Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
MĐ BS Trang Châu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tôi nhớ mãi buổi làm việc
cuối cùng ở phòng mạch, đường Tổng Đốc Phương ở Chợ Lớn, vào
chiều thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975. Bệnh nhân hôm đó đông hẳn lên.
Hỏi ra mới biết các phòng mạch chung quanh đều đóng cửa, các bác
sĩ đi hết. Cô Bảy, cô y tá người Việt gốc Hoa, lo lắng hỏi tôi:
– Ông có tính đi không?
– Tôi có một, hai đường dây nhưng chưa
quyết định đi. Chờ xem tình hình ra sao đã.
Tôi nói cho cô Bảy an lòng, nhưng tôi
có linh cảm đây là buổi làm việc chung cuối cùng. Chiều nay trước
khi đến phòng mạch tôi đã khám bệnh từ 5 đến 6 giờ ở trạm y tế
của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, còn được gọi là Nhà Kiếng,
của ông Trần Quốc Bửu. Địch đã về đến Long Khánh. Ông Nguyễn Bá
Cẩn, người của ông Bửu, vừa lên làm Thủ Tướng. Hôm ấy người đến
chờ xin được ông Bửu tiếp đứng chật ra cả sân sau. Ông Bửu vừa từ
Hoa Kỳ trở về. Tôi lo lắng muốn biết tình hình ra sao, liền gọi
cô Linh, cô y tá của trạm y tế nói riêng:
– Tôi muốn gặp “anh Tám”, nhờ cô lên
hỏi anh có cần tôi lên đo áp huyết không.
Cô Linh đi độ 5 phút rồi trở về với một
người cận vệ của ông Bửu. Anh này nói:
– Bác sĩ theo em, đi cửa riêng, anh Tám
chờ bác sĩ.
Tôi theo chân người cận vệ của ông Bửu lên lầu trên, đi dọc theo
một hành lang. Ngang qua hai phòng khách, tôi liếc thấy nhiều ông
bận đồ lớn ngồi chờ. Tôi được đưa vào phòng riêng của ông Bửu.
Tôi thấy ông đang lặng lẽ đứng xé từng xấp giấy vất xuống một
thùng cạc tông lớn để dưới chân. Hình như ông không biết đến
những người khách đang chờ xin gặp ông. Nhìn thấy tôi ông nở một
nụ cười. Nụ cười của ông Bửu lúc nào cũng điềm đạm.
– Em đó à, đo giùm áp huyết cho anh đi.
Tôi biết bệnh của ông Bửu rất rõ. Ông
đã đưa cho tôi xem bản sao hồ sơ bệnh lý của ông được thực hiện ở
bệnh viện Walter Reed lúc ông sang Hoa Kỳ. Tôi cứ dựa vào đó mà
theo dõi. Đo áp huyết cho ông Bửu xong, tôi hỏi ngay:
– Tình hình ra sao anh Tám. Có hy vọng
gì không?
Ông
Bửu tiếp tục xé giấy vất xuống thùng. Gần cả phút nặng nề trôi
qua. Lần đầu tiên tôi thấy tình hình thật sự đen tối.
– Người Mỹ họ không ủng hộ mình nữa.
Chắc phải liên hiệp. Em nên đi ra nước ngoài. Nếu chưa có đường
đi thì nên liên lạc thường xuyên với gia đình anh, chừng nào anh
đi thì đi cùng.
Tôi tin lời ông Bửu nói. Trên đường đi
đến phòng mạch tôi như người mất hồn. Tôi cảm thấy ân hận đã bỏ
lỡ dịp ra đi bằng máy bay tuần trước. Sắp đến giờ đóng cửa cô Bảy
hỏi tôi:
– Thứ
hai ông có đến làm việc không?
– Có chứ, trừ phi tình hình thay đổi.
– Nếu ông đi thì phòng mạch này ai
trông coi?
Tôi
sực nhớ đã trả tiền mướn địa điểm cho nguyên năm. Tôi liền viết
giấy ủy quyền cho cô Bảy trông coi phòng mạch cho đến hết hạn và
cho cô tất cả đồ đạc trong phòng mạch. Tôi đưa cô Bảy về nhà cô.
Ngồi trên xe cô Bảy khóc. Đã mấy mươi năm trôi qua, mỗi lần nhớ
lại ngày cuối cùng làm phòng mạch ở đường Tổng Đốc Phương, tôi
vẫn hình dung ra được những giọt nước mắt của người nữ y tá trung
thành và tận tụy.
Trên đường về, tôi ghé cư xá sĩ quan
Chí Hòa. Tôi muốn gặp ông Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y để báo
tin. Ông hay tâm sự với tôi ông có đường đi nhưng vì trách nhiệm
ông chưa thể đi. Ông nói có lẽ ông sẽ để gia đình ông đi trước.
Tôi đến nhà ông Chỉ Huy Trưởng lúc 8 giờ tối. Chừng nửa giờ sau
thì ông về. Tôi lập lại với ông những lời ông Bửu nói với tôi và
góp ý:
– Nếu
đi thì anh nên đi luôn với gia đình. Tình hình này chần chờ người
trước người sau có khi kẹt.
Sau này liên lạc lại được với ông ở hải
ngoại ông cám ơn tôi đã đến cho tin, giúp ông có một quyết định
kịp thời.
Nhưng tôi không có dịp đi cùng ông Bửu. Tôi nghe nói sáng 30
tháng 4 ông Bửu mới rời Sài Gòn trên một chiếc xà lan do tàu Đại
Hàn kéo.
Đêm
28 tháng 4 địch pháo dữ dội phi trường Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 29
tháng 4 là một sáng bàng hoàng cho dân Sài Gòn. Yên chí mình có
đường dây đi với ông Bửu tôi bình tĩnh lái xe vào Trường Quân Y
xem tình hình. Cổng vẫn có lính gác. Tôi đến văn phòng tôi. Chẳng
có văn thư nào để đọc hay ký cả. Lệnh cấm trại 100% của Cục Quân
Y vẫn hiệu lực. Đến giờ này tôi biết một số bác sĩ của Trường đã
ra đi, đi trước cả ông Chỉ Huy Trưởng. Tôi đứng ở cửa văn phòng
mình một lúc thì gặp Trung tá Tá, sĩ quan hành chánh. Ông hỏi
tôi, giọng đầy lo lắng:
– Tình hình có sao không hả bác sĩ?
Tôi trả lời ông như một người am hiểu
tình hình:
–
Chắc là phải liên hiệp nhưng rồi cũng mất, trung tá ạ. Trung tá
có đường đi nên đi.
– Tôi nghe ông Chỉ Huy Trưởng đi rồi
thì phải.
Tôi
gật đầu. Tôi khuyên Trung tá Tá cũng như tôi đã khuyên ông Chỉ
Huy Trưởng những gì ông Bửu đã khuyên tôi. Tôi thổ lộ điều tôi
biết cho Trung tá Tá vì hai lẽ: ông là người có nhiều huy chương
nhất Trường Quân Y vì ông đã từng phục vụ lâu năm trong quân đội
Pháp trước khi sang quân đội VNCH và vì ông có một người con trai
đang là sinh viên quân y ngành dược. Qua ông và rồi qua con ông,
một số sinh viên quân y đang bị cấm trại có thể tìm cách ra khỏi
Trường để tìm đường đi. Với chức vụ Trưởng Khối Tâm Lý Chiến của
Trường tôi không thể công khai nói với mọi người nên tìm đường đi
ra nước ngoài.
Cho một tin như thế tôi có thể bị truy
tố. Tôi rời văn phòng về nhà lúc 12 giờ trưa. Về đến nhà thì vợ
tôi vừa hốt hoảng vừa trách tôi:
– Làm thế nào bây giờ anh? Phải đi chứ
không thể ở lại được. Đáng lẽ để em và con đi tuần trước cho rồi,
cứ cản mãi...
Tôi trấn an vợ tôi:
– Em yên tâm, có đường dây đi rồi, đi
với ông Bửu.
–
Chừng nào?
–
Để xem tình hình sao đã.
– Coi chừng để trễ ông đi mất là hết
đường.
Tôi cho
thêm mình một chữ nếu nữa. Nếu đêm nay tình hình không yên tĩnh
thì sáng mai sẽ lên nhà ông Bửu. Vừa lúc ấy một chiếc xe hoa kỳ
màu đen, bảng trước có gắn một sao hải quân đỗ ngay trước nhà.
Xe của phó đề đốc Thăng, ông anh cột
chèo với anh tôi. Vợ chồng anh Thăng đang ở Cần Thơ, nhưng chị
Thăng gọi điện thoại lên cho vợ anh tôi, cho biết có một đoàn tàu
của hải quân sẽ rời hải quân công xưởng và khuyên nên vào ở nhà
chị, đối diện với cổng vào hải quân công xưởng, để khi có cơ hội
là đi.
Cũng
vừa lúc ấy anh Thành, thiếu tá không quân, phi công trực thăng,
anh cột chèo với tôi, chở vợ và hai con trên chiếc vespa đến tôi
hỏi đường đi. Anh Thành nói:
– Anh định vào Tân Sơn Nhất nhưng không
vào được. Có đường nào cho tụi này đi cùng.
Vợ tôi giục tôi:
– Đi với anh chị Trang cho rồi, anh!
Tôi trả lời buông xuôi:
– Ừ, đi thì đi.
Đằng nào cũng đi, vậy thì đi với ai
cũng vậy. Gia đình ông anh tôi 5 người, gia đình tôi 4 người, gia
đình anh Thành 4 người, phía bên ông cụ tôi và bà kế mẫu 8 người.
Ngoài chiếc xe của phó đề đốc Thăng, còn có chiếc Fiat của tôi,
chiếc Toyota của anh tôi. Tất cả 21 người chen chúc nhau trên 3
chiếc xe đó. Sài Gòn ở khu bến tàu lúc bấy giờ vẫn yên tĩnh. Lính
gác ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân mở hàng rào chắn cho đoàn xe chúng tôi
vào. Chúng tôi tạm trú trong nhà Phó đề đốc Thăng và chờ đợi.
Không biết lúc nào thì có lệnh cho qua cổng hải quân công xưởng
để xuống tàu. Bốn giờ chiều vẫn không có tin tức gì thêm. Ông cụ
tôi sốt ruột muốn về. Ông nói:
– Hôm qua chúng nó pháo Tân Sơn Nhất,
tối nay có thể chúng pháo vào Hải quân công xưởng. Nếu không đi
được, qua đêm ở đây nguy hiểm lắm.
Tôi nói với ông cụ tôi:
– Ba rán chờ, con nghĩ thế nào cũng có
tàu đi.
Ông cụ
tôi bỏ vào nhà trong. Tôi bước ra ngoài, lang thang trên một đoạn
đường Lê Thánh Tôn. Bất ngờ gặp tướng Tôn Thất Xứng. Ông bận đồ
xi–vin. Tướng Xứng vồn vã hỏi:
– Ba có đi cùng không cháu?
– Dạ có, ông đang ở trong nhà anh
Thăng. Chờ lâu quá ông có ý định muốn về nhà.
Tướng Xứng la lên:
– Chết! Chết! Nói ba đừng về. Cứ ở đây.
Tình hình tuyệt vọng rồi, chú biết.
– Để cháu vào nói ba cháu ra gặp chú.
– Ừ, mau lên nghe cháu.
Khi tôi đưa được ông cụ tôi ra chỗ tôi
vừa gặp tướng Xứng thì ông không còn ở đó nữa. Ông cụ tôi lặng lẽ
trở vào nhà. Chừng nửa giờ sau anh tôi gặp tôi và nói:
– Ba mợ và mấy em về nhà rồi. Phải nhờ
tài xế lái xe anh Thăng đưa ra, lính gác mới mở cổng. Bây giờ ở
cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân có lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Tôi cũng tự hỏi mình có nên liều mạng
nằm đây chờ không. Tư hỏi rồi tự trả lời: Nằm đây thì còn hy vọng
đi, về nhà là kẹt chắc. Ông anh tôi, cảnh sát; tôi, gốc nhảy dù ở
lại chắc khó sống lắm. Ba tôi, tuy là tướng, nhưng ông về hưu lâu
rồi, chắc không sao.
Đúng 5 giờ chiều, trên không xuất hiện
hai chiếc phản lực hình cá thu, bay lượn quanh tòa đại sứ Mỹ.
Chừng mười lăm phút sau, tiếng trực
thăng nghe mỗi lúc một gần. Rồi đoàn trực thăng từng chiếc, từng
chiếc bay qua đầu chúng tôi, sà xuống trên nóc tòa đại sứ Mỹ. Mọi
người nhốn nháo:
– Mỹ di tản toà đại sứ!
Hai chiếc phản lực nhào xuống thấp, xé
gió nghe quặn cả ruột! Một tràng M16 nổ dòn ở cổng Bạch Đằng rồi
một tràng M16 khác nghe phía cổng Cường Để.
– Ai bắn vậy?
– Lính mình bắn vào trực thăng di tản
à?
– Không
phải đâu, chắc dân chúng tính tràn vào, lính hải quân bắn cảnh
cáo.
Tôi hỏi
khẻ anh tôi:
–
Anh có súng không?
– Tao chỉ có một khẩu rouleau nhỏ phòng
thân.
Tôi nghĩ
đến cảnh hỗn loạn trong các cuộc di tản tại miền Trung trước đây.
Tôi nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu lính gác hải quân không cản nổi
làn sóng người tràn vào. Tôi chỉ nghĩ thoáng đến đó mà không dám
nghĩ gì thêm.
Vào khoảng sau 6 giờ chiều cổng hải quân công xưởng mở. Anh tôi
quýnh quáng:
–
Có lệnh cho xuống tàu! Gọi điện thoại cho ba mợ hay, hỏi ông bà
có muốn đi trở lại không.
Anh tôi nói và làm. Giọng anh run run:
– Có lệnh cho xuống tàu rồi. Ba mợ có
đi không, tụi con chờ để nhờ người đưa vào.
Anh tôi nghe một lúc rồi gác máy:
– Cậu Kế sẽ lấy chiếc Fiat của chú đưa
ba mợ và mấy em đến cổng Bạch Đằng. Tôi sẽ nhờ chú tài xế của anh
Thăng ra đón và năn nỉ lính gác. Nếu cần tặng họ chiếc Fiat của
chú. Chiếc Toyota của chị còn đây cũng tặng họ luôn. Cô chú có
con dại vào trước đi.
– Xuống cầu tàu nào và đi chiếc nào vậy
anh?
– Thì
thấy người ta lên chiếc nào mình lên chiếc đó.
Hôm ấy là hôm tôi gặp mặt ông cụ tôi
lần cuối cùng. Về sau anh tôi kể lại: Xe đưa ông cụ tôi bị kẹt
lại trên đường Hai Bà Trưng, gần hãng nước đá. Cậu tôi gọi điện
thoại vào cho anh tôi. Anh tôi nói phải cố đến gần cổng mới đón
vào được. Tình hình bây giờ gần như hỗn loạn, lính gác đã bắn
ngang chứ không còn bắn chỉ thiên nữa. Ba mợ và mấy em tôi phải
quay về. 14 năm sau những người trong gia đình tôi đã lần lượt
đoàn tụ, trừ ba tôi. Chúng tôi nhận được điện tín ngày ông lên
đường đoàn tụ và ngày ông mất cách nhau 48 tiếng! Không biết ông
cụ tôi không có duyên đoàn tụ với con cái hay có cái gì níu kéo
ông lại, không muốn ông gởi xác nơi xứ người.
Gia đình tôi theo làn sóng người tràn
vào hải quân công xưởng. Đi một quãng chúng tôi đứng lại chờ. Gia
đình anh Thành vào kế tiếp, có thêm chị Thoa, chị vợ thứ hai của
tôi, với 3 đứa con cùng đi với vợ chồng Trung tá Nam. Chúng tôi
họp lại thành một nhóm. Chờ thêm một lúc không thấy gia đình anh
tôi đâu. Tôi chưa bao giờ vào hải quân công xưởng nên không biết
có bao nhiêu cầu tàu và con đường nào dẫn xuống cầu tàu nào.
Chúng tôi đi trên con đường nhỏ một đoạn khá xa và gặp một nhóm
người bồng bế nhau đi ngược trở ra. Tôi hỏi ngay một người đàn
ông, dáng bơ phờ, tay nách một em bé gái chừng 2 tuổi đang giãy
giụa khóc:
–
Không thấy tàu hay sao mà trở ra?
– Có một chiếc nhưng đông nghẹt. Chỉ có
nước giẵm lên nhau mà chết. Kinh nghiệm ở Đà Nẵng một lần rồi. Sợ
lắm! Chúng tôi đi về đây.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Nhưng tất
cả lòng muốn đi mạnh hơn ý muốn ở lại hiện rõ trong các ánh mắt.
Chúng tôi cứ đi lần theo hướng của những người đang lẻ tẻ đi
ngược trở ra. Đến cuối đường chúng tôi thấy một con tàu lớn với
hàng trăm người đang chen lấn trên bờ. Tôi lo thầm trong bụng:
đông thế này làm sao lên liền cho được. Nếu tàu nhổ neo ngay thì
mình còn xa cả mấy chục thước! Tôi nói với mọi người trong nhóm:
– Mỗi gia đình lo lấy cho nhau. Ai lên
trước được sẽ giúp người sau. Coi chừng trẻ con khi lên tàu.
Trên không hai chiếc phản lực vẫn vần
vũ. Từng đoàn trực thăng chốc chốc lại bay qua đầu chúng tôi. Sài
Gòn bây giờ là một vùng tiếng động khốc liệt. Tôi đã từng hồi hộp
trong vài cuộc đổ quân gặp sự chống trả của địch, nhưng hôm nay
trong tiếng gầm thét của hai chiếc phản lực nhào lộn, tiếng tình
tịch của cánh quạt trực thăng, tôi không mang tâm trạng căng
thẳng của cuộc đổ quân, mà là một tâm trạng rã rời, uất ức, cô
đơn đến ghê rợn, của một cuộc tháo chạy, tháo chạy ngay từ thủ đô
của đất nước mình, để dấn thân vào một vùng đất lạ nào tôi chưa
được rõ.
Chúng
tôi nhích từng chút về hướng chiếc tàu. Khoảng cách còn chừng 5
thước. Số người thối chí bỏ ra về khá nhiều cho tôi hy vọng có
thể lên được tàu trước khi tàu rời bến. Tôi ẵm đứa con trai đầu
lòng, bé Ngọc, mới 3 tháng, trong vòng tay phải; cái túi xách đeo
ở vai phải; tay trái tôi sẽ dùng để nắm dây bước lên tàu. Hai cái
xách còn lại, vợ tôi, một cái đeo vai, một cái cầm ở tay phải. Vợ
tôi bám sát lưng tôi. Tàu đậu cách bến chừng một thước. Một thanh
gỗ vuông rộng chừng hai mươi phân được bắc ngang làm cầu. Một sợi
dây thừng, to bằng ngón chân cái, được căng từ lan can tàu xuống
cái khoen sắt để buộc dây tàu nằm trên bờ. Chiếc cầu khỉ ngắn
ngủn này là nơi tôi chứng kiến một thảm cảnh: Khi tôi men lại
được gần thanh gỗ, thì trước tôi, một người đàn bà, vai mang một
một em bé gái nhỏ trên lưng, tay phải dẫn một đứa bé trai chừng
bốn, năm tuổi bước lên thanh gỗ. Nói là đi nhưng thật ra chúng
tôi bị khối người phía sau đẩy tới. Lúc đứa bé nắm tay mẹ tiến
lên thì trên tàu bỗng dưng có một người đàn ông chen lấn đi ngược
xuống. Thanh gỗ nhầy nhụa bùn đất trở nên trơn trượt. Thằng bé,
không biết hụt chân hay trượt chân, vuột khỏi tay mẹ nó, rơi tõm
xuống sông. Nó chìm nghỉm. Tiếng bà mẹ thất thanh:
– Cứu con tôi với! Cứu con tôi với!
Không một ai đáp ứng lời kêu cứu. Tôi
nghe lạnh cả người, mồ hôi toát ra đầy trán. Tay phải tôi siết
chặt bé Ngọc, nó dãy lên khóc vì nghẹt thở. Tôi biết lúc này
không cẩn thận là ngã xuống sông tức khắc.
Người đàn bà không chịu bước, nhìn
xuống mặt sông, tiếp tục la cầu cứu. Tôi hét lớn:
– Đi lên tàu rồi tính! Cứ đứng lại, bị
đàng sau dồn, rớt xuống sông chết cả đám bây giờ!
Tôi tiến sát người đàn bà, dùng đầu gối
phải thúc bà đi tới. Tôi bước lên được tàu. Người đàn bà, hai tay
nắm chặt lan can tàu, nhìn xuống mặt sông khóc thảm thiết. Tôi
nới tay siết bé Ngọc, nó thở được, nín khóc. Sờ nắn xương sườn
nó, thấy nguyên vẹn, tôi yên tâm.
Cả nhóm chúng tôi lên tàu an toàn.
Khoảng 7 giờ tối thì dứt tiếng phản lực lẫn tiếng trực thăng. Yên
lặng và bóng tối mờ mờ bao trùm cảnh vật. Đến 9 giờ tối, tàu
không còn ai lên nữa. Tôi thấy thương cho người đàn bà có đứa con
rớt xuống sông ban nãy. Giá biết đến giờ này tàu vẫn chưa đi hà
tất phải chen lấn nhau và đứa bé khỏi mất mạng một cách thê thảm.
Một nguồn tin truyền miệng đến tai tôi rằng tàu này hư máy có thể
không đi được làm cả nhóm lo lắng. Tôi len lỏi trong đám đông
kiếm các sĩ quan hải quân hỏi tin tức. Tôi gặp hai người: Trung
tá Minh, chồng của nhà văn Điệp Mỹ Linh, và Trung úy Lý, sĩ quan
cơ khí, anh của dược sĩ Vỹ, trước đây cũng ở Dù với tôi. Minh cho
tôi hay anh nghe Bộ Tư Lệnh Hải Quân có tổ chức một đoàn tàu đi
sang Phi Luật Tân, nhưng anh không biết chiếc này có nằm trong
đoàn tàu ấy hay không. Lý cho tôi biết tin đích xác hơn về con
tàu: Tàu đang ở thời tu chỉnh đại kỳ, nhưng ông hạm trưởng, Thiếu
tá Tánh, trong thời gian qua có đốc thúc sửa chữa. Giờ này đang
ráp máy thứ nhất. Tàu sẽ chạy một máy. Lý nói thêm:
– Tôi đang phụ sức vào đây. Tàu sẽ chạy
rất chậm vì chạy có một máy và vì người quá đông. Hy vọng 12 giờ
đêm máy sẽ ráp xong.
Tàu rời hải quân công xưởng lúc 1 giờ
30 sáng ngày 30 tháng 4. Gặp lại Ttrung úy Lý, mồ hôi nhễ nhại
nhưng nụ cười thỏa mãn:
– Ráp máy xong tôi sợ nó trục trặc
không chạy thì khốn. Mình đi trên sông Lòng Tảo. Hải trình này an
ninh hơn nhưng ngại ở điểm lòng sông có chỗ cạn. Mắc cạn là nằm
chịu chết vì tàu một máy lại chở quá nặng nên không cách gì lui
được. Khoảng trưa mai mình sẽ ra tới Vũng Tàu.
Đúng 2 giờ sáng địch tấn công Nhà Bè.
Những bồn xăng trúng đạn bốc cháy dữ dội. Giờ hấp hối của Sài Gòn
bắt đầu. Tôi thương vô hạn những người lính Cộng Hòa giờ này còn
ở vị trí chiến đấu. Chống trả mà biết là vô vọng thì đau khổ
dường nào! Tôi úp mặt khóc một mình. Bao nhiêu năm chiến đấu để
rồi vào giờ phút này mới biết số phận đất nước mình chỉ là số
phận một con tốt thí trên bàn cờ quốc tế! 13 năm sau, cũng ngày
30 tháng 4 này, khoảng 5 giờ chiều, tôi đang ngồi trực ở phòng
lái của chiếc tàu Mary’S Kingstown được hội Y Sĩ Thế Giới gởi đi
vớt thuyền nhân, thì thuyền trưởng Francois, tay cầm ống nhòm,
leo lên đứng cạnh tôi. Tàu đang chạy sát lằn ranh hải phận Việt
Nam. Ông đưa ống nhòm lên quan sát một lúc rồi nói với tôi:
– Ông hướng ống nhòm về hướng tôi chỉ,
nhìn cho kỹ, sẽ thấy Côn Đảo.
Tôi hướng ống nhòm về phía bờ biển Việt
Nam, điều chỉnh cho hình ảnh thật rõ thì quả thật thấy Côn Đảo
hiện ra mờ mờ như bóng mây. Tôi nghe lòng mình xôn xao. Hình ảnh
con tàu năm nào đã đưa tôi rời khỏi nước lại hiện trở về. Con tàu
đã đi thâu đêm trên sông Lòng Tảo, xa dần Sài Gòn đang bị địch
siết chặt vòng vây. Tôi đã thầm cầu nguyện tàu đừng hỏng máy bất
chừng, đừng mắc cạn và nhất là đừng gặp địch.
10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, qua máy
thu thanh trên tàu, chúng tôi bàng hoàng nghe tướng Dương Văn
Minh đọc lời kêu gọi buông súng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn ra rả
không ngừng. Nghe bài hát tôi không thấy vòng tay mình lớn ra mà
chỉ nghe tim mình thắt lại. Cái hy vọng mong manh về một chính
phủ liên hiệp, sau lời kêu gọi của tướng Dương Văn Minh, bây giờ
với tất cả mọi người thật sự là mây khói. Riêng chúng tôi, những
người trên tàu, còn một hy vọng: thoát ra khỏi nước. 2 giờ chiều,
tàu ra đến cửa biển Vũng Tàu. Mọi người vừa mừng vừa hồi hộp. Bờ
biển Vũng Tàu bây giờ như một cảnh chợ chiều. Cả trăm chiếc
thuyền, ghe lớn ghe nhỏ lêu bêu đầy mặt nước. Có chiếc ghe gắn
máy đuôi tôm, không người lái, cứ lạch tạch chạy vòng vòng trên
biển như chiếc ghe ma. Tàu tiếp tục chạy. 4 giờ chiều tàu ra tới
hải phận quốc tế. Mọi người trên tàu vỗ tay mừng thoát nạn. Câu
hỏi được đặt ra là bây giờ đi đâu? Ý định ban đầu của Hạm trưởng
Tánh là đi Tân Gia Ba. Nhưng với tình trạng tàu chạy một máy hiện
nay cộng với cả ngàn người trên tàu, thực phẩm và nước ngọt ít oi
thì không thể nào thực hiện cuộc vượt trùng dương được. Trung tá
Minh nói:
–
Họp ở Bộ Tư Lệnh Hải Quân tôi nghe tin có một đoàn tàu hải quân
sẽ đến một điểm hẹn ở ngoài khơi Côn Đảo. Ở đó sẽ có hải quân Hoa
Kỳ hộ tống đoàn tàu Việt Nam qua Phi Luật Tân. Đoàn tàu của Hải
quân Việt Nam sẽ được giao lại cho Hải quân Hoa Kỳ.
Tàu hướng về Côn Đảo với vận tốc 4 hải
lý một giờ. Trên đoạn đường ra Côn Đảo tôi chứng kiến thêm một
cái chết thứ hai: Cái chết của phi công lái chiếc phi cơ trinh
sát. Anh liên lạc với tàu cho biết trên phi cơ có hai người. Tàu
cho biết trên tàu có một toán người nhái sẵn sàng vớt họ sau khi
nhảy ra khỏi phi cơ. Phi công cho biết phi cơ sẽ hạ thấp vòng đầu
cho người hạ sĩ quan cơ khí nhảy, vòng thứ nhì anh sẽ nhảy. Vòng
đầu máy bay bay rất thấp, là là mặt nước. Một người nhảy ra. Muơi
giây sau một cái đầu nhoi lên khỏi mặt nước. Chúng tôi trên tàu
vỗ tay reo hò. Hai người nhái phóng xuống biển vớt anh lên một
cách thông thạo. Ở vòng nhì máy bay không hạ thấp như lần trước.
Khi máy bay ở thế song song với tàu người phi công nhảy ra. Anh
không rơi thẳng mà rơi lộn vòng. Mọi người im lặng chờ đợi. Một
số người la hoảng:
– Trồi đầu lên! Trồi đầu lên!
Mặt biển vẫn im lìm. Tôi nghĩ người phi
công đã bất tỉnh sau khi va chạm mạnh vào mặt nước. Cái chết ở
thời điểm này được chứng kiến không nước mắt và được quên đi rất
nhanh.
Trưa
ngày 1 tháng 5 tàu ra đến Côn Đảo. Nhìn lên đảo thấy người đứng
lố nhố và cờ đỏ sao vàng trên đỉnh cột cờ. Tàu chạy thẳng ra
khơi. Khoảng 4 giờ chiều, những tiếng la gần như đồng loạt vang
lên trên tàu:
– Hạm đội Mỹ! Hạm đội Mỹ!
Tin của Trung tá Minh chính xác. Đoàn
tàu chiến Mỹ, trắng xóa, trải kín cả chân trời. Tàu đánh điện xin
tiếp tế lương thực, nước uống và thuốc men. Trên tàu lúc bây giờ
đếm ra có 10 bác sĩ. Chúng tôi họp nhau thẩm định tình trạng sức
khỏe của đồng bào. Tiêu chảy và viêm mắt khá nhiều. Một người đàn
bà mang thai đến ngày sinh cần chuyển gấp sang tàu Mỹ. Chúng tôi
cũng cần sữa cho trẻ con. Tôi được giao phó báo cáo tình trạng
sức khoẻ và nhu cầu thuốc men.
Tàu tiến dần về một khu trục hạm rồi
tắt máy nằm song song với chiếc tàu Mỹ. Thủy thủ, sĩ quan Mỹ đứng
kín cả boong tàu nhìn chúng tôi. Họ cười với chúng tôi; chúng tôi
cười với họ. Tôi cố tìm mà không hiểu nổi nghĩa nụ cười của đôi
bên. Tôi nghe có chút gì cay đắng trong lòng. Tôi không biết phải
coi họ là gì của mình bây giờ? Những người bạn đồng mình hôm qua!
Đúng rồi hôm qua, hôm qua!
Sáng hôm sau mười mấy chiếc tàu của hải
quân Việt Nam được sắp lại thành đoàn. Chiếc tàu của chúng tôi vì
đông người, vì chạy có một máy, nên được một chiếc tàu khác của
Hải quân Việt Nam cột giây kéo cho đi nhanh thêm và được ưu tiên
sắp đi đầu. Theo lục lệ của Hải quân, hai chiếc phản lực, cất
cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó, lượn mấy vòng, rồi đoàn
tàu bắt đầu di chuyển đi Subic Base của Phi Luật Tân.
Sau 13 ngày trên biển, tàu đến hải cảng
Subic Base của Phi Luật Tân. Có lệnh phải hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ
xuống trước khi cập bến vì Phi Luật Tân đã thừa nhận thể chế mới
ở Việt Nam. Chúng tôi làm lễ hạ cờ và hát quốc ca. Có lẽ đây là
buổi chào hạ cờ duy nhất mà mọi người hiện diện, già trẻ, lớn bé,
dân sự lẫn quân sự, đều nước mắt chan hòa. Tôi có làm một bài thơ
chỉ có 4 câu:
Tôi đứng trên boong tàu
Chào quê hương
lần cuối
Nước mắt bỗng tuôn dâng
Khi màu cờ hạ xuống.
Chúng tôi được chuyển từ chiếc HQ 400
sang một chiếc tàu buôn của Mỹ. Đi thêm 2 ngày thì tới đảo Guam.
Tối hôm đó tôi ngồi thao thức rất khuya trước lều. Tôi nghĩ đến
những ngày sắp tới. Tôi thấy mình đang trắng tay. Gia tài còn lại
là 20 mỹ kim, đổi được từ tháng lương cuối cùng trước khi rời
nước.
Bây giờ
làm thân tị nạn, tôi sẽ phải đi đâu, xin định cư xứ nào? Xin đi
Pháp thì có thể tôi sẽ dễ dàng lấy lại bằng hành nghề nhưng nghe
nói đời sống kinh tế bên đó khó khăn. Ở Canada nghe có tỉnh bang
Québec nơi đó người ta nói cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh, khí hậu
lạnh nhưng đời sống dễ chịu. Lúc đó tôi không hề nghĩ đến chọn
nước Mỹ. Không biết có phải vì vốn liếng Anh ngữ của tôi không
dồi dào bằng vốn liếng Pháp ngữ hay còn có một lý do thầm kín nào
khác thì tôi không rõ.
Chẳng biết câu châm ngôn thời đi Hướng
Đạo: “Hướng đạo sinh vui tươi trong lúc khó khăn” có giúp tôi giữ
được vui tươi trong những lúc khó khăn hay không, nhưng câu châm
ngôn ngắn gọn mà giản dị của thời đội Mũ Đỏ: “Nhảy Dù! Cố Gắng!”
quả thật đã giúp tôi rất nhiều. Cố gắng bình tĩnh, cố gắng nhẫn
nại, cố gắng hy vọng. Tôi đã cố gắng bình tĩnh trả lời ông sở di
trú ở đảo Guam khi tôi đến xin định cư ở Québec, Canada. Ông nhìn
hồ sơ của tôi rồi nói:
– Đất nước chúng tôi không ưu tiên cho
thành phần ở trong Quân Đội.
Tôi nhớ tôi đã trả lời ông:
– Tôi ở một nước đang có chiến tranh,
ngoại trừ trẻ em và người cao niên, đàn ông thuộc thành phần còn
lại đều phải ở trong quân ngũ.
Ông ta bồi thêm câu thứ hai:
– Tỉnh bang Québec hiện đang thừa bác
sĩ. Rất có thể qua đó ông không hành nghề trở lại được.
Tôi cũng đã bình tĩnh trả lời:
– Tôi sẽ hết sức cố gắng để trở lại
nghề. Nhưng nếu không được ít ra tôi và gia đình tôi cũng được
sống trong một xứ có tự do.
Bốn ngày sau gia đình tôi cùng với
khoảng 200 tị nạn người Việt đầu tiên được bốc từ đảo Guam sang
thành phố Montréal của tỉnh bang Québec. Sau hai tuần nhận được
trợ cấp, tôi được ông di trú thúc đi kiếm việc làm. Tôi được giới
thiệu đi làm bán thời gian ở một bệnh viện tâm thần. Tôi làm ca
đêm, thuộc “équipe volante”, trại nào thiếu người tôi được gởi
đến. Tuy chức vụ chỉ là phụ y công, với đồng luơng cao hơn đồng
lương tối thiểu 40 xu, tôi cũng phải qua một khóa huấn luyện một
tuần để biết cách làm giường, cách thay quần áo cho bệnh nhân,
cách đỡ bệnh nhân ngồi dậy, v.v. Nếu có những ca đêm rơi đúng vào
các trại bệnh nhân ổn định, gặp các bà y công tốt bụng, biết tôi
là bác sĩ tị nạn chưa hành nghề lại được, họ làm hết mọi việc,
tôi chỉ ngồi ôm sách học. Nhưng nếu ca đêm nào rơi đúng vào trại
bệnh tâm thần nặng, tôi phải ngồi canh ở một chiếc ghế đặt giữa
hành lang, dưới ánh đèn mờ mờ. Bệnh nhân ở trại này mỗi người
được giữ trong một phòng riêng, có khóa bên ngoài. Trong phòng
không có vật dụng nào ngoài cái bô vệ sinh. Cái giường ngủ cũng
làm bằng xi măng. Tôi không rõ họ được nuôi ăn như thế nào. Làm
ca đêm ở trại này tôi không những không học được mà còn hầu như
không ngủ được vì những tiếng hú, tiếng hét chốc chốc lại vang
lên trong đêm khuya. Một kỷ niệm từng khiến tôi “lạnh người” làm
tôi nhớ mãi. Ở trại này, buổi sáng trước khi chấm dứt ca trực của
mình, người y công chính giao tôi nhiệm vụ mở khóa phòng từng
bệnh nhân, lấy cái bô vệ sinh của họ đem đi đổ. Một buổi sáng, mở
khóa cửa phòng của một bệnh nhân, bước vào trong tôi không thấy
anh ta đâu. Tôi hết hồn vì nếu bệnh nhân đã thoát ra khỏi phòng
thì tôi sẽ gặp rắc rối.
– Bonjour!
Tôi giật mình quay người lại thì thấy
người vừa chào tôi, trần truồng như nhộng, lông lá đầy mình, đứng
núp sau cánh cửa, hai tay chéo nhau như cố che kín hạ bộ của
mình, nhìn tôi với cặp mắt dò xét. Tôi vội vàng khom người với
tay kéo cái bô vệ sinh, mắt vẫn không rời người bệnh kèm thêm một
nụ cười cầu thân. Xong, tôi rút nhanh ra khỏi phòng và khóa cửa.
Tôi đã sống với nghề phụ y công trong
10 tháng. Cho đến khi thi đậu nội trú. Y Sĩ Đoàn Québec vào đầu
năm 1976 mở một khóa huấn luyện 3 tháng nói là để trình bày về
nền y khoa ở Québec cho nhóm bác sĩ Việt Nam, lúc đó có khoảng 80
người. Sau khóa huấn luyện, Y Sĩ Đoàn Québec mở một khoa thi đặc
biệt dành cho các bác sĩ Việt Nam. Có 40 người được chấm đậu. Tôi
may mắn có tên trong số người này. Tiếp đó Y Sĩ Đoàn Québec thông
báo 4 Đại Học Y Khoa ở Québec cho biết chỗ nội trú dành cho các
bác sĩ Việt Nam niên khóa 1976–1977 là 20 chỗ. Tôi lại may mắn có
tên trong số người được chọn. Tôi được gởi đi làm nội trú cùng 3
bác sĩ Việt Nam khác ở Đại Học Y Khoa Sherbrooke, cách Montréal
chừng 100 cây số. Tại đây có thêm 5 bác sĩ ngoại quốc, 4 ở Nam
Mỹ, 1 ở Bắc Phi, sang tu nghiệp vừa nội trú vừa thường trú. Chúng
tôi họp thành một nhóm mà chúng tôi gọi đùa là “Peloton des
Légionnaires” (Tiểu Đội Lê Dương). Nội trú người bản xứ được thi
lấy bằng hành nghề vào năm thứ tư. Vì thế khi làm nội trú họ
không phải lo thi cử gì cả. Các nội trú hay thường trú gốc Nam Mỹ
hay Bắc Phi họ cũng thi lấy bằng hành nghề. Nhưng đậu thì cũng
tốt, không đậu cũng chẳng sao. Đằng nào trước khi trở về nước họ
cũng được cấp chứng chỉ đã tu nghiệp ở Canada. Riêng với nhóm nội
trú Việt Nam thì chuyện thi lấy bằng hành nghề là một vấn đề sinh
tử. Cho nên ngoài trực gác, chăm sóc bệnh nhân, phụ mổ, chúng tôi
còn phải lo học thi. Đêm nào tôi cũng phải thức đến một hai giờ
sáng để học. Và may mắn đã đến cho 3 trong 4 nội trú Việt Nam
chúng tôi năm đó. Kể từ tháng 9 năm 1977 tôi chính thức trở lại
nghề trên quê hương thứ hai của mình.
Mới đó mà đã gần nửa thế kỷ xa quê
hương! Chừng nào tôi mới về thăm? Có lẽ phải chờ cái ngày mà miền
Bắc chân thật nhìn nhận, vào thời điểm 30 tháng tư năm 1975, họ
cũng chỉ là một con tốt trên bàn cờ quốc tế, chỉ khác hơn miền
Nam một chút, họ được chọn làm con tốt sang sông, thế thôi.
TRANG CHÂU
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nhất hùng chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
April 24, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang