Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Huỳnh Văn Của
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Chiếc xe đò liên tỉnh chậm rãi rời bến Thăng Bình, quẹo
trái trên quốc lộ 1 rồi
ngược bắc, chạy về hướng Đà Nẵng. Quang
cảnh ven đường không có gì khác lạ sau một năm thay đổi chủ,
nhưng có vẻ lắng trầm hơn xưa, khi xe cộ thưa thớt và không còn
cảnh tất bật cuối ngày như trước đây. Nắng chưa thẫm màu. Chiều
đang xuống chậm. Gió lùa vào xe, rười rượi mát. Chúng tôi lại im
lặng. Từ lúc chia tay với Trần Ngọc Dũng, cả ba chúng tôi càng
thêm ít nói, mặc dù trong lòng thì ngổn ngang muôn ngàn mối.
Anh em Nguyễn văn Bôn, Nguyễn Văn Tài
thiu thiu nhắm mắt; còn tôi thì nhìn bâng quơ ra phía trước, lòng
nao nao một cảm giác vui, buồn lẫn lộn. Khi rời khỏi trại tù của
núi rừng Hiệp Đức, chắc chắn người nào cũng nhận vài mảnh giấy
nhắn tin, nhờ chuyển cho gia đình, hay thân nhân của bạn bè và
chiến hữu đồng cảnh còn ở lại. Tôi trở ra Đà Nẵng thay vì cùng
với anh bạn gốc Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên TQLC xuôi nam, để sớm về
tới Sài Gòn. Ngoài việc trao thư của anh rể một người bạn cho vợ
con anh ấy, thì tôi muốn thăm lại thành phố mà tôi gắn bó hơn một
năm, trước khi tức tưởi tan hàng.
Cảm giác nôn nao biến thành tâm trạng
não lòng, khi xe quẹo phải trên ngã ba Huế; để rồi lại càng ray
rứt hơn, khi chiếc xe đò chậm rãi lướt qua khu cư xá Đoàn Kết và
ngã ba Cây Lan, trước khi vào bến. Chiều chưa vàng nắng mà đã
thấy bóng dáng u hoài của một thành phố đô hội, mới một năm trước
còn là biểu tượng về nhiều mặt của miền nam tự do.
Sinh hoạt tại bến xe đã không còn mang
dấu vết của thời phồn thịnh. Bây giờ, mọi thứ đều như uể oải và
gượng gạo, mặc dù hôm nay là một ngày thứ bảy. Ngày của những háo
hức náo nhiệt trong sinh hoạt cuối tuần của Đà Nẵng trước đây, đã
nhường chỗ cho một khung cảnh ảm đạm đến mức tội nghiệp. Tôi chia
tay với anh em Tài, Bôn sau lời hẹn gặp lại tối nay tại góc đường
Nguyễn Thái Học và Hùng Vương, rồi rảo chân hướng về Cầu Vồng, để
ghé qua đường Nguyễn Hoàng.
Bước chân, tưởng chừng như hăm hở, bỗng
dưng trì trệ rất lạ thường. Đi tới đâu cũng thấy lá cờ đỏ sao
vàng treo đầy đường và loa phát thanh thì ngang qua khu phố nào,
cũng nghe ầm ĩ những giọng điệu tuyên truyền có bài bản y hệt
nhau. Bỗng dưng quang cảnh phố phường trở thành nhạt nhòa và lắng
đọng như trong một khúc phim chiếu chậm. Âm thanh nghe như vọng
lại từ một nơi rất xa xôi nào đó, còn màu sắc thì nhòe nhoẹt như
đang chập chờn trước mắt.
Tôi có cảm giác như thời gian vừa đứng
lại khi ánh mắt vô hồn dõi theo từng nhân ảnh, hay cảnh vật. Mọi
thứ đều lần lượt diễn biến thật chậm ngay trước mặt. Chân bước mà
lòng nặng như treo đá. Vật đổi, sao dời, nên lòng người cũng
chùng theo nghịch cảnh!
Đúng là bước chân vô hồn! Vì từ lúc nào
không biết, tôi đã thấy mình đứng ngay trước căn nhà mang số 47
trên đường Nguyễn Hoàng. Cổng không cài then, nên tôi thư thả
bước qua khoảng sân nhỏ; lúc trước trông rất đẹp mắt vì được chăm
sóc cẩn thận, còn bây giờ thì xác xơ cây cảnh. Chưa gõ thì cửa
nhà đã mở. Chị Nhạn nhìn tôi, giọng run run:
– Đúng là em rồi. Mừng quá! Vào nhà rồi
hãy nói!
Tôi
bước vào trong. Cảm giác đầu tiên là nhận ra ngay sự trống trải
của phòng khách. Bắt được tia nhìn của tôi, chị Nhạn cười buồn:
– Bán bớt những thứ không cần thiết. Cứ
vậy mà đắp đổi qua ngày. Khi nào anh Dũng về thì tính sau.
Chị Nhạn nhận thư nhưng không đọc ngay,
mà chỉ để trên bàn rồi liên tục hỏi thăm về sức khỏe và tinh thần
của chồng mình, cùng những chuyện liên quan tới cảnh lao động khổ
sai trong lao tù cộng sản.
Sau đó là những thông tin về sinh hoạt
gia đình của chị và tin tức của Quảng, bạn tôi. Chị cho biết bạn
còn “trả nợ đời” trong trại 2, cũng thuộc tổng trại 1 tại vùng
Hiệp Đức.
– Nó
lì lắm! Chị Nhạn chắc lưỡi. Thư gửi về cho ba mẹ chị lúc nào cũng
chỉ có mấy chữ “... Con vẫn khỏe. Nhờ ơn cách mạng nên con được
lao động đều đều. Thường xuyên được theo dõi, chiếu cố và chăm
sóc rất tận tình. Ba mẹ đừng lo cho con!” Kiểu nó viết như vậy ai
mà không lo lắng. Mẹ cứ đòi đi thăm. Ba và chị cản muốn hết hơi
mẹ mới xiêu lòng đó em!
Hàn huyên một lúc, chị Nhạn đưa tôi qua
phòng của Quảng. Mọi thứ đều như lúc chúng tôi nằm đốt thuốc,
nghe nhạc cho qua ngày giờ, khi Đà Nẵng lọt vào tay cộng sản. Chỉ
có mấy tấm ảnh của bạn chụp lúc còn trong quân trường và khi ở
ngoài đơn vị là...
– Chị đã cất giấu kỹ lắm! Mọi thứ hình
ảnh và giấy tờ khác của anh Dũng cũng vậy. Kỷ niệm mà em!
Chị Nhạn nhìn lá thư tôi mới trao, nén
tiếng thở dài, rồi nói tiếp:
– Đêm nay ở lại đây nghe em. Út Hương
và hai cháu gặp em thì sẽ mừng lắm!
Tôi dạ rồi cho biết là cần phải qua
Trần Cao Vân ngay, để thăm gia đình Trần Hiền, cũng là bạn học
cùng lớp của Quảng.
– Thì em cứ đi. Nhưng nhớ về ăn cơm tối
với chị nghe!...
Con đường qua Tam Tòa không xa. Chẳng
mấy chốc, tôi đã đứng trước tiệm ảnh khiêm nhường tại số 38 đường
Trần Cao Vân của gia đình người bạn thời trọ học trên Đà Lạt,
kiêm chiến hữu thuộc Tiểu Đoàn 21 BĐQ. Thuận, cô em kế của bạn
tôi vừa gặp là đã buông giỏ đi chợ, để ôm choàng lấy tôi mà khóc,
rồi mới kéo vào nhà. Mọi người đều có mặt để cùng tíu tít hỏi
thăm chuyện lao tù.
Nhìn ba mẹ của bạn mà thấy nhớ ba má
tôi quá đỗi. Gia cảnh và hoàn cảnh của chúng tôi giống nhau như
khuôn đúc. Chúng tôi đều là anh cả, đều dấn thân để đứa em trai
được hoãn dịch gia cảnh; đều có em gái kế đã lập gia đình, chỉ
khác một điều là Ngoạn, chồng của Thuận làm nghề chụp ảnh và có
tiệm hình nho nhỏ ngay trong nhà ba mẹ vợ, còn cô em kế của tôi ở
bên nhà cha mẹ chồng và em rể tôi thì phục vụ trong bộ Tư Lệnh
Hải Quân.
Gia
đình Trần Hiền xem tôi như con. Những ngày chờ bị gom đi “trả nợ
quỷ thần” thì tôi tá túc ở đây. Còn bạn – sau khi theo Bộ Chỉ Huy
BĐQ/QKI di tản vào Sài Gòn – đã đến ở với gia đình tôi cho đến
khi cả nước rơi vào tay cộng sản. Bạn từ Sài Gòn tìm cách về lại
Đà Nẵng, để rồi bị đưa vào một trại lao động khổ sai nào đó trong
vùng núi Tiên Phước của tỉnh Quảng Tín.
Câu chuyện hàn huyên dẫn đến những thở
than não lòng, khi mọi người đều than thở về hoàn cảnh hiện tại
và tiếc nuối cho thời vàng son của nền cộng hòa son trẻ tại miền
nam. Cuộc sống phập phồng trong lo nghĩ về tương lai vô định,
cộng thêm những cặp mắt cú vọ cứ rình rập ngày đêm của an ninh
khu vực; hoặc của đám cờ đỏ “ăng ten”, càng làm dân chúng thêm
lặng hơi, kín tiếng và đâm ra nghi ngờ tất cả những ai không phải
là thân thuộc hay họ hàng.
– Người già như hai bác còn dễ thở một
chút. Chứ mấy đứa nhỏ như thằng Nam hay con Vy, thì hầu như tối
nào cũng bị kêu đi sinh hoạt thanh niên. Sinh hoạt gì chứ!? Cả
ngày nghe tụi nó nhồi sọ và tuyên truyền thì có!
Mẹ của Trần Hiền chép miệng thở dài sau
câu nói. Ngoạn, chồng của Thuận cũng không giấu nỗi ưu tư khi kể
đến công việc sinh nhai của gia đình.
Trước đây tiệm hình của hai vợ chồng
tuy nhỏ, nhưng cũng đủ để lo cho cả nhà. Bây giờ thì chụp ảnh đã
trở thành một sinh hoạt trưởng giả không hơn không kém; nên cũng
như chị Nhạn, cả gia đình của bạn tôi phải thắt lưng buộc bụng.
Những thứ còn giá trị trong nhà cứ lần lượt ra khỏi cửa để có
tiền đong gạo...
Tôi rời nhà Trần Hiền mà trong lòng
muộn phiền quá đỗi. Chia tay hôm nay biết mai này còn có dịp gặp
lại gia đình của bạn nữa hay không!? Bước chân tư lự đưa tôi qua
đường Ông Ích Khiêm, rồi vòng xuống Chợ Cồn. Hãy còn sớm để về
nhà ăn cơm tối với chị Nhạn, nên tôi chợt nảy ra ý định lên xe
Lam về Hòa Khánh để vào thôn Phú Lộc thăm lại nơi đã từng là
doanh trại của Liên Đoàn 12 BĐQ cùng chiếc quán có tên Hương Xưa
– nằm ven quốc lộ 1 – vốn là nơi gặp gỡ của những tâm hồn văn
nghệ không phân biệt màu áo trận của xã Hòa Minh. Đang còn rảo
bước giữa đám đông xuôi ngược, thì có người bỗng chắn ngang trước
mặt, nhìn tôi một thoáng rồi reo lên, giọng mừng rỡ:
– Đúng là ông rồi...!
Tôi nhận ra ngay Quý “đen”, người khinh
binh kỳ cựu của Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Đúng là anh chàng có
nét da sậm màu như dân Nam Mỹ, một thời tung hoành ở khu Đường
Rầy của thành phố Đà Nẵng. trước khi vào lính. Quý “đen” cũng đã
từng gia nhập băng “Người Dơi” – một tổ chức chuyên cho người
phóng lên xe “lô bồi” của quân đội Hoa Kỳ – để lôi hàng ném xuống
đường cho đồng bạn tẩu tán.
Anh chàng cũng là người đã từng thoải
mái “đệm” một tiếng, rồi phán ngay một câu xanh dờn: “... Nhìn
tướng ông như vậy thì lính nào mà sợ ông chứ?! Nhỏ xíu như vậy mà
lại cận thị thì làm sao đánh đấm!?...” hôm tôi nhận trung đội tại
Phong Thử, thuộc quận Điện Bàn, vào một ngày đông giá rét của
Quảng Nam cuối năm 1973.
Tôi chưa kịp nói gì, thì Quý “đen” đã
một tay dắt chiếc xe đạp; tay kia nắm tay tôi, kéo vào con hẻm
gần đó, vừa đi vừa nói:
– Vô nhà cái đã! Ngoài này không tiện
nói nhiều. Gặp lại ông thiệt là mừng quá!
Đến lúc này tôi mới nhận ra khu phố
khiêm nhường nằm ngay bên cạnh Chợ Cồn và con hẻm có khá nhiều
nhánh len lỏi chằng chịt qua những con đường lân cận. Xóm lao
động sau một năm xáo động theo thời vận vẫn không có gì thay đổi.
Vẫn là những ngôi nhà nhỏ, thấp, nằm
san sát nhau như thể cần phải nương nhau mà sinh tồn. Buổi chiều.
Hẻm vắng. Người lưa thưa qua, lại trong xóm. Dường như ai nấy còn
đang tất tả mưu sinh đâu đó, nên nhà nào cũng có vẻ thầm lặng
và... ảm đạm.
– Bà xã và con gái em còn buôn bán ngoài đó. Lát nữa mới về.
Quý “đen” vừa rót nước, vừa nói.
– Thôi đừng xưng em nữa anh Quý! Dù sao
anh cũng lớn tuổi hơn tôi...
– Quen rồi thiếu úy! Lính mà! Xưa hay
nay cũng vậy thôi!
– Nhưng nay thì khác. Anh gọi như vậy
kẹt cho tôi.
–
Tôi hiểu rồi! Vậy thì gọi bằng anh!... Anh mới “về” phải không?
– Mới “về” ngày hôm nay.
Tôi đáp, rồi kể sơ cho người thuộc cấp
cũ nghe những gì xảy ra cho tôi sau khi Đà Nẵng rơi vào tay bắc
quân và những truân chuyên trên núi rừng Hiệp Đức. Khi hỏi thăm
về những đồng đội thuộc Tiểu Đoàn 37 BĐQ và tin tức của những vị
khác trong Liên Đoàn 12 BĐQ thì “cột nhà cháy” lắc đầu, thở dài:
– Những ngày cuối, lúc từ Quảng Tín
chạy về; tôi có thấy anh ghé qua hậu cứ, nhưng chưa kịp chào hỏi
thì ông và ông Thiếu úy Vân kéo nhau đi nhậu mất tiêu. Lúc đó Đại
úy Vương của mình đã nằm trong bệnh viện Duy Tân, còn Đại Đội 3
thì do một ông bên Liên Đoàn đưa qua chỉ huy, chứ không phải
Thiếu úy Vân của mình lên thay. Mấy ngày đó lộn xộn lắm. Mạnh ai
nấy vọt về lo cho cho gia đình. Thậm chí ở nhà luôn. Cả năm qua
tôi không gặp lại ai. Sĩ quan thì khỏi nói! Mấy ông bị tụi nó
“gom bi” cả rồi. Sau khi mình tan hàng, thì mấy đứa độc thân, như
thằng Thanh “máy”, hay tà lọt của ông là Hồ Viết Sành cũng biệt
tăm. Chắc là tụi nó về quê làm ruộng, làm rẫy. Ở lại đây chỉ có
nước chết đói. Mấy đứa như tôi, thì ai có gia đình là phải chạy
gạo đầu tắt mặt tối. Cái gì cũng làm hết! Đan mây tre, phụ hồ,
phụ mộc, khuân vác mệt nghỉ! Nhưng gần đây thì tôi bon chen ngoài
chợ trời, còn hai mẹ con nó thì bán cà phê vỉa hè và thuốc lá lẻ
ở đầu chợ, ngay góc đường Hùng Vương. Nhờ Trời cũng đắp đổi qua
ngày!
Đến đây
thì Quý “đen” chợt reo lên:
– Phải rồi! Để tôi gọi mẹ nó về sớm làm
cơm ăn! Bả gặp lại thiếu... chắc sẽ mừng ghê lắm!
– Thôi đừng!
Tôi cản anh ta lại, rồi kể chuyện có
hẹn với hai anh em Bôn, Tài, chưa nói tới việc chắc chắn tôi phải
thất hứa với gia đình Trần Hiền; vì không có nhiều thì giờ để đáp
trả thạnh tình của hai, ba nơi cùng một lúc, nhứt là đã hẹn với
chị Nhạn sẽ về ăn tối với mấy mẹ con và cô em út của bạn tôi. Sau
cùng, tôi cũng không giấu ý định muốn ra Chợ Cồn, để tìm bến xe
Lam vào Hòa Khánh thăm lại doanh trại cũ của Liên Đoàn 12 BĐQ.
Nghe vậy, Quý “đen” trợn mắt:
– Vào đó làm gì nữa! Đã thành doanh
trại của đám nón cối lâu nay rồi ông ơi! Đi làm gì cho mất thì
giờ. Chỉ thêm bực mình, tức tối thôi!... Mẹ! Khi không mất nước
ngang xương...!
Thấy tôi im lặng, anh ta đứng bật dậy:
– Anh ở nhà chờ nghe! Tôi ra gọi mẹ con
nó về ngay.
–
Không được đâu anh Quý. Tôi có hứa về ăn tối với...
– À! Tôi quên!
Quý “đen” ngắt lời tôi, rồi nói tiếp:
– Thôi thì như vầy, tôi chở anh ra chỗ
hai mẹ con nó rồi qua Nguyễn Hoàng để anh báo tin. Ăn tối với tôi
xong thì anh đi gặp bạn cũng chưa muộn. Vậy đi nghe!?
Tôi chỉ có nước gật đầu khi biết mình
không thể từ chối thạnh tình của người đồng đội cũ. Nhưng khi đến
trước cổng nhà chị Nhạn, đột nhiên Quý “đen” nói:
– Hay là anh về nhà tôi đêm nay đi! Gần
bến xe hơn. Chỗ này thì hơi xa đó!
Tôi chưa kịp trả lời thì Út Hương đã từ
trong nhà ra cổng chào đón, rồi nói ngay:
– Chị Nhạn vừa đi mua mấy món gì đó với
hai chị bạn, để sáng sớm hai chị ấy lên Hiệp Đức thăm nuôi. Đêm
nay họ sẽ ở lại đây. Chị dặn em là khi anh về, thì hai anh em
mình và các cháu ăn cơm trước.
Trong tích tắc, tôi quyết định ngay:
– Anh gặp bạn cũ cùng đơn vị, nên cũng
muốn về nói cho chị Nhạn biết là đêm nay anh sẽ ở lại nhà anh ấy
cho tiện. Út nói lại với chị Nhạn dùm anh nghe!
Cô em của bạn tôi tròn mắt, ngạc nhiên,
nhưng rồi cũng nở nụ cười thông cảm. Sau mấy chữ cáo lỗi để lại
trong phòng của Quảng và vò đầu hai đứa cháu của bạn, là tôi vác
ba lô ra cổng, lòng thầm áy náy khi phải phụ lòng của những người
đã coi mình như thân thuộc. Quý “đen” cũng làm tôi thật cảm động
khi anh chàng mừng rỡ ra mặt. Tình đồng đội đến lúc này vẫn thắm
thiết làm sao! Tháng 3, Đà Nẵng thường trở lạnh vào buổi chiều
tối, nhưng hôm nay thì ấm áp lạ thường.
... Ra khỏi nhà Quý “đen” thì trời đã
tối. Bữa cơm đạm bạc nhưng thân tình với gia đình người lính cũ
làm tôi cảm động. Phải nén lòng thương cảm mấy lần mới khỏi ứa
nước mắt. Thứ bảy thường là ngày buôn may, bán đắt trong mọi thời
kỳ, nhưng anh chàng và cả nhà đã không màng chuyện bạc tiền ngay
khi đang tất tả mưu sinh, chỉ để đãi tôi một bữa cơm đầy ắp tình
huynh đệ, nghĩa chi binh.
Người khinh binh thì cứ luôn miệng nhắc
chuyện tôi làm văn nghệ Tết cho đơn vị hai năm trước. Chị Quý thì
kể chuyện “cô nữ sinh trường Hồng Đức” bên kia rào thường hỏi
thăm “... Anh chuẩn úy ấy bây giờ ra sao!” Chị cười thật giòn:
– Ông Quý đây là hàng xóm và cũng là
bạn thân của anh nó, mà nó không hỏi câu nào! Cứ luôn miệng hỏi
tôi về anh không hà!
Còn bé Tâm thì “Con hết thèm ăn kem rồi
chú ơi!” làm tôi nhớ tới trung sĩ Cao Kim Rắc, người tiểu đội
trưởng khinh binh đã hy sinh tại Suối Đá – Tiên Phước, vốn rất
thân với Quý “đen”, thường ghé qua thăm và dẫn bé Tâm đi ăn kem
mỗi khi đơn vị về hậu cứ dưỡng quân.
Vừa đi vừa suy tưởng, nên chẳng mấy
chốc tôi đã ra tới chỗ hẹn với Bôn và Tài. Hai bạn đồng cảnh đã
chờ sẵn ngay ngã tư trước rạp hát Trưng Vương. Sau vài câu hỏi
thăm nhau về buổi chiều đầu tiên được hưởng không khí tự do, là
những tâm tình trong chiếc quán cà phê ngay cạnh khách sạn Trung
Nam ở gần đó. Vẫn chỉ là câu chuyện của những ngày lao động khổ
sai đã qua; những buồn, vui và nhẫn nhục để sinh tồn, cùng những
kỷ niệm để đời đã có với nhau suốt từ Hội An, qua Hòa Cầm và sau
cùng là tại Hiệp Đức.
Nhìn quanh mình và hướng tầm mắt ra
ngoài phố, chúng tôi ngao ngán lắc đầu khi đường xá vắng tanh mặc
dù mới sụp tối. Mới ngày nào sầm uất và sinh động bao nhiêu thì
bây giờ tối tăm và buồn bã bấy nhiêu. Đà Nẵng sau một năm đổi
chủ, đã thành một con bệnh xanh xao, vàng vọt gần như vô hồn.
Quán không có nhạc. Phố phường không ánh sáng. Ánh mắt dành cho
nhau như mang dáng vẻ dò xét. Lời nói chỉ vừa đủ cho người ngồi
quanh chiếc bàn con trao đổi nhau nghe.
Trong số những người đang phì phèo
thuốc lá hay xì xào câu chuyện, ai là tai mắt của của đám người
tự nguyện làm ăng ten cho chế độ mới?! Ai trong những người qua
lại trên đường là những con “bò vàng” cải trang thường dân?! Có
phải vì chúng tôi chẳng khác gì loài thú bị thương nên nhìn đâu
cũng có cảm giác, cũng nghi ngờ chung quanh là công an, là đám
“30 Tháng 4” từng mang băng đỏ chạy khắp thị xã để tước súng hoặc
trả thù Quân–Cán–Chính mới một năm trước đây?!
Những lời dặn dò của chị Nhạn, của gia
đình Trần Hiền và của Quý “đen” về sự cẩn trọng trong hành động
và lời nói khi ra phố làm tôi ngao ngán về thân phận của một tàn
binh vừa ra khỏi nhà tù nhỏ, để bước vào ngục tù bao la hơn và...
phức tạp hơn rất nhiều. Bôn và Tài có lẽ cũng chung một tâm trạng
nên chúng tôi lặng lẽ từ giã và chúc nhau mọi sự an lành, sau cái
bắt tay kín đáo khi rời khỏi quán một đoạn khá xa. Chân bước mà
lòng xa vắng hơn cả khung cảnh phố phường đã bắt đầu lắng đọng,
dù chưa đến 9 giờ tối!
Quý “đen” chờ đón tôi ngay đầu hẻm.
Thật ấm lòng làm sao khi nhìn thấy nụ cười trên mặt người đồng
đội cũ!
– Tôi
định sẽ vào lấy xe chạy tìm ông. Thời buổi này đi khuya quá không
tốt!
Tôi hỏi
lại:
– Có cần
trình giấy tờ cho phường khóm gì không?
– Không cần đâu! Tụi nó ít khi léo hánh
vào trong xóm lắm! Anh yên tâm.
Lại thêm màn cà phê, thuốc lá và những
tâm tình vụn vặt quanh chuyện chiến đấu thuở xưa. Sau khi tức
tưởi tan hàng mới thấy nghĩa tình của Lính dành cho nhau khắng
khít biết bao!
– ... Mẹ! Hồi đó nhìn thấy anh, đứa nào
cũng nói với nhau là anh giống như thầy giáo!
Anh chàng khinh binh thoải mái cười,
văng tục một phát rồi nói tiếp:
– Không có thằng nào sợ anh cả! Nghe
lệnh thì thi hành chứ trong bụng tụi này chỉ ngán Thượng sĩ Trữ
rồi ông Trung sĩ I Thái mà thôi.
– Tôi biết! Không phải một mình mấy anh
đâu! Cả Thiếu tá Gio lúc đầu cũng không tin tưởng tôi và nói y
chang như mấy anh. Chỉ có Đại úy Vương biết rõ tôi thôi!
– Nhưng mà sau này tụi nó thương anh
lắm! Nhứt là khi anh đem cầm đồng hồ để đãi nguyên băng Sài Gòn
ăn tết, rồi còn cái vụ văn nghệ nữa. Cười chảy nước mắt luôn!
Tôi cũng cười, nghĩ đến chuyện dân tác
chiến mà phải lấy văn nghệ để chiếm cảm tình của đơn vị và thuộc
cấp. Quả là ngoại hình của tôi không hề xứng hợp với mẫu người
vào sinh, ra tử và phải chỉ huy những gương mặt “ngầu hầm” của
một trung đội Biệt Động Quân. Thậm chí cả gia đình tôi, từ ba má
đến các em không ai tin là tôi đã suýt chết mấy lần. “Nó cận thị
như vậy mà cho chỉ huy thì lính chết hết còn gì!? Chắc chỉ cho nó
làm việc trong hậu cứ thôi!” Má tôi đã từng tin chắc như vậy!
Câu chuyện quanh ngọn đèn dầu cứ thế mà
lan dần qua những người đã đền xong nợ nước hay đổ máu xương rồi
giải ngũ sau đó. Chúng tôi bùi ngùi hỏi và nhắc nhau về những
người lính Mũ Nâu đã đến với trung đội trước đây. Thời gian nắm
trung đội của tôi không dài nhưng đúng 5 lần bổ sung quân số
trong đúng 11 tháng tác chiến – trước khi tôi về học khóa Tiếp
Liệu, rồi về Ban 4 Hành Quân của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn – đủ để tôi
không kịp nhớ hết nhân ảnh của những chiến hữu đã hy sinh hay
trọng thương được đưa về chữa trị.
Có người đến, rồi “đi” chỉ trong vài
bữa và tông tích của những đồng đội ấy, chỉ còn là Họ và Tên
trong sổ tay trung đội trưởng của tôi lúc đó. Hỏi thăm về những
tay súng kỳ cựu của trung đội, thì Quý “đen” lắc đầu và đoán là
do sinh kế, nên mọi người đã về quê, hay tình nguyện đi đến những
vùng giản dân không chừng. Câu chuyện hàn huyên có lẽ còn kéo dài
hơn nữa nếu không có chị Quý ra nhắc chồng mình là đã quá nửa đêm
từ lâu rồi. “Phải để ảnh ngủ lấy sức để sáng dậy sớm! Chỉ còn vài
tiếng nữa thôi đó!”
Đèn tắt. Trên chiếc ghế bố nhà binh kề
bên đã không còn nghe tiếng động. Người đồng đội cũ có lẽ đã ngủ
ngay, vì có tiếng thở nhẹ và đều đặn. Riêng tôi thì cứ lan man ôn
lại một ngày vừa trôi qua trong đời. Hơn một ngày hầu như không
chợp mắt, nhưng tôi không thấy mệt mỏi hay buồn ngủ, bởi mọi thứ
trôi qua như trong giấc mộng. Mọi thứ đều rất hiện thực.
Một ngày tự do, dù là thứ tự do tạm bợ;
cộng thêm thân tình của những người quen biết cũ, đã làm tôi bồi
hồi, cảm động. Một ngày thật đáng nhớ trong đời. Ngày thứ nhì của
kiếp “phó thường dân”! Vài tiếng nữa thôi, là tôi sẽ rời xa Đà
Nẵng, nơi mà món nợ máu xương đối với đồng đội và chiến hữu xưa,
đã luôn chất ngất trong lòng từ khi còn mang sắc áo Biệt Động
Quân, để phục vụ dưới màu cờ tổ quốc.
Tổ quốc đã không còn, Đà Nẵng thì sắp
chia xa. Mai này sẽ ra sao?! Nào ai biết chuyện ngày sau! Nhưng
Đà Nẵng và tấm chân tình dành cho nhau trong ngày hôm qua, chắc
chắn sẽ là dấu ấn của tình Huynh Đệ Chi Binh ngàn đời không phai
trong lòng tôi.
HUY VĂN (HVC)
(Ngày Ra Trại/Cuộc Hành Trình)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Huỳnh Văn Của chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 5,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang