Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Thi–Văn & Âm nhạc
Chủ đề:
Thơ thời chiến
Tác giả: Văn Nguyên Dưỡng
Mục Lục
*Trang:
01,02,03,04,05,06,07,08,09,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,
20,21,22,23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,33,34,35,36,37,38,39
40,41,42,43,44,45,46,47,48,49,50,51,52,53,54,55,56,57,58,59,
60,61,62,63,64,65,66,67,68,69,70,71,72,73,74,75,76,77,78,79,
80,81,82,83,84,85,86,87,88,89,90,91,92,93,94
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
ĐÔI DÒNG TÂM SỰ
Tập trường
ca song thất lục bát này được hình thành qua 3 giai đoạn:
Tác giả có ý định sáng tác một khúc hát
cho chinh nhân, nên đầu tiên tiêu đề là “Khúc Hát Hoàng hoa”. Từ năm
1981 đến đầu năm 1982, thời gian còn ở trại tập trung cải tạo Tân
Lập (tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt) khúc hát được gần 300 câu thì phải bỏ
dở vì nhiều lần bị khám xét cá nhân và trong những lúc khám tâp thể
mà trại cải tạo gọi là “điểm nghiệm”. Lúc đó không có giấy tập nên
viết trên bao bì xi–măng rọc ra, xếp thẳng đóng thành tập nhỏ. Phải
nhớ thuộc lòng và đốt bỏ bản thảo thứ nhất này.
Năm 1984, tháng 4, chuyển về trại cải tạo
Z30D/K2 (ở căn cứ Hàm Tân) có ý viết tiếp, nhưng vì bị nghi ngờ sáng
tác một số bài thơ ngắn phổ nhạc – loại “nhạc đen” chống cộng sản –
bị khám xét nhiều lần không viết tiếp được. Tuy vậy vẫn bị đưa vào
đội kỷ luật là đội làm việc nặng, cấm thăm nuôi và bị cô lập với mọi
người khác ngoại trừ người cùng đội, bị tịch thu tất cả giấy bút,
lại càng không thể viết gì được. Mãi đến năm 1987 bị bệnh, được đưa
vào đội làm mộc thủ công và đan lát; gặp anh Hoài Sơn Ưng Ngọc
Nghĩa, nhà báo, nhà giáo trước năm 1975 và là Ủy viên Trung Ương
Đảng Cấp Tiến của Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy. Anh Nghĩa sành
thơ ca, thích văn học nghệ thuật, nhất là cổ thi, thuộc làu Chinh
phụ, Cung Oán, Kiều và Tỳ Bà Hành. Nhân một buổi lao động ngoài
trời, cùng nhổ đậu phộng chung một luống với Ung Ngọc Nghĩa, tác giả
buột miệng đọc một vài đoạn trong Trường ca. Hoài Sơn lắng tai nghe,
ngạc nhiên hỏi: “Đoạn song thất lục bát của anh vừa đọc nghe hay
lắm, sao tôi không được biết?” Tôi nói với anh rằng: “Nếu anh nghe được,
tôi đọc tiếp thêm mấy đoạn nữa rồi sẽ nói tên tác giả...” Vài ngày
sau tôi thú thật với anh là tôi đang sáng tác một trường ca, nhưng
chưa hoàn tất. Tôi cũng nói rằng trước đây, năm 1966, đã xuất bản
tập thơ “Vùng Đêm Sương Mù”. Anh bảo rằng anh có đọc tập thơ này.
Anh khuyến khích tôi nên viết tiếp Trường Ca. Trong vòng 4 tháng,
tôi sửa chữa lại phần 300 câu đầu “Khúc Hát Hoàng Hoa” và viết thêm
được hơn bốn trăm câu nữa, chính xác được là 714 câu ghi chép trong
2 tập giấy 100 trang. Sau đó hai tập này được trao cho người bạn là
Nghiêm Phú Phát đem ra khỏi trại tù. Được biết hai tập bản thảo này
cũng bị thất lạc. Như vậy tôi mất cả ba bản thảo, chỉ còn lại 714
câu thơ nhớ trong đầu...
Tháng 5 năm 1987, anh Ung Ngọc Nghĩa được
trả tự do, tôi thiếu người tri âm, hai tập thơ gởi Nghiêm Phú Phát
cũng không còn, tôi buồn không viết nữa.
Tháng 6 năm đó, gặp lại anh Thảo Trường
Trần Duy Hinh, nhà văn nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn trước năm 1975, biết
tôi đang hoài thai một trường ca nên yêu cầu tôi đọc một đoạn. Tôi
nể lời, đọc một vài đoạn. Nghe xong, anh nói: “Anh chơi đồ cổ chưa
đánh giá được, nhưng nghe hay, nên tiếp tục...” Tôi bảo rằng, sợ
không viết nổi nữa vì hào quang của Chinh Phụ và Cung Oán rạng rỡ
quá, “Trường Ca Trên Bãi Chiến” rồi sẽ chết thôi. Quả thực, trước
tôi đã có nhiều người làm hoặc dịch cổ thi bằng thể thơ song thất
lục bát, còn được bản dịch “Tỳ Bà Hành”. Kỳ dư, không còn ai nhớ các
tác phẩm nào ở thể loại này.
Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, mặc dù không thể
theo kịp một phần tiếng thơ của tiền nhân, nhưng chẳng lẽ bỏ dở
dang, bỏ qua tiếng lòng mình đang thổn thức với bao nhiêu cay đắng
trong những năm tháng dài đằng đẵng... Dứt khoát tiếp tục và chỉ
trong 3 tháng, từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1987, tôi hoàn tất bản
thảo với 1240 câu song thất lục bát – Ngày 9 tháng 9 năm 1987 viết
dòng thơ cuối cùng.
Đó là ba giai đoạn hoài thai và sinh nở
tác phẩm.
Sau đó,
cũng mất gần 6 tháng mới sửa chữa tạm hết những lỗi lầm và cho gãy
gọn hơn. Như vậy, “Trường Ca Trên Bãi Chiến” hoàn toàn được thai
nghén và sinh nở trong thời gian tôi ở trong các trại tập trung cải
tạo – thực ra là những nhà tù từ miền Bắc về đến miền Nam Việt Nam,
từ năm 1981 đến cuối mùa Thu 1987. Suốt thời gian hơn sáu năm đó,
khi bỏ dở, khi tiếp tục viết.
Cái khó khăn vô cùng là vừa phải giữ bản
thảo lén lút, vừa phải nhớ trong đầu. Lúc viết lại càng khó khăn
hơn, đôi khi viết năm bảy câu trên đất, trên cát ở giờ giải lao giữa
các buổi lao động; bôi xóa, sửa chữa, ghi nhớ rồi, về chép lại vào
bản thảo ở giờ cơm, ở đêm tối và ở những lúc viết thơ về gia đình.
Đôi khi, mà có thể nói là rất nhiều khi, nửa khuya nằm chưa ngủ,
chợt có một vài ý, hay nghĩ được một số câu thích ý, trở dậy lấy bút giấy (lúc nào
cũng để trên đầu nằm) viết trong bóng tối, nhiều lúc dòng chữ này đè
lên dòng chữ nọ, hoặc các dòng chữ nằm cách xa nhau, xiên xẹo. Tuy
nhiên, hôm sau vẫn đọc được, nhớ và chép lại. Và như vậy mà tác giả
viết và giữ bản thảo trong trí nhớ cho đến khi hoàn tất.
Ngày 18–2–1988, được trả tự do, có một
thời gian rỗi rãi, lại ngồi sửa chữa nữa, bản thảo còn lại 1144 câu.
Bản thảo chép lại trong một quyển tập nhỏ, bìa cứng. Sau đó, năm
1990, gởi cho một kỹ sư Pháp tên Dumont ––giám đốc của Hãng Xây dựng
Fressynet của Pháp ở Việt Nam mà tác giả làm phó giám đốc hành
chánh— mang về Pháp giữ giùm. Năm 1991, khi tác gỉả sang định cư ở
Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn nhân đạo, Kỹ sư Dumont gởi hoàn bản thảo đó
cho tác giả. Hơn hai mươi năm sau. Lại sửa chữa lại, bớt thêm một số
câu, cuối cùng còn lại 1034 câu.
Tác giả là một quân nhân, đã từng theo
chiến tranh, chấp nhận chiến tranh, nhưng ghê tởm và chán ghét chiến
tranh – mà mắt tác giả đã nhìn thấy mọi tàn phá và tang thương của
chiến tranh từ năm 11 tuổi, diễn ra hằng ngày trên đất nước yêu
thương của mình. Trong cuộc sống ở thời bạo loạn đó, tác giả không
hề học đòi hay theo một thứ triết thuyết nào mà chỉ sống bằng tấm
lòng của mình. “Nhân và Tình” là thứ triết thuyết lớn nhất trong
cuộc sống, trong lối hành xử cũng như trong tư tưởng sáng tác của
tác giả.
“Trường Ca Trên Bãi Chiến” là tác
phẩm thơ thứ hai sau tập thơ đầu tay “Vùng đêm Sương Mù”, in ở Sài
Gòn năm 1966. Còn một số rất nhiều bài thơ ngắn vẫn còn nằm trong
một bản thảo khác...
Mùa Xuân năm 2012
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Trường Ca Trên Bãi Chiến
1
Ai kẻ sĩ đêm đêm thao thức
Nghe núi sông trổi khúc trường ca
Âm xa
từ rặng rừng già
Điệu gần từ ngõ dẫn ra
lối mòn
Đường
ngang dọc xuyên sơn ai kẻ
Bốn nghìn năm
còn vẽ xuân miên
Trời xanh gối dải đất
liền
Trăm dòng sông hội ra miền biển
Đông
Tích kỳ
vĩ Tiên Rồng một thuở
Giống Lạc Hồng
trứng nở trăm con
Hẹn nhau xuống biển
lên non
Vượt dòng huyền thoại khơi nguồn
sử xanh
2
Đứng cõi bắc xây thành dựng ải
Trẩy triền tây nối dãy Trường Sơn
Xuống
đông cỡi ngọn sóng cồn
Vào nam gạn cát
Cửu Long làm nền
Móng đã vững thềm trên biển cả
Tiết bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Nắng mưa
nhuận tháng năm ròng
Cánh cò đã mỏi trên
đồng lúa xanh
Xuân lộc điểm vài cành mai trắng
Hạ
hương đưa mấy quãng đầm sen
Gió thu rụng
lá đường trên
Sương đông xóm dưới lửa
đèn hắt hiu
3
Quê hương đó trăm chiều thương khó
Trải cảnh nghèo nắng nỏ nghìn năm
Nghìn
năm ngọc đá vẫn trầm
Mà dòng văn hiến
vẫn thâm cỗi nguồn
Từ mạch đất trống dồn Ngọc Lũ
Từ thềm mây chuông dội Đông Sơn
Từ xưa
ai dựng nước non
Về sau giữ nước ai còn
vì ai
Nào ai
kẻ cân đai khanh tướng
Nào ai người phúc
hưởng thư kinh
Những ai lên thác xuống
gềnh
Những ai xuôi ngược bồng bềnh núi
sông
4
Kẻ xuống đông lưới dong biển rộng
Kẻ lên đoài rìu lộng rừng phong
Kẻ vui
điền dã nâu sòng
Kẻ say thơ thắm rượu
nồng lệch vai
Chí ai quyết vượt ngoài nghìn dặm
Lòng
ai ham chiếc bóng phù vân
Duềnh sương
trũng ngọn non Tần
Bước ra vào khỏi ngại
ngần hôm mai
Cõi trời đất năm dài tháng rộng
Kiếp con
người như bóng câu qua
Chỉ mong lợi nước
yên nhà
Câu thơ nguyệt mãn chung trà
tịch dương
5
Sáng chăm việc rẫy nương điền lý
Chiều luận câu thanh ý thâm cao
Trong
đạo nghĩa ngoài trăng sao
Khi ra nhàn
nhã khi vào thong dong
Nào ai khứng phiêu bồng hồ hải
Đem tấm thân gởi bãi phong sương
Hỏi
lòng ai khỏi vấn vương
Hỏi đường ai biết
chiến trường bao xa
Từ lán cỏ sương sa buổi sớm
Từ hàng cây nắng nhớm chiều sang
Từ
trong nương trạch xóm làng
Từ ngoài ải
dọc thành ngang cách vời
6
Tiếng trống giục làm rơi nước mắt
Cờ quân bay lay lắt niềm đau
Lửa binh
dồn dập cõi đầu
Nước mây thôi cũng đổi
màu thê lương
Bóng ai đã cuối đường ruổi ngựa
Bóng ai
còn tiến giữa bãi nương
Những người vào
gió ra sương
Nghìn năm đã hết đoạn
trường hay chưa
Cảnh binh lửa nào ai chẳng sợ
Buổi nhiễu nhương ai nỡ làm ngơ
Thân
trai thôi mãi bao giờ
Hẹn đầu Cao Lạng
hẹn bờ Mã Chu
7
Chẳng sang Tần chẳng vào đất Hán
Thân nguyện làm bờ ngạn đê sông
Ai hay
cái chí tang bồng
Của người ôm túi kinh
luân thế nào
Hay kẻ ước ra vào hổ trướng
Hay người
mong lộc hưởng công khanh
Làm chi cái
kiếp nghê kình
Biển hờn sóng giận nương
mình vào đâu
Hay hùm sói rừng sâu núi thẳm
Xâu xé
nhau máu đẫm ngàn thâu
Hám chi một bước
công hầu
Vào vòng sinh tử bạc đầu chưa
thôi
8
Bãi loạn địa liều phơi xương tóc
Thân chinh y vai bọc kiếm cung
Ai vì một
miếng đỉnh chung
Ai vì muốn giữ hiếu
trung trọn tình
Tấm áo mẹ còn tinh vệt sữa
Mảnh đất quê binh lửa in hằn
Vết thù còn
rõ dấu chân
Còn vào gió cát phong trần
với ai
Nào ai
đợi đủ tài thao lược
Nào ai nòi lộc tước
trâm anh
Cũng là mặt trắng thư sinh
Cũng là bình giã nhàn đinh như người
9
Đêm đông lạnh vào nơi lũng gió
Ngày hạ hanh ra ngõ cát nung
Đỉnh mây
chưa hết phiêu bồng
Đáy sương cuối vực
đã lồng gót chân
Sáng đuổi địch vượt tràn hoang đoái
(1)
Chiều cắm cờ giữ bãi sương phong
Đầu
sương tiếng trống điểm thùng
Cuối sương
tiếng dế não nùng thay canh
Nước suối lạnh cũng thành rượu ấm
Rau mùi hăng cũng đậm vị hương
Nắm tranh
guộn cỏ làm giường
Chiếu sương màn gió
ai lường trắng đêm
10
Ngày chưa đến trăng mềm lối thỏ
Lệnh lại về đuốc đỏ đường thung
Quân
trong vừa động mạch rừng
Quân ngoài đã
cuốn mối đường vượt đi
Mắt trông hướng lệnh kỳ vừa phất
Lòng mơ gì nẻo tắt đường ngang
Núi đồi
trùng điệp thênh thang
Bập bùng ánh lửa
rộn ràng vó câu
Gió nào ngủ trên đầu ngọn cỏ
Nước nào ngưng ở chỗ thác bung
Gót chân
vó ngựa không ngừng
Trèo đèo lội suối
băng rừng vượt sông
11
Tóc đã gội hai vầng nhật nguyệt
Da còn phơi tám tiết quang âm
Tháng năm
nước chảy đá mòn
Bước chân vô định biết
còn đến đâu
Khi ra chốn nước sâu dọ địch
Khi vào
nguồn đánh kích vùng trên
Ba trăm lối
thác đường ghềnh (2)
Long Môn cũng vượt Hào Tràng cũng qua
Dương liễu xuân sắc già bóng nước
Hoa não nùng chạnh bước người qua
Ly
đình tiếng địch xa xa
Người vào Tương
Thủy người ra đất Tần. (3)
12
Chén rượu ấm ở lần tiễn giã
Đã nên câu túy ngọa sa trường
(4)
Mịt mù nẻo gió đường sương
Bút long nối
bởi trường thương cõi ngoài
Đường chinh chiến dặm dài dong ruổi
Bóng câu dồn gió đuổi mưa bay
Đã ra tận
biển sóng đầy
Đã vào tận chốn chân mây
mịt mùng
Dấu
binh lửa chập chùng trước mắt
Cảnh tang
thương ruột thắt từng cơn
Như khi bão
biển chớp nguồn
Can qua dậy sóng dập
từng làng quê
13
Từng gốc rạ thân tre bết máu
Từng mái tranh bờ giậu lửa vây
Từ trên
thửa đất luống cày
Thịt da rửa rói xương
bày trắng phau
Dòng sông nọ nhịp cầu gãy đổ
Vách thành kia tường lở gạch long
Trấn
kia đượm ánh chiều buồn
Thôn kia trăng
nhợt chập chờn lửa ma
Góc vườn đó hoang sơ mộ địa
Bãi dâu đay vắng vẻ tằm tơ
Liễu mai thôi
cũng bơ phờ
Phận người thôi cũng vật vờ
nổi trôi
14
Nhìn tận mặt mặt người chẳng nhớ
Nhớ mắt người dò dõ lệ tuôn
Máu ai đỏ
nước chân đồng
Lệ ai thấm trắng mối
đường ai qua
Ai bươn bả nắng lòa ánh mắt
Ai so ro mưa
cắt làn da
Khói hương bỏ lại quê nhà
Nắm cơm đất loạn nước pha mùi bùn
Trẻ côi cút run run ngờ nghệch
Già nhom nhom lếch thếch cô đơn
Từ khi
binh biến dập dồn
Bạc đầu thiếu phụ bạt
hồn hài nhi
15
Thảm cảnh ấy sinh ly từ biệt
Đau thương này se siết ruột gan
Ước gì
xẻ được tấm thân
Làm khiên chống giặc
làm can vực thành. (5)
Làm manh áo che thân lão phụ
Làm thưng cơm ấm dạ trẻ côi
Thương thay
cái kiếp con người
Nghìn năm nhược tiểu
sao trời chẳng thương
Nào những thuở lên rừng bắt trĩ
Nào những khi xuống biển mò châu
Những
khi nắng lửa mưa dầu
Tằm tơ tám lứa hoa
màu năm hai (6)
16
Lệ đã đổ dọc dài Phú Quảng
Xương đã rơi rợp trắng Tỉnh Vân
Sông
Hồng đỏ sóng chang chang
Ngà trai mặt ố
tơ vàng sắc phai
Dân trăm họ ngày dài thống khổ
Giống nòi này con đỏ cũng đau
Hạ Long
dún mặt nước nhàu
Tản Viên mây dựng
thành sầu từ xưa
Dồi lưng nước bèo thưa sóng dập
Lạc chân mây gió táp chim côi
Bao lâu
biển sóng cát bồi
Dấu chân Giao Chỉ đã
soi mạch rừng
17
Vách tuế nguyệt tưởng chừng bít lối
Đường phong văn vẫn dọi về sau
(7)
Cho hay tạo hóa cơ cầu
Cho dày bóng tối
cho sâu đêm trường
Cho điêu đứng tang thương mọi nỗi
Giữ cho lòng rắn rỏi sắt son
Cho dù biển
cạn non mòn
Khí thiêng sông núi hãy còn
thiên thu
Còn
nung nấu mối thù vong quốc
Mặt sĩ phu
vằng vặc trăng sao
Lòng son gởi ngọn cờ
đào
Mượn gương Thục đế rọi vào tâm can
18
Cõi phù thế luống đan nhiễu sự
Kiếp nhân sinh nặng chữ Tình thâm
Nên tơ
phải trải thân tằm
Thử vàng chọn đá mài
gươm cũng đành
Bờ cõi ấy xanh xanh đứt nối
Cơ đồ này sông núi quanh quanh
Vành
trăng sao khuyết nửa vành
Trời nam một
dải đất lành riêng thương
Nào ai kẻ đồ vương tranh bá
Biết chăng điều quốc phá gia vong
Tử ly
là chuyện đau lòng
Gây chi nên cảnh đèo
bồng giết nhau
19
Hàng cờ phất lệ sầu đã rõ
Tiếng trống dồn máu đổ thây phơi
Oán kia
nào phải tại trời
Oán kia cũng bởi lòng
người mà ra
Đường vắt vẻo sương pha đầu ngựa
Nẻo kỳ
thu nắng bủa mưa sâu
Cỏ cây rừng núi úa
màu
Bóng quân giặc dữ sóng đầu biên quan
Thế nước nhỏ muôn vàn điêu đứng
Có kinh quyền mới vững về sau
Nhìn ra
chẳng rõ mặt nhau
Mà thù chẳng đội trên
đầu trời chung
20
Cùng đổ máu trên cùng chiến địa
Mà nghìn thu danh nghĩa khác nhau
Kẻ
mong rạng mặt công hầu
Liên thành mong
đoạt tiến chầu đế vương
Người cam nỗi thê lương vận nước
Gieo lời nguyền vị quốc vong thân
Xông
vào trận địch giăng giăng
Thép gươm
loang loáng trắng ngần trường y
Trống trận nổi tốn ly nào rõ
Tiếng quân reo sinh đổ nào hay
Buổi đầu
ai chẳng run tay
Gươm đao tối mắt như
say rượu nồng
21
Giáo đâm suốt mà lòng vẫn sợ
Khiên vừa che thế võ của ai
Máu đào tung
chiếc đầu bay
Tưởng chừng sao rụng đâu
đây đầy trời
Người ngựa xéo tơi bời nội cỏ
Phải đâu
trời vừa đổ phong ba
Tên bay như buổi
mưa già
Vút vào mặt gió xé da tách rừng
Ai gào thét mông lung đồng vọng
Ngỡ rằng sa vào chốn trầm luân
Nhạc đâu
tấu khúc lạ thường
Ầm ầm xô xát nghe
dường đất long
22
Tranh nào vẽ màu hồng dữ dội
Hay lửa trời cháy buổi hồng hoang
Đầm
đìa máu đẫm loang loang
Máu lay chân cỏ
máu tràn đầm ao
Người lăn lóc giáp bào tơi tả
Bóng chập chờn nghiêng ngả ngựa xe
Dọc
ngang ai những đi về
Ai còn bỏ xác cuối
khe đầu ghềnh
Ai tháo chạy chênh vênh sườn núi
Ai săn
người nẻo suối quanh co
Ngổn ngang gươm
giáo trống cờ
Gió lùa khói tỏa vật vờ
bãi hoang
23
Trống đuổi địch vang vang đầu núi
Trăng tàng tàng mọc cuối rừng xanh
Não
nề thay ánh trăng thanh
Rơi vào bãi
chiến cũng thành khói sương
Nhớ trăng buổi lên đường độ nọ
Thương bóng riêng vò võ cô đơn
Trăng
theo trăm quãng đường mòn
Cùng thương
nỗi nước cũng buồn nỗi dân
Buồn thương ấy trăm lần trăn trở
Tỏ cùng trăng trăng rõ niềm riêng
Nay
trăng sa lối lạc miền
Vào trong bãi
chiến nỗi phiền càng cao
24
Kẻ thù ấy lao xao lối hoạn
Bước thế đồ chập choạng ruổi dong
Ngang
tay với cái tang bồng
Xịch chân lỡ dấn
vào vòng trường chinh
Thế sự tạo nên hình tân khổ
Bể phù sinh thấp thó âm nha
(8)
Nhanh ra thì thước gươm già
Chậm thì
thôi đã thành ma chiến trường
Hồn dù muốn về nương cố quận
Nẻo âm dương đã đoạn quan san
Rừng xanh
sao lá úa tàn
Lá rơi từng lá trên hàng
thây phơi
25
Mưa nắng nhỡ xỉa xoi da thịt
Tháng năm hờ bưng bít họ tên
Những người
muôn thuở sẽ quên
Bỏ thây nghìn dặm làm
nên một người
Bỏ hương thổ măng côi uyên lẻ
Bỏ cố
đường lìa mẹ xa cha
Có hay ngày tháng
phôi pha
Trăm năm nguyệt khuyết dương tà
ai hay
Người
nằm đó sương thay sắc mặt
Người tựa đây
gió tắt làn hơi
Người như còn mỉm miệng
cười
Người như nấm đất chưa rời lòng tay
26
Người cúi mặt như say nửa giấc
Người ngẩng đầu ánh mắt xa xôi
Có tay
xin vuốt mắt người
Có tim dở dói có lời
mà câm
Có
sương lạnh đầm đầm mặt đất
Có hơi may
san sát bờ lau
Có trời có đất có nhau
Có ra gian khổ có vào tử sinh
Có già trẻ nối tình non nước
Có lạ quen trùng cuộc biển dâu
Cùng nhau
chung sắc chiến bào
Cùng nhau chung dãy
chiến hào chung lưng
27
Cùng tiếng hát vang lừng đầu núi
Cùng tiếng cười vẳng dội rừng sâu
Cùng
nhau khi bắt nhịp cầu
Cùng xây bờ lũy
cùng rào bãi chông
Khi ra nội gánh gồng tích thảo
Khi vào sâu rào giậu đồn lương
Khi vui
cũng có khi buồn
Khi nghe chớp núi mưa
nguồn mà nao
Khi chung áo đêm nào đông lạnh
Khi xẻ
cơm chiều quạnh tàn thu
Khi chung nhau
ánh đèn mù
Khi trang sử đọc khi trù việc
quân
28
Vui rước đuốc cùng dân trẩy hội
Vui rời ngàn mở lối về xuôi
Vui qua chợ
nhỏ đông người
Vui ra bến lớn thuyền
trôi đầy dòng
Vui lúa sớm tràn đồng nở rộ
Vui tiếng
chày nhịp trổ đêm trăng
Vui ròn vó ngựa
giăng hàng
Vui tràn trại giặc phất ngang
bóng cờ
Buồn
vách núi lơ thơ bóng nhạn
Buồn lưng đèo
thôn bản tiêu sơ
Buồn cơn mưa chuyển nhờ
nhờ
Buồn mây treo lửng trên bờ thành
hoang
29
Buồn nắng nhạt khói loang góc gió
Buồn trăng tàn lửa đỏ ven sông
Buồn xa
bóng giặc tràn đồng
Buồn ra biển lớn
giặc dong thuyền đầy
Nỗi buồn đó cũng dày nỗi khổ
Nỗi buồn này ai rõ được cho
Nắng mai
vàng võ xấp sô
Đêm tàn sương tạnh lệ hồ
chưa vơi
Người
còn lại ngậm ngùi đứng lặng
Người đi rồi
như thoáng giấc mơ
Tình xưa nước lã nên
hồ
Keo sơn nay rã bến bờ nay phân
30
Để người lại lần khân chẳng nở
Mang người đi sợ nhỡ việc chung
Hỡi ơi
trời đất vô cùng
Buồn riêng chưa vợi
buồn chung lại đầy
Người ở lại đất dày làm bạn
Người ra đi khôn cạn giọt đưa
Hỏi thôi
còn có bao giờ
Người thương trở lại con
đò trần ai
Hồn
người đã vào nơi bất diệt
Sống có tên mà
chết vô danh
Đã vào cái cõi tứ sinh
Nằm trong lục đạo thôi đành thiên ma
(9)
31
Trải bách chiết cũng là cái phận
Gãy một lần mà rạng trăm năm
Cái danh
tay chẳng đủ tầm
Thì cam cái kiếp con
tằm nhả tơ
Màu
đất tổ mặt thừa dũng liệt
Mảnh trời
thiêng sáng tiết trượng phu
Xác trần gởi
chốn phù du
Anh linh sống mãi nghìn thu
với đời
Mạch
chính khí không rời đất mẹ
Bản trọng đồ
ai vẽ núi sông
Phiêu phiêu như áng mây
hồng
Ra vùng biển thắm vào đồng lúa xanh
32
Khi làng Gióng làm cành tre cứng
Khi Cổ Loa móng vững thành cao
Nước non
từ đó dạt dào
Nỗi thương nỗi hận nỗi nao
mà ra
Thờ
Vương nữ mật pha bến Lãng
(10)
Bái Triệu nương gan tráng non Mô
(11)
Nào đâu là giấc mơ hồ
Trắng xương cho
sáng cơ đồ về sau
Gương dòng Hát làu làu mặt sóng
Bóng Triệu sơn lồng lộng hiên mây
Lúc Dạ
Trạch lúc Ba Vì (12)
Khi vào Hồng Lĩnh lại khi Bạch Đằng
(13)
33
Trăm trận gãy một lần trọn thắng
Đuốc Ngô vương hội sáng trăng sao
Hồn
thiêng những bậc anh hào
Bỏ thân buổi ấy
đi vào sử xanh
Một thế hệ dệt thành hoa gấm
Một vùng trời lấm tấm hạt xuân
Nghe như
mùa đến thật gần
Cái mầm tự chủ nở dần
ấm no
Nghìn
năm cũ đồng trơ cỏ nộm
Đầu xuân kia xanh
cớm vàng tơ
Bờ lau tay trắng dựng cờ
Mười hai bến nước con đò Hoa Lư
34
Quân Thập đạo chung trừ giặc Tống
Lập vua Lê ước vọng áo cơm
Sử thi từng
nét cảo thơm
Cuộn dòng người trẩy dựng
bờm ngựa phi
Bến Như Nguyệt còn ghi câu sấm
(14)
Dãi Ung Liêm nghìn dặm còn run
Kinh
quyền kế sách phải dùng
Tiến là để thủ
giặc cùng cũng tha
Trải Lê Lý xông pha bao trận
Nào những ai tiếc phận làm trai
Chiến
trường kiếm ngắn dã dài
Thép cùn trăng
lạnh cũng mài thành gươm
35
Sắc vì máu đã ươm lúa mạch
Nhọn vì xương đã tách mạ non
Tự do trổ
ngọn đồng đồng
Bạc đầu bô lão Diên Hồng
còn gan
Sĩ phu
có thứ dân cũng có
Cùng vua quan trăm họ
đồng thanh
Điệu trống quân đã nên hình
(15)
Câu hò Sát Đát đã thành thế quân
Khúc Xuân phả xoay trần trăng lửa
(16)
Hát Dậm đưa núi tựa sông nương
(17)
Khi Hàm tử lúc Chương Dương
Đánh cho tối
ngõ tắt đường giặc Mông
36
Máu Tây kết đội đồng cỏ nổi
Thây Bạch Đằng sóng dội nhấp nhô
Diệt
tàn Ô–Mã Toa–Đô
Thoát–Hoan độn ống triệt
cờ đào sinh
Quân Mông–Hãn bình sinh kiệt hiệt
Trẩy Á
Âu nào biết có ai
Vào trong cõi đất trời
này
Bao nhiêu năm ấy bỏ thây bao người
Ngọn bắc chướng vẫn bời bời nổi
Minh lại vào ngập lối Đông quan
Hai mươi
năm đủ bạo tàn
Giày xương con đỏ san
bằng bia xanh
37
Xóa phong hóa sinh linh đồ thán
Chia giống nòi oán tận trời xanh
Rỉ tai
nhau đủ phong thanh
Nghĩa quân đã chọn
đất lành Lam–Sơn
Chim trong nội cũng còn có tổ
Cá ngoài khơi nương gió mà bon
Gió nồm
gió nảy mơn mơn
Ai nghe hơi gió vào non
thì vào
Xứ
Thanh–Nghệ đèo cao chớn chở
Đất Sa Nam
sông trổ gieo neo
Muốn vô phải lội phải
trèo
Mấy sông cũng vượt mấy đèo cũng qua
38
Lê đã quyết quên nhà cứu nước
Nguyễn lại vào định chước diệt Minh
Đánh
tâm rồi mới đánh thành
Đánh bằng lá thắm
rời ngành ra sông
Câu sấm cũ mục đồng cũng rõ
Vi... quân... thần kẻ chợ đều hay
(18)
Mười năm gian khổ đã dày
Câu thề son sắt
Lũng Nhai giữ tròn
Khi Khôi Huyện quân không một lữ
Lúc Linh Sơn chẳng đủ lương ăn
(19)
Mạnh là mạnh ở lòng dân
Quân rồi cũng
mạnh lương dần cũng yên
39
Đánh Trà Long Nghệ An là sách
Đánh Ninh Kiều bức bách Vương Thông
Nào
Tốt Động nào Trà Lân
Tây Đô thu lại Đông
Quan đánh dồn
Chi Lăng đó mồ chôn họ Liễu
Lê Hoa kia
thế yếu Mộc lui
Đánh cho máu đẫm thây
vùi
Như loài muông thú bị thui lửa lò
Cho Minh đế ngồi lo đứng sợ
Nhìn ngựa về sạt vó xém lông
Nào ai nghe
tiếng trống đồng
Bạc đầu mộng nhớ mà hồn
còn kinh (20)
40
Mười năm đó kết thành đại nghĩa
Tha quân thù rõ lẽ chí nhân
Cho cường
bạo cho hung tàn
Cho nhiều tội ác cho
tan tác nhiều
Khúc Đại cáo lụa thêu từng chữ
Câu Bình
Ngô gấm ủ từng câu
Ai người nghìn trước
muôn sau
Nào ai nói chuyện công hầu với
ai
Chuyện
thành bại cũng dài ngấn lệ
Chuyện mất
còn cũng dễ thương tâm
Vì ai đốt nén
hương trầm
Cảm thương ai đó khóc thầm vì
ai
41
Tóc sương phụ rũ dài sô trắng
Mặt chinh phu vẫn sáng như gương
Gió lay
ngọn cỏ bên đường
Lối mòn dẫn nẻo chiến
trường còn sâu
Sóng phế hưng bạc đầu mấy lớp
Kiếp con người tan hợp bèo mây
Những
người bao cũ bấy nay
Máu rơi bao đọi lệ
đầy bao đêm
Ngày lại đến gầy thêm nỗi nhớ
Nắng lại
nhòa mấy nẻo sơn khê
Lối ra còn nhớ lối
về
Đường ra chiến địa đường quê cách vời
42
Hứng đầu gió tìm hơi mẹ ấm
Mà lạnh này sao thấm từng cơn
Nhớ khi mẹ
tách trái gòn
Ghép đôi manh vải mẹ dồn
áo bông
Sợ con
lạnh ngày đông cơn bấc
Rồi nhớ khi mẹ
cắt mo cau
Nắm cơm buộc chặt hai đầu
Một dây mà nén nghĩa sâu trùng trùng
Bầy đom đóm rưng rưng trước ngõ
Nến canh tàn giọt nhỏ nhỏ sa
Nao nao
nghe giục tiếng gà
Lòng trong bậu cửa
chân ra cuối đường
43
Ngoảnh mặt lại hơi sương lạnh ngắt
Môi mẹ cười nước mắt tuôn rơi
Rồi nay
thân ở xa xôi
Nhớ câu mẹ nhủ nhớ lời mẹ
khuyên
Nhớ
buổi nọ bút nghiên đòn sách
Rộ mùa rươi
lách tách hạt mưa (21)
Đỉnh trầm nghe thoáng hương đưa
Nghe như
mẹ khấn con chờ đại khoa
Rồi thoắt bỗng phong ba cuộn sóng
Rồi bỗng không lều chõng bỏ trơ
Nỗi mong
nỗi ước ngày xưa
Giọt buồn giọt tủi nhập
nhòa trong đêm
44
Bã trầu giã hẳn mềm tấc dạ
Bờ đường xưa trắng dã ngàn lau
Mẹ trông
chừng cũng bạc đầu
Nhện giăng nếp nhớ ve
rầu giọng thương
Phận bất hiếu lửa hương chẳng trọn
Thương mẹ già thỏn mỏn chờ mong
Buồn lên
mấy ngọn sầu đông
Thân cành trơ trọi
giữa đồng xa xa
Nhớ có bận mẹ ra đầu ngõ
Tre đầu làng buổi đó trổ hoa
Lời rằng
nạn nước nạn nhà
Phận người thôi biết sẽ
ra đàng nào
45
Hoa tre trổ từng bao thế hệ
Thế hệ nào tre cỗi khóc măng
Chập chùng
đá dựng mây giăng
Trông vời nẻo cũ mang
mang tấc lòng
Nắng đầu núi rám hồng đá sỏi
Ra sườn non
trông vợi hoàng hôn
Lơ thơ vài cánh chim
buồn
Cuốn theo chiều gió cuối luồng ráng
phai
Thân ví
được bằng loài chim nọ
Buổi lìa đàn vẫn
nhớ cành xưa
Thân theo gió cuốn bụi mờ
Hồn theo gió gởi tận bờ Sâm Thương
46
Cuối thôn đoài trăng sương vừa mọc
Nghe lạc loài tiếng quốc ủ ê
Xưa nay
chinh chiến ai về (22)
Hương quê lãng đãng hồn quê mơ màng
Đêm nguyệt tận cũng tàn giấc mộng
Ngày dương đăng rõi bóng nắng mưa
Ai
thương ai đó bao giờ
Vọng phu hóa đá
đứng chờ nghìn năm
Chờ người buổi tơ tằm hẹn lứa
Sợi chỉ hồng xin hứa còn duyên
Trăm năm
mà khéo tay chuyên
Dễ gì con Tạo làm
phiền được ai
47
Sao chiến cuộc nỡ bày thế đó
Để nỗi buồn suối nhỏ thành sông
Đã chờ
người buổi thu phong
Còn chờ người buổi
giá đông lạnh đùa
Nắng cuối hạ tẽ thưa mái tóc,
Mưa đầu xuân kẻ sọc nếp nhăn
Ngày nào
người hẹn cùng trăng
Sẽ theo cùng gió
lên ngàn ít lâu
Sao trông mãi rừng sâu chẳng thấy
Thấy lối mòn dễ nhậy rêu phong
Người đi
theo hướng quan phòng
Vào Nam ra Bắc
xuống đông lên đoài
48
Miền đất mũi trông vời mỏi mắt
Dải phù sa ngan ngát bình nguyên
Hỏi
người xuôi ngược mấy miền
Bước nào trở
lại trẩy triền đồi cao
Gió đầu tây vẫn nao nao quyện
Núi trùng trùng khói quyến sương gieo
Lối đi cách suối ngăn đèo
Bặt đường thú
lại tuyệt vèo chim qua
Người lần lữa không về nẻo ấy
Hay lại về trên bãi nương dâu
Nương dâu
biến đổi cơ cầu
Tang điền thương hải
biết đâu mà dò
49
Trông cõi bắc mơ hồ vân hạc
Hay rồng xưa móng gác Thăng Long
Dựng
nên vách sắt thành đồng
Người ra như thể
cánh hồng ra khơi
Con uyên lẻ phương trời ngơ ngác
Vời biển đông lác đác phù ngư
Bờ sương
khói sóng mịt mù
Thuyền ai thấp thoáng
nhấp nhô giữa dòng
Gió đông đến người không trở lại
Nhạn vầy đàn... trông mãi tin thư
Chiến
trường là cõi thực hư
Người vào chốn ấy
tuyệt mù hơi tăm
50
Mảnh da thịt tháng năm đã lạnh
Những mơ mòng nhân ảnh lung linh
Lưu ly
ngọc đá đúc thành
Tấm gương bất diệt
khối tình người xưa
Nhân ảnh cũng nhạt nhòa thiên cổ
Khối tình còn sống giữa nhân gian
Xa xa
mấy áng mây tần
Đầu ghềnh cuối bãi hợp
tan bao giờ
Buổi khói trận bốc mờ tinh đẩu
Tình thê
nhi vẫn giấu căm căm
Rồi trong bóng tối
âm thầm
Bão ngầm lại nổi sóng ngầm lại
dâng
51
Gió vi vút trên ngàn dưới thác
Lòng rạt rào cơn bấc con nam
Ngựa Hồ hí
ngọn bắc phong
Hơi nồm Việt điểu héo hon
điệu buồn
Loài
muông thú lòng còn thương nhớ
Dạ thế
nhân nào khỏi xót xa
Nửa say nghìn dặm
quan hà
Nửa thương cố lý nỗi nhà quạnh
hiu
Thương con
dại chít chiu bên cửa
Nếp thư hương biết
tựa vào ai
Đói no nắng muộn mưa mai
Đông thiên có áo đêm dài còn chăn
52
Còn bên mẹ học ăn học nói
Còn nếp nhà nhuần gội lễ nhu
Hay nay vì
ánh hỏa mù
Vì cơn bão loạn ra ngu ra đần
Ra gót đỏ phèn lan bùn lấm
Ra đầu xanh sương dậm gió phơi
Tuổi thơ
còn có tiếng cười
Rồi ra còn có nên
người về sau
Bóng cha sớm nhuộm màu trăng lẻ
Mặt con
đành phải vẽ màu than
Nào đâu là cái số
phần
Chẳng qua cái mối chuyền lần theo
tay
53
“Cành ngô đồng vừa thay chiếc lá
Người đều hay mùa ngả sang thu”
(23)
Ai tường cái lẽ Dịch Chu
Cái mầm vốn nảy
ra từ cái nguyên
Lý vạn vật biến thiên là thế
Tình con người chẳng nhẽ thế sao
Trời
nào so được thấp cao
Biển nào đủ rộng để
rào sóng thương
Mắt trẻ ngó thiên đường cũng mở
Môi trẻ cười ngục lửa cũng tan
(24)
Một mai trẻ sớm lầm than
Máu tim cũng
lạnh mật gan cũng nhờn
54
Nhìn cỏ nõn nhớ con thơ dại
Lách rừng sâu sợ gãy cành non
Vì ai mà
bước chon von
Thân ra chiến địa giữ tròn
núi sông
Nhân
bản vốn nằm trong chân lý
Là tình thương
mang nghĩa trường sinh
Chữ Nhân vốn dĩ
là Tình
Chữ Thương nào chỉ riêng mình
với ai
Sao ray
rứt đường dài vạn dặm
Nhớ thương thầm
càng thấm càng sâu
Đèn hoa sáng buổi ban
đầu
Thương màu lụa nõn thương màu trăng
thơ
55
Đường xa mã cuộc cờ non nước
Câu sắt cầm hợp khúc nhặt khoan
Chẳng
gác phượng chẳng màn loan
Gió trăng cũng
đủ một khoang thuyền đầy
Lối thanh thảo hương lay nội cỏ
Khoảnh đào viên hoa rộ vườn im
Líu lo
đôi cánh chim chuyền
Đầu song én liệng
cuối triền nhạn bay
Chén đạm bạc mùi say thanh thủy
Miếng hàn trân đậm vị hồng qua
(25)
Trúc tơ cợt mái hiên nhà
Liễu hờn mai
dỗi bướm hoa cũng tình
56
Thiên thai đó xin dành Lưu Nguyễn
Đào Nguyên đâu xin nhượng Từ quân
Chỉ
xin một chút duyên trần
Thảo đường một
mái cơ hàn cũng cam
Sắc Lộng Ngọc không làm Tiêu sử
Gương lầu Tần chẳng nhủ ai soi
Trăng kia
đủ sáng trong ngoài
Nắng kia đủ đẹp cho
người phơi khăn
Đâu loài cúc xuân sang chẳng nở
Nhược thủy đâu sóng vỗ về tây
(26)
Chẳng qua duyên đó tình này
Thanh bình
mong hưởng những ngày yên vui
57
Cành nhụ tử nở cười đôi lứa
Đóa hồng đào vườn nhỏ thêm tươi
Thuyền
tình dong bến sao rơi
Bốn mùa nghe vọi
đất trời đổi thay
Ba cửa Giáo đường ngay vẫn giữ
Đạo cang thường hai chữ chẳng thưa
(27)
Một chiều một sớm một trưa
Kê vàng một
giấc cũng vừa trăm năm
Tạo hóa khéo sao căm ước mọn
Chiến thần hay sao chọn nhầm tên
Ném ra
cuối biển đầu ghềnh
Cho lòng canh cánh
khối tình lưu ly
58
Đường đánh giặc ngựa phi vó nhẹ
Mảnh tình quê những bẻ làm đôi
Quê hương
một nửa không rời
Quê hèn một nửa còn
nơi sân nhà
Bóng trăng trải rừng xa nguyệt quế
Mặt
trời dìm vườn lẻ hướng dương
Thương sao
chín nhớ mười thương
Nhớ sao nhớ cả cung
đường chim bay
Nhớ năm tháng lần tay tính thử
Còn ngón nào đếm đủ mùa rơi
Nhạn hồng
ngang cánh bên trời
Ao xưa còn giữ bóng
soi ngày nào
59
Cơn nước loạn còn chao mặt sóng
Nhớ thương còn rung động nguyệt hoa
Thăm
thăm một dãy Ngân Hà
Trông vời Ngưu Chức
xót xa đôi bờ
Cầu Ô Thước mơ hồ dòng lệ
Giọt mưa ngâu
lặng lẽ không thanh
Gió khuya cợt lá
trong cành
Sợ người nghe tiếng trống
canh giật mình
Sợ đêm lạnh lệ đoanh mặt gối
Ngày soi gương sợ đổi dung nhan
Gót hồng
dáng liễu thanh tân
Sợ khi cơ cực trĩu
oằn đôi vai
60
Mặt hoa ngọc sợ phai sắc phấn
Tóc tơ huyền sợ lẫn màu sương
Xạ thơm
còn đượm y thường
Trầm hương còn ấm thư
đường hay không
Hay đàn nguyệt phím đồng để lạnh
Tranh trúc mai dễ sánh màu tro
Nâu lam
đổi áo bao giờ
E rằng nếp vá hằn bờ da
trong
Gió loạn
đẩy long đong vào cửa
Đem vàng ròng thử
lửa mà chơi
Lòng đau sao miệng nói cười
Sao trong cùng thẳm nhớ người không nguôi
61
Trời nơi ấy mây trôi ngoài ngõ
Trời nơi này lối nhỏ mù che
Hồn đêm
gióng ngựa quay về
Lá hoa rơi lấp đường
quê mất rồi
Trống đồng vọng bồi hồi mặt nước
Cờ phất
phơ thươn thướt thành cao
Ở đâu giáo
dựng thương rào
Ở đâu môi đỏ má đào héo
hon
Trận ngoài
tuyến nổ giòn chẳng sợ
Trận trong lòng
chưa vỡ mà đau
Gần nhau say chén tình
đầu
Xa nhau càng ngấm nghĩa sâu càng gần
62
Nét trang nhã hương lân còn tiếng
Nét thảo hiền đỏ miếng trầu ngon
Trái
cau xẻ bảy cũng tròn
Hạnh cung tiết cẩn
dễ mòn tháng năm
Trăng nào giữ trăng rằm được mãi
Vẻ đẹp nào đẹp trải thời gian
Sương lê
nắng lựu dễ tàn
Hương trầm gió quế dễ
tan được mùi
Vui xuân thắm không vui được nữa
Giữ
đông tàn chút lửa chắt chiu
Đã hay cảnh
cũ đìu hiu
Mong gì ong bướm dập dìu như
xưa
63
Mong trở lại chiều chưa kịp xế
Mong trở về dù trễ vẫn hơn
Vuốt buồn
vuốt tủi vuốt hờn
Bỏ cơn lận đận bỏ cơn
hải hồ
Đàn giở
lại dòng thơ nối lại
Rào giậu tre sửa
mái nhà tranh
Vườn thưa ươm lại cây lành
Giấy thừa vẽ lại bức tranh yên hà
Sông êm ả buông xa tít tắp
Khói trận tàn trời sắp rạng đông
Bờ xanh
phơn phớt ánh hồng
Bờ xanh dòng nước
chảy trong mượt mà
64
Xin cứ khóc cứ sa giọt lệ
Cho vơi niềm chia rẽ bấy lâu
Nén hương
đêm có nguyện cầu
Cầu sao cho được bạc
đầu bên nhau
Hết lo buổi mưa mau nắng mẩy
Hết sợ ngày
hẹn đẩy hẹn đưa
Hết buồn lòng kẻ đợi chờ
Hết đau lòng kẻ cuối bờ sông kia
Sợ xa cách chia lìa dường ấy
Cầu mong nào được thấy mà mong
Hôm nào
trời nổi cầu vòng
Hôm nào gió lớn chạy
trong rừng ngàn
65
Giặc ngoài cõi đã tan buổi ấy
Giặc trong nhà lại dấy hôm nao
Dòng xanh
lại gợn sóng đào
Đầu xanh tóc điểm lại
lao vào vòng
Ngựa Mạc đến Thăng Long mờ khói
Voi Lê
về lửa chói sông Tô
Hồ Gươm đục nước béo
cò
Tiêu điều Văn Miếu ơ hờ lá rơi
Trải bao độ vàng phơi phủ Chúa
Trải bao mùa son rữa đền vua
Ai người
hiền sĩ ngày xưa
Trăm năm có thấy nước
nhà đảo điên
66
Trịnh đất Bắc quyền nghiêng thiên hạ
Cờ trong tay xa mã dọc ngang
Cung trong
tướng sĩ rộn ràng
Biên ngoài quân chặn
pháo giăng đầu dòng
Nguyễn giữ chặt Đàng Trong một cõi
Thế muôn đời mấy dội Hoành Sơn
Biết bao
gió tủi mưa hờn
Tủi cơn bấc lộng hờn con
nồm tràn
Một
thế nước đem phân hai cõi
Một giống nòi
đem đối mặt nhau
Dìm nhau ở chốn giang
đầu
Vùi nhau ở chốn vực sâu muôn trùng
67
Vừa qua bến quay lưng trở lại
Nào ai ngờ mãi mãi xa nhau
Rồi đêm sấm
chớp đục ngầu
Cây mưa rước cá bạc đầu
thủy ngư (28)
Nước lạnh lẽo tuyệt mù tăm cá
Giọng đổ quyên ròng rã bờ sương
Sông
Gianh đã cắt mối đường
Bắc Nam từ đó lệ
thương rạt rào
Nào ai biết dòng nào trong đục
Nào ai lường họa phúc ra sao
Phóng lao
thì phải theo lao
Nhìn nhau theo lớp
chiến bào mà theo
68
Mặt chẳng thấy tên reo chẳng biết
Tên buông rồi hẳn giết được ai
Kẻ xóm
đông người thôn đoài
Kẻ trong Thuận Hóa
người ngoài Trấn Ninh
Tiếng giáp trận xông thành réo gọi
Vách núi nghe tiếng nói như nhau
Mịt mờ
sương khói một màu
Đôi bờ da dẻ khác
nhau nỗi gì
Da
thịt ấy khác khi mẹ đẻ
Lại chung nguồn
gạo tẻ nước trong
Từng khi diều sáo trên
đồng
Từng khi trăn trỏng ngâm sông
nghịch bùn
69
Nay lửa trận bỗng ngun ngút nổi
Gạo nồi này xông khói trấu kia
Thóc đem
xẻ ruột chia lìa
Người đem xương máu
mong chia chính tà
Mặt xấp ngửa trời già họa biết
Dế tỉ tê da diết đêm mưa
Chúa rằng vì
nước vì vua
Vai mang chính nghĩa đêm
chưa kịp nằm
Lệnh đã xuống mười lăm chưa bắt
Mười sáu
tròn con mắt ngác ngơ
Tha người đầu tóc
bạc phơ
Tóc người sương điểm còn vừa
tuổi quân
70
Quân vỡ núi trên ngàn lập rẫy
Quân khơi nguồn sông chảy tưới nương
Quân đi đội đá vá đường
Trẩy đèo Tam
Điệp qua truông nhà Hồ
Hoa dại nở lơ thơ lối nhỏ
Quân càn rừng chân bó máu rơi
Quân đi
lòng Chúa bời bời
Giải buồn đôi ả dạo
chơi đền Hồng (29)
Cũng là Chúa ở trong đền Giáng
(30)
Từ Phú Xuân ra bảng mộ quân
Tiếng rằng
để diệt cường thần
Vì non nước vì dân
yếu hèn
71
Đêm lây lất ngọn đèn không ngủ
Chúa mơ màng lương đủ quân đông
Đợi mùa
gió nổi thuyền dong
Cờ ra Phố Hiến vào
trong Hồng Hà
Lời trau chuốt chua ngoa dường ấy
Đánh
nhau ròng trải bấy thu đông
Đánh cho
vắng chợ hoang đồng
Đánh cho xương trắng
máu hồng rừng xanh
Loài chim nhỏ trên cành cũng sợ
Bỏ đất cằn rời tổ bay xa
Có bà mẹ tuổi
chưa già
Lần theo rặng nước xuyên qua
chiến trường
72
Tìm con trẻ lên đường buổi nọ
Trong bờ lau bụi cỏ lao xao
Tưởng như
trong giấc mơ nào
Thấy thây chồng chết
máu đào đã khô
Xác nằm cạnh phất phơ chỏm tóc
Lật mặt nhìn rồi khóc rưng rưng
Con bà
đôi mắt mở trừng
Chết đêm mưa máu lạnh
lùng bên cha
Đau thế ấy xót xa dường ấy
Lưỡi gươm đao
nào thấy gì đâu
Chặt lìa cốt nhục máu
trào
Đất dày bỗng điếc trời cao bỗng lòa
73
Hai cơ thể máu hòa nhau được
Bỗng đổ ra vì cuộc cờ say
Chúa say cuộc
thế trong tay
Chúa say gác tía vàng dày
ngọc xinh
Chúa
say sắc say tình say tự
Chúa say quyền
say xử say dung
Của chung sông núi là
chung
Chúa đem chia cắt như tuồng của
riêng
Như ngạc
hải hùm thiêng vùng vẫy
Miếng đỉnh chung
máu vấy còn hôi
Mặc cho người chết mặc
người
Tình thâm cắt đứt lệ rơi trắng
đồng
74
Đàn cò trắng ven sông lặng lẽ
Nhìn đôi dòng máu tẽ chia đôi
Não nề đến
thế thì thôi
Hận kia để lại lòng người
nghìn năm
Kẻ
thức sĩ đêm nằm gác trán
Nghĩ nước nhà
nắng hạn còn lâu
Trời xanh xanh thẳm một
màu
Mong mưa hẳn đến bạc đầu còn chi
Giọt cam lộ mong gì được thấy
Thấy loài sâu chúa ấy quân kia
Vua mang
mũ mãng đai hoa
Lộng trong đền Kính để
khoe với người
75
Con ngáo ộp nên trời nên đất
Mặc chúa tôi bóp nát nhân luân
Nhìn cho
chín rõ mười phân
Nhìn trong sĩ hoạn
mười phần chín hư
Kẻ vênh váo tôn phù nhà Chúa
Kẻ xum xoe chực cửa quyền môn
Trên trên
vì khéo cúi lòn
Ngang ngang vì giỏi giữ
tròn chữ ngoan
Thâm thấp lắm cũng quan không ấn
Kẻ sĩ hiền cao ẩn nơi đâu
Nhìn kia dân
xót dân đau
Nhìn trăm gánh nặng đổ đầu
dân đen
76
Nhà trống trải đêm đèn là lửa
Trẻ đói cơm khát sữa o e
Những đêm gió
lộng mưa về
Bốn bề lạnh lẽo biết che bề
nào
Sáng tinh
mĩnh lại lao vào đất
Ghì mạnh vai cho
lát cày sâu
Chúa truyền sức ngựa sức
trâu
Sung vào quân tải tải vào tuyến
trong
Trâu
ngựa tải tây đông nào biết
Đem sức người
kéo miết cũng xong
Nghỉ tay lại nghĩ đến
chồng
Chồng ra lính chúa vào Trong ở
Ngoài
77
Ngày ăn sắn ăn khoai hay gạo
Hay củ mài nấu cháo đêm qua
Thương con
thương đất thương nhà
Thương chồng
thương phận biết là thương ai
Phải thương Chúa thừa sai bảo thế
Chúa vì dân chẳng lẽ chẳng theo
Thôi thì
cái phận bọt bèo
Chưa nghiền đã nát eo
sèo mà chi
Của
thì giữ miệng thì bóp chặt
Chúa bỏ dân
cho đất tiêu sơ
Ai đi theo Chúa thì nhờ
Ai không theo Chúa thì chờ đi sai
(31)
78
Thế đất bắc tay dài của Chúa
Sải rộng ra chất lửa quyền uy
Thương mến
dân thương mến gì
Vì dân vì nước nói đi
nói về
Nói nói
mãi dân nghe đến chán
Chán mà nghe dễ
ngán lắm thay
Đàng Trong Chúa cũng thế
này
Khác hơn họa có Chúa bày nọ kia
Ruộng cũ mới đem chia đem bán
Kẻ thế quyền rổn rảng ngựa xe
Cũng khi
đàn đúm hội hè
Cũng khi mắc mứu kéo bè
kéo vi
79
Chuyện trăng gió đôi khi cũng bận
Chuyện bán buôn khai khẩn chưa xong
Sài
Côn đất rộng người đông
Hội An bến cửa
thuyền Đông Tây vào
Mặc sĩ tốt lao đao ngoài tuyến
Mặc dân nghèo bước chuyển bước chao
Rừng
vàng biển bạc nhôn nhao
Khanh ra bến ấy
sĩ vào đất kia
Chuyện đất nước cắt chia cũng sợ
Sợ mai rồi mất thuở vàng son
Lũy Thầy
Chúa dựng đá mòn
Khảm ngà tông miếu tô
son đền vàng
80
Thuyền chiến chật bến ngang bến dọc
Voi ngựa nhiều lúa thóc đầy kho
Quân dồn
cũng đến thận bờ
Đánh nhau trăm trận
được thua sá gì
Thế của chúa suy vi chẳng biết
Chuyện mất còn ai thiết gì đâu
Kẻ lo
hưởng cuộc sang giàu
Kẻ lo vật vã cháo
rau qua ngày
Quân dù có dạn dày trận mạc
Tướng mãi
canh tiếng bạc bon chen
Thấp cao lớn bé
sang hèn
Mặt ai thì sáng lấy đèn nhà ai
81
Chúa ngất ngưởng trên ngai phỉ chí
Lại mơ làm tráng sĩ như ai
Thật ra gươm
chúa cũng dài
Phi tần bận bịu có mài nổi
đâu
Ngọc dù
quý không trau cũng ố
Rèm không buông
thì gió lọt song
Gió lay ngọn cỏ ngoài
đồng
Nhìn kia mực nước trên sông đã tràn
Quân bờ Bắc như đàn sói dữ
Một đêm nào như lũ phá đê
Từ nguồn cao
cuốn giập về
Sông Gianh chìm giữa bốn bề
nước dâng
82
Đàn quân ấy hung hăng vượt bãi
Suốt một miền duyên hải xác xơ
Biển đông
xanh mắt ngẩn ngơ
Cánh buồm xứ Quảng bây
giờ về đâu
Bỏ
bờ cát hoen màu máu ố
Tanh thây người
nhấp nhố ngổn ngang
Xa trên gộp đá bìa
làng
Xa trên quan lộ dọc hàng vì lao
Trận bốc lửu đổ vào buổi sớm
Nắng chiều in lốm đốm thịt xương
Dân
lành gục ngã trên đường
Dân lành mong
thoát chiến trường mà ra
83
Quân bờ bắc đuổi nà loạn tiễn
Tiếng tên reo có tiếng người rơi
Con
đường đẹp của một thời
Thành con đường
máu lòng người khó quên
Nỗi sợ hãi nâng lên theo gió
Lan tràn vào mọi ngõ ngách Kinh
Người
trong giấc ngủ trở mình
Còn mong chấp
cánh rời thành bay xa
Cảnh man rợ vọng ra thế ấy
Người vừa nghe chưa thấy mà ghê
Quân đâu
chẳng thấy kéo về
Tướng đâu chẳng lấy
thân che thành trì
84
Người lo sợ kẻ đi người ở
Thuyền tách bờ đến chỗ nông sâu
Lòng đau
không cắt mà đau
Đau lòng rời chốn chôn
nhau mà rời
Bỏ
bạc nén vàng thoi chẳng tiếc
Thương
khung trời nước biếc trăng thanh
Ở đây
trái ngọt cây lành
Ở đây thơ ấu trưởng
thành ở đây
Đàn chim nhỏ rời đàn biền biệt
Đôi cánh
mềm rồi biết về đâu
Ở đây Chúa bỏ nhịp
cầu
Ở đây Chúa bỏ tuyến đầu trên sông
85
Chúa bỏ cả cánh đồng sơn cước
Bỏ cả vùng bến nước ven duyên
Quân chưa
bỏ ngựa bỏ thuyền
Mà sao Chúa bỏ cao
nguyên núi đồi
Bỏ đất nước bỏ người bỏ của
Nước trăm dòng không rửa vết nhơ
Kinh
thành bỏ ngõ bao giờ
Để cho đền cũ sắc
cờ đã thay
Gió
lạ nổi gió lay gió lắc
Bóng cờ bay bóng
sắc bóng son
Nhìn cho con mắt no tròn
Nhìn sao cho đến non mòn đừng quên
86
Lật trang sử tìm tên người chết
Bởi sắc cờ ai biết mà ghi
Máu xương nào
nói được chi
Trăm năm cỏ lấp xanh rì còn
đâu
Chôn mất
dấu biết bao sự thật
Ai còn buồn bới đất
tìm xem
Điện Kim quân Trịnh qua thềm
Gác Dao buổi ấy bóng đêm nói gì
Buổi loạn lạc kẻ đi người ở
Kẻ mất còn ai rõ gì đâu
Cái bô mà Chúa
trong lầu
Bắc quân làm chậu gội đầu hôm
qua
87
Sự thật đó cũng là sự thật
Ai kia còn có mắt còn hay
Cam xe cà chất
đó đây
Trầm hương quế dược đun đầy bếp
quân
Của cải
kẻ nhân thân thế phiệt
Sung vào kho kể
biết bao nhiêu
Thi thơ phú lục cũng
nhiều
Bao triều văn hiến hỏa thiêu mất
rồi
Chùa chiền
cũ chuông dồi mõ gõ
Sáng hôm này trống
ngõ như không
Chợ xưa vừa nhóm đã đông
Hôm nay phố vắng chợ mong tiếng người
88
Loa phóng gọi như lời chúa dụ
Dân vẫn còn là chủ của dân
Phận ai đã
định sẵn phần
Trăm năm dễ có một lần thế
kia
Bờ bến cũ
tạm chia họp lại
Dòng sông nào nước mãi
chia đôi
Ngỡ rằng người nói tiếng người
Hay đâu loài vẹt học đòi điển kinh
Ngỡ trong điển có tình có nghĩa
Nghe ra rồi vỡ lẽ càng chia
Ai nghe nước
mắt đầm đìa
Thành xưa phố cũ chưa lìa mà
xa
89
Con đường cũ bước ra thấy lạ
Lạ một người nghe cả phố đau
Bước kia là
bước ban đầu
Những người xưa cũ đã hầu
nghĩ chi
Kẻ sĩ
khí chết vì khí tiết
Kẻ thương nhà còn
thiết đến thân
Chẳng ra cái phận hàng
thần
Chẳng ra cái phận con dân đớn hèn
Khôn dại đó đỏ đen thế đó
Thực trăm lần mà ngỡ chiêm bao
Thương
cho mấy mảnh giáp bào
Chỉ trong một sớm
vứt vào lửa tro
90
Mang đầu óc mà như kẻ dại
Đau lòng mình còn phải thiệt hơn
Thương
cho sĩ tốt uất hờn
Vứt đao thương đó máu
dồn lên môi
Đánh cho chết cho rồi chẳng oán
Thua thế
này nửa hận nửa đau
Quân không còn sắc
còn màu
Tan vào bóng tối đêm sâu mất rồi
Thương mệnh nước nổi trôi từ đó
Thương dân lành trăm họ long đong
Đã hay
nước chảy một dòng
Bến trong bến đục
trong lòng rõ chưa
91
Khuôn phép cũ bãi bừa đến thế
Xích xiềng này chẳng nhẽ giãn co
Siết
cho đến dại đến khờ
Siết cho cơm đói áo
co mới đành
Máu không tắm kinh thành buổi nọ
Để vắt
từng giọt nhỏ mà thôi
Công khanh triều
cũ một thời
Lưu ngoài thủy tận đày nơi
sơn cùng
Mưa
quất mặt quằn lưng nắng cháy
Chết mỏi
mòn giữa đáy rừng sâu
Ai còn có chút máu
đầu
Người giàu nhà cải của giàu nhà kho
92
Cơ nghiệp cũ còn lo chi nữa
Trải bao đời một bữa rồi xong
Trắng tay
mà đói cả lòng
Mắt nhìn đổ giọt máu hồng
mà ngơ
Dân
thuyền thợ Chúa lo đủ việc
Sẵn mồ hôi
đừng tiếc mà đong
Người cày xót mắt trên
đồng
Thóc đưa vào đụn Chúa dùng việc
quân
Sự nghiệp
lớn băn khoăn lòng Chúa
Đem chữ Tàn đánh
đổ chữ Nhân
Hò khoan nước nước dân dân
Hò khoan chúa giỏi tôi ngoan thế này
93
Miếng lộc đỉnh cũng say cũng sít
Mũi thề quyền cũng hít cũng hơ
Trong tay
đã sẵn thế cơ
Chúa làm lịch sử hẳn chờ
hẳn hay
Vết
thương cũ đêm ngày ray rát
Mảnh nhiễu
điều rách nát nơi nơi
Tương tàn đến thế
thì thôi
Kêu lên một tiếng hỡi trời rồi
câm
Viết trang
sử nghìn năm chẳng dễ
Sao cho tường cái
lẽ phế hưng
Trải cơn bão táp trùng trùng
Trời long đất lở bách tùng vẫn xanh
94
Xuân rộn rã hoa tranh bóng nắng
Hạ ngậm ngùi đài lắng cánh rơi
Cành thu
quạnh quẽ trăng soi
Chồi đông não nuột
lại cơi nụ cười
Biết rằng nói thành lời chẳng đủ
Mờ mắt nhìn hằng nhủ con ngươi
Đổi thay
chuyện của đất trời
Long mình mình giữ
một đời thản nhiên
Giữ chính khí triền miên cháy mãi
Như nghìn năm thiên tải vân lưa
Nhiên
nhiên ảo ảo mù mù
Đen trong vầng sáng
sáng từ vũng đen
Có cô bé bên đèn học sử
Đến đoạn buồn chợp ngủ mơ mơ
Thấy trong
thành quách tàn tro
Bỗng nhiên rực sáng
bóng cờ năm xưa
9/9/1987
Văn Nguyên Dưỡng
*Trang:
01,02,03,04,05,06,07,08,09,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,
33,34,35,36,37,38,39,40,41,42,43,44,45,46,47,48,49,50,51,52,53,54,55,56,57,58,59,60,61,62,63,64,65,66,
67,68,69,70,71,72,73,74,75,76,77,78,79,80,81,82,83,84,85,86,87,88,89,90,91,92,93,94
Ghi chú
1. Hoang Đoái:
Vùng đất nằm trong lãnh thổ nhưng xa xôi, hẻo lánh và hoang vu,
không người canh tác. Nếu có, cũng được miễn các sắc thuế canh
điền hay thổ trạch.
2.
Ba Trăm Lối Thác Đường Ghềnh: Phỏng theo hai câu ca dao:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh.”
Hai câu này chỉ đoạn đường khó vượt đi
từ Phú Thọ (Bắc Việt) lên Mường Lễ và Mường Thanh ngày xưa. Nay
là vùng Điện Biên Phủ.
Long Môn và Hào Tràng:
Hai địa danh nằm trên sông Đà, Bắc Việt.
Long Môn: Là nơi có
gộp đá nằm chắn ngang dòng sông Đà. Sách “Kiến Văn Tiểu Lục” của
Lê Quý Đôn ghi lại câu sau đây trong “Giao Châu Ký” của Thái Thú
Tăng Cồn: “Long Môn nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt chỗ này sẽ hóa
thành rồng.” Cứ ngày mồng 8 tháng 4 mỗi năm, loài cá Anh Vũ
thường kéo đến vượt Long Môn.
Hào Tràng: Một động đá
sâu nằm trên bờ sông Đà, gần Long Môn. Trên vách động Hào Tràng
còn ghi một bài thơ của Bình Định Vương Lê Lợi, sau khi đánh đuổi
giặc Minh xong, kéo quân về đến đây (xem Kiến Văn Tiểu Lục).
3.
Bốn câu này dịch phỏng ý bài thơ “Hoài Thượng Biệt Hữu” của Trịnh
Cốc, đời Đường
“Dương tử giang đầu dương liễu xanh
Dương hoa sầu xác độ giang nhân
Sổ lai
phong dịch lưu đĩnh vãng
Quân hướng Tiêu
Tương, ngã hướng Tần.”
4.
Hai câu này mượn 4 chữ “túy ngọa sa trường” trong bài thơ của
Vương Hãn:
“Bồ
đao mỹ tửu dạ quang bôi
Giục ẩm tỳ bà mã
thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mục
tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
5.
Can: Còn có một nghĩa là “lá chắn” – mộc. Cổ nhân dùng
chữ “can thành” để chỉ người vũ dũng đem thân ra làm khiên, làm
mộc, làm thành lũy để chống giặc.
6.
Tơ Tằm Tám Lúa, Hoa Màu Năm Hai: Sách “An Nam Chí
Nguyên” của
Cao Hùng Trưng có đoạn viết
về nước Việt – thời Văn Lang – cát cứ ở vùng
sông Thái Bình, sông Mã, sông Chu, như sau:
“Ruộng
đất ở đó màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm đều thích nghi cả.
Muối thì trắng, sạch như tuyết. Cánh chim trĩ thì đỏ tía đẹp mắt.
Vàng thì sẵn ở các châu Phú Lương và Quảng Nguyên. Hạt trai thì
có sẵn ở các xứ Tỉnh An và Vân Đồn. San hô và đồi mồi thì sẵn
trong biển. Ruộng lúa ‘mùa’ cấy tháng 5 gặt tháng 10; ruộng lúa
‘chiêm’ cấy tháng 11 gặt tháng 4 năm sau. Thế gọi là lúa hai mùa.
Tằm tang mỗi năm 8 vụ. Vậy một năm có 2 vụ lúa và 8 vụ lứa tằm.”
(xem Kiến Văn Tiểu Lục).
7.
Phong Văn: Phong hóa và văn hiến.
8.
Am Nha: Nha trảo nơi âm cung. Chỉ bóng dáng Tử thần.
9.
Tứ Sinh, Lục Đạo: Theo nhà Phật thì mọi vật, mọi loài
hiện hữu được sinh ra từ bốn cửa, gọi là “Tứ Sinh” gồm Thai sinh,
Noãn sinh, Thấp sinh và Hóa sinh. Trời đất gồm sáu cõi, gọi là
“Lục Đạo” gồm Thiên, Thần (Atula), Nhân, Địa Ngục, Ngạc Quỷ và
Súc Sinh. Con người, do Thai sinh thường trải “thiên ma bách
chiết” (nghìn lần va chạm, trăm lần gãy). Nghiệp căn “luân hồi”
trong sáu cõi chi phối bởi định luật “nhân quả”.
10.
Vương Nữ: Chỉ Trưng Nữ Vương Trưng Trắc và Trưng Nhị.
11.
Bến Lãng: Yên Lãng, nơi hai bà thất cơ trong trận đánh
với Mã Viện, tướng Đông Hán. Sau đó hai bà dìm mình tử ở Hát
Giang.
12. Non mô:
Núi Yên Mô, nơi khởi nghĩa của Bà Triệu – Triệu thị Chính.
13.
Dạ Trạch, Ba Vì: Đầm Da Trạch, nơi khởi nghĩa của Triệu
Quang Phục, nối tiếp sự nghiệp của Tiền Lý Nam đế Lý Bôn. Núi Ba
Vì là vùng đất khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng.
14.
Hồng Lĩnh, Bạch Đằng: Núi Hồng Lĩnh thuộc Châu Hoan Ái
ngày xưa, nơi khởi nghĩa của Hắc đế Mai Thúc Loan. Sông Bạch
Đằng, nơi Ngô Quyền thắng trận quyết định trước quân Nam Hán. Năm
939 Ông xưng Vương, mở nền tự chủ dân tộc sau hơn một nghìn năm
bị giặc Tàu đô hộ.
15.
Bến Như Nguyệt: Năm 1076, để khích lệ tướng sĩ đánh đuổi
quân nhà Tống trên tuyến Sông Cầu – ngày xưa là bến Như Nguyệt.
Tướng Lý Thường Kiệt làm bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” như lời sấm
ký, thúc giục lòng yêu nước của ba quân:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành
khan thủ bại thư.”
Trước đó, năm 1075, chủ trương, “tiến
là để thủ”, Ông đã tiến quân đánh suốt dọc Châu Liêm đến Châu Ung
thuộc Quảng Đông và Quảng Tây–Trung Hoa, triều đình nhà Tống rúng
động.
16. Trống Quân: Điệu
trống hùng mạnh, rất thịnh hành trong quân đội nhà Trần. Điệu
Trống Quân có lẽ được khai sáng trong thời kỳ quân dân nhà Trần
chống quân Nguyên Mông. Khúc Xuân Phả: Điệu múa có từ thời Đinh
Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Các động chúa
từ các miền sơn cước đến triều kiến vua Đinh, tổ chức các đội múa
chúc mừng dưới ánh trăng hoặc trước ánh lửa, người xoay trần,
mang mặt nạ. Điệu múa này cũng rất thịnh hành trong quân đội nhà
Trần. Quân sĩ múa trước các buổi xuất quân, hoặc để ăn mừng chiến
thắng.
17. Hát Dậm:
Còn gọi là Hát Dặm. Điệu hát kèm theo điệu nhảy múa để trẩy quân.
Một người xướng, nhiều người hát họa theo. Vừa hát vừa nhảy, trẩy
quân đi. Cuộc trẩy quân như vậy mang khí thế tiến công, quân đỡ
mệt mỏi. Rất thịnh hành trong quân đội nhà Trần.
18.
Vi... Quân, Thần: Tương truyền khi vào Lam Sơn giúp Lê
Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, Nguyễn Trãi đề xuất sách lược
“đánh tâm rồi sẽ đánh thành”. Ông dùng loại mực đặc biệt viết lên
lá cây, để cho kiến đục, câu sau đây: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn
Trãi vi thần”. Lá thả trôi trên sông mục đích kêu gọi sự đoàn kết
của quân dân để đánh đuổi giặc Minh. Đó là loại Chiến Tranh Tâm
Lý ngày xưa.
19. Hai câu
này trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của
Nguyễn Trãi:
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
khi Khôi huyện quân không một lữ.”
20.
Trần Phú, sứ giả của triều đình nhà Nguyên đi sứ vào triều nhà
Trần, khi trở về, nhớ lại các trận đánh của quân dân nhà Trần
tiêu diệt quân Nguyên, đã làm bài thơ nói lên sự sợ hãi của hắn:
“Kinh qua ảnh lý đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
Dĩ
hạnh di lai thân kiến tại
Mộng hồn do
giác chướng hồn kinh.”
Hai câu thơ ở ghi chú này lấy ý trong
bốn câu thơ trên đây để lập lại các trận đánh của nghĩa quân Lam
Sơn tiêu diệt quân Minh mà nỗi kinh sợ của họ chẳng khác chi nỗi
kinh sợ của tướng sĩ nhà Nguyên trước đó.
21.
Rộ Mùa Rươi: Về mùa rươi, miền bắc Việt Nam có câu
“tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”, nói rõ ngày tháng mùa
rươi rộ (có nhiều). Ngày 20 tháng 9 và ngày mồng 5 tháng 10 âm
lịch, là các ngày rươi rộ trong năm. Hai ngày đó trời mưa, gọi là
“mưa rươi”. Loài rươi là sinh vật thật nhỏ kết lại thành từng
mảng lớn ở các ven sông gần cửa biển. Sau cơn mưa rươi, rươi sinh
sôi nhiều vô kể. Vớt lên, đem làm mắm. Mắm rươi nấu với lá “gấc”
là món ăn bình dân rất ngon. Dân miền Bắc rất thích. Miền Nam, ít
người ăn mắm rươi nên rất ít người biết loài sinh vật này. Rươi
cũng có nhiều ở mũi Cà Mau và ven biển Rạch Giá.
22.
“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
23.
Phỏng dịch hai câu:
“Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.”
Đáng lẽ nên dịch “Cành ngô đồng vừa
bay chiếc lá,” nhưng chữ “thay” dễ nghe hơn.
24.
Ngục Lửa: Dịch chữ hỏa ngục.
25.
Hồng Hoa: Quả dưa đỏ (dưa hấu)
26.
Phỏng dịch hai câu thi giảng của Hải Lượng Đại Thiền Sư Ngô Thì
Nhậm ghi trong “Đại chân Viên Giác Thanh” về cái “Thuận” và cái
“Nghịch” của chữ “Lý” (lý thuận và lý nghịch). Hai câu đó như
sau:
“Vạn
thủy giai đông Nhược Thủy tây,
Cúc hoa
bất dữ bách hoa tề.”
Vạn con sông chảy về hướng đông, riêng
sông Nhược Thủy chảy về hướng tây. Hoa cúc không cùng nở với trăm
loài hoa khác. Ở đây mượn hai câu thơ này để nói lên tấm lòng kẻ
sĩ không khác người, không phải là dòng Nhược Thủy chảy về hướng
Tây, cũng không phải là loài hoa Cúc không nở về mùa xuân như các
loài hoa khác. Họ cũng như mọi người, mong được hưởng thanh bình,
yên vui.
27. Chẳng Thưa:
Ở đây có nghĩa không thưa thớt, không hời hợt.
28.
Cây Mưa Rước Cá: Dân gian đồng quê miền Nam Việt Nam
thường gọi một trận mưa thật lớn trong một đêm cuối mùa mưa là
cây “mưa rước cá”. Vào một đêm nào đó, có sấm chớp nhiều, mưa
thật lớn, sáng ra loài cá trên sông đều bị tróc mấy hàng dãy trên
đầu. Họ cho là các loài cá do bị sấm chớp đánh “bạc đầu” (đừng
nhầm với một loài cá sông có tên là “cá bạc đầu”). Vài ngày sau,
trên các sông, rạch, gần như biến tăm các loài cá trong thời gian
ngắn. Không rõ tại sao.
29.
Đền Hồng: Phủ Chúa Trịnh ở Thăng Long (Đàng Ngoài) gồm
có: lầu Ngũ Phụng, gác Tứ Các, điện Quyển Hồng. Đền Hồng là điện
Quyển Hồng.
30. Đền Giáng:
Phủ Chúa Nguyễn ở Phú Xuân (Đàng Trong) gồm có: điện Kim Hoa, gác
Dao Trì và đền Giáng Hương. Đền Giáng là đền Giáng Hương.
31.
Đi Sai: Đi tù, lao động khổ sai.
*Trang:
01,02,03,04,05,06,07,08,09,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22,23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,
33,34,35,36,37,38,39,40,41,42,43,44,45,46,47,48,49,50,51,52,53,54,55,56,57,58,59,60,61,62,63,64,65,66,
67,68,69,70,71,72,73,74,75,76,77,78,79,80,81,82,83,84,85,86,87,88,89,90,91,92,93,94
HẾT
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E–mail by Văn Nguyên Dưỡng chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
November 24, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang