Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Xuân Kỷ niệm
Tác giả:
Huỳnh Văn Của
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
1. Chung
chuyến xe Lam
Hôm đó là ngày thứ Hai 15/11/1971, ngày khai giảng Niên Khóa
1971–1972 của Viện Đại Học Đà Lạt. Bến xe Lam phía sau rạp hát
Hòa Bình tấp nập hơn bình thường. Những chuyến xe chạy về hướng
Viện Đại Học chở toàn là trai tân, gái lịch, trẻ trung và rạng rỡ
trong những bộ y phục rất hợp thời trang. Tôi ngồi đối diện với
một người có dáng dấp nghệ sĩ nhưng mang gương mặt “rất sữa” trên
chuyến xe Lam chạy lên trường.
Anh chàng chào hết mọi người trên xe
bằng những nụ cười thật tươi tắn như muốn khoe cả... chiếc răng
khểnh. Với foulard choàng cổ, par dessus dài ngang gối; tập sách
trên tay trái, dù đen bên tay phải, cộng thêm giọng nói mềm mại,
ấm áp, “chàng” là một trong những gương mặt trẻ rất “à la mode”
của ngày hôm đó.
2. Chung một niềm đam mê
Vừa bầu xong Ban Đại Diện thì cuối
tháng 12/1971, anh Chủ Tịch của Ban Đại Diện năm Nhập Môn Khóa 8
CTKD, quyết định tổ chức đêm Văn Nghệ gây quỹ, để in quyển Đặc
San Xuân 1972. Đến lúc đó, tôi mới biết anh bạn có gương mặt
trông khá “baby”, với nụ cười thật hồn nhiên – đã từng đi chung
chuyến Lam trong ngày đầu nhập học đó – có một giọng hát truyền
cảm hết biết! Qua “Bao Giờ Biết Tương Tư” và ngay lần đầu “thử
giọng” khi họp mặt tại cơ ngơi của Ấn quán Sivida, là chàng đã
chinh phục toàn ban văn nghệ.
Bạn hát rất thoải mái, tự nhiên, như kể
lể, như trang trải tâm sự. “Tôi ghé răng cắn vào. Miếng môi ngọt
đắng...”. Âm thanh của hai chữ “ghé răng” phát ra rất nhẹ nhàng,
từ tốn và lãng mạn, nhưng nghe mãnh liệt như muốn “nhai” cả trái
tim của thính giả. Buổi văn nghệ trong đêm thứ Bảy 31/12/1971 đó,
không chỉ có Bao Giờ Biết Tương Tư; mà còn có Qua Cơn Mê mà anh
bạn – bây giờ mới biết tên là Nguyễn Duy Tân – phụ họa với nhóm
Nữ, vốn là những gương mặt khả ái của năm Nhập Môn.
Qua hôm sau, bạn đã trở thành một gương
mặt nổi bật, mang “dấu ấn” của một tài năng ca nhạc trong lòng
những ai có cùng một sở thích văn nghệ. Không ngờ anh bạn đồng
khóa này sẽ đồng hành với tôi và hàng chục ngàn người khác trong
một định phận khắc nghiệt, chỉ cách sau một mùa trọ học với vỏn
vẹn có 5 tháng nhộn nhịp trong giảng đường! “Trường xưa vắng ta
mai ta lại về. Cùng theo lũ em học hành như xưa...”. Định phận éo
le thật đáng buồn!
3. Chung hoàn cảnh, khác nỗi niềm
Cuối tháng 3/1972, Hà Nội xua quân vào
Quảng Trị, mở màn cho một trận chiến khốc liệt tại nhiều nơi trên
khắp 4 vùng Chiến Thuật của toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 4/1972, sau khi Quốc Hội thông qua Luật Ủy Quyền do Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu đệ trình, thì tình trạng khẩn cấp được
công bố và lệnh Tổng Động Viên được chính thức ban hành.
Mặc dù biết tương lai sẽ không một chút
“sáng sủa”, bạn vẫn tỉnh bơ cùng với ban Văn Nghệ Toàn Trường tập
dượt ráo riết cho phần văn nghệ của “Ngày Đại Học”, cũng là ngày
“vui chơi thỏa thích” của toàn Viện Đại Học Đà Lạt. Đây là một
sinh hoạt truyền thống, rập khuôn theo phong cách giáo dục của
các Đại Học Âu–Mỹ. Không kể một tuần tập hát, rồi buổi tổng dợt
tại đại học xá Rạng Đông cho phần văn nghệ; tất cả các Phân Khoa
đều rầm rộ chuẩn bị những đóng góp của riêng mình, nhằm tổ chức
một ngày Hội Chợ trong phạm vi của toàn Viện Đại Học; với những
hàng cà phê, kiosque bán quà lưu niệm, đặc biệt là các quán Nhạc
bỏ túi khắp đó đây.
Trong không khí sinh hoạt “có một không
hai” của định chế giáo dục trên toàn miền Nam Việt Nam lúc bấy
giờ, bạn trách nhẹ tôi:
– Sao không ghi tên tham gia lần này?
– Không đủ hứng để hát hò! Vả lại tui
còn có lý do riêng...
– Tôi nghĩ khác! Vui trước cái đã! Tới
đâu thì tới! Que sera sera!
Buổi văn nghệ tại khoảng sân trống
trong khuôn viên của nhà nguyện Năng Tĩnh kết thúc vội vã, ngay
sau khi bạn vừa hát xong bản Mộng Chiều Xuân. Cơn mưa chiều bất
chợt đổ xuống một cách ào ạt. “... Lòng tha thiết buông theo
tiếng đàn... Mộng vàng phút tan theo gió chiều...” Lại thêm một
dấu hiệu của ngày vui không trọn vẹn, bởi cơn mưa giông đến bất
ngờ, đi cũng thật vội vã!
Mọi sinh hoạt vui chơi, giải trí đều
đồng loạt chấm dứt. Lúc đó là đúng 17h của ngày thứ Sáu
21/4/1972. Từ ngày giờ này trở đi, bạn và tôi; cùng những người
chung hoàn cảnh, chỉ còn đúng 3 tháng để “vui nguồn sống mơ...”,
trước khi dấn thân vào cuồng nộ và khói lửa của “... những ngày
phong trần...!”.
4. Chung thân phận
“Mùa Hè Đỏ Lửa!” Tổ Quốc Lâm Nguy! Lệnh
Đôn Quân của Luật Tổng Động Viên lập tức được thực thi vào đầu
tháng 5/1972. Bạn và tôi cùng những ai học trễ 1 năm, đều không
còn hội đủ điều kiện để được hoãn dịch học vấn. Nha Động Viên ấn
định chúng tôi phải trình diện nhập ngũ trong vòng 2 tháng. Thời
hạn được cho là 3 ngày, từ 17/7/1972 đến 19/7/1972.
Sáng sớm ngày thứ Hai 17/7/1972, bạn
đến nhà tôi. Cùng đi với bạn là một đồng môn học bên Văn Khoa,
Nguyễn Ngọc Thưởng, cũng là hàng xóm của bạn trên Đà Lạt. “Xuống
Sài Gòn mấy ngày nay rồi! Đi sớm cho khỏe. Chờ đến ngày sau cùng
mới trình diện thì cũng vậy thôi!”. Bạn vui vẻ nói khi chúng tôi
“cụng” ly cà phê, trước khi bắt Taxi để qua Quân Vụ Thị Trấn bên
đường Lê Văn Duyệt. Vài tiếng đồng hồ sau đó, chúng tôi có mặt
trong Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ trên Hóc Môn, Gia Định.
Sau 3 lần được cấp phép về nhà chờ khóa
học quân sự, giữa tháng 8 năm đó, chúng tôi có tên trong danh
sách Tân Khóa Sinh ra Nha Trang thụ huấn quân sự tại quân trường
Đồng Đế. Trường Bộ Binh Thủ Đức không đủ chỗ để đào tạo các “quan
nhí” cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên Trường Hạ Sĩ Quan tại
Nha Trang phụ gánh trách nhiệm này, như đã làm hồi năm Mậu Thân
1968.
Gian khổ
bắt đầu bằng mưa nắng quân trường và những màn huấn nhục trời ơi
đất hỡi, nhưng bạn và tôi chấp nhận dấn thân. Bạn, trong dáng vóc
“công tử và nụ cười thư sinh”, gồng mình “cõng” 2 quả đạn súng
cối 60ly. Còn tôi, nhờ vào “tinh thần Sắp Sẵn” của Hướng Đạo, đã
tình nguyện từ Trung Đội 1 đổi qua Trung Đội 4 của bạn và của một
đồng khóa 8 Chánh Trị Kinh Doanh gốc Đà Lạt, để “ôm” thùng đạn
đại liên M60 mỗi khi ra sân, bãi.
Ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy – ngoài
tôi ra – còn có một anh bạn “lì đòn” khác, Lâm Hoài Nam, cũng
tình nguyện từ Trung Đội 3 qua vác đạn chung với 3 đứa chúng
tôi... cho vui! Sau đó, mọi người đều hiểu ra; chúng tôi gom
chung một chỗ, là vì cùng “gu” văn nghệ và có một mẫu số chung là
thích “thả chân du tử la cà đó đây”. Vui là chính, chuyện Lính
tính sau! Thế là nhóm “Du Ca súng nặng” thành hình, gồm hai chàng
Hướng Đạo Sài Gòn kết hợp với hai tâm hồn đồng điệu của Đà Lạt.
5. Chung lòng Khai Phá, hạp tánh phiêu
lưu
Vừa xong 8
tuần huấn nhục và cấp hiệu Alpha (trông như hình “con cá”) vừa
được may lên cổ áo, thì cuối tháng 10/1972, chiến dịch giải thích
Hòa Đàm Paris – nhằm ngăn chặn phía Cộng sản lấn Đất, giành Dân –
được Bộ Tổng Tham Mưu gấp rút ban hành. Toàn thể Sinh Viên Sĩ
Quan từ các quân trường, được gởi đi tăng cường cho tất cả Tiểu
Khu trên toàn quốc, để phụ với đơn vị địa phương thực hiện công
tác có tính cách chiến lược này.
Đại Đội Khóa Sinh chúng tôi được phân
phối về tỉnh Bình Thuận. Tại đây, chúng tôi phân nhóm rồi được
đưa về các Quận, tức Chi Khu, để chung sức với lực lượng địa
phương trong việc thi hành công tác chiến tranh chính trị, theo
chiều hướng và tinh thần đã được Bộ Tổng Tham Mưu ấn định và giao
phó trách nhiệm.
Nhóm “Du Ca súng nặng” chúng tôi, cùng
với 16 đồng đội khác, tình nguyện về công tác tại quận Hòa Đa,
nơi có xã Phan Rí Thành, là vùng đông dân nhứt của tỉnh Bình
Thuận. Nơi này nổi tiếng với xã Phan Rí Cửa, một thời là thủ phủ
tiên khởi của Bình Thuận ở thế kỷ 17, hiện nay là nơi sinh sống
của đa số dân tộc Chàm tại miền duyên hải trung phần. Chọn đến
công tác tại quận Hòa Đa không phải là tình cờ, mà do chúng tôi
đã biết đến địa danh và hình ảnh, từng được Bộ Thông Tin của hai
nền Cộng Hòa giới thiệu rất tận tình trên các bài viết hay phim
thời sự nói về Du Lịch, Kinh Tế, Văn Hóa từ rất nhiều năm trước.
Hòa Đa, ngoài tính cách lịch sử gắn
liền với Dân Tộc Chàm, còn nổi tiếng khắp vùng nhờ vườn táo tại
xã Lâm Lộc. Ngoài ra còn có vùng biển Thượng Văn (tên địa phương
gọi là Duồng), là một thắng cảnh đủ đẹp để thu hút ngành du lịch
trong thời bình. Tên Thượng Văn là do Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đặt cho, khi ông đi kinh lý và tìm đất để đồng bào miền bắc vào
định cư. Nằm cách Hòa Đa không xa, Phan Rí Cửa là một trong vài
đơn vị hành chánh, tuy ở cấp Xã, nhưng trù phú nhứt của Việt Nam
Cộng Hòa.
Cơ
ngơi và sinh hoạt về mọi mặt tại Phan Rí Cửa có tầm cỡ của một
thị trấn, với rạp hát, sân đá banh, sân Tennis, trường Trung Học
Công Lập Đệ Nhứt Cấp, Bệnh Xá toàn khoa và một hệ thống ngư
nghiệp hùng hậu với ghe, thuyền ngày đêm tấp nập. Còn hàng, quán
thì không thua bất cứ nơi nào tại các tỉnh, thành của miền Nam
Việt Nam.
Riêng các quán cà phê thì từ cảnh trí, âm nhạc và hương vị đều
không kém Đa La trong Chợ Lớn, Thượng Uyển trên đường Trần Quốc
Toản, hoặc Hương Xưa tại Gò Vấp. Cà phê nhạc là nơi “dưỡng quân”
thường xuyên, mỗi khi chúng tôi đến công tác tại Phan Rí Cửa, đặc
biệt là tại một quán khá trang nhã ở Xóm Cồn, nghe nói là của gia
đình ông Dân Biểu đối lập họ Trương, biệt hiệu Trúc Viên.
Sẵn máu phiêu lưu, cộng với “gu” văn
nghệ của cả nhóm công tác, nên chúng tôi đã có nhiều lần hát hò
ngoài lộ thiên, trong hội trường, ngay mé biển, tại tất cả những
nơi chúng tôi đi thuyết trình trong toàn quận, kể cả trong sân
trường Trung Học Phan Rí Cửa. Trong những lần sinh hoạt, bất kể
là vào ban ngày hay buổi tối này, bạn luôn là “ngôi sao” phụ diễn
nổi bật nhứt.
Dường như Duy Tân sinh ra là để thẩm thấu vào âm nhạc, vào thiên
nhiên, vì bạn rất thường lãng đãng trong cõi mịt mờ nào đó của
mộng ảo. Đôi khi trầm ngâm, xa vắng, lắm lúc bạn lại cười đùa,
nói và hát hò nhiều hơn ai hết. Bạn như bất cần đời, “bạo miệng”
đấu hót về mọi thứ chuyện, nhưng khi cần trao đổi một cách nghiêm
chỉnh thì rất sâu sắc trong nhận định, chững chạc trong lý luận,
có khi lại khôi hài một cách... rất “bình dân”! Khó hiểu được
bạn. Nhưng “Công Tử răng khểnh” lại rất dễ gần gũi với anh em,
đặc biệt là khi có cây đàn trên tay và một ly trà, hoặc cà phê ở
ngay bên cạnh.
6. Chung “chuyến xe định mệnh”
Chuyến công tác Chiến Tranh Chính Trị
đợt 1 của Sinh Viên Sĩ Quan – điều động từ các quân trường trên
toàn quốc – chấm dứt từ giữa tháng 1/1973. Tại Phan Thiết, đại
đội khóa sinh chúng tôi được gom về Tòa Hành Chánh tỉnh, để Phòng
Chiến Tranh Chính Trị của Tiểu Khu tổng kết thành quả công tác và
thết tiệc khoản đãi. Hai hôm sau, thứ Sáu 19/1/1973, chúng tôi
được đoàn xe Quân Vận gồm 8 chiếc GMC, mỗi xe chở một toán công
tác của một quận thuộc tỉnh Bình Thuận, đưa về Nha Trang.
Hai tháng trước đó, Đại tá Ngô Tấn
Nghĩa, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng cho L19 từ Phan Thiết đón
chúng tôi, khi đoàn xe từ Đồng Đế vừa rời phần đất Ninh Thuận để
vào địa phận của Tuy Phong, là quận cực bắc của tỉnh Bình Thuận.
Bận về lần này, Đại tá Nghĩa cũng cho L–19 lên bao vùng, giữ an
ninh lộ trình và hộ tống chúng tôi qua những đoạn đường thường
hay có Việt cộng lảng vảng.
Đoạn đường quốc lộ 1 chạy qua ngã ba đi
Sông Mao, tức ngay Hương lộ 404, có một dốc khá cao tại ấp Lương
Sơn thuộc xã Chợ Lầu. Đoạn này chạy sát sông Lũy. Tại đây, cây
cối um tùm, địa thế rậm rạp, rất dễ bị phục kích, nhứt là khi xe
cộ rề rề leo dốc. Đến đây thì không còn bao xa nữa sẽ đi ngang
quận Hòa Đa. Vì vậy, chúng tôi đồng loạt đội bê rê màu xanh nước
biển của Đồng Đế và ngồi xoay mặt nhìn ra hai bên đường. Mục đích
là chờ tới khi xe chạy ngang qua Phan Rí Thành, thì mọi người sẽ
vẫy tay từ giã dân chúng tại các quán xá trước cổng quận đường.
“Đầm Già” lượn sát đọt cây, đảo một
vòng quan sát ven đồi bên kia bờ sông Lũy, rồi bay trở ra quốc
lộ. Chiếc L–19 rú ga lấy cao độ, nhưng nghe như có tiếng “ho”,
rồi hai cụm khói đen phụt ra từ cánh quạt. GMC rị mọ leo lên dốc
cao. Phi cơ đã chết máy nhưng đà lướt vẫn thật nhanh và cũng thật
êm. Quân xa và máy bay “gặp” nhau trên đỉnh dốc. Cánh phi cơ “vớt
đầu” vài bạn ngọt xớt như tiếng róc mía! Sau đó tiếng động khô
khốc của cánh máy bay chạm vào cabin ngay sau lưng tài xế, làm
mọi người giựt mình, thảng thốt.
L–19 lật ngửa, rớt nằm bên vệ đường.
GMC đổ một đoạn dốc ngắn rồi mới dừng hẳn lại. Vì quay ra hai bên
đường, nên lúc nghe tiếng va chạm, các bạn ngồi phía bên kia băng
ghế đều quay nhìn về phía sau xe. Khi thấy máy bay lật ngửa là họ
la toáng lên, rồi hối nhau lập tức nhảy xuống đường để chạy tới
cấp cứu viên phi công và người quan sát viên. Họ không hề biết đã
có 5 thân người bật ngửa, rồi ngã vào lòng xe, nơi ba lô và sac
marin của cả toán ngổn ngang chất chồng. Trên đống lỉnh kỉnh đó,
có tôi cùng một anh bạn ngồi dựa lưng vào cabin, quay mặt nhìn về
phía sau xe suốt từ lúc khởi hành.
Định mệnh trớ trêu, mà Tạo Hóa cũng
khéo léo làm sau khi cánh máy bay “vớt hụt” 2 chiếc bê rê đầu
tiên, rồi mới “liếm đầu” của 5 bạn còn lại, trước khi máy bay va
chạm với góc buồng lái! Tai nạn xảy ra như chỉ trong tích tắc.
Khi tôi nhoài người đỡ Ngô Quốc Thắng, nạn nhân đầu tiên cũng là
người bị thương nặng nhứt, thì cũng là lúc bạn Thắng đưa tay bụm
trán theo một hành động phản xạ. Vầng trán rộng của bạn bấy giờ
là một mớ bầy nhầy của lớp da, xương, mỡ dồn cục, kéo từ trái qua
hết bên phải. Vết thương trắng hếu màu thịt mỡ!
Chỉ khi chậm miếng băng cá nhân lên đầu
bạn thì máu mới rỉ ra, thấm đầy. Vết thương trên trán Nguyễn Duy
Tân tuy ngắn hơn một chút nhưng cũng phải 6, 7cm chiều ngang và
đã ra máu khi tôi buộc băng cứu thương cho bạn. Chỉ có một bạn
Sinh Viên Sĩ Quan tên Võ Công Lý, là người duy nhứt đội nón sắt.
Không thấy bạn Lý chảy máu, nhưng vì có một cục u; sưng to cỡ quả
trứng bồ câu ở phía sau ót, sờ vào thì thấy căng cứng, nên chúng
tôi để yên đó.
Hai nạn nhân còn lại thì được anh bạn
có biệt danh là “bánh mì đường” (do sáng nào cũng đi lãnh bánh mì
và đường cát về phân phát cho cả đại đội khóa sinh) và một người
khác vừa chạy trở lại, phụ băng bó. Tất cả các nạn nhân trên xe
đều mê man. Để chạy đua với thời gian, thay vì chờ xe cứu thương
của Quân Y từ Sông Mao chạy ra, chúng tôi nhờ 2 chiếc xe đò lỡ
(loại Renault của Pháp) chở gấp mọi người về Phan Rí Cửa, để trực
thăng tải thương đưa về Quân Y Viện Nguyễn Huệ tại Nha Trang.
Thứ Sáu 19/01/1973! Một ngày đẹp trời,
nhưng lại là một ngày đẫm máu ngay trên chiếc GMC chở toán Hòa Đa
chúng tôi về quân trường. Đoàn quân xa của Đại Đội 727 là chuyến
sau cùng trở về Đồng Đế. Ba ngày sau, trong buổi họp tổng kết
chiến dịch CTCT với đại diện của Quân Đoàn II và Quân Khu 2 tại
rạp Tân Tân ngoài Nha Trang, chúng tôi được vị sĩ quan Tham Mưu
Phó Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn II cho biết Quân Cảnh
Sông Mao kết luận tai nạn hy hữu tại xã Chợ Lầu, quận Hòa Đa, là
tai nạn... giao thông vì đã xảy ra ngay trên Quốc Lộ 1!
Ngày 27/01/1973, Sinh Viên Sĩ Quan của
Đồng Đế lại lên đường tham gia công tác CTCT đợt 2. Chúng tôi
nhận tin bạn Lý đã qua đời ngay trong đêm trước khi mọi người rời
quân trường. Các bạn khác, cùng với phi công và quan sát viên của
chiếc L–19, đều trên đà bình phục. Bạn Lý yểu mạng chỉ vì... đội
nón sắt! Cánh máy bay – với tốc độ đang đà bay của phi cơ còn khá
cao – đã vớt mạnh vào chiếc nón. Sức va chạm làm bạn Lý dập não,
long óc. Khi bị đẩy bật ra phía sau, bạn lại bị thương thêm một
lần nữa ngay tại tiểu não. Phía sau gáy của bạn Lý không biết đập
vào đâu, nhưng lúc bạn được đưa lên xe đò, vết thương đã sưng to
bằng ngón chân cái. Võ Công Lý ra đi trong hôn mê. Không một phút
giây nào hồi tỉnh!
7. Chung lối dấn thân
Cuối tháng 3/1973, công tác CTCT nhằm
giải thích Hiệp Định Paris và ngăn chặn phía CS giành Dân, chiếm
Đất trên toàn quốc, đồng loạt chấm dứt. Sinh Viên Sĩ Quan được
trả về quân trường để tiếp tục thụ huấn quân sự. Trừ Võ Công Lý
đã qua đời, tất cả nạn nhân khác của vụ “tai nạn giao thông” giữa
L19 và xe GMC, đều hoàn toàn bình phục. Việc huấn luyện tại Đồng
Đế được tiếp tục theo chương trình đã ấn định. Ngày 26/06/1973
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có thêm khoảng 600 tân Chuẩn úy
[*].
Ngoài một số đã được các đơn vị thuộc
các ngành chuyên môn “chấm” trước để đưa về phục vụ, những tân sĩ
quan còn lại, hoặc tình nguyện về các binh chủng tổng trừ bị,
hoặc chọn nơi phục vụ, bằng cách ghi tên vào bảng ghi danh sách
của Sư Đoàn và Tiểu Khu của các Vùng Chiến Thuật. Duy Tân chọn Sư
Đoàn 2BB là đơn vị chịu trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ tại hai tỉnh
Quảng Tín và Quảng Ngãi thuộc Quân Đoàn I & Quân Khu 1, gọi tóm
tắt là Vùng 1 Chiến Thuật. Nhóm “Du Ca súng nặng” chính thức dấn
thân vào lửa đạn ngay sau đó.
8. Chung mặt trận, cùng chiến tuyến
Tôi chọn về Biệt Động Quân, rồi tình
nguyện phục vụ ngoài Quân Khu 1, sau đó được đưa về Tiểu Đoàn 37,
Liên Đoàn 12 BĐQ. Đây là đơn vị tổng trừ bị cho toàn Quân Khu 1,
nên luôn có mặt tại những “điểm nóng” từ Quảng Trị đến Quảng
Ngãi, tổng cộng 5 tỉnh địa đầu giới tuyến. Không ai nghĩ tôi có
thể trở thành một người lính Biệt Động Quân. Cũng chẳng ai ngờ
bạn Tân lại là trung đội trưởng trinh sát của một trung đoàn bộ
binh.
Bạn về
Trung Đoàn 5, Sư Đoàn 2 Bộ Binh, là đơn vị có trách nhiệm bảo vệ
hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Đơn vị chúng tôi và trung đoàn
của bạn hai lần hợp sức cự địch tại tỉnh Quảng Tín. Lần đầu là
cuối tháng 5/1974. Lúc đó, Liên Đoàn 12 BĐQ chúng tôi đụng trận
tại khu vực Suối Đá, để giải tỏa áp lực địch tại vòng đai phía
Tây của Tam Kỳ và cho cả quận Tiên Phước. Đánh xong là chúng tôi
rút ra, để đơn vị của bạn vào càn quét và thu lượm vũ khí.
Lần thứ nhì, là khi cùng chiến đấu
quanh thị xã kiêm tỉnh lỵ Tam Kỳ, đầu tháng 3/1975. Biệt Động
Quân và Sư Đoàn 2BB vào vùng giao tranh cùng một lúc, di tản
chiến thuật cùng một lượt trong ngày 24/03/1975. Tôi theo Liên
Đoàn 12 BĐQ ngược bắc, rút về Đà Nẵng. Bạn và phần lớn Trung Đoàn
5/SĐ2BB vượt đường máu, xuôi nam, đi về hướng Quảng Ngãi để vào
căn cứ Chu Lai, là nơi đặt bản doanh của Sư Đoàn. Chúng tôi bặt
tin nhau kể từ ngày hôm đó.
9. Chung cảnh ngộ
Đổi đời! Chúng tôi “trả nợ quỷ thần”
trong các trại lao động khổ sai được ngụy trang bằng mỹ từ...
“cải tạo”! Sau đó phải chấp nhận sống kiếp “phó thường dân” trong
một nhà tù bao la hơn, phức tạp và quy mô hơn những hàng rào có
vọng canh của lán trại trên rừng núi Trường Sơn. Sau khi được
phóng thích, bạn về sống với gia đình trên Đà Lạt. Tôi bám lấy
Sài Gòn. Những kẻ bất phùng thời gượng vui từng ngày, sống kiếp
“bảy chìm, ba nổi” qua tất cả những gì có thể làm được, hoặc có
được.
Người cứ
vậy mà sống. Đời cứ thế dần trôi. Ngày tái ngộ là một tối tháng 3
trong khung cảnh của mùa Xuân Đà Lạt năm 1982. Tôi lên thăm cao
nguyên Lâm Viên lần đầu sau đúng 10 năm... “xuống núi”! Buổi hàn
huyên là một tối “cụng ly” cà phê trong Thủy Tạ với vài bạn chung
đại đội quân trường. Vết thẹo trên trán không làm bạn già đi.
Cuộc sống khó khăn không làm bạn nao núng. Giọng nói vẫn trau
chuốt, nụ cười vẫn thản nhiên. Bạn vẫn pha trò theo kiểu “khôi
hài đen”, pha lẫn chút bất cần đời như dạo nào.
Có một kỷ niệm không thể quên trong
những lần tôi và các bạn Đà Lạt gặp lại nhau từ 1982 đến 1986. Đó
là lần vợ chồng Duy Tân đãi ăn tại nhà vào một tối tháng 3/1983.
Phong cách “sang cả” của vợ chồng “công tử răng khểnh” được thể
hiện rõ nét qua việc thết đãi bạn bè món... cầy tơ với dĩa to,
chén nhỏ, muỗng, nĩa, dao, bày biện đẹp mắt bên cạnh hồng nhung,
cúc trắng và rượu dâu trên chiếc bàn ăn trải drap trắng muốt.
Chứng tỏ Đời tuy xuống tận cùng bằng số, nhưng Người vẫn phóng
khoáng và thoải mái trong mọi tình huống!
Trong khi nhiều bạn đồng cảnh ở Đà Lạt
kiếm sống bằng “thể dục có trả lương” tại các công trường khai
thác đá quanh khu vực thác Cam Ly; thì bạn tà tà “góp bàn tay lao
động” để nắn nót những mẫu hàng thủ công nghệ, đem bỏ mối cho các
quầy, sạp, trong chợ Đà Lạt bán cho du khách nội địa mua làm quà
lưu niệm. “Ai bảo đời tàn khi... xuống chó!? Lên voi có chắc đã
thân vinh?!”
10. Chung phận lưu vong
Kẻ trước, người sau, chúng tôi lần lượt
“đổi đời” thêm một lần nữa, khi chấp nhận xa quê hương. Chúng tôi
thường gọi đùa nhau bằng câu “Bọn mình là dân Ô Đi E!” (Air), để
phân biệt với “Ô Đi Ghe” và “Ô Đi Bộ”. Tức những người “trêu
ngươi hà bá”, khi vượt biển trên những chiếc thuyền con; hay liều
mình trước họng súng của Khmer Đỏ, để lội bộ qua Campuchia, rồi
vượt sông Mékong tới Thái Lan. Bạn ở với thân phụ bên miền viễn
tây khi mới qua Hoa Kỳ. Tôi được vợ chồng cô em kế bảo lãnh qua
sống tại vùng đông bắc.
Bạn liên lạc ngay với tôi khi vừa đặt
chân đến xứ sở tự do. Tuy không có điều kiện gặp nhau, nhưng thư
từ và phone gọi thường xuyên. Cuộc sống tất bật vì cơm áo quả có
nhiều chật vật, nhưng không làm bạn nao núng trong việc trau dồi
thêm kiến thức âm nhạc. Bạn viết nhạc cho mình hát. Hát nhạc cho
chính mình nghe, hoặc hát cho bạn bè nghe qua điện thoại. Bạn
sáng tác thật hăng hái và đều đặn mặc dù sức khỏe ngày càng sa
sút. Nhưng chỉ được vài năm thì bạn bặt tin!
11. Chung niềm hoài cảm, khác mối sầu
đời
Mãi gần 10
năm sau, đầu mùa hè 2014, tôi mới nhận được tin của bạn. Bạn
không nêu lý do vì sao cắt đứt mọi liên lạc, nhưng có cho biết là
nhờ thường xuyên “lướt sóng trên mạng” nên đã đọc được những bài
tôi viết về chiến trường xưa, đơn vị cũ, cùng những kỷ niệm về
thời hội học trên Đà Lạt. Nhớ chuyện xưa và mong nhận tin tức của
bạn bè, nên bạn gõ vài chữ cho tôi để nối lại “nhịp cầu tri âm”.
Thì ra bạn rời Bolsa để về sống tại
Missouri, một tiểu bang nổi tiếng trong Cộng Đồng Công Giáo Việt
Nam tại Hoa Kỳ, với những cuộc hành hương long trọng được tổ chức
hàng năm. Trong Email đầu tiên sau 10 năm vắng bóng là câu: “Tao
xin lỗi. Từ ngày đau ốm tới giờ tao rất ít liên lạc”. Hỏi mãi bạn
mới cho biết là “Tao chỉ còn nửa lá phổi! Thêm lọc máu mỗi ngày
một lần. Mỗi lần một tiếng! Tự làm lấy tại nhà!”. Thương thay!
Lúc còn đi học và khi mới vào quân
trường, thì chưa thấy dấu hiệu gì rõ nét. Nhưng sau ngày bị máy
bay “vớt đầu” thì bạn có vẻ hơi... tưng tửng! Mấy chục năm sau,
“phong thái” đó không thay đổi. Giờ lại lâm trọng bệnh nên bạn
càng thêm “đau khổ” khi không còn sức ngồi lâu như trước. Từ đó
bạn đâm ra lười gõ phím, bớt gọi phone, sau khi “phán” những
câu... rất gọn mà như rất cay đắng! “Tao không chán đời! Vẫn nhớ
tui bay lắm! Nhưng không muốn làm gì nữa!... Lâu lâu text vài
chữ, gọi nói vài câu. Thế cũng đủ rồi. Thông cảm nhé!”.
Trong năm 2014, có một bạn thuộc Khóa 8
Chánh Trị Kinh Doanh từ trong nước đặt may một chiếc áo khá đẹp,
trên đó thêu phù hiệu của Viện Đại Học Đà Lạt và in tên của toàn
thể các bạn đồng khóa. Áo được gởi đến mọi người, mọi nơi. Một kỷ
niệm đẹp mang tính cách rất... Thụ Nhân của người bạn học cũ! Áo
của Duy Tân được gởi đến tôi để chuyển lại cho bạn.
Đọc Email của bạn khi báo tin đã nhận
được áo, tôi mơ hồ nhận thấy một thoáng nghẹn ngào khi bạn trang
trải hạnh phúc vừa cảm nhận được. Trong đoản văn 18 chữ đã có 3
lần... cám ơn! “Tao đã nhận được áo. Đẹp lắm. Cám ơn. Xin chuyển
lời cám ơn. Thành thật cám ơn các bạn đã có lòng nhớ đến và gởi
cho áo CTKD. Sẽ giữ kỹ làm kỷ niệm để nhớ đến một quãng đời mơ
mộng vô tư.” Chắc chắn phải là một xúc động mãnh liệt, nên câu
văn mới có âm hưởng của tiếng nấc nghẹn, trong lúc bạn bồi hồi
nhớ lại quá khứ vàng son của lứa tuổi xuân thì đầy “mơ mộng vô
tư”.
12. Chung
dòng định phận
Nguyễn Duy Tân có nhiều Bạn, mà “Bè”
thì cũng không ít! Nhưng từ khi lâm trọng bệnh, bạn “hà tiện”
ngôn từ, hạn chế liên lạc. Có lẽ bạn muốn cho công bằng, nên
không thiên vị ai. Họa hoằn lắm mới có một câu nhắn máy, một lời
gọi thăm hoặc chúc lành vào những dịp đặc biệt. Tôi hoàn toàn
thông cảm, mặc dù có lúc đã nghĩ là bạn chỉ ưu tiên cho những...
hồng nhan tri kỷ! Hơn 7 năm qua, hiếm khi tôi nhận được phone,
lời nhắn, hay Email của bạn. Do đó, tin bạn qua đời đến với tôi
thật bất ngờ.
Bạn và tôi, cùng những người chung hoàn cảnh tha hương, thoạt đầu
đều cho rằng cuộc sống nơi quê người chỉ là tạm bợ. Ai cũng khắc
khoải và trăn trở về một chuyến hồi hương. Nhưng từ lâu, đa số đã
thấy đất nước ban đầu được gọi là tạm dung, đã trở thành quê
hương thứ nhì, cũng là nơi gởi nắm xương tàn hoặc mớ bụi tro của
“tấm thân tứ đại”. Bạn về với Thiên Chúa trong mùa Lễ Tạ Ơn của
một năm còn đầy biến động vì dịch bệnh. Tuy chung dòng định phận,
nhưng tôi thì vẫn đang chờ một chuyến về nguồn.
Bạn đã vào thiên cổ, nhưng giọng hát
tặng tri âm, cành hồng dâng tận tay tri kỷ và dáng vóc công tử;
cũng như cung cách bất cần đời của một người lính trinh sát, vẫn
là hình ảnh tồn đọng trong tâm khảm của Đồng Môn, Đồng Cảnh, Đồng
Đội cùng “những người muôn năm cũ” của Khóa 8 CTKD còn ở nơi quê
nhà, hoặc đã tản lạc khắp bốn phương trời.
HUỲNH VĂN CỦA
(Để nhớ NGUYỄN DUY TÂN
R.I.P)
[*]
http://members.westnet.com.au/haing/k472b/Images/NghiDinhThangCap_K4-72B-DD.pdf
Trong tổng số gần 600 Chuẩn úy, mãn khóa ngày 26/6/1973, có
453 người thăng cấp đúng thời hạn (nghị định ký và có hiệu lực
ngày 23/8/1974.) Không có tên là những người đã hy sinh, hay giải
ngũ vì thương tật, hoặc đặc cách tại mặt trận trước đó. Còn lại
là những quân nhân bị hoãn thăng cấp. Trong số này có tác giả và
11 chuẩn úy, do Thiếu tướng Đỗ Kế Giai (Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân) ký phạt mỗi người 20 “củ” (“Củ” = ngày trọng cấm, tức ở tù
trên giấy tờ!) kèm theo lệnh phạt là quyết định hoãn thăng cấp 1
tháng (Tướng Giai ký hồi tháng 12/1973).
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Huỳnh Văn Của chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, January 13, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang