Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Thi-Văn
Chủ đề:
Giới thiệu Sách
Tác giả:
Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
LỜI MỞ ĐẦU:
Trước khi đi vào khung trời thơ
của Nhà Thơ–Họa sĩ Lưu Nguyễn Đạt qua thi phẩm song ngữ
LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE
SABLE, tác giả bài
khảo luận này trân trọng mở đầu bằng một bài thơ khen ngợi “lời”
của cát, và nâng cao “lời” lên một cung bậc thơ mộng hơn cho hợp
với uyển ngữ thi ca của Nhà thơ, xin gọi là “tình ca”. Thực ra
“Lời” là một uyển ngữ rất chọn lọc và rất đẹp, một ẩn ngữ vô
thanh đi vào hữu thức. Có thể gọi đó là thứ chữ chắt lọc tinh hoa
như một loại tuyển ngữ thi ca đặc biệt của Nhà Thơ & Họa sĩ Lưu
Nguyễn Đạt. “Lời” là một từ hùng mạnh tuyệt bích như chữ “phán”
của một đấng tối thượng. Nàng Thơ là Đấng Tối Thượng đó, vốn dĩ
Nàng có hàng tỷ tỷ tín đồ và được suy tụng hơn bất kỳ vị thánh
thần tối thượng nào khác. Ở đây tôi chỉ muốn thi vị hoá cho chữ
có một chút duyên mà thôi, nên gọi là Tình Ca.
TÌNH
CA CỦA CÁT
Năm tháng cứ vỗ vào bến hoang vu,
Sóng vô thường dập mãi cõi hư vô
Tạo
tình yêu, nào đâu phải tình cờ,
Nên cát
bỗng hát tình ca hò hẹn.
Lời của cát
vang vang trên biển lớn,
Đất và trời
cũng hoà khúc hoan
Nên con sóng bạc đầu
vang vọng mãi
Vào thời gian, đồng vọng
bến trăng sao
Em hẹn ta từ cõi lạ lùng
nào,
Ta vội đến để giữ tình yêu lại.
Dù vẫn biết thời gian vô sắc thái,
Và
không gian không phải của riêng ai.
Nhớ
một lần Lưu Nguyễn lạc Thiên thai
Khi
trở lại thiên thai thành vũ trụ
Bỗng
thấy mình thành ra thân lữ thứ
Và ở cuộc
đời hoá kiếp đổi chân dung...
Cát bỗng
hát tình ca trên biển lớn,
Vọng miên man
vang dội đến vô cùng...
Văn Nguyên Dưỡng
HÌNH THỨC THI PHẨM
Thi phẩm song ngữ LỜI
CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE được trình bày thẩm mỹ, trang
nhã với nghệ thuật phối hợp màu sắc khá đậm đà trên hai trang bìa
trước và sau. Bìa sách cứng dày, mẫu 8x6 inches, các dòng chữ tựa
sách màu vàng đậm và trắng in trên phong (fond) màu xanh đậm,
“cấy màu” từ bản đồ Biển Đông. Bìa trước còn trang điểm thêm một
bức tranh sơn màu của tác giả. Bìa sau là ảnh nhà thơ, đôi dòng
tiểu sử rất ngắn và mấy lời nhận định của hai người bạn thân. Gáy
tập thơ cũng in chữ màu vàng. Thơ được in trên giấy bóng dày Hồng
Kông, loại giấy quý, trắng hảo hạng, mà trước tôi thấy Cung Trầm
Tưởng dùng in tập thơ Một Hành Trình Thơ của ông.
Đặc biệt, LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE
SABLE là một tuyển tập thơ Song Ngữ Việt–Pháp. Nói rõ hơn, nội
dung gồm vài bài văn xuôi ngắn nói về Thơ và hai bài nổi bật: số
1, “Lên Núi”; bài số 99, “Đêm Qua” coi như thơ văn xuôi [poèmes
en prose]; và một bài mở đầu “Nói Về Thơ”. Phần chính là 97 bài
thơ viết theo cách phá thể lục bát và thất ngôn, nhưng nối lại
thì rất “chỉnh”. Mỗi bài thơ Quốc ngữ đều được Lưu Nguyễn Đạt
trước tác một bài thơ “song sinh” bằng Pháp ngữ in ở trang đối
diện, kể cả hai bài văn xuôi và bài khái niệm về thơ. Nội dung
còn gồm thêm 16 phụ bản in các bức tranh sơn dầu cũng do chính
Lưu Nguyễn Đạt vẽ (cùng loại tranh trừu tượng/peinture abstraite
như bức tranh bìa). Vì vậy, nên ngoài tựa đề LỜI CỦA CÁT – PAROLE
DE SABLE, độc giả còn đọc được một hàng chữ nhỏ, ngay dưới bức
tranh bìa trước “Thơ Tranh — Poésie & Arts”. Ở trang 4, đăng ảnh
của Bà Phùng thị Hạnh, phu nhân của nhà thơ – Họa sĩ Lưu Nguyễn
Đạt. Trang tiếp theo là bức ảnh nhỏ và bản sơ lược học vấn, sơ
lược sinh hoạt văn học nghệ thuật và các tác phẩm của nhà trước
tác văn học và nghệ thuật nổi tiếng này. Tổng cộng tập thơ tranh
LỜI CỦA CÁT – PAROLE DE SABLE gồm 268 trang không kể hai trang
bìa và các trang để trắng.
NHÀ TRÍ THỨC HÀN LÂM LƯU NGUYỄN
ĐẠT
Trước khi trở thành một thi họa sĩ, Lưu Nguyễn Đạt là một một trí
thức Văn Hoá Hàn Lâm, một học giả chuyên về Luật Pháp, Chính trị
và Xã hội, một nhà tư tưởng lớn về triết lý vũ trụ và nhân loại.
Trước ngày Miền Nam sụp đổ cuối tháng 4, 1975, Ông đã có hai văn
bằng Cử nhân Văn khoa và Luật khoa Sài Gòn, là Giáo sư các trường
Trung học Lycée Pascal Đà Nẵng và Lycée Yersin Đà Lạt, Luật Sư
Thực Thụ Tòa Thượng Huế và Sài Gòn.
Sau ngày 30/4/1975, định cư sang Hoa
Kỳ, Ông vừa đi dạy vừa đi học lại. Ông tốt nghiệp Cao học Giáo
khoa và Tiến sĩ Văn Chương (MA & PhD) Michigan State University;
Cao học, Hậu Tiến sĩ Luật (LLM, MCL) Howard Law School, là Giảng
sư Pháp Văn tại Michigan State University, Hood College (MD);
Phối hợp Giáo Huấn Đa Văn Đa Ngữ – PEO School of Education, Đại
học Michigan; Giám đốc Trung Tâm Trợ Dẫn Luật Pháp Quốc tế –
Director, International Legal Aid Center (ILAC). Ông còn sáng lập
Công ty Bằng Khoán Địa Ốc [Title Insurance Corporation] thuộc
Luật sư Đoàn TB Virginia.
Ngoài ra, để phục vụ cho Cộng Đồng Việt
Nam trên toàn quốc Hoa Kỳ và Thế Giới, Luật Sư TS Lưu Nguyễn Đạt
còn là người Sáng lập và Điều hành các cơ sở Văn học, Văn hoá Xã
hội, Chính trị như Nhóm Sáng Tạo – Group Creation (MSU, 1976), Cơ
Sở Cỏ Thơm (Virginia, 1996), Tư Tưởng Việt(Virginia, 2003) và
Diễn Đàn Việt Thức (Virginia, 2010). Về Hội Họa, khi còn ở Việt
Nam, Ông là Tổng Thư ký Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1972–75).
Nói tóm lại Lưu Nguyễn Đạt là một nhà
trí thức Việt Nam, hay Người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trong giới học
giả Hàn lâm Hoa kỳ và giời trí thức Việt Nam lưu vong. Ông là
người nói và viết ba ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp lưu loát vào bậc
thầy, ắt hẳn làm cho các bạn đồng song người Mỹ nể trọng. Tôi
không ngạc nhiên về việc này. Tôi cũng không ngạc nhiên lắm khi
biết một người bẩm sinh thông minh và có nghị lực học hỏi và làm
việc năng nổ đã trở thành một nhà trí thức hay một học giả như
Lưu Nguyễn Đạt. Nhưng muốn trở thành một nhà thơ, một nhà sáng
tạo nghệ thuật như họa sĩ, điêu khắc gia thì không phải ai cũng
làm được. Và hơn nữa khi đã là một nhà thơ, một nhà nghệ thuật
sáng tạo, lúc nào Lưu Nguyễn Đạt cũng hướng lên phía trên, phía
trước để tìm chân lý đích thực của kiếp sống con người. Thi phẩm
song ngữ LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE là một thể hiện sống động
nhất về tư tưởng hướng thượng, về nhân sinh quan và vũ trụ quan
của Ông. Trước khi đi sâu vào nội dung Thi phẩm song ngữ LỜI CỦA
CÁT – PAROLES DE SABLE, xin trở về nguồn, xin tìm hiểu về tiểu sử
của Lưu Nguyễn Đạt để biết rõ hơn nhà trí thức này vì sao đã trở
thành một nhà thơ, một nhà sáng tạo nghệ thuật.
THI HỌA SĨ LƯU NGUYỄN ĐẠT, NGUỒN GỐC VÀ SỨC MẠNH SÁNG TẠO THI CA
VÀ NGHỆ THUẬT:
Cách đây chừng mươi năm, sau khi xuất bản
quyển sử Chiến tranh Việt Nam The Tragedy of the Vietnam War
(McFarland, 2008), nhân trong một lần nào đó, đầu thập niên 2010,
liên lạc điện thoại với cựu Trung tá KQVN Cung Trầm Tưởng, tôi
được nhà thơ này cho biết, “nếu muốn có đất dụng võ” ở hải ngoại,
nhất là ở Hoa Kỳ, thì nên tiếp xúc, gởi các bài tham luận chính
trị và văn học cho GS TS Lưu Nguyễn Đạt, người sáng lập và chủ
biên Diễn đàn mạng (Internet) Nghị luận Chính trị và Văn Hoá VIỆT
THỨC, là diễn đàn có uy tín rất lớn của Người Việt Tự do ở
Washington, D.C. Tôi vào Google tìm được Diễn đàn Việt Thức và
gởi một bài tham luận chính trị. Bài tham luận được TS Lưu Nguyễn
Đạt, Chủ biên, cho đăng ngay lên Diễn đàn Việt Thức mấy ngày sau
đó. Từ đó tôi tiếp xúc với TS Đạt và gởi bài viết đều đặn đăng ở
Việt Thức trong hai năm cho đến khi mổ cườm mắt và bị bệnh
glaucoma tôi mới không viết nữa vào khoảng năm 2014.
Trong
thời gian cộng tác viết cho Diễn đàn Việt Thức, sự liên lạc giữa
TS Lưu Nguyễn Đạt và tôi rất chặt chẽ và thân thiện, nên tôi càng
ngày càng hiểu rõ hơn tài năng của Ông về mọi mặt –rất đa dạng và
rất xuất sắc, uyên thâm– nên tôi càng quý nể hơn. Tuy nhiên khi
viết về Nhà Thơ & Họa sĩ Lưu Nguyễn Đạt, tôi lại phải dựa vào
nhiều tài liệu, như về buổi “Trò Chuyện giữa Nhà Văn Hồ Trường An
và Thi sĩ Lưu Nguyễn Đạt”
(1)
và bài viết của Bà Phùng Thị Hạnh, người yêu, người tri kỷ và
cũng là người bạn đời đầu gối tay ấp của Ông
(2), tôi mới viết được rõ ràng hơn.
Nhà Thơ Lưu
Nguyễn Đạt sinh năm 1940 tại Hà Nội trong một gia đình công chức.
Thân sinh ông là cụ Lưu Đức Hoạt, Chánh Sở Địa Chánh, hay Đạc
Điền – Chef Service du Cadastre – của Thành phố Hà Nội. Cụ Hoạt
là cựu học sinh Trường Trung học Lycée Albert Sarraut của người
Pháp ở Bắc Kỳ. Cụ bị bịnh, sang Pháp điều trị và mất ở Paris năm
1950, khi Lưu Nguyễn Đạt mới mười tuổi. Lưu Nguyễn Đạt, trước đó
từng là học sinh Petit Lycée Rollande, rồi Lycée Albert Sarraut,
sau khi bố mất, đã vào nội trú ngôi trường Trung học Pháp nổi
tiếng này, chỉ dành riêng cho con cái người Pháp hay con của gia
đình giàu có, gia thế, có quốc tịch Pháp hay giới thượng lưu Việt
Nam. Các trường Petit Lycée Rollande [Tiểu học] & Lycée Albert
Sarraut [Trung học] chỉ dạy chương trình thuần Pháp văn. Vì vậy
coi như Lưu Nguyễn Đạt học tiếng Pháp từ nhỏ.
Thuở thiếu
thời đó, dù là học sinh trường nào thì cũng phải trải qua hay
chứng kiến sự thay đổi to lớn và đau lòng của Cố đô Hà Nội khi
đất nước trở mình trong và sau Đệ II Thế Chiến để vươn lên tìm
độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó là thời gian trước và sau năm
1945.
Lưu Nguyễn Đạt nói:
“Tại đó, tôi đã mục kích
cảnh Quân đội Phù Tang, xâm chiếm, khủng bố, đe dọa dân tộc chúng
ta, với cái hậu quả của năm Ất Dậu, hãi hùng trên đường phố vắng
tanh, khi dân chúng trốn tránh cảnh đói và chết chóc xảy ra khắp
nơi, từ thành thị tới làng mạc Miền Bắc. Tại đó, tôi đã mục kích
cảnh Quân đội Pháp, nào Lê Dương, nào Ma–rốc–canh, Xê–ne–ga–le,
Tây–đen–rạch–mặt ồn ào, say sưa, quậy phá hàng xóm, phố phường.
Tại đó, tôi đã mục kích cảnh hồi cư về thành sau cuộc khởi chiến
Việt Minh đánh Quân Đội Pháp, với những khu phố im lìm, trơ trọi,
tường vách đổ nát, xuyên phá. Hà Nội lúc đó không khác gì một
người đàn bà đẹp mặc áo tang, chít khăn sô.”
Và, dĩ nhiên
lúc đó Lưu Nguyễn Đạt còn thấy nhiều hơn nữa ở vùng phụ cận Hà
Nội “Là hình ảnh hãi hùng của Quân Đội ‘Tầu Phù’, thuộc Phe Đồng
Minh tới giải giới Quân Đội Nhật sau Thế Chiến Thứ Hai, lê lết
ngoài đường, ngõ hẻm, tràn vào vườn tược tư gia tìm đồ ăn thức
uống, rồi phóng uế bừa bãi. Lúc đó chúng tôi còn bé, không thấy
ghê tởm, mà chỉ thấy cuống cuồng sợ hãi...” (3)
Vâng, tuổi
trẻ của thế hệ Lưu Nguyễn Đạt và của chúng tôi đã đau lòng và sợ
hãi bởi sự tàn phá dưới gót giày của các quân đội ngoại quốc nhân
danh của tự do hạnh phúc hay gì gì đó... Nếu chúng tôi sống trên
các miền xa xôi của đất nước thì cảm nhận mất mát hẳn ít hơn
những con dân Hà Nội, thủ đô của ngàn năm văn vật, nơi hội tụ nền
văn hoá cao nhất đất nước và tinh hoa của dân tộc. Ở đó hẳn nhiên
phải chứa đựng những gì tốt đẹp nhất, mà tuổi trẻ sống ở đó thấy
như đã sống trên thiên đường.
Lưu Nguyễn Đạt nói tiếp:
“Nhưng Hà Nội còn có những hình ảnh thơ mộng tuyệt vời in sâu
vào ký ức các thế hệ trẻ đầy sức sống, với những mùa hè phượng nở
rực rỡ trong lòng người, với những mùa thu mưa lá, phấn bụi, làm
cậu học sinh tôi lặng người bỏ quên cả cặp sách bên vỉa hè, lững
thững về nhà tay không... Khi lớn lên, tôi thường dạo bộ tại Vườn
Hoa Con Cóc, cạnh hồ tắm Ấu Trĩ Viên, rồi dạo chung quanh Hồ Hoàn
Kiếm, trên những thảm cỏ xanh mướt, những lối đi sột soạt đá cuội
trắng, thật mắt nhìn theo những thân cây cằn cỗi, những lá me xùm
xoà là theo mặt nước xanh màu ngọc biếc...”
(4)
Như vậy
Lưu Nguyễn Đạt đã mục kích cảnh thực tế rệu rã của một Hà Nội sau
màn xâu xé của đế quốc... mà ở đó vẫn ẩn chứa một thiên đường đẹp
đẽ in sâu vào tâm não của cậu mãi mãi. Lẽ nào cậu không biết
thắng cảnh Chùa Một Cột, một Cầu Thê Húc, một Hồ Hoàn Kiếm, một
đền Trấn Quốc, hay còn gì, còn gì nữa... Thiên Đường đó biết đâu
còn ẩn hiện bóng dáng hào hùng của Thánh Gióng, hay ủy mị thương
tâm của Trọng Thủy–Mỵ Nương, hình ảnh của Bến Lãng, của Đền Hùng,
hay tiếng súng Yên Bái của một Nguyễn Thái Học, hoặc tiếng bom
Sa–Điện của một Phạm Hồng Thái... vọng đến. Lưu Nguyễn Đạt đã đối
diện với thực tế hữu hoại và thiên đường hằng sống như những cõi
nào đó ảo huyền trầm tịch, bí ẩn. Trầm tịch và bí ẩn với những
cánh rừng sâu thẳm ngan ngát của núi rừng Việt Bắc những lần cậu
theo bố du ngoạn vùng thượng du. Ảo huyền và xa diệu vợi nghìn
trùng như phong cảnh của hàng nghìn đảo nhỏ, đảo to, ẩn hiện trên
mặt sóng Vịnh Hạ Long.
Hai thái cực đã hiện hữu trong một
tâm hồn, một của thực tế tang thương ở Hà Nội và cũng là một của
thiên đường huyền ảo... cũng của Hà Nội. Tất cả đã biến Lưu
Nguyễn Đạt sau này thành một nhà thơ, một nhà sáng tạo hình
ảnh... đi tìm lại những sự thật sống động nhưng cũng thật mơ hồ
như đi tìm lại những gì đã mất đi theo năm tháng cũ. Và rồi hình
như tất cả đã sống dậy mãnh liệt. Hay nói một cách khác hơn Lưu
Nguyễn Đạt đang đi tìm lại thiên đường cũ trong ánh mờ ảo của
cảnh vật đổi sao dời. Nhà thơ muốn xé hà tì, tai ương của tạo hoá
để tìm lại thiên đường cũ, cũng có thể là thiên đường mới, thì có
khác gì với việc vạch trần sự thật để tìm hình bóng ẩn tàng của
nó.
Có thể sự mất mát tình cảm gia đình lẫn sự giáo huấn
của cha, sự cô đơn khi một mình quyết định vào “xứ” Sài Gòn mùa
hè năm 1954, khi Lưu Nguyễn Đạt mới mười bốn tuổi cũng là một
nguyên nhân quan trọng để Lưu Nguyễn Đạt tự rèn luyện quyết tâm
và ý chí kiên cường vượt thắng mọi hoàn cảnh để tự lập thân và
thành công. Vào Sài Gòn khác nào như một cuộc đổi đời khi cậu học
trò mới lớn này thêm một lần nữa mục kích thực tế khi tiếp xúc
với những con người hiếu khách, bình dị và ngay thẳng của Miền
Nam và cũng lại đi vào những thiên đường đầy ảo mộng khác như
thời gian vào học nội trú ở Trung học Lycée Yersin Đà Lạt, cũng
là ngôi trường của người Pháp, chỉ dành riêng cho con em họ hay
con cái các gia đình thượng lưu Việt Nam như Lycée Albert
Sarraut, Hà Nội, hay Lycée Chasseloup Laubat ở Sài Gòn.
Đà
Lạt, phong quang đẹp đẽ với núi đồi chập chùng, suối hồ thơ mộng,
chẳng khác một thiên đường xinh tươi đầy hoa thơm cỏ lạ. Chính
Lưu Nguyễn Đạt cũng nhận thức như vậy: Tôi “tìm ra” Đà Lạt như
một thiên đường nhỏ...”
Ở đó, Lưu Nguyễn Đạt bắt đầu học
hỏi được các trường phái Văn học thế giới và “sáng tác thơ phú”.
Anh còn tâm sự thêm với nhà văn Hồ trường An về Đà Lạt như sau:
“Tại nơi mà cảnh vật thì tuyệt đẹp, trong sáng, người thì
hiền hoà, ấm áp, hồn nhiên, tôi đã bừng sống toàn diện, với những
tình cảm sâu đậm, trọn vẹn đến ngày hôm nay. Tại nơi đó, tôi đã
gặp Phùng Thị Hạnh, và biết thế nào là tình yêu, như một giọt
sương tinh khiết, trên triền cỏ gần mây ngũ sắc...” (5)
Thời gian kế tiếp, gần một năm sau, gia đình, mẹ cải giá, bố
dượng là Luật sư Vũ Đăng Dung, tới năm 1955 mới đem cả gia đình
từ Hải Phòng vào định cư ở Huế, rồi Đà Nẵng. Tại đó, LS Vũ Đăng
Dung được bầu làm Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Tòa Thượng Thẩm Huế suốt
hai mươi năm sau đó cho đến ngày Miền Nam sụp đổ.
Dĩ nhiên
trong hai thập niên đó, dù đi học ở đâu, hay ngay cả khi đã tốt
nghiệp Đại học Văn Khoa và Luật Luật khoa rồi, Lưu Nguyễn Đạt
cũng về với mẹ, bố dượng và các em ở Huế, rồi tập sự luật sư suốt
ba năm liền. Lại thêm những thời kỳ Lưu Nguyễn Đạt sống và hít
thở không khí của một thiên đường thơ mộng khác với Sông Hương,
Núi Ngự, với “tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương” mơ hồ và
huyền hoặc trước Tết Mậu Thân 1968. Và rồi chính Ông cũng đã mục
kích cảnh Huế chít khăn sô, xương trắng, máu đào tràn ngập, sau
Tết Mậu Thân năm 1968. Nghĩa là Lưu Nguyễn Đạt một lần nữa mục
kích thiên đường và địa ngục ở cùng một nơi như Hà Nội của quá
khứ. Sau này, Ông lại đóng một vai chính trong phim ĐẤT KHỔ của
Hà Thúc Cần, với cảnh tàn phá, giết hại hàng ngàn dân oan.
Nhưng tất cả rồi cũng mất đi, tan biến nhanh như ảo ảnh, diễn
biến từng lúc, từng thời, từ cuộc đổi đời của Việt Nam sau ngày
30/4/1975. Và cái tồn tại trong tim óc ông là tình yêu, là sức
mạnh của tinh thần cầu tiến cho các thế hệ trẻ Việt, tại Hải
Ngoại và trong nước, qua công trình giải mã cuộc chiến ý thức hệ,
qua nhận định lúc bẽ bàng về thân phận làm ngưới Việt Nam, lúc
phấn khởi về nghị lực đấu tranh cho dân chủ, cho tự do mà người
Việt quốc gia chưa kịp hoàn tất, mà nay các thế hệ tiếp nối đang
hồi hướng, tái lập trở lại, dưới những phong trào thiết thực, quy
mô tái dựng đất nước về mặt nhân bản, về chính nghĩa tồn sinh,
tại Hải Ngoại và trong Nước.
Phu nhân của Ông, bà Phùng
Thị Hạnh đã nói rõ các sở hữu tiềm tàng quý báu này của Ông trong
một bài viết khá thú vị và tỉ mỉ, xin trích một vài đoạn ngắn:
1. “Kiến thức: Lưu Nguyễn Đạt học rất giỏi trong trường; thi
cử từ tú tài toàn phần tới 2 bằng Cử nhân Văn khoa, Luật khoa đều
đứng hạng ưu; sau ngày mất nước, Anh đi học lại lấy bằng Cao học,
rồi Tiến sĩ Văn chương Pháp tại Michigan State University, rồi
Cao học Hậu Tiến sĩ Luật tại Howard Law School. Học hỏi, kiến
thức làm Anh bớt trống trải, cô đơn, đến độ như ‘nghiện học’ cho
tới ngày nay; học vẽ, đúc tượng, sửa nhà, kỹ thuật in ấn sách
báo, điều hành báo mạng, v.v. Đọc sách nhiều, học hỏi rất kỹ
lưỡng và sẵn sàng bổ túc mọi thiếu sót khi bắt tay vào việc.”
2. “Tình yêu: Đối với Lưu Nguyễn Đạt, tình yêu là ĐAM MÊ,
sống hết lòng với người Anh yêu quý, tôn trọng. Tôi may mắn được
Anh chọn, vừa để bù đắp nỗi cô đơn bẩm sinh của Anh, mà còn là
nguồn sống và sáng tạo của Anh. Gia đình, con cái, bạn bè, thân
phận con người đối với Anh là cả NỖI QUAN TÂM HÀNG ĐẦU. Trước mặt
và sau lưng họ, Anh luôn luôn dành những điều xót xa, tâm nguyện,
ao ước chân thực. Anh vừa sống để yêu và yêu để sống.”
3.
“Tình yêu đối với Anh là chìa khóa của nỗ lực sinh tồn, tái tạo.
Tất cả những gì Anh làm, sống, và sáng tạo, là vì tình yêu, nhờ
vào tình yêu. Do đó, Anh sẽ âm thầm xa lánh người, xa lánh cảnh
vật chung quanh nếu cảm thấy thất vọng. Lúc đó Anh sẵn sàng cắt
bỏ, không một lời than phiền.”
(6)
Đoạn đầu về mặt Kiến
Thức, Bà Phùng Thị Hạnh ghi nhận tài năng bẩm sinh của Lưu Nguyễn
Đat, và nói rõ sự “nghiện học” của Ông, về học vấn, nghề nghiệp,
hội nhập mỹ thuật — hội họa, đúc tượng, trang trí, ấn loát, v.v.,
để cảm thấy bớt cô đơn, trống trải, và cũng để tái tạo một trật
tự mới, tốt đẹp hơn những gì ông nhận được trong cõi đời này. Sự
cô đơn của một người có chữ nghĩa, đọc nhiều sách, đối mặt với
kinh nghiệm sống tự lập, tự cường, cũng dễ khiến cho người đó
viết văn, làm thơ, sáng tạo một cách chân chính, toàn diện.
Đoạn giữa: Tình Yêu, Bà Phùng Thị Hạnh cho rằng, đối với Lưu
Nguyễn Đạt, Tình yêu là “ĐAM MÊ (viết chữ hoa), sống hết lòng với
Người anh yêu quý.” Bà cũng cho rằng Bà may mắn được Anh chọn vừa
để bù đắp nỗi cô đơn bẩm sinh của Anh, mà còn là nguồn sống sáng
tạo của Anh... Vậy, ta biết thêm một động lực, hay sức mạnh vô
cùng lớn lao, tạo cảm hứng cho anh sáng tác, đó là sự hiện diện
và tình yêu của một người đẹp trong đời Lưu Nguyễn Đạt, bà Phùng
Thị Hạnh đã cho ông có đối tượng tạo cảm để làm thơ, vẽ tranh,
tạc tượng.
Bà Phùng Thị Hạnh cũng nói thêm mà tôi hiểu là
ngoài bà ra, thì gia đình, con cái, bạn bè, thân phận con người,
đối với Anh là cả NỖI QUAN TÂM HÀNG ĐẦU (cũng viết hoa, chữ lớn).
Căn cứ vào đoạn văn này, ta thấy rõ ràng hơn tình yêu đối với
Người Yêu Phùng Thị Hạnh, tuy rất ĐAM MÊ, nhưng không phải là
tình yêu đam mê duy nhất, mà Lưu Nguyễn Đạt còn có tình yêu lớn
với con cái (Lưu Thiên Kỳ, Lưu Huệ Chân, Lưu Thế Khải, và Lưu
Việt, đã trưởng thành và thành công thành danh), với bạn bè, và
với thân phận con người là mối tình rất lớn của Lưu Nguyễn Đạt.
Như vậy chính cái Đam Mê hay Tình yêu của Lưu Nguyễn Đạt rất rộng
lớn, hay có thể nói là vô biên, có ngay “trong lòng” ông. Với một
người có nhiệt tình như vậy thì việc sáng tạo thi ca nghệ thuật
tất nhiên rất là phong phú, súc tích vô cùng.
Nếu chứng
tích tai ương địa ngục có thật của đất nước bị tàn phá được mô tả
qua thơ của một Hoàng Cầm, một Quang Dũng của Miền Bắc, hay một
Tô Thùy Yên, một Văn Nguyên Dưỡng của Miền Nam trong thế kỷ 20,
thì LỜI CỦA CÁT–PAROLES DE SABLE, của đầu thế kỷ 21 là cuộc chiến
ngày hôm nay không chỉ còn dưới hình thức “du kích”, tạch đùng
bán quy mô, đổ máu, bom đạn cần mua, cần bán, mà là thứ tàn phá
nguyên tử nhân loại, tận cùng tới cơ thể, tâm não, tế bào con
người, tới cực cùng đày đọa nhân bản giữa người Việt với người
Việt, tự hủy, tự bán mình, tự bán nước cho kẻ lạ để lấy cớ sinh
tồn, hưởng thụ, khi một triệu đảng viên, cán bộ sung sướng lại có
hơn 90 triệu người dân tù đày, khốn đốn, tàn phế, biệt xứ.
LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE cũng có cái tan vỡ, cái địa
ngục, cái khóc thảm NGAY TRONG NỘI TÂM, dù không ra nước mắt, mà
vẫn XÓT XA, vẫn lịm người như cảnh CHẾT ĐỨNG. Thơ của kẻ hiền là
nghe và nói ra những VANG VỌNG SÂU SẮC, CAO ĐỘ, mà tai không nghe
được (ngay), mắt không nhìn thấy (ngay), vì phải dùng tới tim,
tâm linh, nhân tính mới thấu đạt, mới hạnh ngộ.
MẸ NÍN
sáng nay mẹ nín để con đi
cửa ngõ đóng sơ vội biệt ly
ngoảnh mặt giơ tay hàng vũ khí
ngoài khơi ngũ hải khóc chu kỳ
sáng qua mẹ nín để con đau
tù ải quanh năm gối nhục màu
cải
tạo tay lồng chân xích hậu
hồ mơ tát nước lấp kinh cầu
sáng
hôm mẹ nín để con điên
công lý bẻ cong chữ tật nguyền
nước
mất bờ vây thành hý viện
đó đây lời lẽ vẫn huyên thuyên
tối
nay mẹ nín để con ca
bài hát vẫn còn nỗi thiết tha
giọt
đắng tâm hồn ngây vắng lạ
nghe như muốn khóc ngập sơn hà
(LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE)
Cuộc đổ nát đó, ngoài
áp lực thiên tai, phá hủy môi trường bằng súng đạn, bằng hàng hoá
giết người, còn là sự suy thoái của cả một xã hội lạc lõng, phóng
uế, vong thân, phá hủy nhân tính: kẻ trên ích kỷ, tham nhũng, tàn
ác, kẻ dưới vô tình, vô tâm, tự hủy.
Những tai ương nhân
tạo, do chính con người phát xuất, nuôi dưỡng, tòng phạm đang
hoành hành trên một “mặt trận” vừa công khai, vừa quy mô toàn
diện, nên chỉ con người tự giác, tự trọng, tự phát mới đem lại hy
vọng “vượt thắng”, điều trị. Tôn giáo chân chính, tư tưởng chính
nghĩa, nếp sống căn bản tử tế, văn phong sáng tạo nhân bản, nhân
từ, trong sáng mới thực sự đem lại hy vọng chấn hưng đất nước,
tồn dữ danh dự và chí khí tái hợp chính đạo làm người trung kiên,
tự trọng, tự duy. Muốn chiến thắng bạo tàn của mọi thế lực nội
địa hay ngoại bang ích kỷ, tai ác, thì phải có công dân tự giác,
sẵn sáng chứng tỏ mình có quyền sống làm người sở hữu thân phận
và không gian trực thuộc của chính mình.
VÌ DÂN
tặng
huỳnh thục vy
và người dân Việt đang tìm tự do & nhân
quyền
vì dân trong nước đọa đày
nên em thân hạc cánh gầy
phong ba
rẽ đêm thắp lửa sơn hà
ba kỳ khởi nghĩa một nhà
tình thương
tay không tâm nguyện phi thường
nối dòng tư
tưởng đông phương mở hồn
luật thiêng nhân nghĩa vuông tròn
dân ta làm chủ rừng còn đất yêu
chí nhân đại nghĩa muôn chiều
lời văn khí tiết trăm điều thơm tho
công bằng pháp trị tự do
an toàn không chọn còn lo cho người
(LỜI CỦA CÁT – PAROLES
DE SABLE)
Chiến tranh và tàn phá sẽ không còn hay sẽ vượt thắng nếu còn có những con người muốn làm người vượt thắng ngay chính mình để duy trì thế đứng chân chính, tồn tại, hoà thuận giữa con người.
CHƯA PHAI
sáng nay tôi ngưng bước
không hẳn là bỏ cuộc
chỉ dừng lại thấy đau
và thấy mình
chảy máu
sáng nay tôi đứng lại
hai chân chưa khuỵu ngã
thân hình dù buông thả
nhưng trụ cột vẫn là
sáng nay tôi
nhắn khẽ
bạn đồng hành hãy nghe
nếu không thấy tôi về
xin đừng lo lắng nhé
sáng nay tôi tự hỏi
mình tiếp tục hay
thôi
cuộc hành trình chưa nối
sao đã vội buông trôi
sáng
nay tôi gác bút
mực nước khô cầu vồng
thả chữ nghĩa long
đong
lúc hạ huyệt xuống dòng
sáng nay tôi ngoảnh mặt
chỉ
thấy ánh phù sa
trên con sông xa lạ
một mình tôi chưa qua
tối nay thật chậm rãi
hãy ngủ trọn đêm dài
để nay mai bừng
lại
thấy hồn mình chưa phai
(LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE
SABLE)
LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE đang kêu gọi sự “việt–vượt–thắng” CHƯA PHAI đó trong hiện tình đất nước, trong hiện tình tỵ nạn của con người “không muốn các thế hệ sau này tiếp nối tỵ nạn”, nên cần thoát nạn, cần ca tụng cái hay, cái đẹp, cái tử tế xuất phát tự mình, từ nhân tính còn lại. LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE chính là âm thanh của tạo hoá xin con người vừa ý thức sự tàn phá nội tại, vừa cố gắng tìm cách giảm bớt nguy cơ tự hủy bằng những giải pháp “bớt nóng”, bớt nhiệt độ phung phí, bớt rác rưới, bớt ô nhiễm ngay chính mình. Và nhất là biết đấu tranh cho lẽ phải, cho chính nghĩa, cho tự do và chí khí làm người.
Nếu họa sĩ thế kỷ 20 như một Picasso thuộc trường phái Lập Thể
[Cubisme] ở Châu Âu bắt đầu đưa những hình hài méo mó con người,
hay vỡ mảnh qua tranh mô tả chiến trận tàn phá dân chúng
GUERNICA; hay một Renoir với trọng tâm hội họa nét màu thực thể
[Réalisme] sống động, mập mạp, hưởng thụ văn minh vui nhộn phì
nhiêu và ánh sáng Paris thế kỷ 19, thì điêu khắc của Lưu Nguyễn
Đạt là Bàn Tay Hy Vọng [Memorial Statue HAND OF HOPE] được tác
giả khơi dựng hè 1975 [cũng Thế kỷ 20], tại trại Thủy Quân Lục
Chiến, Marine Camp Pendleton, San Clemente, California, trong
những ngày tháng đầu tiếp cư người Việt Tỵ Nạn cộng sản tới trú
ngụ tại Hoa Kỳ, sau khi Sài Gòn thất thủ, để ghi nhận và nhắc nhở
thế hệ Việt trẻ vốn là ĐỐI TƯỢNG của cuộc “DI TẢN LỊCH SỬ 1975”,
nên cần TIẾP TỤC TỰ VỆ, cần vươn cao tự phát trong tương lai để
cứu mình, cứu người một cách nhân từ, nhân ái, như bàn tay ông
cha nâng niu con cái thoát nạn, như bàn tay con người nâng đỡ lẫn
nhau.
Còn hội họa của Lưu Nguyễn Đạt thuộc trường phái
trừu tượng [xuất phát từ nhu cầu thoát vượt trường phái Ấn tượng
[Impressionisme] và Biểu tượng [Symbolisme], nên chú trọng khởi
sắc con người và tạo hoá ĐẸP, HƯỚNG THƯỢNG, và nhất là khởi sắc
NỘI TÂM và CĂN BẢN của cái đẹp đó. Lưu Nguyễn Đạt thường nói: “Vẽ
được Người Đàn Bà Đẹp đã khó, nhưng vẽ nổi NỘI TÂM, NỘI TRẠNG của
người đẹp, của SẮC ĐẸP còn khó hơn, vì cần cảm nhận, cần hội nhập
chân thức, chân giá trị, chân lực tiềm tàng của đối tượng”.
Do đó tranh Lưu Nguyễn Đạt là TÂM CẢNH [Mindscape], là NỘI
LỰC, khi không thể hiện con chim cất cánh [theo Réalisme] mà vẽ
sức bay bổng của cấu trúc và màu sắc tiêu biểu thoát vượt. Tranh
Lưu Nguyễn Đạt vốn là tranh trừu tượng nội tâm, từ ánh màu con
sóng bạc tạo thành mẹ biển cả thùy dương bao bọc; từ hạt sỏi,
ngọn lá, nụ hoa tạo thành núi rừng, tạo hoá liên hệ. Tranh Lưu
Nguyễn Đạt không xa lánh con người, không bỏ bê thiên nhiên, tạo
hoá, mà chỉ đem lại cho con người sắc thái toàn bích; đem lại cho
cảnh vật sự say sưa, thơm tho của màu sắc nổi bật, của không gian
VĨ MÔ thu hình trong giọt nước vi mô nhỏ bé, hay ngược lại, chỉ
cần thoáng ánh sáng nội tâm cũng tạo dựng lại sắc phẩm nhân tính
và vũ trụ còn huy hoàng, trong cảnh hướng thượng, huyền diệu,
tiềm tàng ngay trong vắng vợi, mất mát.
Tượng và tranh Lưu Nguyễn Đạt kết phát cùng thơ Lưu Nguyễn Đạt, một cách tương xứng, song hành:
ĐÊM TRẮNG HẠ
đêm trắng hạ mưa buồn như suối vỡ
tóc bạc tuyền dòng chữ
nối ngẩn ngơ
rừng lá vội cành khô buông tay nối
phân vân
vào gốc vắng hoang sơ
mưa thiêm thiếp ngủ vùi trong khát vọng
từng giọt sa thầm kín mắt huyền mong
em yên lặng nửa đêm lay
tiếng sóng
khóc mỗi lần giọt xót ứa trong lòng
vết dấu tạm
thì thầm trong bóng tối
con đường dài mải miết nỗi chơi vơi
thời gian hoá siêu hình trong nắng vợi
bỗng đêm qua một nét
ửng vành môi
em tới đó ngâm hồn vào biển cả
giạt về đâu hạt
cát giữa phù sa
ta luồng gió lạnh như vùng xa lạ
vẫn bay
ngang vực tối ẩn hồn hoa
MẶT TRỜI CHƯA MÀU SẮC
đêm
thần thoại mặt trời chưa màu sắc
đã có em trầm tưởng nối dòng
sâu
thân kiếp lạ thoáng hồng nguyên lần cuối
trước rạng
đông và tiếng gọi từ lâu
dòng hiện hữu cột cây nghiêng rừng
núi
lắng tai nghe từng giấc lặng thầm vui
say hồn nước và
ngây buồn đất tủi
thời gian qua bát ngát hạt sương vơi
lòng
nhân loại có em thêu tình sử
hoá bụi trần thành đá biếc giữa
đời
(LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE)
Thơ Lưu Nguyễn
Đạt không phải là thơ tự do, mà là thơ canh tân từ loại thơ “Lục
bát”, “Thất Ngôn”, “Ngũ Ngôn”, không có chấm, phẩy, chữ hoa,
v.v., để độc giả tùy tâm thấu hiểu, tùy hứng đọc/diễn theo hơi
thở và cách cảm nhận của từng người.
Có lắm bài thơ 6/8
được cắt đổi thành 6/4/4:
TỰ DO EM
tự do em mặc áo
nàng
theo mùa thu đổ
ánh vàng trên non
lòng trào tâm lệ
ửng son
em ngồi bến mộng
sương mòn ngàn thu
hồn chiều xa
cách viễn du
dâng theo hạt nhớ
uẩn u bàng hoàng
mưa ngân
sóng bạc lá vàng
em tìm nơi hẹn
thênh thang rùng mình
hay 7/7 cắt đổi thành 3/4/3/4... mà vận nhịp vẫn nguyên vẹn, vẫn chỉnh.
TÓC HUYỀN BAY
bên trời cửa hé
mắt
xanh nguồn
tha thiết từng giây
phút vấn vương
áo lụa mai
mềm
hương chớm nở
tình đầu ẩn giọt
nắng tinh sương
từng đêm xuân ngọt
môi xinh dậy
hoa mướt ngọc lan
thơ
thẩn mây
đường cũ lối xưa
non tuổi ngọc
thì thầm dĩ vãng
tóc huyền bay
(LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE)
Anh
Nguyễn Ngọc Bích đã nói: “Thơ Lưu Nguyễn Đạt tưởng như vậy, mà
không vậy”. Cắt và xếp thơ như thế để làm gì? Để tạo ra cảm giác
mới, nhịp thơ/thở đúng lúc, đúng chỗ, cuối câu, giữa câu [rime
caudale & rime dorsale] cởi mở, thú vị, vừa suôi tai [euphonie],
vừa gọn gàng hợp mắt [balance rythmique], dễ đọc, dễ nhớ.
Ngoài tập thơ LỜI CỦA CÁT – PAROLES DE SABLE, Lưu Nguyễn Đạt còn
có thêm 8 tập thơ khác: Vùng Cao Nước Ẩn, Hồn Nước, Ca Tụng Niệm,
Như Hoa, Nắng Đêm, Thơ Xanh, Ân Tình, Sóng Gào đã đúc kết thành
tổng thi phẩm LƯU NGUYỄN ĐẠT DÒNG THƠ 50 NĂM [Việt Thức 2015] gồm
hơn 700 bài thơ mới và cũ. Và trong năm 2019, Lưu Nguyễn Đạt sẽ
cho xuất bản thi phẩm thứ 10, VẼ TÌNH – PAINTING LOVE, song ngữ
Việt – Anh.
Hiện đã có khoảng 60 bài thơ của Ông đã được
phổ nhạc.
THÂN HỮU NHẬN ĐỊNH VỀ THƠ TRANH CỦA LƯU NGUYỄN
ĐẠT TRONG THI PHẨM LỜI CỦA CÁT–PAROLES DE SABLE
Trước khi
xuất bản, Lưu Nguyễn Đạt đã gởi bản thảo cho một số bạn thân
thuộc giới trí thức, nhà thơ, nhà văn, học giả Việt Nam ở hải
ngoại và trong nước. Gần ba mươi bạn hiền của Ông đã gởi lời nhận
định về thơ và tranh của Ông. Tôi xin trích những lời nhận định
mà tôi thích nhất để quý vị độc giả yêu thơ cùng đọc.
Đăng
Nguyên: Tôi có cảm giác thích thú khi đọc thơ anh. Như đang đi
trong dòng suối mát, chợt thấy mình choáng ngợp giữa mênh mông
sóng vỗ. Không cần hiểu chữ nghĩa mà ngậm nghe từ huyền hoặc của
ngôn từ. Không cần nhìn tên tác giả cũng cảm nhận được đây là THƠ
LƯU NGUYỄN ĐẠT.
Hồng Thủy: ... Riêng về thơ, anh đã sáng
tạo nhiều ngôn ngữ mới lạ. Anh lại có tài làm thơ bằng ngoại ngữ
Anh, Pháp. Những bài thơ ngoại quốc nổi tiếng đã được anh chuyển
ngữ rất tài tình sang tiếng Việt mà tôi vẫn thường được thưởng
thức trong Diễn Đàn Việt Thức. Nhiều khi anh dùng thơ để vẽ nên
bức tranh rất đẹp, như mấy câu thơ trong bài “Sông Hồng” mà tôi
rất thích:
vạt sương hứng sợi bình minh
cả ngàn giọt
nắng lung linh dệt mầu
hình như ai hẹn từ lâu
đợi quây giấc
mộng bắc cầu vào đêm.
Trần Bích San (TS Trần Gia Thái):
Theo André Breton, thơ là sự bộc phá những đòi hỏi âm thầm, ước
muốn ấp ủ từ lâu trong vô thức. Thơ giải thoát khát vọng để được
tự do bày tỏ. Với Paul Valéry, thơ không phải là phương tiện diễn
tả ý nghĩa mà thơ chính là cứu cánh sáng tạo ngôn ngữ của nhà
thơ. Người đọc thơ không tìm hiểu ý nghĩa của câu thơ mà bị quyến
rũ bởi lời thơ. Thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ.
Thơ Lưu
Nguyễn Đạt không những là sự giải thoát tiềm thức như Breton, mà
đúng ra là sự bùng nổ những con chữ mới, ý mới, hình ảnh mới.
Không chỉ “phải lòng chữ nghĩa”, Lưu Nguyễn Đạt còn “làm tình với
chữ nghĩa”. Mỗi câu, mỗi bài trong Lời Của Cát ngôn ngữ Việt đã
được phong phú thêm bởi nhà “phù thủy của chữ nghĩa”. Như Valéry
quan niệm, thơ Lưu Nguyễn Đạt, đọc xong không phải là hết, thơ
không phải chết đi sau khi đã sống (le poème ne meurt pas pour
avoir vécu – Paul Valéry), chữ nghĩa cùng âm điệu quyện vào nhau
cộng–hưởng–vang–vọng rung lên bất tận trong tâm hồn chúng ta sau
khi đọc thơ Lưu Nguyễn Đạt.
Dương Nguyệt Ánh: Tôi rất yêu
thơ. Mỗi khi cầm trên tay một tờ báo văn học thì việc đầu tiên là
tôi tìm đọc những bài thơ. Thế nhưng tôi lại ít khi chú ý đến tựa
bài thơ. Bởi thế mà tôi thuộc lòng nhiều thơ của Nguyễn Bính, Vũ
Hoàng Chương, Phạm Thiên Thư, Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Mường
Mán, v.v. nhưng ít khi nhớ tên những bài thơ này. Tên bài thơ tôi
còn không để ý thì hẳn nhiên tôi chẳng mấy khi chú ý đến tên của
tập thơ. Lần này thì khác. Tôi rất thích cái tên Lời Của Cát. Có
một chút khiêm tốn và một chút ngậm ngùi khi tác giả ví thân phận
mình như cát – bởi một mai ta sẽ về làm cát bụi. Có một chút lãng
mạn và một chút thiền khi tác giả nhận lấy vai trò của cát – vai
trò nhân chứng cho những cuộc tình và mảnh đời quanh mình.
Cát thầm lặng nhưng bền bỉ, nghe và nhìn những xôn xao đến
rồi đi trong cuộc đời vô thường, rồi chăm chỉ ghi lại trung thực
mọi dấu vết. Nếu sóng có đến xóa nhòa đi thì cũng là một cơ hội
để quên đi những điều buồn mà hy vọng lại từ đầu. Bởi vậy mà dẫu
có phải chia lìa, ta vẫn đợi nhau:
thời gian bỏ ngỏ đợi em
về
đất cũ đổi màu nước ngập đê
“Huyền Ngữ”
và
vẫn hồn nhiên hy vọng:
em vào nắng mới thơm ngọn cỏ
xanh
ngát cánh đồng chim đậu no
“Huyền Ngữ”
Ngoài những
bài thơ cho tình yêu, đề tài muôn thuở của thi ca, thi phẩm Lời
Của Cát còn có những lời đau của kẻ viễn xứ khi nước mất nhà tan:
nay cả trái đất hứng đám chim tan
bụi chiều việt điểu gẫy
cánh ngỡ ngàng
“Vùi Lạnh”
rồi những lời tự an ủi vì
ta may mắn vẫn còn người tình như sợi chỉ dù mong manh nhưng cũng
đủ nối đêm sang ngày, đủ cho ta nghị lực vượt qua bất hạnh và
cũng đủ cho ta lãng quên đời:
ta tới đất người lạc lối nay
tình em sợi chỉ nối đêm ngày
ngàn năm dù đủ tan thành quách
vẫn gợi bàng hoàng nguyên vị say
“Tình Em Sợi Chỉ”
Cám ơn anh Lưu Nguyễn Đạt đã làm đẹp cho tâm hồn tôi bằng những
lời thơ từ tâm hồn anh.
Roberto Wissai/NKBá: Wow! How
exquisite! How marvelous and sublime! How unusual! Those were my
reactions when first exposed to Luu Nguyen Dat’s lines of poetry
in the collection Lời Của Cát/Paroles de Sable. I was struck by
the conceptions and executions of exquisite, rarefied feelings,
the likes of which I have not seen in contemporary Vietnamese
poetry (given my limited exposure). Reading the transmutations of
these feelings transported me to a realm away from the daily
mundane concerns. Reading them far late at night when the
rollicking mind waves have settled down to mere gentle
undulations gave me a kind of peace and pleasure that no drug of
choice could bring.
In this collection of poems Luu Nguyen
Dat trafficked in repeated far–out images, redolent of suggestive
surrealism and magical realism. We met rocks, mists, sun, winds,
sleep, sands, blood, and tears interplaying in unusual fashion
and high musicality.
I urge you to read Luu Nguyen Dat’ s
poems in this collection. I have a lingering feeling that some of
his poems will live on forever, not only within the Vietnamese
community but also in informed international circles, long after
he is departed from this world.
Nguyễn Văn Thêm: Những
dòng lục bát gói trọn tâm tư và hoài vọng của một nghệ sĩ đa tài,
ngày đêm trăn trở đi tìm tự do, công bằng, bác ái cho quê hương;
chân thiện mỹ cho nghệ thuật và cuộc đời: “khát khao tìm chữ nối
vào/tịch u suối nhỏ lao đao thả hồn”... Ngưỡng mộ, tri âm tri kỷ
là phần thưởng tinh thần cho lời thơ, ý nhạc bắt nguồn từ những
rung động của trái tim và những thao thức trí tuệ.
Chu
Xuân Viên: Tôi vẫn thưởng thức thơ của anh, cũ và mới. Bài nào
cũng khiến tôi ngạc nhiên về ngôn từ và thi tứ. Mỗi bài là một
khám phá tinh khôi đầy thích thú... Tôi cảm khái những lời nói về
thơ mà như thơ. Thế mới là hồn thơ. Hãy nghe: “sáng trăng vời vợi
xa bao ngả/xa cách lòng tình xa nguyệt nga?” Người nghe biết bao
cảm kích? Hats off. You have the soul of a true poet. Never tired
of listening to the sounds of your words. Tuyệt vời. Xin cám ơn
nhà thơ.
BS Nguyễn Tấn–Hồng: Mỗi lần tôi vẫn có được những
cảm nhận rất thích thú, có thể không giống người khác. Xem tranh,
tôi không đặt câu hỏi “họa sĩ vẽ gì”, nhưng cứ để đường nét, mầu
sắc tự nó đem cho mình cảm giác “như vậy là hài hòa, là đúng, là
đẹp; đọc thơ, tôi không đọc bằng mắt, không phân tách, nhưng đọc
thành tiếng, cũng để âm thanh cho mình cảm giác sự kết hợp những
từ khiến câu thơ dễ thương quá.”
Huỳnh Thục Vy: Thơ mà
không phải chỉ đơn giản là thơ. Thơ ông ảo như mộng, đôi lúc
khiến người đọc choáng váng như trong cơn say; nhưng từng lời thơ
lấp lánh vẻ diễm tình của thiên nhiên tươi đẹp; ngọt ngào như lời
thì thầm yêu thương của đôi lứa; nhưng cũng chứa chan lòng bi mẫn
đối với con người và cuộc đời.”
TS Phạm Cao Dương: Cảm ơn
Anh đã chia sẻ. Thơ mang nhiều ý lạ biểu lộ qua những hình ảnh,
âm thanh, ngôn từ ít thấy hay chưa thấy, dù đó là từ những hạt
cát tầm thường... Vô cùng ngạc nhiên và càng đọc càng thú. Không
thể tưởng tượng là một người xuất thân trường “Tây” mà sử dụng
tiếng Việt độc đáo, đẹp và nhiều sáng tạo như vậy. Tôi muốn nói
từ ngữ mới để diễn tả tư tưởng mới, hoàn toàn mới mà không kiểu
cách làm dáng, nhất là vẫn giữ được hình thức, nhạc điệu quen
thuộc, bình thường.
LinhThyNguy: Đây là những bức tranh
thủy mạc, mờ ảo sương khói trên đường đi tìm môt thế giới thần
tiên của thi nhân. Phảng phất và bàng bạc đâu đây, một bóng hồng,
một ánh mắt, một bờ môi, mong manh như gió thoảng, như mây trôi,
chợt ẩn chợt hiện, rồi sau cùng, cũng phôi pha theo kỳ hạn của
thân phận con người... Còn chăng là những sáng tạo của tình yêu
vĩnh cửu! Rất đẹp!
Nhất Tuấn–Phạm Hậu: Bài thơ “Khuyết
Nắng” của anh Lưu Nguyễn Đạt rất tuyệt vời... Những bài lục bát
thật tuyệt tác. Tôi thích lắm lắm... Ý thơ với những lời châu
ngọc, văn điệu trác tuyệt... trau chuốt từng chữ như gấm trên
hoa... Thơ Lưu Nguyễn Đạt vút cao lan khắp muôn phương.
TS
Phan Văn Song: La différence entre Anh Đạt l’Artiste, le
Poète,...et nous autres profanes, c’est sa sensibilité. Il voit
là où nous sommes aveugles; il entend là où nous sommes sourds;
il communique là où nous sommes autistes... Et non seulement il
chante, il clame, il écrit des vers, il peint, il sculpte, mais
en plus il fait exprimer les choses, il fait parler les
choses.... “Objets inanimés, avez–vous donc une âme qui s’attache
à notre âme et la force d’aimer? se demandait Lamartine dans
Harmonies Poétiques et Religieuses. Oui, répond anh Đạt, oui les
objets inanimés ont une âme... et Lưu Nguyễn Đạt les fait chanter
et Lưu Nguyễn Đạt les fait revivre.”
Nguyễn Cường: Anh
thường nói đọc thơ anh nên “hưởng” trước, rồi mới “tưởng” sau.
Thì ra là vậy. Cõi thơ anh dệt chữ ra gấm ra tranh, soi tỏ lòng
người, soi tỏ đất trời, âm dương hòa nhịp cũng từ những con chữ
thoát qua tâm hồn của anh mà thành... Trong thời buổi này, không
thiếu những người làm thơ, nhưng để có những bài thơ đầy đủ chất
thơ, mượt mà, diễm lệ như trong thơ của anh Lưu Nguyễn Đạt thì
quả là hiếm hoi. Đọc thơ của anh đã thấy mình vào cõi khác như
được vuốt ve, mơn trớn. Những con chữ như xúm xít bên nhau để sản
sinh ra biết bao nhiêu câu chữ mới, (lưng đêm, gió biếc, yếm
âu... nhiều lắm). Với sự sáng tạo này thì quả đúng đây là dấu ấn
của anh để lại cho đời.
BS Khoa Nguyen: Đọc đi đọc lại bao
lần không thấy chán — những nẻo tâm tình như mới gặp đây từ trăm
năm trước... Hay quá! Đọc mãi không chán. Votre place dans le
Panthéon littéraire vietnamien est bien assurée.
Trần Ngọc
Thiệu: ... ngạc nhiên. Bái phục... “thơ kia lục bát ẩn lâu/vỡ tan
từng mảnh biển dâu bàng hoàng”.
SaChiLe: ...thơ huyền hoặc
toả ngát hương trong lòng kẻ sĩ nặng lòng yêu dân tộc nghiệt
ngã... những dòng thơ lướt nhẹ, đôi khi cuồn cuộn chảy, dạt dào,
mênh mông như lạc vào mộng mị của một thế giới riêng tư trầm
dũng...
Christine NgocHoa: “Le poète alors isolé dans son
voyage terrestre, muet de terreur et d’angoisse, reprend le
chemin de retour à la création originelle...” me fait beaucoup
penser à “L’Albatros” de Baudelaire. Vos paroles sont en
elles–même de la poésie pure, ayant le pouvoir absolu de
suspendre au temps, son vol... Poésie limpide et fragile, et
fragile, comme le crystal, et fragile, comme l’image féminine
évoquée ici, m’a été salutaire. Paroles envoûtantes, elles sont
passionnantes et irrésistibles! Oui, j’ose effleurer et errer,
“pieds nus” sur la plage vierge, pour le plaisir de savourer, les
yeux fermés, visage et cheveux au vent, le son magique des vagues
ensorcelantes de vos “paroles de sable”.
BS Nguyễn Ngọc
Khôi: “Bờ Nguyệt Thực” est une vraie perle... la cadence, la
musicalité, le choix exquis des mots...Un vrai régal. J’espère
que beaucoup d’autres puissent ressentir ce que je ressens en ces
vers... “Chưa Phai”, encore un exceptionnel poème. Tu décris bien
la beauté et le tragique de la condition humaine: la torture de
Sisyphe. Tu as bien raison; Il n’y a jamais de repos pour l’homme
qui se respecte.
TS Đoàn Viết Hoạt: Bài thơ “Sóng Gào”
thật tuyệt vời, hay cả lời và cả ý. Tôi thích nhất hai câu kết:
“nước vơi nước lại say nhiều/muối rơi mảnh vụn thân kiêu đội
trời”. Chỉ hai câu mà tả được vừa cảnh đất nước vừa tâm sự của
người.
Lê Hữu: Đọc thơ của anh Lưu Nguyễn Đạt rất thú vị.
Bài “Mẹ nín” thật hay, và tôi cũng thích những bài lục bát như
“Môi xưa”. Thơ anh Lưu Nguyễn Đạt có nét rất “riêng”, với thi tứ
và cách dùng chữ rất mới: “sơn thủy là em là nước chảy/ngược dòng
ta hẹn trọn cơn say”.
Riêng bài đầu “Lên Núi” với căn nhà
“nằm ngay trong tâm cảnh hành giả”, ngôn ngữ và tứ thơ thật thanh
thoát, cao diệu.
“Đó cũng là căn nhà vô hình của Tín
Ngưỡng, Tư Tưởng, Nghệ Thuật... Là căn nhà vô hạn của tình Yêu
trong cuộc đời hạn hẹp”, một “căn nhà” như thế thì ai cũng mơ về
và cũng muốn tìm gặp. Đọc Lời Của Cát, hơn lúc nào hết thấy rõ
“Thơ là Đạo”, là những... hạt “cát” lấp lánh vàng.
Vĩnh
Định Nguyễn văn Dưỡng [Van Nguyen Duong]: Tôi cảm xúc sâu xa về
các bài thơ trong tập thơ Lời Của Cát — Paroles De Sable... Tôi
đã viết Tản Mạn về Cung Trầm Tưởng. Nếu phải viết về thơ và người
thơ thứ hai trong đợt bài Văn Học–Thi Ca Việt Nam, thì tập thơ đó
phải là Lời Của Cát — Paroles De Sable và người thơ đó phải là
Lưu Nguyễn Đạt. Thơ Anh có hồn, các bài dịch ra Pháp văn tuyệt
tác.
Tôi sẽ nói rõ về Trào Lưu Thơ Mới trước và sau Chiến
Tranh VN ảnh hưởng bởi thi ca Pháp như thế nào và Lưu Nguyễn Đạt
là đối tượng chính của bài viết đó. Tôi sẽ đề cập góc cạnh Thơ
Mới sắc bén điêu luyện của Lưu Nguyễn Đạt trong bài viết đó. Tôi
đêm nằm nghỉ ngơi, thoáng cũng đã hình dung được dàn bài rồi.
Chỉ... cần viết ra thành văn bản mà thôi, tuy tôi chưa nghĩ phải
đề tựa như thế nào... Nếu tôi không viết được hết về thơ Lưu
Nguyễn Đạt là điều đáng hối tiếc và đáng buồn cho tôi. Tôi vốn dĩ
yêu thơ, tôi không thể bỏ qua được những bài thơ đã nhập tâm,
nhập thức đó.
MinhNguyệt & Thái: Tôi rất cảm động khi đọc
thơ của Anh. Xin cảm ơn.
Lê Anh: Bác ơi, Bác thuộc tướng
Râu hùm, Hàm én, Mày ngài, Quan Võ... Mà lại làm thơ hay quá. Cảm
tạ Anh... Thư Họa... Tuyệt Tác.
Huỳnh ngọc Tuấn: Tôi đọc
khá nhiều thơ của Thi sĩ Lưu nguyễn Đạt. Trong thơ ông nét hiện
đại và cổ điển hài hòa, với những khám phá từ ngữ mới, với những
câu rất lạ của thơ Pháp được diễn đạt bằng ngôn ngữ của ngàn xưa
đất Việt. Cám ơn ông đã góp phần giữ gìn bản sắc Việt qua những
tứ thơ hiện đại... Những bài thơ tuyệt vời. Lâu lắm rồi mới đọc
được thơ hay như thế. Người ta nói, trong thơ có nhạc có họa, thơ
Lưu nguyễn Đạt có tất cả:
“hồn thơ dại vụng về bên nắng
mới
lời không lời mà sao mọc chơi vơi
ta hỏi lại em từ đâu
bỗng tới
mà hồn nhiên đem tia sáng vào đời...”
Những
câu thơ sao mãi quanh quẩn trong hồn ta!
Cao Minh Nguyệt:
Ẩn dụ [Metaphor] anh dùng thật điêu luyện: “Phút giây buộc chỉ
thăng trầm/Giờ khuya vuốt nhẹ dương cầm huyền siêu”. Loạt bài thơ
này, cũng như những bài anh làm từ trước, rất diễm tuyệt và có
hiệu lực thu hút người đọc. Xin tạ ân một khoái cảm lâng lâng anh
vừa cho.
LS Lê Đại Toàn: Thơ rất cao, nhưng vẫn dễ hiểu để
có thể cảm nhận được tâm tư và rung cảm qua sự kết hợp và phối
trí của hình ảnh và âm thanh tuyệt kỳ, vô cùng độc đáo.
Hoàng Văn Hải: Quelle agréable surprise de lire ton beau poème
bilingue “Tinh Em Paris” – “Paris Mon Amour”. Que de souvenirs de
ce séjour à Paris 13ème – Tour Helsinki! Mon oncle Tuệ à l’époque
avait fait cette remarque: “Moi qui habite dans cet appartement
depuis des dizaines d’années, je n’ai rien trouvé à dire. Voilà
que ton ami qui débarque des Etats Unis a trouvé comme par
enchantemment l’inspiration pour écrire un si beau poème...” Il y
a, à la fois un contraste de couleurs sombres et lumineuses et
une harmonie de sentiments complexes et contradictoires. C’est le
calme et la sérénité de l’artiste sous un ciel de Paris tourmenté
et changeant...
Trần thị Lai Hồng: Thật tuyệt tranh đen
trắng! Xin bái phục, về lòng yêu văn học nghệ thuật trong mọi
lãnh vực! Lành thay!
Nguyễn Xuân Hoàng: Lời Của Cát hay
lắm.
Bên cạnh một Lưu Nguyễn Đạt thi họa sĩ hướng thượng,
chủ tâm tái tạo cái đẹp, cái tử tế của con người, của tạo hoá thì
còn có một nhà THỜI LUẬN, VĂN LUẬN miệt mài dẫn chứng cái khốn
đốn, cái vỡ mảnh trong lịch sử và văn hoá như những tai ương nhân
tạo mà dân tộc Việt vừa là NẠN NHÂN, vừa là TÒNG PHẠM, hay ít ra
là KẺ TRONG CUỘC một cách bất đắc dĩ, vô tình, vô tâm. Đồng thời,
cũng đề cao hiện tượng con người và công dân tự giác, sẵn sáng
chứng tỏ mình có quyền sống làm người sở hữu thân phận và không
gian trực thuộc của chính mình, với đầy đủ chi tiết trong ấn phẩm
THỜI LUẬN & VĂN LUẬN (Việt Thức, 2017) dày hơn 560 trang, với
những tiết mục “tượng trưng” như sau:
1. TỪ QUỐC HẬN 30
THÁNG TƯ TỚI SỨ MẠNG CHÂN CHÍNH CỦA NGƯỜI VIỆT TỬ TẾ
2.
THỰC LỰC CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN TẠI HẢI NGOẠI HAI LẬP TRƯỜNG CÙNG
MỘT VẤN ĐỀ: VẬN MỆNH QUỐC GIA DÂN TỘC
3. “CHÍNH DANH” CỦA
NGÀY 30 THÁNG TƯ 1975
4. TỰ DO BÁO CHÍ: THẾ LỰC VÀ TRÁCH
NHIỆM CỦA ĐỆ TỨ QUYỀN
5. BÁO CHÍ & HIỆN TƯỢNG PHỈ BÁNG MẠ
LỴ TẠI HOA KỲ
6. HIỆU ỨNG PHÁP LÝ, DÂN SỰ VỀ VIỆC NHẬT BÁO
NGƯỜI VIỆT PHỔ BIẾN TIN NHỤC MẠ “VNCH LÀ BÈ LŨ VIỆT GIAN TAY SAI
CỦA MỸ”
7. QUÀ TẾT GIÁP NGỌ: NHỮNG BIỂU TƯỢNG VĂN HOÁ VÀ
HIẾN ĐỊNH ĐÁNG QUÝ ĐÁNG TRỌNG
8. THẾ LỰC CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ
9. NỮ GIỚI QUYỀN HAY THẾ ĐỨNG CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG XÃ HỘI
VÀ TRƯỚC LUẬT PHÁP
10. MÚA RỐI BIỂN ĐÔNG & MẶC CẢ QUYỀN
LỢI QUỐC GIA
11. CHỦ NGHĨA BE-BỜ & CHIẾN TUYẾN VIỆT NAM:
KHÔNG ĐÁNH THỰC, KHÔNG CỐT THẮNG
12. TỪ DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH
TỚI DIỄN TIẾN DÂN CHỦ
13. TẠI SAO CẦN CÓ CHÍNH NGHĨA DÂN
TỘC?
14. NHỮNG ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT CHO CÔNG CUỘC KINH
BANG TẾ THẾ, PHÁT TRIỂN TIẾN BỘ THỜI HẬU CỘNG SẢN
15. MUỐN
VƯỢT THẮNG CỘNG SẢN, PHẢI THỰC THI CÔNG LÝ, BẢO TOÀN CÔNG BẰNG,
ĐẠO ĐỨC VÀ LẼ PHẢI
16. “HOÀ HỢP HOÀ GIẢI DÂN TỘC” LÚC NÀY
VẪN CÒN LÀ TRÒ BỊP BỢM
17. GIẢI PHÁP KHẢ THI GIẢI TRỪ CỘNG
SẢN VIỆT NAM: CHỌN ĐƯỜNG SỐNG THAY THẾ CHO NGÕ CỤT VÀ HẺM CHẾT
18. NHU CẦU DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH TẠI VIỆT NAM
19. CẦN
LÀM GÌ ĐỂ THỰC HIỆN CUỘC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM?
20. HÃY GIÀNH LẤY CUỘC CÁCH MẠNG TRÚC SẬY CHO VIỆT NAM
21.
“KHÔNG AI ĐƯỢC ĐÙA VỚI CÁCH MẠNG VÀ NỔI DẬY” LÀ CÁI THÁ GÌ, THƯA
ÔNG NGUYỄN MINH CẦN?
22. TƯ CÁCH VÀ VAI TRÒ TRÍ THỨC ĐỐI
DIỆN “THƯ NGỎ” GỬI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VIỆT NAM
23. NHỮNG
NHẬN ĐỊNH VỀ HỒI ÂM CỦA GS VŨ QUỐC THÚC
24. CỘNG SẢN VIỆT
NAM CÓ CHÍNH DANH, CHÍNH NGHĨA, CÓ DÂN CHỦ VÀ PHÁP TRị HAY KHÔNG?
25. MUỐN CHỐNG NGOẠI XÂM HÃY DẸP CSVN VÀ XÂY DỰNG LẠI CHÍNH
NGHĨA VÀ QUYỀN LỰC DÂN TỘC
26. BẤT TUÂN DÂN SỰ: “CIVIL
DISOBEDIENCE”
27. KHÔNG GIAN VÀ LƯƠNG TRI VIỆT
28.
TRÍ THÔNG MINH VÀ KIẾN THỨC DÂN TỘC VIỆT: ẢNH HƯỞNG NGUỒN GỐC DI
TRUYỀN VÀ ĐỘT BIẾN MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ
29. KIẾN THỨC NÀO
ĐEM LẠI ÍCH LỢI CHUNG CHO XÃ HỘI NGÀY NAY
30. VIỆC KHAI
QUẬT MỘT LUẬN ÁN Y KHOA: GIÁ TRỊ VÀ HẬU QUẢ CỦA CHỨNG CỨ BẤT TOÀN
31. VĂN BẰNG ĐẠI HỌC THẬT HAY GIẢ: BIẾT THÌ TIẾN...
32. HIỆU ỨNG CÁNH BƯỚM CỦA TIẾNG NÓI LƯƠNG TÂM
33. DIẾN
BIẾN ĐỒNG MỸ KIM TRONG CANH BẠC TIỀN TỆ THẾ GIỚI
34. Cần
Phải Làm Gì Khi Cộng Sản Việt Nam Cáo Chung?
Với ngần ấy
suy tư sáng tạo, ngần ấy dẫn giải, ngần ấy “dấn thân” vào thời
cuộc, vào vận mệnh, quá khứ, hiện tại và tương lai đất nước; với
biết bao nhiêu dự án tích cực và cơ sở bất vụ lợi sáng lập tại
hải ngoại; với hơn 40 ấn phẩm do chính ông chăm sóc, xuất bản cho
mình, thân hữu, và các phong trào phục vụ lợi ích của các thế hệ
Việt; với cả hàng chục ngàn bài tham luận đăng trên Diễn Đàn Việt
Thức, Lưu Nguyễn Đạt đã thực hiện phần nào sứ mạng và thiên chức
của một trí thức thời loạn cố gắng dẫn giải hoà bình và phẩm giá
cải thiện cho một dân tộc đáng yêu, đáng trọng hơn, cho con người
xứng đáng làm người vậy.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Hawaii, Cuối Tháng 3/2019
GHI CHÚ:
(1)
Thời Luận Văn Luận Lưu Nguyễn Đạt – Việt Thức 2017, các trang
535–560. “Hồ Trường An Trò Truyện Với Văn Thi sĩ Lưu Nguyễn Đạt.”
(2)
Như trên, các trang 562–565. “Lưu Nguyễn Đạt Người và Thơ”, của
Phùng Thị Hạnh
(3) &
(4)
Xem trong bài viết ở
(1)
(5)
Xem trong bài viết ở
(2)
Nguồn:
https://www.vietthuc.org/luu-nguyen-dat-va-thi-pham-song-ngu-loi-cua-cat-paroles-de-sable
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)n>
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh VN: Bãi Tiên, Đông Đế-Nha Trang. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Văn Nguyên Dưỡng chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, March 12, 2019
Cập nhật ngày Thứ Bảy, September 21,
2019
Cập nhật ngày Chúa Nhật, March 17, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang