pleime còn
thêm những cơn mưa đạn cối 120ly, 105ly, 82ly.
Ðặc biệt trong chiến dịch này, địch đã
sử dụng truyền đơn như một loại vũ khí.
Những quả đạn cối 82ly nổ cao bung ra
từng chùm truyền đơn nhìn như những lọn pháo bông đêm hoa đăng.
Buổi sáng là loạt truyền đơn đầu in
những dòng chữ êm ái, bao dung, tình người thắm thiết:
“Hỡi các chiến binh Ngụy Sài Gòn!
Các anh mau mau bỏ súng quay về với nhân dân!
Nhân dân đang dang tay chờ đón các anh!
Hỡi những người con lạc đường!
Hãy quay
về với Tổ Quốc về với đồng bào!”
Buổi chiều sau đợt pháo kích hàng trăm
viên 122ly, 120ly, 105ly, 82ly, thì truyền đơn lại mang dòng chữ
đọc lên nghe mà ớn:
“Hàng sống! Chống chết!
Tất cả Ngụy quân đồn trú phải buông súng đầu hàng ngay!
Nếu không, các anh sẽ bị tiêu diệt!”
“Hãy kéo cờ trắng!
Mở cổng đồn!
Ngồi lại tập trung trước
sân cờ chờ Quân Giải Phóng vào tiếp thu!
Hàng sống! Chống chết!”
“Tất cả các chiến sĩ đầu hàng sẽ
được đối xử tử tế và phong danh hiệu anh hùng!
Hãy quay súng bắn chết tên chỉ huy rồi mở cổng trại đầu hàng
ngay!”
Mỗi lần pháo truyền đơn, có ít nhất 4 khẩu 82ly nhả đạn từ hai vị
trí chính Bắc và chính Tây. Truyền đơn đã phủ đầy mặt đất từ
trung tâm trại, ra tới hàng rào ngoài. Truyền đơn rải khắp nơi,
trắng xóa!
Tôi biết
có vài người lén cất kín trong túi mấy tờ truyền đơn của địch,
nhưng tôi cứ lơ đi như không thấy!
Hầu như đêm nào tôi cũng chỉ chợp mắt
được vài chục phút. Ði đâu tôi cũng phải dẫn theo Thiếu úy Phước
và một toán cận vệ.
Tôi không sợ trong đồn có nội tuyến,
nhưng tôi sợ những tờ truyền đơn làm tinh thần người lính hoang
mang. Cái đói và cái sợ có thể làm cho con người ta mất lòng tin
mà làm bậy.
Một buổi tối Thiếu úy Phước thì thầm:
– Thái Sơn ơi! Có ông thượng sĩ người
Thượng vừa dẫn hai thằng lính chui rào trốn đi rồi!
Ông Thượng sĩ Y Ban Nier và hai anh
lính người Kinh của Ðại đội 1/82 đã theo đường giao thông hào nơi
cổng Bắc, chui ra khỏi rào tìm đường ra Quận Phú Nhơn.
Ba ngày sau toán tuần tra cổng Bắc phát
giác xác ông Thượng sĩ Ban và hai anh lính đã bị Việt cộng bắn
chết ở đâu đó rồi bị kéo về phơi trên con dốc dẫn vào vườn rau để
đe dọa những người còn tử thủ trong căn cứ.
Có thể trên đường trốn chạy, toán ba
người lính đào ngũ này đã bị Việt cộng phát giác rồi bắn chết.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Pleime đang trong cơn tuyệt vọng...
Mưa kéo dài nhiều ngày,
giao thông hào thành những con suối, nước thoát về hai hướng Bắc
và Nam, vô tình những đường thoát nước trở thành những con đường
hầm trơn bóng chui qua lớp rào kẽm gai. Nơi sâu nhứt có thể cao
hơn một đầu, một với của người đứng thẳng. Người từ trong chui ra
được thì chắc chắn Việt cộng cũng có thể theo đường này mà vào
được.
Tôi vội
bắt ông Thiếu úy Hoàng cho người đánh rối từng chùm thép gai rồi
thả trên đường hầm, sau đó gài thêm lựu đạn và bẫy sáng để chống
đặc công.
Sợ
chuyện này làm tinh thần anh em bị dao động, tôi phải ra lệnh cho
Trung úy Minh và ban truyền tin kín miệng.
Ngay sau đó lại xảy ra chuyện toán tuần
tra cổng Nam do Binh nhì tên là Thêm dẫn đầu đã ra đi mà không
trở về. Có lẽ ba người này đã nhân cơ hội được ra khỏi rào mà
chạy trốn luôn.
Thế là từ hôm đó, tôi phải cho viễn
thám thay phiên đảm nhiệm công tác tuần tra, thay vì người của
các đại đội.
o O o
Giá trị của một người lính...
Từ khi Pleime bị cô lập với thế giới
bên ngoài, cứ đúng lúc rạng đông thì kẻng báo động lại khua vang
báo cho mọi người biết đã đến giờ chui vào hàm ếch.
Tin A2 truyền đi cho tôi biết, các đơn
vị pháo của Việt cộng được lệnh pháo hợp đồng vào trại mỗi ngày
hai lần, lần đầu diễn ra lúc 6:00g sáng, giờ Hà Nội, buổi chiều
sẽ đánh hợp đồng vào lúc 6:00g chiều. Giờ Hà Nội đi sớm hơn giờ
Sài Gòn một tiếng.
Sáng 16 tháng 8 cũng như mọi ngày, cũng
đúng 6:00g sáng Hà Nội, nhưng lại là 5:00g sáng giờ Sài Gòn, trận
pháo rạng đông mở màn. Ðặc biệt là hàng trăm trái cối 120ly địch
sử dụng sáng hôm đó toàn là loại “delay” nổ chậm.
Mỗi lúc địch bắn đạn “delay” tôi đều
leo lên lô cốt xem mặt hướng Tây có động tĩnh gì không? Tôi đứng
chân trong chân ngoài ở tầng cao nhứt của pháo đài.
Ðất đá bung lên từ chỗ đạn cối chui
xuống văng cao hàng chục mét; đất đỏ rơi tung toé trên nóc nhà,
trên sân cờ.
Tôi có hai kho đạn đại bác 105ly và bốn kho đạn dự trữ đủ loại.
Một vài viên cối 120ly nổ chậm rơi trúng kho đạn số 2, ngoài bờ
đất sát bên Câu Lạc Bộ, thế là kho đạn này phát nổ!
Ðạn nhỏ cháy thì kêu “Lép! Bép! Lép!
Bép!...”
Ðạn
106ly thì nổ “Ùng! Ùng!...” rồi bay tít lên cao, lúc rớt xuống
gây tiếng gió rít “Xèo! Xèo! Vèo! Vèo!...” rợn tóc gáy.
Sợ mảnh đạn cắt đứt đầu, tôi chui vào
hầm truyền tin của Trung úy Nguyễn Công Minh.
Chuông điện thoại của Ðại đội 3/82 reo
khẩn cấp. Thiếu úy Nguyễn Văn Hổ, đại đội phó 3/82 sụt sịt vài
giây rồi khóc òa lên:
– Thái Sơn ơi! Anh Việt chết rồi!
Tôi nghe tiếng chú Hổ mà bỗng thấy ù cả
hai tai:
– Cái
gì? Ai chết? Nói lại đi!
– Dạ Thiếu úy Việt bị pháo trúng hầm,
anh ấy chết cùng với người lính mang máy PRC–25!
Tôi lội xuống giao thông hào, giao
thông hào ngập nước tới thắt lưng. Nước mưa đỏ ngòm và quánh lại
như bùn. Ðất sạt lở ở những đoạn giao thông hào trúng đạn nổ chậm
đã thành những hố sâu như những cái giếng.
Cái hầm chứa hai thầy trò Thiếu úy Phạm
Ðại Việt và anh Binh 1 Vy Văn Trai, hiệu thính viên máy PRC–25 đã
bị một viên 120ly đánh sập.
Hai thầy trò Việt và Trai nằm chết bên
nhau. Hai Biệt Ðộng Quân này chết không dấu vết, họ bị chết tức
do sức pháo nổ.
Mắt chú Việt và mắt chú Trai còn mở
trừng trừng, tôi vuốt mắt cho chú Việt, rồi vuốt mắt cho chú
Trai.
Bốn
tháng trước Thiếu úy Phạm Ðại Việt là đại đội phó của Thiếu úy
Phiến. Ngày Căn cứ 711 bị địch tràn ngập, Thiếu úy Phiến chết
trên đường rút lui, người mang máy truyền tin của chú Phiến là
Binh 2 Y Don Nier rất buồn và có vẻ mất tinh thần.
Sau khi tôi đề cử Thiếu úy Phạm Ðại
Việt giữ chức đại đội trưởng Ðại đội 3/82 thì tôi mang Binh 2 Y
Don Nier lên bộ chỉ huy tiểu đoàn để mang máy PRC–25 cho tôi.
Binh 1 Vy Văn Trai được Thiếu úy Việt
cho giữ chức hiệu thính viên đại đội.
Vy Văn Trai còn một người em họ là Vy
Văn Trung ở cùng đơn vị. Hai anh em nhà họ Vy là người Nùng, mới
tới Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trong đợt bổ sung quân số cuối
tháng Tư 1974 vừa rồi.
Những chiến binh người Nùng, người Thái
lúc nào cũng là những cái gương can đảm và thiện chiến bậc nhứt
của tiểu đoàn này.
Phạm Ðại Việt và Vy Văn Trai là người
thứ 23 và 24 chết còn thấy xác, được đồng đội bọc trong poncho và
chôn trong khu đất trống sau nhà bếp của tiểu đoàn.
Như thế là, chỉ trong vòng bốn tháng,
Ðại đội 3/82 đã có hai sĩ quan đại đội trưởng tử trận.
Nhớ lại, sau trận đánh giành giựt Căn
cứ 711 hồi tháng Tư, tôi đã đề nghị thăng cấp trung úy tại mặt
trận cho Thiếu úy Phạm Ðại Việt, nhưng Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Biệt
Ðộng Quân/Quân Khu 2 đã không chấp thuận.
Kỳ này không cần chữ ký với lời xác
nhận công lao của thượng cấp, người sĩ quan đại đội trưởng giỏi
nhất của tôi trong trận này đã đương nhiên được lên trung úy,
nhưng là “Cố Trung úy.”
Ai mà không biết? Với người chỉ huy
ngồi trên tàu bay, hay trong hầm trú kiên cố ngoài Pleiku thì “Tử
thủ!” dễ òm! Dễ như ta vừa mở miệng tợp cạn một ly rượu cay.
Nhưng ở tiền đồn Pleime thời gian này
thì “Tử thủ!” có nghĩa là bất cứ giây phút nào mình cũng sẵn sàng
nhắm mắt để đồng ngũ quấn cho mình một chiếc poncho rồi đem thân
xác mình chôn trong mảnh đất sau nhà bếp.
Cơ hội được “Tổ Quốc Ghi Ơn” dành cho
tất cả mọi người, bất kể đó là Thiếu tá hiện dịch Vương Mộng
Long, Chuẩn úy trừ bị Phan Quốc Thiều hay Binh nhì Vy Văn Trung.
Hành trang mang theo của người nằm
xuống vỏn vẹn một tấm thẻ bài ghi họ tên, số quân và loại máu.
Rồi thời gian đi qua, chỉ có người thân, kẻ thuộc và bạn bè còn
nhớ tới mình thôi.
Gần mười năm lăn lộn trên chiến trường,
máu tôi đã nhiều lần đổ xuống đất quê hương, thuộc cấp của tôi
giờ này có nhiều người còn chôn xác ở Dak Tô, Chư Pa, Sé San,
Yaly, Chư Prong.
Anh em chúng tôi chiến đấu và sẵn sàng
chết vì dân, vì nước, chúng tôi không chiến đấu vì mong được tiến
chức, thăng quan.
Chúng tôi không đến nỗi ngây thơ mà tin
vào những câu hứa hẹn suông hay những lời “khích tướng” của
thượng cấp.
Chúng tôi quan niệm rằng:
“Giá trị của một người lính không thể
căn cứ vào những gì mà họ được cấp trên ban phát cho, mà giá trị
đích thực của mỗi chiến binh chính là những gì mà anh ta đã cống
hiến cho tổ quốc.”
Bởi vậy, “Đừng đem lon lá luận anh
hùng!”
o O o
Sống chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy trò!
Có thể nói, thời gian kế tiếp sau khi
hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh bị đánh lui thì Tiểu Ðoàn
82 Biệt Ðộng Quân bước vào giai đoạn “So găng tay đôi” với các
Trung Đoàn chủ lực của Sư Ðoàn 320A Cộng sản Bắc Việt.
Nhìn vào, ai cũng thấy màn so găng này
chẳng cân xứng chút nào!
Chúng tôi ví như một võ sĩ hạng nhẹ
quyết tử với những đối thủ loại siêu nặng. Giống như một chú tí
hon bị những thằng khổng lồ luân phiên tấn công.
Cũng một chiến trường mang tên Pleime,
mà chín năm trước đây, liên quân Việt–Mỹ phải vất vả lắm mới
chiến thắng.
Ngày đó, quân Mỹ–Việt được yểm trợ bởi hàng trăm chiến đấu cơ của
Hạm Ðội 7, hàng trăm trực thăng võ trang, hàng chục pháo đài bay
B52, hàng trăm chiến xa, chưa kể hàng chục nghìn quả đạn pháo đủ
loại bắn T.O.T bất cứ chỗ nào. (T.O.T = Time On Target = Bắn từ
nhiều vị trí để đạn rơi cùng giờ trên một mục tiêu định trước.)
Gìờ đây, cũng ở Pleime, tôi đang đối
diện với một lực lượng địch mạnh hơn nhiều so với những đơn vị
địch tham chiến chín năm trước.
Ðịch đông hơn tôi cả chục lần, lại có
đủ loại pháo binh nặng, nhẹ, cùng với chiến xa và phòng không tối
tân.
Trong khi
đó, tôi chỉ có hai khẩu 105ly sắp hết đạn, bốn khẩu 155ly của
quân bạn ở tít mù xa, yểm trợ hết tầm mà vẫn còn cách Pleime gần
năm cây số!
Không yểm lại quá giới hạn. Ngày nào tôi cũng gửi đơn xin không
quân, nhưng chẳng thấy chiếc máy bay nào bén mảng trên vùng.
Chỉ tới đêm mới nghe “Ì ầm! Ì ầm!” vọng
về do tiếng bom nổ trên những box 1x1km đâu đó trong vùng Tây Bắc
Pleime.
Tôi
biết tường tận vị trí nào địch có thể tập trung, khu vực nào địch
sẽ dàn quân, nên tôi đã gửi đi nhiều đơn xin oanh tạc chiến lược
ô vuông 1x1km. Nhưng những đơn này đều bị bác bỏ.
Muốn đánh những phi tuần chiến lược,
thì yêu cầu của các đơn vị cấp Lữ đoàn trở lên mới được cứu xét,
còn đơn xin của các cấp thấp như Liên đoàn hay Tiểu đoàn không có
giá trị.
Tôi
đã dùng tới gần một ngàn viên cối 60ly để đánh rào cản quanh trại
Pleime này kể từ ngày đầu bị cô lập.
Trong hầm chứa đạn cối 60ly của Mỹ
trước đây là những thùng gỗ chất cao nghều nghệu, nay chỉ còn vài
chục thùng. Hai khẩu súng cối 60ly đã gãy kim hỏa.
Tôi đang dùng hai khẩu còn lại để sống
còn. Nếu địch tấn công thì cứ yếu tố 45 độ cao, tầm xa 150 mét
thuốc bồi không (0), góc quay một vòng một trái, bắn cầm chừng.
Hai khẩu súng 106ly và 81ly sắp hết đạn
nên được đặt trong tình trạng cố định ưu tiên nhắm vào hai cao
điểm 509 và Chư Hô, sẵn sàng đánh trả mỗi khi 75ly và 12.7ly của
địch ló mòi.
Trường hợp bất đắc dĩ tôi mới sử dụng cối 81ly để hỗ trợ cho các
cuộc phản công.
Trên máy truyền tin, không còn ai hỏi
thăm chúng tôi nữa, có lẽ cấp chỉ huy của chúng tôi đã mệt mỏi
lắm rồi?
Tôi
nghĩ rằng mọi nỗ lực tiếp cứu cho tôi đã bị đình chỉ. Giờ này tôi
chỉ trông vào chính sức mình, kéo dài được ngày nào hay ngày ấy.
Chúng tôi bước vào giai đoạn chiến đấu trong tuyệt vọng.
Mưa hoài, nên nước uống lúc nào cũng dư
thừa, chưa kể tới cái hầm chứa nước mà tôi đã cho xây giữa sân,
có thể cung cấp nước cho toàn đơn vị trong thời gian ba, bốn
tháng. Chúng tôi không bị khát, nhưng bắt đầu bị đói.
Kho gạo cháy rồi, để tiết kiệm, chúng
tôi bắt đầu ăn cháo với rau tàu bay luộc. Ðêm nào cũng có tiếng
bẫy sập. Các anh Biệt Ðộng Quân đang thèm thịt, nên có vẻ rất
niềm nở hân hoan đón chào các chú chuột đồng bụng cũng xẹp lép vì
chẳng có gì để ăn.
Giao thông hào ngập nước, nhưng muốn
sống, những người lính biên phòng đành ngâm mình trong giao thông
hào để tránh pháo.
Tôi thấy da chân, da đùi, da bụng của
tôi như đang rữa ra, như lớp bánh tráng mỏng bị thấm nước.
Ban ngày mắc bận đánh nhau, trầm mình
trong nước, nên quên đi cảm giác khó chịu; ban đêm sau khi thay
cái quần lót, mới thấy ngứa ngáy tới điên khùng luôn!
Ðêm đêm, khi những đợt pháo kích của
địch tạm ngưng, tôi thường vào trong bộ chỉ huy tiểu đoàn ghé
thăm thương binh. Khu vực xung quanh trung tâm hành quân và bệnh
xá không có giao thông hào nên không bị ngập nước.
Mặc dù những người bị thương nhẹ đã tự
nguyện ra trú ẩn trong các pháo đài, trong hầm vẫn còn cả chục
thương binh nặng nằm ngồi la liệt trên sàn đất.
Thuộc cấp của tôi, người gãy tay, người
thủng bụng, người đui mắt, đang chờ tôi vào thăm.
Kho gạo và kho thuốc bị cháy, hết
thuốc, hết rượu cồn tẩy trùng. Nhiều vết thương đã có giòi. Trung
sĩ Chiến Quân y phải lấy nước đun sôi để nguội thay rượu cồn rửa
vết thương cho đồng đội.
Tôi tiếp tay Y tá Chiến rửa vết thương
cho một anh lính bị thương mù hai mắt.
Tôi nghe anh thương binh mù thút thít:
– Cám ơn Thái Sơn!
Những dòng nước mắt pha với máu tuôn
xuống má anh ta, làm ướt mu bàn tay tôi...
Người lính tiếp tục khóc:
– Xin lỗi Thái Sơn, em bị thương rồi!
Em không còn thấy đường để bắn! Em không làm được gì có thể giúp
sức cho Thái Sơn giữ đồn nữa rồi. Thái Sơn đừng trách em nhé!
Tôi không ngờ trong hoàn cảnh ấy tai
tôi lại được nghe câu nói đó từ miệng một phế binh. Tôi dịu giọng
an ủi người em:
– Em gắng chịu đau! Rồi sẽ có trực
thăng tải thương cho em! Em yên tâm! Mình sẽ giữ được đồn mà!
Việt cộng không làm gì được mình đâu! Thái Sơn còn sống thì
Pleime sẽ không thể mất! Nếu như anh em mình không giữ được
Pleime thì chúng mình sẽ chết theo Pleime!
Thời gian mà Tướng Tư lệnh Quân Ðoàn II
quy định cho tôi đứng vững đã vượt quá, tôi có thể bỏ đồn nếu
thấy không thể kéo dài sự chịu đựng, nhưng tôi không thể làm vậy.
Tôi đã không nghe lệnh Tướng Toàn, vì
làm như thế, chỉ những quân nhân lành lặn hy vọng sống sót. Tôi
còn phải nghĩ tới những thương binh. Từ Pleime ra tới Phú Nhơn
đường xa gần hai chục cây số, lại bị địch chốt giữ. Nếu phải rút
chạy, trên đường đi, chắc chắn sẽ phải đánh nhau.
Trong tình thế đó, làm sao tôi có thể
mang vác theo mình gần hai chục đứa em đui mù, què quặt? Chẳng lẽ
đành lòng bỏ chúng nó mà chạy lấy thân? Ðể rồi, nếu thoát chết kỳ
này cũng mãi mang trong lòng một vết thương.
Chi bằng anh em ta cứ liều thân, sống
chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy trò!
Tôi nghĩ trời đã an bài sẵn là số mệnh
của tôi, sống hay chết đều tùy theo vận mệnh của cái tiền đồn
mang tên Pleime này!
Hôm sau trời mưa như bão, trong hầm chỉ
huy, nước lên tới bụng, tôi lấy một cuộn băng mới tinh, đưa vào
máy cassette, ghi lại những lời trăn trối của 5 thày trò có mặt
lúc đó. Cuộn băng ghi lại những lời sau:
1) Tôi, Thiếu tá hiện dịch Vương
Mộng Long Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ
chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
2) Tôi, Trung úy trừ bị Nguyễn Công
Minh sĩ quan Truyền Tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề
sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
3) Tôi, Thiếu úy trừ bị Trần Văn Phước
trưởng Ban 2 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo
Pleime nếu Pleime thất thủ.
4) Tôi, Trung sĩ Nguyễn Chi trưởng toán
Viễn Thám 823 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết
theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
5) Tôi, Binh Nhì Y Don Nier hiệu thính
viên của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime
nếu Pleime thất thủ.
Cuộn băng ghi âm này tồn tại cho tới
ngày Việt cộng tràn ngập thành phố Ban Mê Thuột thì gia đình tôi
mới thiêu hủy nó đi.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Màn đọ sức sau cùng...
Trong
lúc tôi đang lo thiếu cơm gạo, thiếu thuốc men thì tin tức A2 lại
cho biết một đơn vị phiên hiệu là Trung Ðoàn E 26 (?) của Việt
cộng đã được điều động vào vùng.
Tôi nhớ nằm lòng tên các đơn vị từ cấp
tiểu đoàn trở lên của Cộng sản hiện diện trong lãnh thổ Cao
Nguyên Vùng 2, kể cả sở trường, sở đoản của chúng.
Thời gian này ở Tây Nguyên, Mặt Trận B3
vừa nâng cấp cho Trung Ðoàn 470 Vận Tải thành Sư Ðoàn 470 Vận
Tải, đồng thời thành lập thêm hai Trung Đoàn mới mang tên E 20 và
E 26. Thực tế, cho tới ngày hết chiến tranh, hai Trung Đoàn mang
tên E 20 và E 26 vẫn chưa thành hình.
Theo tôi thì đơn vị địch được đưa vào
trận phải là Trung Ðoàn E 25 trực thuộc Mặt Trận B3.
Trung Ðoàn E 25 của Mặt Trận B3 này
được thành lập cuối năm 1972 với cán bộ khung là Ðoàn 25 Xâm
Nhập.
Ðịa bàn
hoạt động của E 25 là vùng Nam Pleime trong khu vực Tiều Teo lãnh
thổ của quận lỵ Buôn Hô tỉnh Dắk Lắk Việt Nam Cộng Hoà. Chính
Trung Đoàn Cộng sản này đã đánh chiếm Căn cứ An Tân (Tiêu Atar)
và đồn Ðịa Phương Quân Ea Súp thời gian trước đây.
Các Trung Ðoàn E 64 và E 48 của Sư Ðoàn
320A Cộng sản đã bị tổn thất quá nặng sau nhiều ngày quần thảo
với “Thằng Hai Nâu” (Việt cộng gọi Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là
Thằng Hai Nâu)
Lúc này, cả Thằng Hai Nâu và những
Trung Đoàn trực thuộc Sư Ðoàn 320A đều ở vào tình trạng của các
võ sĩ đã ngất ngư, chỉ muốn nằm xuống sàn đài mà nghỉ, mà thở.
Nhưng ai cũng biết, trên võ đài thì kẻ
đứng vững sau cùng mới là người chiến thắng. Vì thế mà, Sư Ðoàn
320A Cộng sản phải cầu viện tới E 25 của Mặt Trận B3.
Ngày xảy ra cuộc chạm trán lần đầu với
E 25, tôi xin được hai phi tuần yểm trợ tiếp cận.
Trước khi A37 vào vùng, tôi sử dụng tối
đa hỏa lực cối 60 và 81ly bao trùm triền đồi hướng Tây. Kế đó,
tôi tập trung toàn bộ vũ khí bắn thẳng tưới đạn theo hai hướng
Tây Bắc và Tây Nam đan nhau như rẻ quạt trong một thời gian suốt
hai giờ đồng hồ.
Tới trưa hôm đó mới thấy bóng dáng
chiếc thám thính cơ O2 trên vùng trời Ðông Bắc.
Tôi nghe trong máy không lục:
– Thái Sơn đây Bắc Ðẩu! Cho mục tiêu
đi!
– Hướng
bốn ngàn tám trăm ly giác! Ðánh theo chiều Bắc Nam cách hàng rào
hai trăm mét!
– Okay!
Chiếc
trinh sát cơ chúc xuống, “Bục! Bùng!” một trái khói trắng được
đánh dấu trong khu rừng hướng Tây.
Khói lên, hai cánh chim sắt sà xuống,
“Ùm! Ùm! Ùm!” bom nổ!
Sức bom làm đất đá văng lên cao, phủ
kín một vùng rừng cây xanh đàng xa.
Bất ngờ, ngay sau đó, mắt tôi hoa lên,
vì thấy trên không bỗng choáng ngợp, chớp nhóa như hoa đăng thăng
thiên do đạn phòng không của địch.
Ðạn 37ly và 100ly “Bùng! Bùng!Bục!
Bục!” giòn giã đua nhau nở kín một góc trời!
Hai cánh chim sắt A37 và cánh diều O2
biến nhanh về hướng Bắc.
Tôi vừa được yểm trợ một phi tuần, còn
phi tuần thứ nhì thì bị đình chỉ.
Trận chiến dằng dai chừng hai giờ sau thì địch rút chạy. May mắn
là quân ta không có ai bị thương. Ðịch chết phơi thây trên hàng
rào nhiều lắm, nhưng tôi không màng tới chuyện thu nhặt chiến lợi
phẩm. Mạng người là quý, bắt anh em chui vào hàng rào đầy mìn và
lựu đạn thu gom mấy cây súng gãy để làm gì?
Hai ngày sau E 25 lại dẫn thân vào con
đường tự vẫn bằng cách theo vết cũ của E 64/320A, cứ lừng lững
hàng ngang chạy lên đồi bằng con dốc Bangalore đã mở sẵn cách đây
gần nửa tháng. Kỳ này vũ khí công phá pháo đài và nhà cửa loại
B40, B41 được địch sử dụng tối đa, mục tiêu của chúng là chiếm
cho được hai Pháo đài số 4 hướng Tây Nam và số 5 hướng chính Tây.
Súng vừa nổ thì hai khẩu 105ly đã bắn
liên tục, chặn địch quân từ hướng Bắc và hướng Tây.
Với quyết tâm đánh cho địch một trận
phải tởn tới già, nên từ sáng sớm, tôi đã cho Thiếu úy Phạm Văn
Thủy đem quân bố trí ngoài rào, nơi cuối phi đạo hướng Tây Nam
của trại.
Ðợi
khi địch chạy theo nhau ào lên Pháo đài số 4 thì quân ta nổ súng.
Ðây có lẽ là trận đánh đẹp nhất đời
chinh chiến của chàng thư sinh Phạm Văn Thủy.
Mũi dùi hướng Nam của E 25 bị cầm chân
suốt hai giờ đồng hồ trong một khu vực có thế đất lòng chảo, muốn
tiến không được, muốn lui cũng không xong!
Thời gian này Pháo đài số 5 hứng chịu
không biết bao nhiêu là đạn B40, B41 của địch.
Hình như khẩu đại liên 30 trên Pháo đài
số 5 đã không còn hoạt động, nên tôi không nghe tiếng súng liên
thanh tràng dài, chỉ thấy tiếng M16 của súng cá nhân từng đợt
phát ra từ đây.
Những tiếng “Xèo! Xèo! Oành! Oành!” rộ
lên từng đợt như những cơn gió giật trong trận bão.
Ðạn cứ vèo vèo, theo nhau bay vòng cầu
xuống sân cờ. Dây treo lá quốc kỳ bị đứt, lá cờ chao qua chao lại
trong bụi mù.
Hầm trú của tôi bị B40 bắn bay một góc, khẩu đại liên M60 của chú
Yang bị gãy càng. Trong lúc tình hình lộn xộn, tôi sợ địch dùng
Bangalore mở khẩu chiếm Pháo đài số 5 thì chúng có thể tràn vào
sân cờ.
Tôi
leo lên hố cá nhân, rồi dùng hết sức mình ném liên tiếp năm, sáu
trái lựu đạn cay ra hàng rào, hy vọng khói cay sẽ gây khó dễ cho
bọn điên rồ đang ào lên. Ðồng thời tôi kêu toán viễn thám của chú
Nguyễn Chi đem một khẩu M60 theo giao thông hào lên tiếp cứu cho
Pháo đài số 5.
Quả nhiên khói cay đã khiến cho quân
xung phong của địch bị dội ngược. Ngoài rào im tiếng súng!
Chờ một hồi, không thấy B40, B41 bay
vào nữa, tôi đi một vòng kiểm soát trận địa thì thấy khẩu đại
liên 30 trên nóc Pháo đài 5 ngã chỏng gọng, anh xạ thủ bị gãy tay
trái, anh phụ xạ thủ bị một mảnh B40 ghim vào trán, mặt đầy máu
me. Hai chú lính này tay ôm lựu đạn ngồi dưới giao thông hào.
Trong pháo đài có bốn anh lính vẫn còn bình tĩnh trấn giữ hai lỗ
châu mai.
Trận
xung phong này địch nhắm ngay tuyến phòng thủ ngoài cùng của Ðại
đội 2/81. May mắn là không có ai chết.
Trong số gần chục người bị thương của
Ðại đội 2/81 có ông đại đội trưởng là Trung úy Nguyễn Văn Song.
Khói súng vừa tan, chú Song đã bò tới hầm trú của tôi cười hì hì:
– Chút xíu nữa là em bỏ mạng sa trường
rồi ông thầy ơi!
Thấy cái đầu chú Song quấn ba bốn lớp
băng trắng mà máu đỏ còn chảy ròng ròng, tôi ái ngại:
– Sao không nằm nghỉ mà bò sang đây làm
gì?
– Thì em
sang thăm coi ông thầy có bình an không. Em thấy hầm của ông thầy
trúng năm sáu trái B40, em lo quá!
Lúc đó lá quốc kỳ chỉ còn treo trên một
đoạn dây dài chừng hai mét, quay quay trong gió. Tôi định gọi Hạ
sĩ Ba thay sợi dây mới cho lá cờ thì Trung úy Song đề nghị:
– Mình hạ cái cột cờ xuống đi Thái Sơn!
Lá cờ cao quá, trở thành mục tiêu cho tụi nó pháo. Hầm của tui và
của Thái Sơn nằm sát trụ cờ, dễ chết quá!
Tôi cười trấn an chú Song:
– Mình sống chết là vì lá cờ này, không
thể hạ nó xuống được! Lá cờ còn bay chứng tỏ chúng ta còn hiện
diện, còn chiến đấu. Với lại, tụi Việt cộng dư biết, xưa nay xung
quanh sân cờ là khu trống trải không có công sự phòng thủ nào.
Chỗ này hóa ra là nơi an toàn nhất!
Sau khi nghe tôi giải thích, anh sĩ
quan đàn em của tôi bèn gọi Thiếu úy Phước giúp sức hạ cái cột cờ
xuống, thay sợi dây mới, rồi hè nhau dựng cờ lên.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ lại tiếp tục phần
phật bay trong gió một cách ngạo nghễ và đầy thách thức.
Lúc này quân của Thiếu úy Phạm Văn Thủy
cũng vừa trở về tuyến phòng thủ nơi cổng Nam. Thấy mặt ông đại
đội trưởng 4/82 đỏ gay tôi thắc mắc:
– Làm gì mà nước mắt nước mũi tèm lem
vậy?
– Úi cha!
Tụi nó đánh tui bằng hơi cay Thái Sơn ơi!
Tôi bật cười:
– Lựu đạn cay của mình đó!
Nghe tôi nói, chú Thủy mới ngẩn người:
– Hèn chi tui thấy tụi nó cắm đầu chạy
rồi tui mới thấy mắt mũi cay cay!
Mỗi ngày, cứ cách ba tiếng đồng hồ, tôi
lại gửi một toán quân bí mật tuần tra mặt Tây Pleime. Từ Pháo đài
4 nơi góc trại hướng Tây Nam tới Pháo đài 6 ở góc trại Tây Bắc,
tôi đánh dấu 4 hỏa tập T1, T2, T3, T4 dự trù cho súng cối 60ly.
Toán tuần tra chỉ cần báo cáo địch đang
ở vị trí nào, vài phút sau tôi đã có mười trái cối cho hỏa tập đó
ngay.
Một hôm
toán tuần tra của Binh 1 Yang báo cáo:
– Tango 4! Ðông lắm! (Tango 4 = Target
4 = Mục tiêu T4)
Hỏa tập T4 nằm về hướng Pháo đài 6,
trách nhiệm của Thiếu úy Hổ.
Tôi điện thoại cho chú Hổ:
– T4 mười quả!
Khẩu 60ly của Ðại đội 3/82 chưa phóng
đi được quả đạn nào thì tôi đã nghe tiếng B40 nổ “Oành! Oành!
Oành!...”
Pháo
đài số 6 là nơi yếu nhất của Pleime. Pháo đài này nằm về hướng
Tây của cổng chính, ngay góc của trại, sát vườn rau. Bên kia vườn
rau là bìa rừng có những tảng đá lớn. Từ bìa rừng, địch có thể
núp sau tường đá, bắn ta mà không sợ đạn bắn thẳng của ta.
Thời gian Thiếu úy Việt còn sống, Việt
đã chuẩn bị sẵn 3 chuyên viên M79 bắn vòng cầu để chế ngự khu
rừng này. Không rõ Thiếu úy Hổ có khả năng đó hay không?
Tôi lủi xuống giao thông hào rồi “rẽ
nước” phóng về Pháo đài số 6, theo sát sau lưng tôi là Thiếu úy
Trần Văn Phước và toán viễn thám của Mom Sol.
Tôi chui vào pháo đài đúng lúc cái chòi
gác có mái tôn trên nóc lô cốt bị B40 đánh sập.
Khẩu đại liên 30 bắn đã đỏ nòng, mà B40
vẫn còn bay “Xèo! Xèo! Xèo! Oành! Oành! Oành!” bên vách xi măng.
Ông Chuẩn úy (tôi không nhớ là ông Bảo
hay ông Thiều) luồn tay ra khỏi lỗ châu mai thảy liên tiếp hai
trái lựu đạn khói cay. Mùa này gió thổi liên tục từ Ðông sang
Tây, các pháo đài ở hướng Tây đều thủ sẵn một thùng lựu đạn loại
này.
Dưới giao
thông hào, tôi thấy ba ông lính đang ôm M79 núp trong hàm ếch.
Tôi hét lên:
–
Không bắn mà ngồi đây chờ chết sao?
Ba ông xạ thủ nghe tiếng tôi quát mới
hết run, chui ra khỏi hầm, leo lên hố cá nhân.
“Binh! Binh! Binh!...”
Ba viên M79 bắn lên trời, hai viên rơi
trên đầu địch, nổ “Ùm! Ùm!” bên kia suối, còn viên thứ ba thì rơi
ngay trên đầu... quân ta, nổ một tiếng “Oành!” bụi đất mù mịt!
Hai ông lính Thượng bắn giỏi hơn ông
lính Kinh; góc bắn của hai ông Thượng chếch về hướng Bắc, còn ông
lính Kinh thì bắn thẳng lên trời, đạn rơi ngay đỉnh pháo đài!
Chú Phước vung tay bợp tai ông lính
Kinh hai cái rồi nẹt:
– Ð! M! Cái đồ chết nhát!
Ông xạ thủ người Kinh sợ quá quay súng
về hướng Bắc bóp cò, bắn đại một viên.
Thấy thế Thiếu úy Phước cũng phải phì
cười. Phước chụp tay ông lính Kinh giơ lên cỡ 60 độ cao rồi nói:
– Ông nội ơi! Ông bắn cao cỡ này là
được rồi! Ông nội ơi!
Ðợt tấn công bằng B40 chợt ngừng. Tình
hình yên trong khoảng thời gian cỡ nửa giờ thì trong hầm, qua lỗ
châu mai, tôi thấy những vật tròn tròn như những trái túc cầu màu
trắng di động lẫn trong đám cỏ lau. Tới khi đại liên đốn gãy
những thân lau sậy thì lòi ra vài cái xác te tua vì trúng quá
nhiều đạn. Hóa ra bọn này đang đội những cái túi nylon phòng hơi
ngạt để tiến lên.
Kỳ này chúng tôi không nghe những tiếng
hô “Xung phong!” chỉ vì tất cả bọn cán binh này đều bịt kín đầu
bằng bao nhựa, mũi thì nhét bông gòn tẩm thuốc giải độc, không
nói năng, la hét được.
Những cái đầu bịt bao nylon tiếp tục bị
bắn hạ. Ðịch lại chết đè lên nhau trên vạt đất đầy cỏ tranh và
lau sậy. Ngoài rào là một vòng cung đạn cối 60ly tiếp tục nổ đều
đều.
Thấy
những cán binh Việt cộng đầu trùm bao nylon, tôi nhớ lại ngày Căn
cứ 711 bị địch tấn công bằng hơi ngạt hóa học cách nay bốn tháng,
tôi vội vàng ra lệnh cho toàn thể anh em chuẩn bị mặt nạ sẵn
sàng, khi nào thấy thủ pháo địch bốc khói màu vàng thì lập tức
đội mặt nạ ngay.
Khổ một điều là nếu đứng dưới mưa, mang
mặt nạ thì chẳng khác chi một người mù, nước mưa làm cho hai mắt
kính của mặt nạ nhoè nhoẹt, không thấy cảnh vật trước mặt, làm
sao mà bắn nhau?
Cũng may suốt thời gian bị vây hãm, tôi
không thấy hai thứ vũ khí mà tôi e ngại nhất là hỏa tiễn AT3 và
thủ pháo chứa hơi hóa học giết người màu vàng.
Chừng một giờ sau kẻng báo động khua
vang, quân trú phòng lại rời hố cá nhân, ào xuống giao thông hào,
chui vào hàm ếch vì đạn 120ly, 105ly, 82ly của địch bắt đầu rơi.
Trận pháo này là dấu hiệu chấm dứt đợt xung phong.
Gần một tháng trời cứ trèo lên, nhảy
xuống theo nhịp đạn pháo cối nổ, chúng tôi có cảm tưởng như mình
còn khéo hơn những ông lính đảm nhận công tác diễn tập trong các
quân trường.
Thời gian này hình như Trung Ðoàn 64/320A được điều động về hướng
ngã ba làng Plei Xome, vùng Nam Căn cứ 711 để ngăn chặn quân tăng
viện. Tôi cũng không nghe thêm tin tức gì của Trung Ðoàn 48/320A;
không biết đơn vị này còn chốt giữ vùng Ðông Pleime hay đã di
chuyển đi nơi khác rồi.
Tình hình tạm yên vài ngày, cho tới một
buổi trưa, Trung tá Hoàng Kim Thanh gọi tôi vào đầu máy:
– Báo cho chú biết có đại ca Anh Ðào
dẫn Con Ó 45 và mấy chục con cua sắt vào tiếp viện cho chú đó!
(Con Ó 45 =Trung Ðoàn 45 của Sư Ðoàn 23
Bộ Binh)
Tôi
buột miệng:
–
Thằng nào láo xược dám dùng danh hiệu “Anh Ðào” vậy?
Sở dĩ tôi phản ứng một cách lỗ mãng và
phẫn nộ như vậy chỉ vì cái tên “Anh Ðào” chính là ám danh đàm
thoại của Cố Thiếu tướng Trương Quang Ân, Tư lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh, nay ai đó ở Sư Ðoàn 23 mà lấy tên “Anh Ðào” làm danh hiệu
thì quả là quá vô lễ, hỗn hào.
Ðầu dây bên kia, người xưng là “Anh
Ðào” đã nghe tiếng tôi, nên ông ta vội phân bua:
– Chắc chú em biết danh hiệu “Anh Ðào”
là của ai rồi. Tôi cũng là một thuộc cấp của Anh Ðào, tôi lấy ám
danh đàm thoại là “Anh Ðào” cũng là để tưởng nhớ người chỉ huy
đáng kính của chúng ta mà thôi! Chú em đừng hiểu lầm!
Tôi bỏ ra khỏi hầm hành quân, không
thèm nói thêm câu nào nữa với ông đại tá bộ binh, người chỉ huy
đoàn quân đang vào tiếp viện cho tôi.
Sau này, anh Thanh có cho tôi biết ông
“Anh Ðào” Phùng Văn Quang, Ðại tá Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 45
Bộ Binh còn giận tôi lắm.
Mặt trận hướng Bắc có vẻ bùng nổ trở
lại, súng nổ suốt ngày. Pháo binh từ Phú Nhơn dành ưu tiên cho
các cánh quân bộ binh đang chạm địch, nên yêu cầu đánh chặn
thường nhật của tôi bị từ chối.
Chiều 29 tháng 8 một tiếng nổ “Ùm!” âm
vang rừng núi. Trên bờ Tây của con suối cắt ngang đường xe be
dưới chân tiền đồn Bắc có 4 quả mìn chống chiến xa.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Để đánh lừa địch, tôi cho
đặt một quả mìn chống chiến xa dưới một cục đá mỏng, trên cục đá
là một lưỡi xẻng rỉ sét. Máy rà mìn sẽ reo lên khi rà sát mặt đất
có lưỡi xẻng và quả mìn. Ðịch thấy cái lưỡi xẻng nhưng không ngờ
dưới đó có một cục đá đè trên quả mìn! Chúng sẽ ơ hờ bỏ qua, rồi
tiếp tục đi tới, lại thấy một mảnh kim loại đè trên cục đá, chúng
không nghĩ dưới cục đá còn có quả mìn...
Tôi leo lên chòi canh, mắt tôi nhìn
không chớp: Một cột khói đen kịt cuồn cuộn dâng lên, cùng lúc
những tiếng “Bùng! Bùng! Lách! Cách!...” do đạn cháy nổ trong
chiếc xe tank mới cán mìn!
Tôi đứng lặng người lo lắng:
“Vậy là K16 Tank tham chiến! Chắc phen
này mình tiêu tùng rồi!”
K16 Tank là tiểu đoàn xe tank T54 trực
thuộc Trung Ðoàn E 40 Pháo của Mặt Trận B3.
Trung Ðoàn E 40 Pháo là đơn vị yểm trợ
hỏa lực trực tiếp của địch trong các chiến dịch lớn trên toàn
lãnh thổ Vùng 2. Thời gian này Trung Ðoàn E 40 Pháo đang trú quân
trong thung lũng Ia–Drang. Nếu Tiểu Ðoàn K16 Tank này nhập trận
thì chúng tôi nguy to.
Tôi có hai Box 1×1 kilomet dự trù sẵn
sàng cho pháo binh chiến lược 175ly đánh bất cứ lúc nào. Hỏa tập
thứ nhất nằm cách chân tiền đồn Bắc, hai cây số, phủ trùm cả cái
cống mà chiếc tank địch bị vướng mìn hồi chiều. Hỏa tập thứ nhì
nằm trên con đường xe be hướng Tây. Nay là lúc tôi dùng tới hai
hỏa tập dự trù này.
Lần đầu được nghe đại bác 175ly yểm
trợ, tôi có cảm tưởng như thời kỳ tháng 8 năm 1972, đứng trong
giao thông hào ở trại Ðức Cơ chứng kiến pháo đài bay B52 của Mỹ
đánh những Box 1×3 kilomet cách rào trại chỉ hơn ba cây số.
Hai bên cổng Bắc đã có mười mấy cây M72
hờm sẵn; nòng súng đã được kéo thành ống phóng, bấm nút là đạn
bay đi.
Khẩu
105ly cổng Bắc không dùng để bắn những mũi tên sắt nữa, mà thay
vào là những viên đạn chống tank với đầu nổ sơn đen.
Tôi có một khẩu súng SKZ 57ly chống
chiến xa, nhưng từ ngày đầu chiến dịch, khẩu súng này đã gãy nòng
vì bị pháo kích.
Khuya 29 tháng 8 tôi ra mật lệnh cho
một toán viễn thám sẵn sàng ở cổng Nam Pleime. Nếu chiến xa Việt
cộng đè sập hết hàng rào, vào càn quét trên căn cứ thì toán sẽ mở
toang cổng sau, quân ta sẽ vừa đánh vừa lui ra hướng sân bay.
Riêng tôi, chú Minh và chú Phước sẽ cố
thủ trong lô cốt chứa thương binh. Minh và Phước đã hứa sẽ cùng
tôi chết bên nhau trên đất Pleime, sẽ không chạy, sẽ không đầu
hàng. Tôi lo lắng từng giờ, chờ những chiếc tank T54 xuất hiện
nơi cổng Bắc.
Ðịa thế của Trại Pleime đóng một vai trò rất quan trọng trong
công việc phòng thủ. Doanh trại của đơn vị trú phòng nằm gọn lỏn
trong vị thế lõm của cái lòng chảo giữa ngọn đồi có cao độ 403
mét. Các pháo đài chỉ cao hơn mặt đất chừng hai gang tay, thấp
hơn chiều cao của cỏ tranh, do đó Việt cộng không phân biệt được
đâu là pháo đài, đâu là tường đất để dùng đại bác mà trực xạ.
Hai mặt Nam và Ðông của Trại Pleime
chưa hứng chịu lần tấn công nào, có lẽ do địa thế không thuận
lợi. Mặt Ðông thì đất dốc đứng, không thể xung phong nhanh được,
còn mặt Nam lại quá trống trải, bộ binh và tank rất dễ bị bắn hạ
trước khi áp sát hàng rào phòng thủ.
Nếu tank địch mà tiến vào từ hướng Nam thì họ sẽ chết chắc! Sân
bay Pleime chứa hàng trăm quả mìn, bộ binh dò đường vừa ló dạng
đã chết bởi đạn Beehive của Trung úy Như. Tôi còn cầu trời xui
khiến cho chúng đưa tank vào hướng Nam để tôi tiễn đưa chúng về
trình diện Diêm Vương.
Ðêm xuống, trong máy truyền tin của tôi
có tiếng người Miền Bắc chỉ vỏn vẹn một câu chứa đầy sự đe dọa:
“Thằng cứng đầu! Tao sẽ san bằng cái
đồn của mày!”
Tôi đã nhận ra giọng nói quen của người phía bên kia, nên từ tốn
trả lời:
– Tôi
nghĩ rằng, người cầm quân tất nhiên phải cân nhắc thiệt, hơn.
Chắc anh đã biết, muốn giết bốn trăm người dưới quyền tôi thì ít
ra anh cũng phải chết một hai nghìn người! Lùa hai nghìn người
vào chỗ chết để đánh đổi một cái đồn bé tí teo có phải là hành
động khôn ngoan không? Chúng ta có ân oán với nhau, nhưng không
thể vì thế mà coi rẻ hàng nghìn sinh mạng của những người dưới
quyền mình.
Chờ khoảng năm phút sau không thấy người kia nói gì thêm, tôi bèn
cúp máy.
Bốn
tháng trước tôi và người này đã chửi nhau một lần vào ngày 14
tháng Tư năm 1974. Ngày đó ở Căn cứ 711, Trung Ðoàn 64/320A của
ông ta bị tôi đánh tan hoang, còn tôi cũng bị cháy 12 chiếc chiến
xa. Tới tối thì ông ta vào máy kêu gọi tôi đầu hàng.
Tôi lớn tiếng réo tổ tiên, ông nội, bà
ngoại ông ta ra mà chửi. Rồi tôi thách thức ông ta có giỏi thì cứ
xông lên, lên bao nhiêu người, tôi sẽ giết chết bấy nhiêu!
Thế là ông ta dốc toàn lực thành phần
còn lại của sư đoàn dưới tay ông để đánh tôi. Ðêm 14 rạng 15
tháng 4 ông ta nướng hết Tiểu Ðoàn D20 Trinh sát; sáng hôm sau
ông ta điều động toàn bộ Trung Ðoàn 48/320A vào trận.
Tới khi Trung Ðoàn 48/320A dùng tới thủ
pháo chứa hơi độc hóa học thì tôi bị thua. Căn cứ 711 bị tràn
ngập.
Quân của
ông ta đã ôm vật tôi xuống đất định bắt sống thì bị Thiếu úy Trần
Văn Phước bắn loạn cào cào, mấy tên bu quanh tôi đều trúng đạn.
Sau đó Trung úy Nguyễn Công Minh kịp thời tiếp cứu, rồi ba thầy
trò tôi chạy bán mạng, thoát chết.
Sau trận đó Ðại tá Tất khuyên tôi nếu
phải đánh nhau với ông ta lần nữa thì chịu khó nói năng dịu dàng
hơn, đừng chọc giận ông ta nữa, ông ta mạnh hơn mình nhiều, tránh
voi chẳng xấu mặt nào!
Ông ta là Ðại tá Kim Tuấn, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 320A Cộng sản.
Mấy năm sau, khi đang bị giam giữ trong
trại tù cải tạo Nam Hà A ở ngoài Bắc, tôi nghe tin Thiếu tướng
Kim Tuấn Tư lệnh Quân Ðoàn 3 của Cộng sản đã tử trận trên chiến
trường Campuchia.
Chạm trán lần này tôi đã có kinh
nghiệm, nên theo cách Ðại tá Tất mách nước, tôi dùng giọng điệu
ôn hòa để đáp lại lời hăm dọa của ông ta.
Không biết qua lần đối thoại vừa qua,
thái độ của tôi có ảnh hưởng gì tới quyết định rút quân của Ðại
tá Kim Tuấn hay không?
Cũng có thể vì quả mìn chống chiến xa
của tôi đã làm sập cái cống bắc ngang con suối khiến cho chiếc
T54 mở đường cắm đầu xuống nước, nên những chiếc tank khác không
tiến được.
Mặt
khác, không loại trừ lý do mà Ðại tá Kim Tuấn ngừng tiến công
Pleime chỉ vì ông ta e sợ bị sập bẫy của Tướng Nguyễn Văn Toàn.
Ông Toàn đang có trong tay một thiết đoàn kỵ binh và một Trung
Đoàn bộ chiến chưa sứt mẻ, dư sức chặn đường lui, và tiêu diệt
gọn cái Tiểu Ðoàn K16 Tank của Bắc quân nếu họ bị lún càng vào
một trận đánh xáp lá cà với những người tử thủ Pleime.
Hai ngày kế tiếp chúng tôi không thấy
pháo cối, và không còn đợt xung phong nào nữa.
Ðêm 31 tháng 8 tôi cho hai toán trinh
sát đi vòng quanh rào trại do thám tình hình, một toán xuất phát
từ cổng Nam kiểm soát hướng Tây rồi về cổng Bắc. Một toán đi từ
cổng Bắc vòng về hướng Ðông rồi vào cổng Nam.
Hai toán thám thính vòng đai về báo cáo
rằng địch đã rút đi rồi!
Toán trinh sát hướng Ðông báo cáo rằng
nơi bờ đất dốc đứng cách hàng rào ngoài chừng hai trăm thước là
hàng trăm hầm hàm ếch của địch. Có lẽ đây là nơi trú ẩn của Trung
Ðoàn 48/320A?
Trong thời gian một tháng qua, tôi chỉ dùng pháo 106ly và 81ly
đánh sát hàng rào hướng Tây, chưa từng có viên đạn cối hạng nặng
nào rơi sát rào Ðông. Ðạn cối 60ly của tôi không có đầu nổ xuyên
phá (delay) nên những lần đánh cận phòng hướng Ðông của tôi chẳng
khác gì bắn “gãi ngứa” cho địch quân trên mục tiêu này.
Tối 1 tháng 9 tôi ra lệnh cho Chuẩn úy
Bảo và Thượng sĩ Sơn dẫn đầu một trung đội của Ðại đội 1/82 leo
lên Chư Gô tái chiếm cao điểm 509. Trung đội này tới mục tiêu thì
địch đã rút đi rồi.
Cùng giờ, một trung đội của Ðại Ðội
4/82 do Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước và Thượng sĩ Phong cũng lên
đường nhắm hướng Chư Hô. Trên Chư Hô, đơn vị phòng không của địch
đã di chuyển, còn lại cỡ một tiểu đội đoạn hậu.
Gần 10:00g đêm trung đội của Chuẩn úy
Phước chạm trán với tiểu đội Việt cộng này. Hai bên bắn nhau
chừng mười phút thì địch bỏ chạy xuống núi. Lá quốc kỳ Việt Nam
Cộng Hoà được kéo lên ngọn cột cao giữa đỉnh Chư Hô vào đúng
KHÔNG (0) giờ ngày 2 tháng 9 năm 1974.
Từ đỉnh núi, Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước
gọi cho tôi rồi báo cáo:
– Trình Thái Sơn, vùng hướng Tây dưới
chân núi Chư Hô, xe của địch đang chạy thành đoàn, đèn chiếu sáng
choang.
Thì
ra, cơ giới địch đang rút đi!
Mấy ngày sau tôi đem theo Ðại đội 4/82
và một toán cận vệ vào thám sát khu vực mà chú Phước nói có đèn
xe của Việt cộng thì phát giác ra nơi ấy là một vị trí đóng quân
của cơ giới địch. Tiếc rằng thời gian qua, quân ta quá chú ý tới
mặt trận hướng Bắc nên không có cuộc không tập nào trên mục tiêu
lộ thiên này.
Vùng này nằm cách Pleime gần 5 cây số về hướng Tây Nam. Chắc chắn
trận địa này đã được thiết trí sau ngày tiền đồn Chư Hô của ta
rút chạy.
Thoạt nhìn ta có cảm tưởng như đang đứng trước vị trí trú quân dã
ngoại của một đơn vị của Hoa Kỳ thời 1968–1970.
Trên diện tích cỡ một sân bóng tròn, xe
ủi đất đã tạo thành những ụ đất dành cho loại súng có bánh xe, có
lẽ là phòng không 37ly hoặc 100ly. Những chùm đạn 37ly và 100ly
mà Việt cộng bắn lên trời để thị uy trong thời gian vừa qua có
thể đã xuất phát từ đây.
Mặt đất in đầy vết xích dấu chữ “V”
chứng tỏ rằng bãi đậu xe này đã là nơi tập trung của một đơn vị
chiến xa Việt cộng.
Nhìn dấu tích địch còn để lại, tôi nghĩ
người chỉ huy Bắc Quân đã lên phương án sử dụng Tiểu Ðoàn K16
Tank T54 vào một trận đánh một mất, một còn với chúng tôi.
Nhưng có lẽ họ đã ước tính được sự tổn
hại to lớn nếu thi hành phương án này, nên đã rút lui.
Chắc chắn họ đã thấy, với một mặt trận
có chiều ngang chưa đầy hai trăm mét, làm sao đủ rộng để cho một
tiểu đoàn cơ giới T54 tận dụng hỏa lực, hàng ngang tiến lên?
Ðó là chưa kể đến những trái mìn chống
chiến xa nằm lền khên trong rừng trên cái dốc cổng Bắc, và dày
đặc trên sân bay cổng Nam.
Tôi đã chuẩn bị sẵn, mỗi người thủ một
trái lựu đạn M26 là phương tiện cuối cùng để tự đưa mình sang thế
giới bên kia.
Tôi tin chắc rằng nếu phải chết, anh lính mù trong bệnh xá cũng
rủ được vài cán binh Bắc Việt chết theo chứ đừng nói chi tới
những chiến binh còn lành lặn.
Chỉ vì, “Một thằng liều mạng bằng mười
thằng sợ chết!” nếu phải đánh nhau trận cuối, chúng tôi bị bắt
buộc trở thành “những thằng liều mạng” chúng tôi bị đưa vào thế
cùng chết với quân thù, thì dù cho đánh nhau với hai chục chiếc
T54 của Mặt trận B3 hay hai trăm chiếc T54 chúng tôi cũng coi như
pha!
Người chỉ
huy Bắc Quân đã không đánh trận cuối cùng thì coi như chiến dịch
Pleime 1974 chấm dứt.
Trong chiến dịch này, ban tham mưu của
Sư Ðoàn 320A Bắc Việt đã đánh giá sai khả năng chiến đấu của Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Chắc họ tưởng đánh Pleime cũng dễ như
chiếm Lệ Minh, nên cứ tiền pháo hậu xung, rồi lừng lững vác cờ
tiến vào đồn? Không ngờ họ đã đối diện một cổng đồn đóng kín và
những hàng kẽm gai dày đặc, để rồi vừa hô được hai tiếng “Xung
phong!” tiền quân của họ đã chết như rạ vì những quả đạn Beehive.
Ðánh nhau kỳ này các đơn vị tiến công
của địch đã bị dụ vào một cái bẫy, họ cứ tưởng lầm Pleime chỉ có
6 lớp hàng rào, như trên cái sơ đồ phòng thủ mà họ tịch thu được
4 tháng về trước, cứ cho Bangalore đánh thủng kẽm gai mở đường
rồi chạy ào lên là có thể chiếm lĩnh mục tiêu, nhưng thực tế
Pleime đã có tới 12 lớp rào, giữa hai hệ thống hàng rào lại là
một vạt đất rộng hai chục thước đầy mìn bẫy!
Trận Pleime năm 1974 là một cuộc đấu
trí và đọ sức trường kỳ không cân sức.
Nhưng với tinh thần chiến đấu quyết tử
vì dân, vì nước của toàn thể chiến sĩ trong đơn vị, Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân đã chiến thắng.
o O o
Đồng bào ơi! Chúng con về đây!
Khoảng 9:00g sáng ngày 2 tháng 9 có một
ông tiểu đoàn trưởng của Trung Ðoàn 45 Bộ Binh vào tần số chúc
mừng tôi đã bình yên. Tiểu đoàn của ông ta và một chi đoàn của
Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh đã tiến tới cách Pleime một cây số nhưng
không chạm địch.
Ông ta dẫn theo một tiểu đội theo Tỉnh
lộ 6C đi bộ vào thăm tôi.
Sau khi cho tháo gỡ ngòi nổ những quả
mìn trên đường, tôi ra cổng Bắc bắt tay cám ơn người bạn đã vào
cứu mình.
Ông
này là một đại úy người Bắc, vì thời gian qua lâu quá rồi, nên
tôi chỉ nhớ mang máng tên ông ta là Hiền hay Hiển gì đó. Tôi
không biết sau này qua bao biến cố, ông bạn ấy có còn sống hay
không?
Trưa 2
tháng 9 năm 1974 chiếc trực thăng đầu tiên đáp xuống Pleime mang
theo Trung tá Hoàng Kim Thanh Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 24 Biệt
Ðộng Quân, anh Thanh không quên đem theo một két bia cổ cao và
một cây nước đá để tưởng thưởng cho tôi.
Sau đó là một hợp đoàn của Phi Ðoàn 229
mang thực phẩm tiếp tế và vài chục tân binh bổ sung. Hợp đoàn
trực thăng này cũng chuyển đi hết số thương binh còn tồn đọng.
Ngày 3 tháng 9 hai vị Ðại tá Biệt Ðộng
Quân xuống thăm chúng tôi cùng một phái đoàn chuyên viên tiếp
liệu tới kiểm tra thiệt hại vật chất của đơn vị tham chiến.
Tôi chưa cho gỡ những lớp rào dích dắc,
nên đoàn người dài ngoằng phải nối đuôi rồng rắn theo nhau từ sân
bay vào trại. Ðại tá Từ Vấn đi trước, Ðại tá Phạm Duy Tất đi kế,
tôi là người thứ ba.
Không có phóng viên nhật báo nào được
tháp tùng phái đoàn của Ðại tá Tất, nhưng có những bức ảnh ghi
cảnh hoang tàn đổ nát của Pleime 1974 đã xuất hiện trên báo Sài
Gòn. Một nhân vật nào đó trong toán chuyên viên thanh tra tiếp
liệu đã lén chụp và trao cho báo chí những bức hình này.
Ðứng bên khẩu súng đại bác đã xẹp bánh
ở cổng Bắc, Ðại tá Vấn cho tôi hay ý định của ông:
– Kỳ này ưu tiên cho thằng Tám Mốt
(Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân) đi hấp ở Dục Mỹ. Còn Tám Hai (Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân) có Thiếu tá Long là chuyên viên huấn
luyện tại chỗ thì không cần phải gửi đi Dục Mỹ nữa!
Tôi không có ý kiến gì khi nghe ông
Liên đoàn trưởng quyết định đưa một đơn vị đánh nhau chưa đầy một
ngày đi tái huấn luyện, thay vì cho đơn vị đánh nhau 33 đêm ngày
đi Dục Mỹ bồi dưỡng ít lâu.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Tôi làm như quay mặt nhìn hướng khác khi thấy ông
Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 cầm cái can chỉ
huy gõ nhè nhẹ vài cái lên nón sắt của Ðại tá Liên Ðoàn Trưởng
Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân, ra dấu cho ông Ðại tá Liên Ðoàn
Trưởng đừng phát ngôn lung tung nữa.
Ngày 14 tháng 9 một đoàn xe chuyển vận
Tiểu Ðoàn 90 của Liên Ðoàn 25 Biệt Ðộng Quân vào trại thay thế
cho chúng tôi để trấn giữ trại Pleime.
Toàn bộ quân nhân còn sống sót của Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân thở dài nhẹ nhõm. Ðoàn xe lăn bánh vượt
con dốc vườn rau của trại, để lại sau lưng chúng tôi cái địa ngục
trần gian của hơn một tháng trời, ngày đêm đội mưa, đội pháo,
ghìm súng chống quân thù.
Theo như ghi chép trên Nhật Ký Hành
Quân của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân thì trong thời gian bao vây
Pleime, Cộng quân đã triển khai 20 đợt tấn công biển người nhắm
vào hệ thống phòng ngự của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Nhưng theo tổng kết của Trung úy Trần
Dân Chủ sĩ quan Ban 3 của đơn vị tôi thì địch đã mở ra gần 30 đợt
xung phong trong thời gian vây hãm này.
Chúng tôi vẫy tay giã từ nơi đây mà
không biết đó cũng là lần ra đi vĩnh biệt.
Có một xe GMC được trưng dụng chở chiến
lợi phẩm. Ðáng lý ra còn nhiều súng ống của địch nằm trong hàng
rào, nhưng tôi không cho người bò vào bãi mìn để lấy thêm, vì đã
có hai Biệt Ðộng Quân chết oan khi vướng mìn và lựu đạn trong lúc
chui vào rào thu nhặt chiến lợi phẩm.
Chúng tôi được lệnh trú quân trong một
khu rừng thưa cách ngã ba Quốc lộ 14 nửa cây số để tắm giặt, thay
quân phục, chờ hôm sau sẽ về Pleiku làm lễ khao quân.
Sáng 15 tháng 9 khi tôi kéo quân lội bộ
ra tới Quốc lộ 14 thì đã có gần hai chục chiếc GMC mười bánh đậu
nối đuôi nhau chờ sẵn.
Sau khi trình diện, ông đại úy chỉ huy
đoàn quân xa, siết chặt tay tôi:
– Kỳ này các ông mà không giữ được
Pleime thì chắc Pleiku bị di tản rồi!
Nghe vậy, tôi vội ngắt lời ông ta:
– Có gì đâu! Nhiệm vụ của Biệt Ðộng
Quân mà!
Ông
đại úy cười hóm hỉnh:
– Tôi ở Pleiku từ thời Trung tướng Vĩnh
Lộc, tôi biết Thiếu tá từ khi ông còn là một thiếu úy, mỗi khi
hành quân về ông đều ghé Quán Kim Liên!
Nghe vậy tôi cười lớn:
– Mình là dân Pleiku, phải bảo vệ
Pleiku cũng là lẽ đương nhiên thôi!
Chiếc xe Jeep của tôi vừa leo dốc qua
cầu Hội Thương Hội Phú thì đã thấy dân chúng hai bên đường vẫy
tay reo hò, “Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!...”
Dân chúng đứng chật ních hai bên đường
từ dốc Diệp Kính tới Hội Quán Phượng Hoàng cao tay phất những lá
cờ nho nhỏ bằng giấy nền vàng ba sọc đỏ. Trong khi đó thì những
cái loa trên một chiếc xe của Ty Thông Tin Pleiku chạy vòng vòng
phát đi những điệu hát quân hành, “Kìa đoàn quân chiến thắng trở
về dưới nắng hồng....”
Quân nhân của Tiểu đoàn tôi phải xuống
xe nơi đầu dốc Diệp Kính, Hoàng Diệu rồi đi bộ hàng một tiến về
sân vận động.
Ði đầu đoàn quân, ngợp trong rừng cờ và biểu ngữ, tôi tưởng mình
bị hoa mắt trông lầm khi thấy trên hai cái băng vải trắng treo
trên hàng rào nhà thờ và căng ngang đường phố trước tư dinh của
Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn II có hàng chữ viết bằng sơn đỏ:
“Toàn dân Pleiku ghi ơn Thiếu tá Vương
Mộng Long và các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt động quân.”
Nơi sân vận động Pleiku này, tôi đã
từng có vài lần đứng chung hàng ngũ những quân nhân được tiếp đón
sau hành quân để nhận huy chương. Tôi chưa thấy có lần nào người
chỉ huy đơn vị được nêu đích danh tên họ để “Ghi ơn”.
Ðây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử
thành phố, một đơn vị nhỏ, cấp tiểu đoàn vinh dự được dân chúng
đón tiếp trọng thể như thế. Ngày hôm đó toàn dân thành phố đã
đình công, bãi thị. Các trường học thì đóng cửa để ăn mừng chiến
thắng.
Dọc
đường, người dân tươi cười hớn hở ào ra dúi cho các anh lính
chiến những bao thuốc lá. Thuốc lá mà đồng bào đem ra cho các anh
lính có khi hút cả tháng sau mà chưa hết! Ngực ông lính nào cũng
căng phồng vì áo lót chứa toàn là thuốc lá!
Trong số đàn bà con nít đứng chờ đoàn
chiến binh đang từ dưới dốc Diệp Kính đi lên có nhiều người là vợ
con lính của tiểu đoàn. Tôi không nỡ ngăn cản những bé con đang
hớn hở, tíu tít vui mừng chạy ra giữa đường níu chân bố chúng nó:
“Ba ơi! Ba ơi! Ba về rồi! Con nhớ Ba
lắm! Ba ơi!”
Cũng có những đôi mắt đỏ hoe, những dòng lệ tuôn, cùng tiếng khóc
nấc trong đám đông, khi ai đó vừa hay tin chồng con của họ sẽ
không về.
Vào
tới sân vận động tôi thấy ở đây quả là một rừng người.
Trên sân, sau hàng quân của tôi là đội
ngũ thầy giáo và học trò, kế đó là đội ngũ dân chúng. Hội đoàn
dân chính do ông Ngô Xuân Thu và bà Hồ Thị Thơm đại diện.
Tôi đứng một mình trước đoàn quân đội
ngũ chỉnh tề.
Anh em còn lại của đơn vị đứng xếp hàng thành một khối 20 hàng
dọc và khoảng trên 20 hàng ngang.
Trên khán đài là hai vị đại tá, Ðại tá
Nguyễn Ðức Dung Tỉnh Trưởng Pleiku, ngồi bên là Ðại tá Phạm Duy
Tất Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2, cùng nhiều thân hào
nhân sĩ của Pleiku.
Dàn nhạc của Quân Ðoàn II bắt đầu bản
nhạc “Bài ca chiến thắng” cùng lúc các nữ sinh đại diện các
trường trung học tiến lên, trên tay mỗi cô là một vòng hoa tươi
nhiều màu sặc sỡ.
Kể cả tôi, có 21 người đại diện đơn vị
được choàng hoa.
Cô nữ sinh dẫn đầu đoàn người đẹp đi
qua trước mặt tôi sẽ là người choàng hoa cho anh lính thứ 21.
Người đi sau cùng mới là người sẽ đứng lại trước mặt tôi.
Trong số nữ sinh đi trong đoàn người ủy
lạo đơn vị tôi hôm đó có một người tôi quen, cô ấy là người yêu
của cố Thiếu úy Biệt Ðộng Quân Ðinh Quang Biện. Thiếu úy Biện là
người anh lớn nhứt của vợ tôi. Anh Biện đã tử nạn năm 1971.
Ði ngang qua mặt tôi, cô ấy nói:
– Cám ơn Tiểu Ðoàn 82! Cám ơn anh Long!
Chị Long và mấy cháu có khỏe không?
Tôi mỉm cười:
– Cám ơn chị, gia đình tôi vẫn bình an.
Thế rồi mấy phút kế đó, sau lưng tôi,
cô nữ sinh này đã bật khóc giữa hàng quân, ngay khi vừa choàng
xong vòng hoa cho một sĩ quan. Có lẽ người con gái Pleiku ấy vừa
nhớ đến hình bóng một người lính Biệt Ðộng Quân đã đi qua đời
mình.
Tình đầu
không thể ví như một giọt sương đọng trên cánh hoa sớm mai, nắng
lên thì hạt sương bay. Tình đầu là những gì chứa đầy chua xót,
đắng cay, ngọt ngào, nếu đã đánh mất nó rồi, thì sẽ không bao giờ
tìm lại được. Nó cứ mãi sống trong tim người. Vì thế mà một thi
sĩ thời tiền chiến đã viết:
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên?” (Thơ Thế Lữ)
Hôm đó người lính nào đứng trong hàng
ngũ Tiểu Ðoàn 82 cũng được các em học sinh và đồng bào trao cho
một gói quà, kể cả các anh vừa mới được bổ sung quân số mười ngày
trước đây.
Cái
hình Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được
cô hoa khôi trung học choàng vòng hoa chiến thắng đã chiếm hết
một trang đầu của Nhật Báo Tiền Tuyến phát hành vài ngày sau đó.
Ðại tá Nguyễn Ðức Dung Tỉnh Trưởng
Pleiku mở đầu buổi lễ bằng một bài diễn văn dài. Ông Tỉnh Trưởng
không tiếc lời ca tụng chiến công mà chúng tôi vừa lập được.
Kế tiếp là một bài phát biểu dài thật
là hùng hồn và sống động của ông Ngô Xuân Thu, Dân Biểu đơn vị
Pleiku.
Ông
Ngô Xuân Thu cho chúng tôi những lời khen khiến chúng tôi cảm
thấy mình đang bay lên tới tận mây xanh.
Cứ sau vài câu ca tụng “những chàng
trai Việt kiêu hùng” ông dân biểu lại lớn tiếng hô to “Hoan hô!”
thấy thế dân chúng trong sân cũng lớn tiếng “Hoan hô!” theo.
Ngay sau khi Dân Biểu Ngô Xuân Thu dứt
lời thì cả sân vận động bỗng trở thành một cái chợ với những
tiếng gọi nhau “Ơi ới!” của các bà, các cô tranh nhau đem quà
phân phát cho chiến sĩ. Phái đoàn ủy lạo của bà Hồ Thị Thơm và
các bà trong đội ngũ phụ nữ đã chuẩn bị sẵn 500 ổ bánh mì thịt và
hai con heo sống thật bự dành cho những đứa con vừa trở về từ
chiến trường.
Con rể của bà Thơm cũng là một trung sĩ Biệt Ðộng Quân, nhưng anh
Trung sĩ Ðốc làm việc ở văn phòng, nên không có mặt trong hàng
quân đang đứng trên sân.
Cuối cùng tôi bị gọi tên lên bục phát
biểu cảm tưởng.
Vì không được thông báo trước chuyện
này, nên đứng trước máy vi âm tôi không có tờ giấy đánh máy sẵn
như ông Ngô Xuân Thu, tôi cứ nghĩ gì thì nói vậy.
Khi tôi dứt câu:
“Thưa đồng bào Pleiku! Chúng tôi là
những đứa con của đồng bào! Chúng tôi sẵn sàng hy sinh thân xác
mình để canh từng thước đất, giữ từng đoạn giao thông hào chống
quân xâm lăng, cũng chỉ vì sự an nguy của đồng bào! Hôm nay những
đứa con của đồng bào đã bình an trở về rồi! Ðồng bào có thể yên
tâm, không còn lo sợ nữa!”
thì trong đám dân chúng đứng bên trái
khán đài có nhiều tiếng khóc sụt sùi.
Mấy chục năm sau, tôi không quên hình
ảnh những cụ già vừa lau nước mắt vừa nghẹn ngào:
– Các con vất vả quá! Thương các con
quá, các con ơi!
Những phóng viên nhà báo Việt Nam và
ngoại quốc tranh nhau chụp hình quay phim.
Có một phóng viên người Mỹ hỏi tôi:
– Xin anh cho biết vì sao trong tình
trạng thiếu thốn và tuyệt vọng như thế mà các anh vẫn kiên trì
chiến đấu rồi chiến thắng?
Tôi cười, đáp gọn:
– Chúng tôi chiến đấu tới cùng là vì an
nguy của đất nước Việt Nam!
Người quay phim của Tiểu Ðoàn 20 Chiến
Tranh Chính Trị cũng phỏng vấn tôi một câu tương tự:
– Ðộng cơ nào thúc đẩy Thiếu tá đã liều
mình tử thủ Pleime?
Tôi cũng cười:
– Vì đồng bào Pleiku, và vì đồng bào cả
nước!
Các ký
giả săn tin còn tìm thêm được vài Biệt Ðộng Quân khác để phỏng
vấn, trong số những người hùng được lên màn ảnh truyền hình kỳ
này có Trung úy Nguyễn Công Minh, Thiếu úy Phạm Văn Thủy, Chuẩn
úy Nguyễn Hữu Phước và Trung sĩ viễn thám Nguyễn Chi.
Chiều 15 tháng 9 trên 400 quân nhân của
tiểu đoàn được chia thành từng tốp từ 5 tới 8 người để dự tiệc do
các cửa tiệm tư nhân, hay hội đoàn tiếp đón.
Tôi cùng Thiếu úy Trần Văn Phước và
toán Viễn Thám của Mom Sol được “Nghiệp Ðoàn Tài Xế xe Lamb” và
“Hội xưởng cưa” tiếp đãi. Bữa tiệc này có Ðại tá Chỉ Huy Trưởng
Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 tham dự.
Sau này những cửa tiệm như Giò Chả Bắc
Hương, Hủ Tiếu Hiệp Thành, Cà Phê Kim Liên, Nước Mắm Nguyễn Quý,
Phở Kim Phượng, Cơm Ba Cò, Quán Kim, Quán Nhớ... vân vân, nếu
thấy anh lính Biệt Ðộng Quân nào mang trên vai cái huy hiệu đầu
cọp có số “82” thì không tính tiền, hoặc tính theo giá rẻ.
Trong nhiều ngày sau đó, hình ảnh buổi
lễ khao quân ngày 15 tháng 9 năm 1974 trên sân vận động Pleiku đã
trở thành một trong những sự kiện nổi bật trên màn ảnh truyền
hình quốc gia.
Thời gian nghỉ dưỡng quân ở Pleiku tôi
có dịp gặp và nói lời cám ơn tới những đồng ngũ đã có mặt trong
các đoàn quân vào tiếp viện cho tôi, đặc biệt là các bạn ở Trung
Ðoàn 41 Sư Ðoàn 22 Bộ Binh và các bạn ở Trung Ðoàn 53, Trung Ðoàn
45 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Tôi nói với họ rằng, nhờ có những đóng
góp máu xương của họ mà chúng tôi mới tạo được chiến thắng vẻ
vang này.
Anh
em trong đơn vị tôi có ba ngày nghỉ tự do, nhưng chỉ được đi
loanh quanh trong phố Pleiku thôi, không ai được phép đi sang
thành phố khác.
Là con chim đầu đàn, tôi phải nêu
gương, giữ gìn quân kỷ. Dù nhớ vợ con vô cùng, tôi cũng không dám
bỏ đơn vị để “dù” về Ban Mê Thuột thăm nhà.
Chiến thắng Pleime năm 1974 của Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chứng tỏ cho thế giới biết rằng dù phải
chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà
vẫn có thể chu toàn nhiệm vụ bảo quốc an dân.
Với thượng cấp chúng tôi đã hoàn thành
sứ mạng được giao phó.
Với đồng bào Pleiku, chúng tôi đã xứng
đáng là những người con tin yêu của thành phố.
Với cá nhân tôi thì trận đánh 33 ngày
đêm này chính là cơ hội để tôi thi thố hết khả năng của một người
cầm quân.
Những chiến binh “Tử thủ” Pleime năm 1974 đã vì đất nước mà quên
cả mạng sống của chính mình, nên nhiều chục năm sau họ vẫn cảm
thấy tự hào:
“Tôi rất hãnh diện đã là một người lính của Tiểu Đoàn 82 Biệt
Động Quân”
Theo thời gian, những người từng hiện diện trong chiến dịch
Pleime 1974 đã và sẽ theo chân nhau thành người thiên cổ. Nhưng
trong quân sử, chiến thắng Pleime năm 1974 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt
Ðộng Quân Biên Phòng sẽ mãi mãi được lưu truyền như một huyền
thoại của chiến tranh Việt Nam trong thế kỷ thứ 20.
Vương Mộng Long
Khóa 20 VBĐL
Nguồn:
Báo TRẺ Online
C1 C2 C3 C4 C5 C6 C7 C8 C9 C10 C11 Mục Lục
Những
trang có cùng chủ đề:
Chiến Trận Pleime 1974
Trận Chiến Pleime 1965
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nguyễn vân tùng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 4, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang