Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Huỳnh Văn Của
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Rồi cũng qua hai ngày nôn nao, pha lẫn hồi hộp. Một ngày viết
bản tường trình cá nhân buổi sáng, họp với quản giáo và ban quản
trại buổi chiều. Ngày thứ nhì nhận quần áo, lương thực, lộ phí đi
đường, giấy “Phóng Thích” và nghe “giảng” lần cuối. Sáng nay, 40
tù tàn binh được tập họp để cán bộ kiểm tra hành lý, mục đích là
moi tìm xem có thư từ của bạn đồng cảnh nhờ mang về hay không.
Cũng may là họ chỉ xét hành trang, không xét người, nên lá thư
tay viết vội của bạn đồng cảnh Dương Hồng Phong, vẫn bình yên nằm
dưới bàn chân.
Vừa ra khỏi cổng là không ai hẹn ai,
tất cả đều quay lại nhìn nơi mình vừa rời bỏ. Vài nụ cười kèm
tiếng thở phào... nhẹ nhõm! Không có lời xì xào hay câu trao đổi.
Im lặng! Nhưng không phải là sự im lặng của lo lắng, sợ sệt, hay
của lòng cam chịu; như khi lần đầu bị lùa vào trại lao động khổ
sai, mang mỹ từ “cải tạo”, mà là thứ im lặng để tận hưởng tự do,
cho dù chỉ là thứ tự do tạm bợ; vì trong tờ giấy phóng thích có
ghi câu “địa phương chịu trách nhiệm quản lý và giáo dục”....
Nhưng đó là chuyện của tương lai, còn hiện tại thì chúng tôi đã ở
bên ngoài vòng rào của nơi có bộ đội CS ngày, đêm ôm súng đứng
trên chòi gác.
Toàn cảnh của Trại 4, Tổng Trại 1,
thuộc Quân Khu 5 CS, nằm im lìm tắm nắng. Hai dãy “nhà”, nằm hai
bên sân bóng chuyền, cũng là sân cờ và nơi tập họp ngoài trời.
Mỗi bên sân có 10 căn, mỗi căn 25 người. Hôm nay 1/5 “cư dân” sẽ
rời trại. Một ngày tuyệt đẹp và cũng là một ngày hăm hở, nôn nao
pha lẫn thoáng bùi ngùi của 40 người đang bước dần ra khỏi trại.
Cả năm gắn bó với nhau suốt từ các trại tù Hội An, Hòa Cầm rồi
lên đến miền núi Hiệp Đức này, đủ làm chúng tôi quyến luyến khi
chia tay với bạn bè đồng cảnh.
Mặc dù những gì cần nói đã nói hết từ
hôm qua, nhưng giờ đây tôi lại có cảm giác mình chưa nói được tất
cả những gì còn chất chứa trong lòng. Họ, những đồng cảnh còn
phải trả nợ đời trong ngục tù khổ sai; chắc chắn cũng bồi hồi và
nôn nao không kém, vì rốt cuộc cũng đã có tia hy vọng ở cuối
đường hầm, khi đã có người được thả về đoàn tụ với gia đình. Đây
là đợt phóng thích thứ nhì, sau lần thả tù đầu tiên vào dịp Tết,
chỉ mới hơn một tháng trước mà thôi.
Giã từ đồng cảnh! Chia tay hôm nay mai
này có thể sẽ không có cơ hội gặp lại nhau. Bất giác lòng tôi bồi
hồi dấy lên một niềm thương cảm rất nghẹn ngào. Dù sao thì nơi
đây cũng đã từng chứng kiến những nhục nhằn mà tù tàn binh đã
trải qua. Làm sao quên được những ngày phá rừng, cuốc rẫy dưới
ánh nắng nung người, hay trong cơn mưa tầm tã. Đói lạnh run người
mà vẫn phải “lao động tốt”, để khỏi nghe những lời sỉ vả của mấy
tên bộ đội nhóc con kè kè súng chĩa ngang hông. Lệ thương thân,
khóc đời cùng tận, hay mồ hôi pha hạt mưa nhòa, mà mắt bỗng cay
xè thả vị mặn xuống môi?! Là con người hay nô lệ?! Là ngoại chủng
hay đồng bào mà những dằn vặt, dày xéo, tra tấn tinh thần lẫn thể
xác, cứ ngày đêm phủ chụp lên những tàn binh, giờ đã thành tù lao
động khổ sai?!
Họ muốn gì khi rừng kế bên không cho
mót củi, đốn cây; mà lại bắt tù phải lội vào hang sâu, núi thẳm,
nơi đã từng là bản doanh của Sư Đoàn 711 CSBV (đã bị Sư Đoàn 2BB
và Biệt Động Quân xóa tên mấy năm trước) để phá hầm, dỡ xà, gỡ
cột vác về trại dựng nhà hay để dành chụm bếp?! Nếu đường đất lầy
lội làm tù tàn binh té lên, té xuống chưa đủ làm cho kẻ coi tù
thích chí, hả hê; thì màn lên núi cột mấy thớt gỗ thả xuống suối,
rồi từng hai người một, kẻ đẩy, người kéo để chuyển gỗ về trại,
chính là bằng chứng hiển nhiên cho sự trả thù của “bên thắng
cuộc”.
Trời
vào Đông, nước lạnh bầm da, tái thịt mà tù tàn binh ai nấy đều
lưng trần, xà lỏn, chân không, đạp đá sỏi mà đi, còn đôi dép thì
được xỏ dây cẩn thận đeo trên vai để lội nước cho dễ. Nước uống
thì đã có suối, còn hai nắm cơm mang theo chưa tới chỗ, đã không
còn một hột. Hành trình bao xa không rõ, nhưng sáng tù tàn binh
rời trại khi mặt trời tháng 12 chưa kịp ấm, chiều về đến nơi thì
cũng vừa tắt nắng. Giao gỗ cho quản trại xong, là ai nấy đều lo
xuống nhà bếp ngồi sưởi cho ấm, rồi bỏ cả ăn để ngủ cho đã vì quá
mệt sau một ngày làm bạn với... hà bá.
Cũng may là rừng núi còn thương người
khốn cùng nên đọt dương xỉ, lá tàu bay, lá vang và nhứt là rau
má, thì hầu như nơi nào cũng có. May mắn cho chúng tôi là vì muốn
hành xác những người từng là kẻ thù của mình, nên chúng cứ bắt
chúng tôi hết leo núi, lên rừng rút mây, tới gánh gạo, gánh gỗ
tận trong vùng Phước Sơn hẻo lánh; nên mọi người mới có dịp sà
vào mấy bụi rau má ven đường, bất kể lời hối thúc, hăm dọa hay
nạt nộ của bộ đội coi tù; khi chúng tôi bỏ gánh để quơ, bứt cho
đã tay rồi mới tiếp tục lên đường.
Những luống rau lang trồng ngay bên
ngoài khu trại cũng được để ý rất tận tình, lén lút, hoặc công
khai (nhờ toán lao động nhẹ, ngắt đọt mang về chia nhau ăn). Cả
khoai mì và cà chua trồng ngay sau “nhà” cũng không kịp ra củ hay
trái để giúp tù tàn binh có thêm chất rau tươi qua ngày. Cứ vậy
mà nén lòng, cam phận, để chấp nhận hoàn cảnh và chịu đựng khổ
hình để gượng sống, rồi hy vọng vào một ngày... như hôm nay!
Nhắc đến cái ăn, mới thấy thấm thía cơn
đói của những người “tù binh thời đại” còn tàn độc hơn cả roi
đòn, hay bất cứ hành vi thô bạo nào khác. Cơn đói làm cho người
tù lả người vì kiệt lực, nhưng đồng thời nó cũng làm tinh thần
suy sụp và lụn bại đến tận cùng bằng số. Mỗi ngày ăn 3 bữa! Nhưng
mỗi bữa chỉ nửa chén cơm lưng, chan nước muối hoặc mắm cá lấy
nguyên xi từ thùng thiếc chiết ra.
Đói quá nên con gì nhúc nhích là chúng
tôi chộp bắt để ăn. Rắn rết, cóc nhái, chuột núi là cao lương mỹ
vị. Dế, thoạt đầu là mồi bắt chim khướu, sau trở thành nguồn đạm
đỡ lòng. Vào rừng sâu rút mây, đốn gỗ mà gặp được tổ ong thì
chẳng khác nào tìm được đống vàng. Nhấm nháp chút mật trên miếng
sáp cũng đủ “phê”; nói chi đến chuyện bỏ nguyên chú ong con vào
miệng, để thấy chất đạm pha với mật ngọt tuyệt vời đến mức không
thể tả thành lời, nhứt là với những người tù ốm đói.
Chúng, những kẻ say sưa trên (cái là
gọi là) “chiến thắng lịch sử” cứ ngày đêm đòi dạy cho kẻ thất thế
những bài học lịch sử và lao động. Nhưng lịch sử thì chỉ quanh
quẩn ba mớ giáo điều, hoặc tuyên truyền phóng đại, còn lao động
thì chỉ sau vài tháng phá rừng, cuốc đất, đốn cây; thì trại tù
trở thành một công viên với đủ loại hoa tìm được trong rừng mang
về trồng trước “nhà” hay treo, máng bên trong. Lồng chim để nhốt
khướu thì hầu như từ nhà 1 đến 20, nhà nào cũng có một, hai lồng
ngay trước cửa để nghe hót thật sướng tai.
Dần dà cán bộ trại cũng lân la “xin”
chúng tôi vài cái lồng chim, mang qua bên kia vòng rào để nghe
hót cả ngày cho thỏa thích. Cũng vậy, điếu cày – loại làm bằng
ống tre – vốn là vật bất ly thân của bộ đội CS miền Bắc, đã trở
thành sản phẩm thời thượng được cai tù và bộ đội đặt hàng dài
dài, cho tù tàn binh có việc để làm. Lý do là vì điếu cày do tù
tàn binh bỏ công chăm chút gọt, đẽo, “nổ” lớn hơn, trông kiểu
cách hơn. Thậm chí có người còn khắc, chạm những hình ảnh đẹp
mắt, đã khiến cho đám “nón cối” và quản giáo đặt hàng không ngớt.
Ngay lúc đó “kẻ chiến thắng” đã mở mắt, nhưng vẫn không muốn (hay
không dám) nhìn nhận tù tàn binh miền Nam rõ ràng là hơn hẳn họ
về mọi mặt!...
Mải mê đắm mình trong suy tưởng mà
chúng tôi đã ra tới bến xe của quận Hiệp Đức từ lúc nào không
biết. Nói là bến cho thuận miệng; chứ thật ra đó chỉ là một bãi
đậu xe trơ màu đất đỏ với duy nhứt hai gian nhà; căn có nóc là
nơi bán vé, còn gian nhà kế bên là khu chờ đợi với lưa thưa vài
băng ghế đóng tạm rất sơ sài. Chỉ không đầy nửa giờ là ba chiếc
xe đò Renault của thời Pháp – loại xe chạy liên tỉnh thường được
gọi là xe đò lỡ (camionette), phía sau có một tấm bửng để thêm
người đeo, vịn – rề rà tách bến để đưa đợt tù sau cùng ra khỏi
quận. Xe cổ lỗ sĩ, người đông, chật chội đến ngộp thở nên một số
trong chúng tôi leo lên mui ngồi cho thoáng mát.
Lại thêm một thoáng bùi ngùi khi nhìn
lại phía sau lưng, nơi chập chùng nhấp nhô của màu xanh rừng núi.
Hôm “nhập trại” trời mưa trút nước. Xe chở tù đóng bạt kín mít và
cai tù thì lăm lăm khẩu AK trên tay, sẵn sàng nhả đạn. Hôm nay
thì trời mây quang đãng như muốn đón mừng những người vừa hưởng
chút “không khí tự do”. Một thứ tự do tạm bợ bởi thân phận đích
thực của chúng tôi chỉ là một phó thường dân, không hơn, không
kém.
Liên tỉnh
lộ 535 nối các quận miền núi Quế Sơn, Hiệp Đức với đồng bằng và
vùng biển phía đông của tỉnh Quảng Nam đã hoang phế từ lâu, nên
lồi lõm đất đá và loang lở hết mức. Xe chạy như rùa bò, dằn xóc
liên tục nhưng hình như không ai sốt ruột. Chúng tôi im lặng nhìn
quanh như muốn thu hết cảnh vật của Trường Sơn sau những tháng
ngày chỉ biết có núi và rừng. Thỉnh thoảng chỉ có vài câu trao
đổi bâng quơ cho có chuyện để nói. Hầu như ai cũng mang một vẻ
đăm chiêu, tư lự rất xa xăm.
Có lẽ ai cũng chung một tâm sự như
nhau, khi niềm vui sắp được sum họp với gia đình, đang dần dà
nhường chỗ cho nỗi lo lắng về một tương lai nhiều bóng tối hơn
ánh sáng; khi biết rằng mình vừa ra khỏi nhà tù nhỏ để bước vào
loại một loại tù ngục bao la hơn và u tối hơn nhiều. Thì thôi
cũng đành! Cuộc đời đã bị đóng khung từ khi nước mất, nhà tan nên
làm gì cũng phải ngậm hờn qua ải. Đã qua được thử thách ban đầu,
thì từ hôm nay trở đi cuộc sống có cơ cầu cách mấy, cũng còn có
gia đình để nương tựa, có bè bạn và đồng cảnh để ủi an và biết
đâu... “không lẽ ta cứ mãi thế này?!”
Rồi cũng ra đến ngã ba Thăng Bình! Quận
miền biển nhưng sinh hoạt thị tứ thì lại nằm ngay trên quốc lộ 1.
Thăng Bình, quận cực bắc của Quảng Tín ngày xưa vốn nhộn nhịp,
sầm uất, nay cũng còn nét rộn ràng của một khu kinh tế hàng đầu
của vùng biển Quảng Nam; mặc dù hoạt cảnh có phần thu gọn vào
trong các hàng quán dành cho bộ hành và xe cộ trên các hành trình
xuôi Nam, ngược Bắc.
Xe chưa kịp vào bến là chúng tôi đã lũ
lượt leo xuống để rảo chân đến các quán cơm bình dân ngay ngoài
quốc lộ. Bữa cơm đích thực đầu tiên sau một năm cuốc rẫy, phá
rừng sao mà ngon hết biết! Ly cà phê và điếu thuốc có đầu lọc
hiệu President “phê” không kém gì “tép” thuốc lào đầu tiên trong
đời. Hình như không hẹn mà nên, ai cũng muốn tận hưởng chút hạnh
phúc đơn giản mà nồng nàn này đến mức tối đa.
Đến bây giờ mới có tiếng rì rào bên câu
chuyện trao đổi về việc ai vào Nam, ai ra Bắc. Hiếm hoi lắm mới
có người trong Nam kẹt lại như Trần Ngọc Dũng và tôi, nên đa số
đều hẹn gặp tại Đà Nẵng, hay trong Tam Kỳ, hoặc Quảng Ngãi. Trong
bốn người gắn bó với nhau suốt từ khi có tin được phóng thích,
thì anh bạn “Trâu Điên” Trần Ngọc Dũng nhứt định “... Càng về gần
Sài Gòn bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu!” nên sau bữa ăn là Dũng hăm
hở bắt tay từ giã chúng tôi rồi vọt nhanh ra Quốc lộ 1, để bắt
kịp một chiếc xe đò vừa thả người xuống và lấy khách dọc đường.
Chia tay với Dũng “móm” mà trong lòng
cũng thấy buồn buồn. Lẽ ra hai đứa nên đi chung với nhau về Sài
Gòn cho có bạn, nhưng dù sao thì tôi cũng đã gắn bó với đơn vị
suốt hơn 15 tháng tại hậu cứ ở thôn Phú Lộc, xã Hòa Minh; cùng
với bao lần ngược xuôi phố phường Đà Nẵng khi được về dưỡng quân,
nên vẫn còn những lưu luyến thật sâu lắng trong lòng.
Tình cảm cả ngày hôm nay thật khó diễn
đạt cho đúng với tâm trạng còn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng Sài Gòn thì
trước sau gì cũng sẽ là chốn nương thân dài hạn, còn Đà Nẵng thì
chỉ cách vài chục cây số. Không trở lại thăm chốn xưa, thì mai
này biết bao giờ mới có dịp nhìn lại khung trời kỷ niệm và để nhớ
một thời giày saut, áo trận?! Vì vậy, tôi quyết định cùng với hai
bạn gốc Quảng Trị đón xe ngược Bắc. Hôm đó là ngày thứ Bảy
20/03/1976!
HUY VĂN(HVC)
(Ngày Ra Trại/Cuộc Hành Trình)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Huy Văn chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, February 24,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang