Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Xuân
Chủ đề:
Xuân Tưởng niệm
Tác giả:
Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tôi
ngồi nhìn qua khung cửa sổ, ngắm bông tuyết đang nhẹ bay. Bên
kia đường là công viên với những hàng cây trơ cành, trụi lá. Mọi
vật đang phủ một màu trắng xám. Đợt flurries đầu ngày chỉ là
phần “mở màn” vì tin tức khí tượng cho biết tuyết nhẹ xuống rải
rác vào buổi sáng, chiều tối tuyết sẽ rơi nhiều hơn. Mùa đông ở
xứ người là vậy: ảm đạm và giá băng! Cơn lạnh đủ cho bên ngoài
thêm vắng lặng. Thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chậm rãi lăn
bánh qua khu phố vốn đã rất yên tĩnh vào những ngày cuối tuần.
Trong nhà cũng lắng đọng không kém. Trên chiếc bàn con kề bên
cửa sổ là tách cà phê còn đang ấm khói. Tôi nhấp từng ngụm để
thưởng thức mùi thơm và tận hưởng hương vị khi cà phê tan dần
vào vị giác. Cứ như thế mà tôi ngắm nhìn mùa đông đang thả tuyết
ngoài sân để sau đó hướng lòng về nắng ấm của mùa Xuân nơi quê
nhà.
Xuân?!
Nơi này đang đi vào giai đoạn cuối của thời tiết bốn mùa. Còn
trên quê hương thì đang bắt đầu một vòng quay mới của chu kỳ
nhật nguyệt. Ở xứ người với cơm no, áo ấm, mà sao lòng cứ canh
cánh về mùa Xuân trên phần đất đã hơn 40 năm rơi vào tay giặc!
Những mùa Xuân thanh bình, những cái Tết đích thực của miền Nam
chỉ hiện hữu trước khi phần đất của Tự Do thay đổi chủ. Nói tới
Xuân thanh bình là nói tới hạnh phúc và hy vọng của người dân
khi đón Tết trong những năm đầu lập quốc tại miền Nam Việt Nam.
Nhưng hạnh phúc không kéo dài và hy vọng càng ngày càng thêm
mong manh khi chinh chiến tràn lan và an ninh thị thành rối loạn
triền miên, chỉ sau đôi ba năm cả nước hưởng được chút hương
thanh bình.
Ngày Xuân, ngoài những hoa trái muôn màu, hương nhang cúng bái,
còn có “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, cây nêu, tràng pháo, bánh
chưng xanh” cùng vài cách thức đón Xuân khác, vốn là những phong
tục, tập quán được gìn giữ và truyền lại từ ngàn xưa. Trong đó
có múa lân, đốt pháo. Pháo Tết dòn tan tiếng nổ, tươi tắn sắc
màu, rộn ràng tình tự. Tiếng pháo làm tăng thêm sự hưng phấn
trong lòng người và tô điểm thêm cho không gian vốn đã náo nhiệt
và tất bật nhứt trong năm. Vì tiếng pháo – cũng như tiếng lòng
hòa điệu với hoan ca của vạn vật mỗi độ Xuân về – chính là âm
thanh của hạnh phúc tràn trề và sức sống sung mãn.
Tiếc thay, trong 20 năm tồn tại của
Việt Nam Cộng Hòa, những lần dân chúng có cơ hội tận hưởng một
mùa Xuân tươi thắm chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nền Đệ Nhứt
Cộng Hòa chưa thật sự ổn định được bao lâu thì xảy ra đảo chánh
11/11/1960. Chỉ vài tháng sau đó – vì lý do an ninh – các loại
pháo lớn, nhỏ đều bị cấm đốt trong dịp Tết Tân Sửu (15/2/1961).
Năm đó, tiếng pháo rải rác đó đây trong đêm giao thừa không đủ
mang lại hạnh phúc trọn vẹn, vì hòa trong không khí Tết là sự
bất an và tiếc rẻ trong lòng người dân Sài Gòn. Đón Tết mà chỉ
có lân, không có pháo thì chẳng khác nào nhâm nhi cóc, ổi mà
không có muối ớt! Cũng vì muốn tận hưởng hạnh phúc đón mừng Xuân
mới mà trong các hẻm nhỏ, nhiều người đã liều mạng đốt lén một
vài phong pháo, bất chấp sự rượt đuổi hay rình bắt của cảnh sát
và công an. Họ, quả đã rất nặng tình với không khí Tết! Ngày
Xuân ngay tại thủ đô Sài Gòn, trong các thị thành và những vùng
thôn quê thì vẫn đậm đà xuân sắc. Hoa vẫn đẹp, nắng vẫn tươi nên
phố phường hay làng, xóm cũng không bỏ lỡ cơ hội... xum xuê với
lụa là y phục. Có điều... không có tiếng pháo đêm giao thừa,
không có sắc hồng khai xuân sáng ngày Mùng Một, thì ngày vui rõ
ràng đã mất đi một phần sinh khí!
Phải đến mùa Xuân năm Đinh Mùi
(9/2/1967), ngày Tết mới thật sự hồi sinh qua lệnh cho đốt pháo
mừng Xuân của Hội Đồng Quân Lực VNCH, sau hơn hai năm nỗ lực
mang lại khí thế chống Cộng của toàn Dân và tái tạo sự đoàn kết
trong Quân Đội. Đó cũng là pháo mừng sự ổn định về nhiều mặt của
Quân và Dân miền Nam sau những cơn binh biến và tao loạn. Năm
đó, pháo Tết lại nổ dòn tan cho phố xuân thêm khởi sắc trong bầu
không khí sôi nổi, rộn ràng. Lòng người hân hoan. Hồn Xuân lai
láng. Tình Xuân chứa chan. Nàng Xuân lại mang đến cho đời những
đường hoa, phố hội và hạnh phúc tràn đầy trong những ngày im
tiếng súng nhờ thỏa thuận hưu chiến đã được hai phe lâm trận
loan báo một tháng trước Tết nguyên đán. Ngày Xuân dù mong manh
và tạm bợ, vẫn khoe sắc thắm trong hoàn cảnh chiến tranh còn
lảng vảng khắp nơi. Nhưng...
Thật khốn kiếp thay cho bọn cộng sản
vô thần! Đáng thương và não nùng thay cho phần đất của miền Nam
tự do! Chỉ không đầy một năm sau, nàng Xuân của năm Mậu Thân
(31/1/1968) đã bị cộng phỉ “hiếp dâm tập thể” khi tiếng
AK của bọn khát máu nổ thay cho tiếng pháo ngay từ lúc giao
thừa. Để thực hiện mưu đồ xâm lăng và bất chấp sinh mạng của
người dân vô tội, Hà Nội đã viện dẫn nhiều lý do láo khoét
(1)
để vi phạm hiệp ước hưu chiến khi bất ngờ xua quân tấn công hơn
100 thành phố và thị xã trên khắp lãnh thổ của Việt Nam Cộng
Hòa. Ngày Xuân của truyền thống, ngày thiêng liêng nhứt của Dân
Tộc đã bị bọn quỷ đỏ biến thành cơ hội gây tiếng vang về mặt
quân sự lẫn chính trị. Tết Mậu Thân! Xuân tang thương và cũng là
điềm khởi đầu cho đại họa mà miền Nam sẽ phải gánh nhận sau này!
Nàng Xuân, một lần nữa, lại gượng khoe
hương sắc trong những năm còn lại của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Bài
học Mậu Thân đã làm cho không khí thêm căng thẳng đằng sau bộ
mặt hớn hở đầy màu sắc của phố phường. “Vui Xuân không quên
nhiệm vụ” là thí dụ điển hình nhứt để nói lên tâm trạng bất an
đó. Trong những ngày đầu Xuân Quý Sửu (3/2/1973) ai cũng tưởng
Hòa Bình đã thật sự trở lại trên quê hương miền Nam khi Hiệp
Định Paris được ký kết đúng một tuần trước đó. Nhưng mọi người
đều thất vọng để rồi lại trở về với trạng thái âu lo, mặc dù báo
chí khắp nơi ca ngợi cuộc hòa đàm đã có kết quả như mong đợi.
Cái mà mọi người mong đợi là một nền hòa bình chân chính. Đằng
này, làm sao vui Tết khi mà đám Bắc Bộ Phủ lại cố tình lợi dụng
ngày Xuân để cắm cờ, giành dân, lấn đất ở khắp mọi nơi!? Từ Cửa
Việt (Quảng Trị), Đức Dục, Hiếu Đức (Quảng Nam) Đức Lập, Kiến
Đức (Quảng Đức) Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) cho đến Định Tường, Kiến
Phong, Chương Thiện, chiến cuộc vẫn còn là mối hăm dọa cho nền
hòa bình non trẻ.
Nếu như trận chiến ở Quảng Nam, Quảng
Đức hay trong miền Tây Nam Phần chỉ mang tính cách quấy rối thì
tại Sa Huỳnh, địch đã có âm mưu chiếm đất và cắt đứt giao thông
giữa hai Quân Khu (I và II). Đó cũng là ý đồ của địch nhằm cô
lập vùng duyên hải trung phần của Việt Nam Cộng Hòa. Một khi lọt
vào tay cộng sản, thì Sa Huỳnh sẽ là một phần đất quan trọng về
mặt chính trị, đồng thời cũng là một hải cảng quân sự có tính
cách chiến lược. Thêm một lần nữa, CSBV công khai thực hiện ý đồ
thôn tính miền Nam và đã làm điều này ngay khi văn bản của cuộc
hòa đàm Paris còn chưa ráo mực. Tết Nguyên Đán năm Quý Sửu
(1973) đi vào lịch sử Việt Nam như là một mùa Xuân thanh bình,
nhưng trên thực tế, đó là phần mở đầu cho một vở bi kịch khi
chiến tranh đang tiếp diễn và mùa Xuân vẫn còn đậm nét tang
thương. Không còn gì trơ trẽn và khôi hài cho bằng máu vẫn đổ,
người vẫn phải bồng bế và gánh gồng nhau lánh nạn ngay lúc tin
tức về một nền hòa bình vừa được giới truyền thông công bố trên
toàn thế giới!
Do đó, người dân Việt Nam chỉ còn có
nước... hy vọng! Nhưng hy vọng để rồi tuyệt vọng vì chiến cuộc
lại leo thang khi người lính đồng minh cuối cùng vừa rời khỏi
phần đất của VNCH vào tháng 3/1973. Hai cái Tết cuối cùng là
những mùa Xuân ảm đạm khi VNCH ngậm ngùi nhìn Hoàng Sa rơi vào
tay Tàu Cộng sau một trận thủy chiến lịch sử (19/1/1974) và để
tang cho tỉnh Phước Long khi bị CSVN đánh chiếm đúng một năm sau
đó (1/1/1975). Bỏ qua việc Hoa Kỳ cắt giảm rồi cúp hẳn viện trợ
quân sự cho miền Nam Việt Nam, thì hai sự kiện trọng đại này có
thể xem như là những vết thương trí mạng dẫn tới cảnh VNCH phải
lần hồi lui binh, bỏ đất trong 3 tháng đầu năm 1975. Sau cùng
thì việc gì đến, phải đến: phần đất tự do, tiền đồn ngăn chận
làn sóng cộng sản tại Đông Nam Á mang tên Việt Nam Cộng Hòa biến
mất trên bản đồ thế giới sau gần 21 năm tồn tại! Lịch sử của dải
đất hình chữ S lại sang trang! Trang sử của hai nền Cộng Hòa đã
khép lại vào lúc 11h30 sáng ngày 30/4/1975! Nàng Xuân cũng từ
ngày đó không còn khoe hương sắc trên toàn cõi Việt Nam dù hai
miền đã được gom lại làm một! Bởi vì...
Làm sao vui được khi chỉ sau một thời
gian ngắn, người dân phía bên kia vĩ tuyến 17 đã ngỡ ngàng nhận
ra là mình đã bị nhà cầm quyền cộng sản bịt tai, bụm mắt và lừa
bịp một cách ngoạn mục về chuyện... “giải phóng” miền Nam!? Còn
những người vừa thua cuộc thì lại càng thê thảm hơn khi Nước đã
mất, Nhà đã tan mà còn phải hứng chịu đòn trả thù của phe thắng
trận! Hà Nội trả thù bằng mọi cách và dùng đủ mọi thủ đoạn. Nổi
bật nhứt là việc gom Quân, Cán, Chính của VNCH vào các trại tù
lao động khổ sai từ nam chí bắc, kế đến là vụ đổi tiền, đúng 4
tháng sau khi chiếm được miền Nam. Sau đó là việc đánh tư sản và
bức bách người dân – đặc biệt là gia đình của những ai đã từng
phục vụ trong thể chế Cộng Hòa – phải đi đến những nơi khỉ ho,
cò gáy mà chúng gọi là vùng Kinh Tế Mới.
Mới vừa bị bức tử, thì đã trở thành
nạn nhân của chiến dịch “Vơ, Vét, Về” của Hà Nội, nên chỉ sau
vài năm, miền Nam đã trở thành một cái xác không hồn, một ngôi
nhà trống hoắc với tiền, của lần hồi “bốc hơi” để đổi lấy cơm áo
mà sinh tồn. Gia tài, sự sản của những ai khá giả thì bị tịch
thu khi nhà cầm quyền gán cho cái “tội” là tư sản mại bản, hoặc
chui vào hồ bao của cán bộ từ địa phương tới trung ương để đổi
lấy một chỗ vượt biên bán chính thức, tức là dùng sinh mạng của
chính mình để thử thời vận trên bao la biển cả. Ba thế kỷ trước,
con cháu của Nguyễn Kim còn được Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
tặng cho câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” để xuôi nam
lập nghiệp tại đất Thuận Hóa mà mở ra vương triều của họ Nguyễn.
Còn năm 1975, con dân của thể chế VNCH chỉ biết liều chết vượt
biển để tìm một cuộc sống tự do hơn thay vì ngộp thở trong nhà
tù khổng lồ mang tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thê thảm như vậy
đó!
Vì vậy,
tiếng pháo mừng Xuân năm Bính Thìn (31/01/1976) và những năm kế
tiếp chỉ mang lại hạnh phúc thật sự cho những kẻ trục lợi trên
máu xương của người dân cả nước. Đảng hớn hở cụng ly vì đã đạt
được mục đích. Trong khi đó thì Dân ngậm ngùi tưởng tiếc một
thời ấm no, thịnh vượng hoặc thở dài cho số phận hẩm hiu của
phần đất vừa bị nhuộm đỏ. Miền Bắc bị nhồi sọ bằng những tuyên
truyền có tính cách mị dân của chế độ độc tài toàn trị trong
suốt 30 năm. Còn sau khi rơi vào tay cộng sản, miền Nam đã phải
nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi qua những chính sách trời ơi
đất hỡi của Hà Nội vốn chỉ nhằm mục đích “... đưa miền Nam xuống
để nâng miền Bắc lên về mọi mặt!” Đói, lo, buồn, phẫn hận là
trạng thái tâm lý của người dân khi bị “đỉnh cao trí tuệ của
loài người” vừa siết thòng lọng vào cổ vừa buộc, thắt cả đến bao
tử vốn đã xẹp lép vì thiếu ăn. Đó cũng là cảnh đón Tết trong
thời kỳ – mà bạo quyền Hà Nội gọi là – bao cấp!
Mùa Xuân, hiểu theo nghĩa niềm vui và
hạnh phúc đích thực của đời người, dường như đã không có “duyên”
với Dân Tộc Việt! Trải qua 1000 năm làm nô lệ giặc Tàu, 100 năm
bị giặc Pháp đô hộ, qua không biết bao lần nội chiến và nhiễu
nhương của các thời đại, có khi nào Xuân thắm, đời tươi?! Phải
chăng – theo như Lịch sử đã ghi nhận – Dân tộc Việt chỉ thật sự
thái bình trong 38 năm dưới thời vua Lê Thánh Tôn!? Nếu đúng như
vậy thì con số quả thật là quá khiêm nhường! Là định phận bởi
trời hay vì nhân quả – như theo lời nhiều người yếm thế thường
rên rỉ – mà Việt Nam phải chịu tai ương hồng thủy rồi rơi vào
tình trạng nghèo, đói, tụt hậu so với lân bang? Chắc chắn không
phải như vậy mà là Việt Nam không may bị cai trị trong suốt 80
năm qua bởi những kẻ ngạo mạn với đời, nhưng lại hèn yếu trước
bạo cường phương bắc. Những kẻ “Hèn với giặc, Ác với Dân” đó
chính là Đảng và nhà nước cộng sản VN!
Nhớ xưa, khi đoàn người di cư (năm
1954) đón Xuân xa xứ, thì nỗi buồn lo và tâm trạng ly hương vẫn
còn được vòng tay nồng ấm đầy thạnh tình của chánh phủ và nhân
dân miền Nam ôm ấp, vỗ về. Họ, những người cương quyết lánh xa
bọn cộng sản vô thần, có niềm tin vững vàng vào chánh thể Cộng
Hòa cộng với một niềm hy vọng vào tương lai nhờ ngọn đuốc tự do
soi đường, mở lối. Còn sau 1975, người dân phải lây lất sống và
trở thành những kẻ lưu vong ngay trong đất nước vì những chính
sách ngu dân và độc tài toàn trị của bạo quyền CS. Do đó, những
lần đón Xuân đều kèm theo một nỗi buồn giấu kín tận đáy lòng.
Trong khi đó thì từ bên kia đại dương, những người may mắn sống
còn sau những chuyến vượt biên kinh hoàng trên biển sóng và đã
an cư lạc nghiệp tại xứ người, cũng khắc khoải trong niềm hoài
niệm cố hương, nên mỗi năm họ cứ ngân nga hoài câu
“...
Ngày máu xương thôi tuôn rơi.
Ngày ấy
quê hương yên vui.
Đợi anh về trong
chén tình đầy vơi...
Ước mơ hạnh phúc
nơi nơi.
Hương thanh bình dâng phơi
phới”!
(2)
Đối với Hà Nội, thì những lời này
chẳng khác nào như là những lời châm chích chế độ, kèm theo câu
hẹn hò trong sự mong đợi một ngày mai quang phục, nên phỉ quyền
đã ra sức cấm đoán suốt mấy mươi năm và chỉ cho phép trình diễn
mới lúc gần đây: 2016 mà thôi!
Người dân Việt Nam – trong nước lẫn
hải ngoại – đón Xuân như vậy đó: buồn, nhớ, miên man, vời
vợi...! Cách xa ngàn trùng nên mỗi năm, nỗi đau thầm chỉ tăng
chứ không suy giảm. Lòng đã không an thì tâm làm sao tịnh? Người
đã cách chia thì Xuân chỉ gượng vui hoặc chỉ tạm bợ mặc dù năm
nào, bạo quyền trong nước cũng đều cố khoát lên những bộ mặt đầy
màu sắc, hoa hòe trên mọi phố phường, mọi thôn xóm. Những thứ
này chỉ thu hút được những kẻ ham vui, hay thích không khí sôi
nổi, náo nhiệt tại quê hương. Trong khi đó thì đa số những người
tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại đều hướng lòng về tổ quốc, qua
những sinh hoạt mừng Xuân có tính cách cộng đồng như chợ đêm,
diễn hành cộ hoa, biểu diễn văn nghệ, múa lân, đốt pháo, v.v. để
thỏa lòng hoài vọng cố hương. Chắc chắn những người phải ngậm
hờn qua ải nơi quê nhà – dù đang hít thở của Đất, Trời đang mở
hội – cũng man mác và bùi ngùi không kém.
Xuân đến muôn nơi. Xuân mang nét đẹp
thiên nhiên hòa vào hạnh phúc nội tại của con người. Xuân làm
cho người ta yêu đời vì mang lại gương mặt trẻ trung cho vạn
vật. Nhưng với những người “xa quê hương nhớ Mẹ hiền” và những
ai còn bí rị trong nội địa, thì Xuân có gì vui khi mọi thứ đều
bỏ lại sau lưng, hoặc đã là quá khứ!? Với những người đã, hoặc
sắp thành... “đồ cổ”, thì mỗi độ Xuân về là một lần mênh mang
niềm nhớ, là ray rứt khôn nguôi về những dấu ái đã nhạt nhòa.
Xuân xưa đã là kỷ niệm. Có chập chờn giữa đôi bờ đại dương hay
lãng đãng đâu đó trong tâm hồn lãng tử thì cũng là Xuân! Tuy
vậy, trên quê hương sẽ có ai đó hỏi:
“Em ở
nơi nào? Có còn mùa Xuân không em?”
(3),
còn nơi tha phương cũng có người bâng
khuâng và trĩu lòng trong lúc đón chờ năm mới:
“Ở đây
không có hoa Mai,
không có hoa Đào
trang điểm trần ai...
Chỉ thương em gái
quê hương
trong sớm Xuân hồng thiếu hẳn
người thương...”
(4).
Người đó là tôi, một kẻ lưu vong đang
đón chờ Xuân qua màn sương tuyết và mượn hương lòng nâng ly cà
phê thay rượu, rồi trầm ngâm buông tiếng thở dài
“...
Ôi nhớ xuân nào thưở trời yên vui.
Nghe
pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi...”
(5)
Trên quê hương, ngay lúc này đây, chắc
hẳn cũng có nhiều người đang chìm đắm trong trũng buồn vì qua
hơn 40 năm, vẫn là một cái Tết chia phôi, một mùa Xuân ly tán,
một nỗi đau thầm. Xuân ở nơi nào và vì đâu nên nỗi?!
HUY VĂN
Tác
giả chú thích:
(1) Trích từ Wikipedia (https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n):
Ngày 16/12/1967, chính quyền Sài Gòn tuyên bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng rằng Quân lực VNCH và Hoa Kỳ sẽ
ngừng bắn trong 48h từ 00h00 ngày 30/1/1968 đến 00h00 ngày
01/02/1968. [29] Tuy nhiên, tuyên bố ngừng bắn của Việt Nam Cộng
hòa đã sớm bị Hoa Kỳ ra lệnh hủy bỏ. Trước sức ép của Hoa Kỳ,
chính quyền Sài Gòn đã rút ngắn thời gian đơn phương ngừng bắn
xuống còn 36 giờ. Cụ thể, ngày 21/01/1968, cả Hoa Kỳ và VNCH
cùng tuyên bố ngừng bắn đơn phương từ 18h00 ngày 29/1/1968 đến
06h00 ngày 30/1/1968. [30]
https://en.wikipedia.org/wiki/Tet_Truce)
(2) LY RƯỢU MỪNG – Phạm
Đình Chương 1952
(3)
NHỚ NHAU HOÀI. Thơ Thiên Hà, ra đời tại xóm
Vườn Chuối (Quận 3, Sài Gòn) trong mùa Xuân 1966. Anh Việt Thu
phổ nhạc.
(4)
MÙA XUÂN LÁ KHÔ – Trần Thiện Thanh
(5)
XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ – Trịnh Lâm Ngân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
|
Hình nền: Xuân trên non-Rặng An-pơ, Thụy Sĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by hv chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
January 18, 2020
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang