Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
(Chân thành cảm ơn Trung tá Hoàng Phổ, Liên Đoàn Phó LĐ12 BĐQ, Đại úy Nguyễn Trung Tín, Y Sĩ Trưởng LĐ12 BĐQ, Đại úy Trần Văn Quy, Tiểu Đoàn Phó TĐ37/LĐ 12 BĐQ đã bổ sung chi tiết liên quan đến thời gian, vị trí, những lần giao tranh, hành trình chuyển quân và sinh hoạt của Liên Đoàn 12 BĐQ trong tuần lễ từ 23/03/1975 đến 29/03/1975)
Thị Xã Tam Kỳ, Quảng Tín.
Ngày Chúa Nhựt 23/03/1975
Sáng. Theo Trưởng Ban 4 vào Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương Sư Đoàn 2 BB. Cuộc tiếp xúc thật nhanh, gọn vì không
có kết quả như mong đợi. Con ai người nấy lo. Yêu cầu tiếp liệu
cho đơn vị tăng phái lúc nào cũng phải nhường ưu tiên cho cơ hữu
của Sư đoàn, nhứt là Trung đoàn 5. Họ đang đụng nặng không kém.
Trưa. Theo đoàn xe tải đạn vào vị trí
của pháo đội mà lòng buồn vô hạn. Những lời an ủi và giải thích,
dù được người pháo đội trưởng vui vẻ đón nhận, cũng chỉ để che
dấu một thực trạng đau lòng: Quân Đội không đủ đạn cho chiến
trường!
Bữa ăn
thanh đạm với Đại úy Phương bị ngắt quãng liên tục vì anh phải
lên máy theo dõi tác xạ của 4 khẩu 105ly. Tiếng pháo kích của
địch, tiếng phản pháo của ta, tiếng rè rè của máy PRC–25, tiếng
nói như hét khi liên lạc, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp
nhưng đặc thù của đời lính trận.
– Cánh quân của Tiểu Đoàn 37 đang đụng
nặng.
Anh
Phương buông máy, nói vội:
– Mình vừa ra lịnh ưu tiên cho Đại Đội
3. Ông Vương coi bộ mệt dữ. Thôi! Ăn tiếp đi Huy.
Cổ họng tôi đắng nghét. Cảm giác không
khác gì đang chiến đấu bên cạnh anh em ngoài kia. Đại úy Vương
đúng là cô đơn quá! Mấy đứa em bây giờ chẳng còn ai bên cạnh. Lê
Văn Hữu để lại nửa cái đầu ở Gò Nổi. Nguyễn Thanh Vân đang nằm
liệt vì sốt rét rừng. Còn tôi đang thấp thỏm từ vòng đai Tiểu
Khu. Bất lực! Các Trung đội trưởng bây giờ là ai, người mới bổ
sung hay những cọp già dạn dày trận mạc của đại đội? Định nhờ máy
của Pháo Đội để gọi thăm người đại đội trưởng cũ nhưng lại thôi.
Chỉ thầm mong an lành đến với mọi người.
Chiều. Nắng nhạt. Tam Kỳ hầu như chỉ
còn một nửa dân số. Bưu Điện đã ngừng mọi dịch vụ chuyển ngân từ
hôm qua. Thị xã vắng lặng. Nhà cửa như bị bỏ hoang. Trường Trung
Học tỉnh lỵ trở thành Bộ Tư Lệnh tiền phương của SĐ 2BB ngay từ
khi mất Tiên Phước. Tam Kỳ còn được chút sinh khí là nhờ những
quán xá, khách sạn vẫn còn mở cửa... Quán cà phê là khoảng sân
của ngôi biệt thự khá bề thế, kiểu nhà mát của các villa Pháp,
nằm ngay cạnh hậu trạm của liên đoàn. Xế trưa, quán vắng nên vị
chủ nhân kiêm nhân viên phục vụ vui vẻ ngồi lại trò chuyện với
khách. Khi được hỏi vì sao còn ở lại thì người trung niên có dáng
dấp rất nghệ sĩ cho biết ông là một doanh nhân, ở lại một mình,
còn vợ con đã ra Đà Nẵng từ mấy hôm trước.
– Tôi không có gì để lo sợ cả. Nếu
không thì đã vọt mất rồi. Quán cà phê là để bà vợ tôi có việc gì
đó để làm cho vui. Thu nhập không thành vấn đề, mặc dù công sức
và tiền bạc bỏ ra cho ngôi vườn này cũng khá nhiều.
Tôi im lặng đảo mắt nhìn quanh. Đúng
như lời ông nói. Quán đẹp là nhờ sự sắp xếp và bày biện cây
kiểng: sạch sẽ và ngăn nắp. Quầy thâu ngân là một mái tranh thấp
treo đèn và giỏ hoa. Dàn Akai nằm ngay trên quầy, cạnh tủ kiếng
nhỏ bày bán thuốc lá. Quán có phong thái “Thạch Thảo” đúng như
tên gọi. Thấy tôi trầm ngâm, người chủ nhân đứng dậy đi vào nhà.
Tiếng nhạc Paul Mauriat dìu dặt vọng lại từ hai chiếc loa đặt
trên tam cấp dẫn lên cửa chính. Không khí im lắng trong màu nắng
nhạt làm tôi chợt nhận ra cuộc chiến đang đến hồi quyết liệt
ngoài kia bỗng nhiên ngưng hẳn tiếng súng từ lúc nào không biết.
Phút an bình tạm thời của một ngày chúa nhựt, hay là sự im lặng
ngộp thở của cơn bão đang dần đến?
– Đang tìm hứng để làm thơ phải không?
Tôi quay lại, mừng rỡ nhận ra Đỗ Văn
Tuấn, bạn học kiêm đồng đội quân trường. Tuấn ngồi xuống ghế đối
diện, không chờ hỏi đã lên tiếng trước.
– Tao hỏi cầu may một đại úy. Ổng cho
biết mày đang làm sếp hậu trạm. Rồi lính của mày chỉ tao qua đây.
Thật là bất ngờ!
Câu chuyện hàn huyên đưa chúng tôi trở
lại thời lạng xe, cua đào hồi còn ở trung học rồi những buồn, vui
quân trường, sau cùng là thực tại không có gì sáng sủa vì...
– Tụi tao như rắn không đầu. Hiện giờ
đang lo bảo vệ Bộ Chỉ Huy tiền phương của Sư Đoàn. Đại Đội Trinh
Sát coi như xóa sổ. Trung Đoàn 5 bây giờ cũng đang kẹt cứng. Nghe
nói cánh Biệt Động Quân của mày cũng đụng nặng suốt hơn hai tuần
nay.
Tôi gật
đầu kể cho bạn nghe về những gì mình biết được. Tinh thần thì vẫn
còn nhưng phương tiện thì nghèo đến mức cùng cực. Địch đang ở thế
mạnh. Chiếm đâu, giữ đó. Còn mình thì chỉ thụ động phòng thủ, hay
tấn công mà không có kết quả. Đạn dược nhỏ giọt. Dân chơi mà chỉ
có tiền lẻ để xài. Thật là trớ trêu. Tôi nhìn Tuấn, rồi chạnh
nghĩ đến những bạn bè cùng lớp, những đồng đội cùng khóa ở Đồng
Đế. Mới đó mà đã gần 3 năm. Kẻ còn, người mất. Và giờ này chỉ có
hai đứa ngồi bên ly cà phê nhắc chuyện xưa để buồn cho thực tại.
Khi từ giã nhau, sau cái bắt tay chỉ là lời chúc lành cho những
ngày vô định sắp tới.
Đêm. Dài vô tận! Thị xã im lìm trong
cảnh nhá nhem của phố phường thiếu điện. Nặng nề và căng thẳng,
không có chút sinh khí ngoại trừ tiếng quân xa qua lại đó đây và
tiếng pháo rời rạc, có vẻ như thăm dò của đôi bên. Sinh hoạt hậu
trạm vẫn chỉ là những công việc thường lệ của bố trí, gác đêm
trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến lẫn tác chiến. Im lặng lạ
thường. Cảm giác như nghẹt thở.
Thứ Hai 24/03/1975.
Đêm về sáng.
Bê ta! Đúng là tiếng bộc phá của đặc
công. Mọi người tỉnh giấc ngay sau tiếng nổ đầu tiên. Dàn tuyến
phòng thủ. Nghe ngóng. Nhận định. Lên máy liên lạc với Liên Đoàn.
Địch đang đột nhập Bộ Tư Lệnh tiền phương của Sư Đoàn 3 BB. Chỉ
cách chừng 300 thước, vài khu phố, dăm ba cái ngã tư. Địch có thể
xâm nhập qua đây bất cứ lúc nào. Tất cả đều sẵn sàng. Tiếng lựu
đạn, tiếng súng nổ dòn trong đêm. Một đêm mất ngủ. Đêm thật dài,
và thật căng thẳng.
6:30. Đã có chút ánh sáng bình minh.
Vẫn còn đụng độ quanh khu vực trường Trung Học. Đan pháo kích bắt
đầu nổ bên hướng Tiểu Khu và cả Bệnh Viện gần đó. Lệnh của Liên
Đoàn: Nằm tại chỗ! Hậu trạm của các Tiểu Đoàn cho tin có đụng độ
ở khu vực của TĐ37 và TĐ21. Tiểu Đoàn 39 BĐQ ở phía Tây Bắc không
có báo cáo chạm địch, nhưng Tam Kỳ đang bắt đầu hoảng loạn.
8:00. Không còn liên lạc được với Liên
Đoàn qua điện thoại lẫn truyền tin. Không rõ vì sao. Chiếc Jeep
duy nhất của hậu trạm đã theo Đại úy Nhân về Đà Nẵng chiều hôm
qua, nên Trung sĩ Năm phải lấy Dodge chạy qua Bộ Chỉ Huy Liên
Đoàn nhận lệnh trực tiếp. Khi trở về thì báo cáo của người Hạ sĩ
quan Ban 4 không có chút lạc quan.
– Liên Đoàn Trưởng và Ban 3 bận máy
liên tục. Truyền tin và nhóm tác chiến Điện Tử đóng ở đâu không
biết. Ban 2 của Thiếu tá Vũ cũng không thấy ai! Chắc là đã theo
Liên Đoàn phó qua Tiểu Khu họp khẩn cấp. Trinh Sát thì chỉ biết
lo bảo vệ khu ga xe lửa và phía Tây của Bộ Chỉ Huy. Chỗ này là
tùy thiếu úy định đoạt. Bên đó cũng lộn xộn lắm vì không ai nắm
rõ tình hình gì cả!
Tôi thở dài nhìn quanh. Hậu trạm của
các Tiểu Đoàn mỗi nơi chỉ có vài người, lại còn phải lo quân nhu,
tiếp liệu lỉnh kỉnh. Xe 10 chiếc, người thì trên dưới một Trung
đội, kể cả tài xế và quân nhân chờ trở lại đơn vị. “Tùy thiếu úy”
cũng có nghĩa là không còn trông chờ lệnh lạc gì của ai. Vì ngoài
kia, phía Quốc Lộ 1, đã rần rần tiếng xe và dòng người rút về
hướng Bắc. Tiếng súng và tiếng pháo kích đã thật gần. Thêm một cố
gắng để liên lạc với Liên Đoàn mà không có kết quả, nên tôi cho
lệnh thu dọn lều trại. Còn đang loay hoay nhổ lều, cuốn bạt, thì
Liên Đoàn Trưởng từ đâu phóng xe tới. Bộ dạng Trung tá An hầm
hầm. Ông nhìn quanh, rồi gào lên:
– Mấy anh đang làm gì vậy?! Định chạy
làng phải không? Ai chỉ huy ở đây?
Tôi lật đật đến chào kính. Chưa dứt câu
thì bản đồ trên tay ông đã vỗ lên nón sắt của tôi:
– ĐM! Ngoài kia đang đánh đấm. Trong
này tính vọt hả?!
Ông trừng mắt nhìn tôi. Cả hậu trạm hết
hồn đứng lặng người. Tôi cũng không nhận ra vị trung tá mới ba
ngày trước đó đã gọi tôi trình diện và vui vẻ cho biết sẽ trả tôi
về làm Chỉ huy Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Hôm đó ông thân mật
hỏi han chuyện Sài Gòn và cả chuyện học hành của tôi trên Đà Lạt
lúc chưa bị Tổng Động Viên. Hôm nay thì khác. Ông như chỉ muốn
trút sự bực bội hay phẫn nộ gì đó và tôi không may đã thành nạn
nhân.
Có lẽ
tôi là nạn nhân đầu tiên trong ngày! Tôi cảm thấy nhục nhã vì bị
đơn vị trưởng hành hung ngay trước mặt thuộc cấp của mình, nhưng
vẫn giữ thế nghiêm và im lặng nhìn ông, không phân bua, không
giải thích, vì tôi thông cảm cho ông. Xét cho cùng, quả là tôi
cũng muốn bỏ cuộc. Tôi chỉ là tép riu, còn Liên Đoàn Trưởng của
một đơn vị nổi tiếng mà chạy làng thì khó có thể chấp nhận được.
Không nhận được lời nào của tôi, Trung
tá An quay sang quát tháo mọi người cho đã nư, rồi lên xe phóng
đi sau câu chửi thề như lúc mới tới. Mọi người còn im lặng đứng
nhìn tôi, hoang mang. Nhưng tôi đã nhìn ra được nỗi tuyệt vọng và
sự đau khổ tột cùng qua thái độ của Trung tá An nên cho lệnh thu
dọn thật nhanh. Khi đoàn xe chuyển bánh thì tôi biết là cũng đã
đến lúc phải bỏ Tam Kỳ. Quốc Lộ 1 đông nghẹt mọi thứ xe cộ và
người, Dân cũng như Quân. Khó khăn lắm, mấy chiếc GMC của các
Tiểu Đoàn 21 và 39 BĐQ mới quẹo ra được quốc lộ để nhập vào dòng
di tản.
Đến
phiên hậu trạm Liên Đoàn thì chỉ lọt mấy chiếc GMC chở xăng, dầu,
đạn dược. Xe Dodge vì kéo “rờ mọt” lương khô, nên kẹt ngay giữa
ngã tư, loay hoay tới, lui hoài không sao quẹo trái được. Toán
hậu trạm của TĐ 37 BĐQ đi sau cùng chờ lâu sốt ruột, nên quay đầu
tìm đường khác mà đi lúc nào không hay.
9:30 Phía trước chỉ còn lác đác vài
nhóm thường dân và sau lưng thì vắng hoe. Tài xế lo tìm cách quay
xe quẹo vào trục lộ và mọi người cũng quên cả những giao tranh
đâu đó thật gần. Trên chiếc Dodge bây giờ chỉ còn tôi và hai binh
sĩ thặng dư “... theo thiếu úy tới cùng”! Tài xế thì vừa chửi thề
vừa cố gắng nhích tới, nhích lui mà không có kết quả. Không thể
bỏ xe, mà cũng không tháo được “rờ mọt” để thoát thân! Đang lo
lắng cùng cực, thì từ đâu xuất hiện một gia đình năm người: hai
vợ chồng, hai con nhỏ và một ông lão. Người chồng có lẽ là một
Nghĩa Quân, súng đeo vai, tay xách bị. Thấy xe, họ mừng rỡ đứng
lại, nhưng rồi thất vọng khi thấy đang kẹt tại giữa đường. Một
người vội nói:
– Phải chạy nhanh lên, thiếu úy ơi!
Nghe nói xe tăng của tụi nó đã qua cầu phía bên kia phố rồi.
Nghe nói vậy, tài xế hoảng hốt nhấn ga.
Chiếc Dodge kẹt lề, nhồi lên, nhích xuống. Vô phương! Tôi tuyệt
vọng lắc đầu. Chưa biết phải làm sao thì từ đâu xuất hiện thêm
vài người lính Sư Đoàn 2 BB. Tôi hỏi thăm họ về Đỗ Văn Tuấn và
tình hình bên Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 2BB.
– Đặc công đánh vô Trường Học từ sáng
sớm. Tụi nó chỉ có mấy thằng nhưng liều mạng. Sau đó có thêm một
toán nữa, có lẽ là du kích. Tới sáng thì mình bể tuyến, mạnh ai
nấy rút. Tụi em kẹt lại sau cùng, chạy vòng phía sau rồi mới nhắm
hướng bọc ra đây. Không còn ai nữa đâu. Tụi nó chiếm Trường Học
rồi!
Nghe nói
xong, tôi gọi họ cùng với mọi người khác phụ đẩy chiếc Dodge.
Bảy, tám người góp chung sức lúc đang tuyệt vọng, nên kết quả là
chiếc xe gầm rú, tới, lui vài lần rồi vọt ngay lên lề. “Rờ mọt”
phía sau ngã qua, lắc lại tưởng chừng như muốn gẫy cả trục bánh.
Tài xế cho xe yên vị trên đường. Mọi người hối hả leo lên. Hai
cháu bé và cụ già ngồi trong cabin, hai người lính hậu trạm đeo
hai bên hông, những người còn lại đứng phía sau, kể cả tôi. Lúc
xe chuyển bánh mới hay khu vực trong tầm mắt, trước, sau, đều
vắng lặng.
Mới
hơn 10 giờ sáng mà Tam Kỳ đã bỏ ngõ từ lâu. Tiếng súng lớn, nhỏ
vẫn còn, nhưng ngoài tiếng xe Dodge đang rồ ga vì kéo nặng, tôi
không nghe được tiếng xích sắt của T54 mặc dù trường Trung Học và
chiếc cầu phía Nam thị xã chỉ cách chúng tôi không bao xa. Chạy
đến gần khu vực Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu thì chúng tôi bắt kịp
đoàn người di tản. Pháo binh của địch đang làm tình làm tội những
nơi trọng yếu, kể cả Bệnh Viện Toàn Khoa của thị xã Tam Kỳ.
Con đường huyết mạch trở thành “Quốc Lộ
kinh hoàng”. Đáng buồn nhứt là những người dân không có phương
tiện. Họ lết bết đi hai bên lề, đưa cặp mắt thèm thuồng pha lẫn
van xin nhìn đoàn xe đủ loại đang ngược Bắc. Vừa ra khỏi Tam Kỳ
thì cảnh tượng càng tang thương hơn. Quốc Lộ 1 bình thường khá
rộng, bây giờ trở nên chật hẹp với mọi thứ trên đời vung vãi trên
đường: từ quần áo, vật dụng linh tinh, kể cả xăng dầu của xe cộ
bị hư hỏng, đến những nhầy nhụa khác không thể phân biệt là thứ
gì. Mặc kệ! Xe vẫn cứ chạy. Người vẫn cứ đi. Không phải không khí
chiến tranh mà là hình ảnh của một bi kịch thoát hiểm!
Tiếng hò hét, chửi bới, tiếng súng bắn
mở đường hay xua đuổi những ai chắn lối, hoặc hù dọa những người
muốn nhào lên xe để được sướng thân, hòa lẫn với tiếng kèn xe
chói tai và liên tục, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp, rối bời
nhưng khẩn thiết. Xe đò, xe nhà, xe hàng, xe gắn máy, quân xa, cơ
giới đủ loại, lớn, nhỏ, hai bánh, ba bánh, bốn bánh, v.v.
Mọi thứ đều cố bò, cố nhích về phía
trước. Bò, nhích là phải, vì lòng đường chật ních các loại xe và
người. Xe hư là khốn nạn cuộc đời, vì chắc chắn phải bị bỏ lại.
Sang, hèn như nhau. Dân, Quân cũng không khác. Mọi thứ phương
tiện, có động cơ hay không, đều được tận dụng tối đa để chở
người, chở của. Mạng người cũng rẻ rúng như bèo! Súng tha hồ bắn.
Xe tha hồ lách. Chạy, càng xa càng tốt! Giờ phút này ai nấy đều
muốn đến nơi an toàn và Đà Nẵng là mục tiêu tối hậu. Quốc Lộ 1
như con rắn khổng lồ, đuôi còn lòng thòng nơi nào đó tận trong
phố Tam Kỳ không chừng, còn đầu thì không biết đã tới đâu.
Trưa. Con đường từ Tam Kỳ về Thăng
Bình, quận cực Bắc của tỉnh Quảng Tín, bình thường chỉ mất mười
lăm, hai chục phút xe chạy là tới nơi. Hôm nay thì khác. Đôi khi
chỉ có người (và thú vật) còn có thể di chuyển. Xe cộ thì nằm
cứng một chỗ mỗi lần có chiếc nào đó hết xăng hay hư máy nửa
chừng. Khổ sở lắm mới ủi được qua một bên để lấy lối cho xe chạy
tiếp. Giữa dòng thác người và xe đang chậm chạp tiến về phía Bắc,
là một sĩ quan không rõ cấp bậc, đứng chận những quân nhân có lẽ
là thuộc cấp của ông, đẩy họ vào lề, nơi đã có một số quân nhân
khác đang xớ rớ đứng, ngồi.
Chung quanh họ là vợ con, là người thân
lớn, nhỏ. Mọi người đều lộ vẻ hoang mang, lo lắng. Chỉ có đám trẻ
con còn được vài nụ cười thật ngây thơ và hồn nhiên khi tụm năm,
tụm ba với nhau. Nhìn lại xe Dodge mới hay gia đình người lính
Tiểu Khu và nhóm quân nhân Sư Đoàn 2 BB cũng đã bỏ đi hồi nào
không biết. Đoàn xe hậu trạm tìm được nhau nên cùng dừng lại để
kiểm tra quân số và tiếp liệu phẩm rồi lên máy liên lạc với Bộ
Chỉ Huy Liên Đoàn.
Nửa ngày trời dang nắng làm con người
khô khốc, nhưng tôi không thấy khát, cũng không thấy đói. Chỉ hút
thuốc! Hút liên tục đến mềm môi, rát cổ, để tạm trấn áp nỗi lo
lắng và buồn bực trong lòng. Tôi buột miệng chửi thề khi có người
đề nghị chạy luôn về hậu cứ và ra lệnh nằm tại chỗ chờ tin tức
của Liên Đoàn. Đành là giữa lúc hỗn quan, hỗn quân, thì mình có
toàn quyền quyết định. Nhưng cả buổi chỉ thấy vài nhóm đồ bông lẻ
tẻ, đa số đeo theo các xe hậu trạm mà đi. Các Tiểu Đoàn chắc chắn
còn ở phía sau.
Tôi đã quyết định không sai. Bộ Chỉ Huy
Liên Đoàn đang ở phía trước không bao xa, ngay trong căn cứ Hương
An. Chỉ vì lo điều động đại đơn vị nên bây giờ “Xếp” mới nhớ tới
chúng tôi. Mất liên lạc suốt nửa ngày đồng nghĩa với đoán già,
đoán non, hay đồn nhảm những tin tức không có ích lợi gì cho tinh
thần chiến đấu của đơn vị. Giờ này Liên Đoàn Phó, Trung tá Hoàng
Phổ còn đang điều động hai Tiểu Đoàn 21 và 37 BĐQ cùng với một
Chi đoàn Thiết Vận Xa triệt thoái theo chiến thuật, lấy quốc lộ
làm trục chính tiến về hướng Bắc. Họ là những người sau cùng rời
khỏi Quảng Tín. Kỳ An ơi Kỳ An! Đất lành của hiền nhân Phan Chu
Trinh đành phải bỏ lại cho địch! Gần 3 cây số để ra tới quốc lộ
phải trả bằng máu xương giữa nắng trưa hừng hực lửa.
17:00. Dang nắng cả ngày ngoài trời,
nên tinh thần ai nấy đều căng thẳng đến cực độ. Sau cùng, đoàn xe
hậu trạm được lệnh vào căn cứ Hương An nằm chung với Liên Đoàn.
Lại kiểm điểm nhân sự và tiếp liệu, phân chia vị trí cho từng hậu
trạm Tiểu Đoàn, trực máy để liên lạc thẳng với Liên Đoàn Trưởng.
Công việc thường lệ, quen thuộc, nên đâu vào đó rất nhanh, gọn.
Thì giờ còn lại là nghe ngóng tình hình. Nhất là tin tức về các
Tiểu Đoàn còn đang trên đường lui binh. Không thấy có dấu hiệu
truy kích của địch khi đoàn quân đã ra khỏi Tam Kỳ. Chỉ có những
hoạt động quấy rối không đáng kể của du kích địa phương dọc theo
lộ trình di tản.
Cứ vậy mà hai Tiểu Đoàn 21 và 37 BĐQ
cùng Chi Đoàn Thiết Vận Xa di chuyển về tới quận Thăng Bình và
bắt tay với một đơn vị của Sư Đoàn 3 BB vào lúc gần nửa đêm. Cùng
lúc đó, một trung đội Thám Kích phối hợp với Ban 4 để làm công
việc của Kiểm Soát Quân Sự, đồng thời tìm xem còn đồng đội nào
rơi rớt hay lạc lõng ở phía sau hay không. Hai chiếc GMC chầm
chậm lăn bánh ngược về hướng Tam Kỳ trong sự im lặng ma quái và
bóng đêm rờn rợn.
Gió tháng 3 bắt đầu trở lạnh. Dân chúng
đã tản mát đâu hết. Quốc lộ vắng lặng. Nhà cửa hai bên đường
không có dấu hiệu còn người sinh sống. Có lẽ họ đã bỏ đi hay
không muốn lên đèn, mở điện. Lác đác có vài bóng người đi dọc
theo con lộ. Họ chỉ quay đầu nhìn theo xe, rồi lầm lũi bước tiếp.
Dù sao đi nữa thì quận lỵ Thăng Bình hoàn toàn yên tĩnh. Một dấu
hiệu đáng mừng, hay đáng lo?!
Đêm. Dài lê thê. Đêm căn cứ thật yên
lắng, đủ để nghe tiếng truyền tin rè rè, rẹt rẹt đâu đó. Lại cà
phê, lại thấp thỏm. Vài nhóm nhỏ chụm đầu bàn tán, trao đổi tin
tức, hỏi han tình hình. Lại một đêm hút thuốc đến vàng tay. Một
ngày trời gần như quên lững miếng ăn mà vẫn không thấy đói. Thêm
một đêm chong mắt chờ sáng trong dằn vặt, âu lo.
Thứ Ba 25/03/1975.
Sáng họp khẩn với Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn
mới hay Pháo Đội 12 của Đại úy Phương và Trạm xá của Y sĩ Đại úy
Nguyễn Trung Tín đã về tới Phú Lộc hôm qua. Ban 4 hành quân rời
Hương An ngay sau khi liên lạc và điều động đoàn xe Quân Vận đến
bốc toàn bộ Liên Đoàn về hậu cứ. Đoàn xe thật ra chỉ là vài chiếc
tăng phái vì nhu cầu đâu phải chỉ có Bịệt Động Quân! Vì vậy, xe
hậu trạm rồi cơ hữu của từng Tiểu Đoàn cũng được sử dụng tối đa.
Tuy không kẹt xe và hỗn loạn như hôm qua, nhưng quốc lộ vẫn mang
một nhịp hối hả, cấp bách của cơ giới đủ loại, nhứt là xe nhà
binh.
Về ngang
Duy Xuyên đã thấy dòng người từ trong Trà Kiệu túa ra đủ để gây
khó khăn cho giao thông trên lộ chính. Xe và người cứ thế mà đổ
dồn về Đà Nẵng. Vĩnh Điện cũng bị kẹt cầu, kẹt lộ, vì xe từ tỉnh
lộ nối với Giao Thủy, Đại Lộc, cũng rần rần nhập vào, tạo nên
tình hình bế tắc lưu thông trên công lộ. Về tới Miếu Bông, Câu
Lâu, rồi Phước Tường cũng vậy! Phải dùng đến Quân Cảnh trên
Commando Car mới giải tỏa trật tự và giữ được an ninh phần nào
trên đường dẫn vào phố chính. Xe từ Huế xuống, từ Quảng Tín lên.
Người theo xe nườm nượp. Đà Nẵng đã trở thành ốc đảo, thành chiếc
phao và thành niềm hy vọng sau cùng của Quân và Dân tại Quân Khu
I.
Không kể
thời gian chờ đợi, rồi thứ tự lên xe, thì phải mất hơn 4 tiếng
mới đưa được toàn bộ Liên Đoàn 12 BĐQ về tới thôn Phú Lộc. Nhưng
không phải ai cũng suông sẻ và may mắn như những chuyến đầu tiên.
Đoàn xe sau cùng, vỏn vẹn có 6 chiếc dành cho Tiểu Đoàn 37 BĐQ và
số quân nhân còn lại của TĐ 21 BĐQ, đã bị phục kích tại cầu Bà
Réng, vốn là cửa ngõ để vào Đà Nẵng từ hướng Nam, ngay trong vùng
trách nhiệm của Trung tá Võ Vàng, lúc đó đã về chỉ huy một lực
lượng Địa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam.
Một xe GMC tan tành vì B40! Lại đổ máu
và lại phải chiến đấu trong điều kiện nghiệt ngã nhứt: mỗi người
một, hai gắp đạn phòng thân để cầm cự rồi đẩy lui đám du kích
chừng 20, 30 tên. Đường về lại chia hai ngả: kẻ qua Tổng Y Viện
Duy Tân để được ướp lạnh hay băng bó, người vào hậu cứ tại Phú
Lộc trong sự rời rã đến tột cùng.
Thôn Phú Lộc của những hân hoan lúc
dưỡng quân, của hạnh phúc khi sum họp, đã thật nặng nề với bất ổn
và xôn xao cũng như bất cứ nơi nào khác. Nụ cười quen thuộc trong
các trại gia binh đã nhường chỗ cho ánh mắt âu lo, bồn chồn,
những giọt nước mắt xót xa cho những ai đã hy sinh hay trọng
thương trong giờ phút cuối. Hậu cứ Liên Đoàn chưa bao giờ căng
thẳng và buồn tẻ như lúc này. Sắp xếp đâu đó xong xuôi là đã chập
choạng tối.
Tôi ăn tạm mì gói bên Câu Lạc Bộ, rồi về xem công điện và văn thư
mới nhận, thì Đại úy Quỳnh bước vào thông báo Ban 4 có trách
nhiệm trực chính đêm nay nên có công tác khẩn cần thi hành ngay
lập tức. Tôi giao việc lại cho ông Quỳnh, rồi đến gặp Trung úy
Huỳnh Long, Trưởng Ban 5 để nhận một Tiểu đội Kiểm Soát Quân Sự
và 2 xe GMC để ra Đà Nẵng tảo thanh, tước khí giới và bắt giữ
những quân nhân BĐQ bất hảo. Đà Nẵng đang gặp nhân mãn! Người và
xe đầy nghẹt trên đường.
Thành phố đang lên cơn sốt vì dòng
người di tản từ hai đầu Nam, Bắc dồn vào không ngớt. Cảnh sát sắc
phục đã biến mất. Chỉ còn dân Dã Chiến và Quân Cảnh Tiểu Khu đang
cố vãn hồi trật tự từ trên các Commando Car. Đã có lệnh nổ súng
bắn bỏ những ai vô kỷ luật và phá rối trị an. Ngoài đường bây giờ
lính tráng tới lui tấp nập. Dân chúng cũng xuôi ngược ồn ào. Lại
thỉnh thoảng kẹt xe. Đôi lúc phải dừng lại để “hỏi thăm sức khỏe”
phe ta: Những anh em thuộc Liên Đoàn 14 và 15 BĐQ từ hướng Tây
Bắc rút về. Tội nghiệp cho những con Cọp tan đàn không còn nanh
vuốt đang lạc lõng giữa phố thị.
Lính thì không gom một ai. Vũ khí, đa
số là M16, thì cũng được nửa sàn xe. Một vòng phố chính cũng mất
hơn hai tiếng đồng hồ. Đủ để chứng kiến cảnh hoang mang của dân
tình và vẻ thất thểu của những người lính không còn đơn vị. Sụp
đổ nhanh quá! Như Domino trên bàn cờ. Không có gì giữ lại được!
Kể cả cố gắng ổn định tình hình của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, một
dũng tướng ngày đêm sát cánh với mọi đơn vị.
Đà Nẵng bây giờ là một cái rọ khổng lồ
không hơn không kém. Hèn chi địch không cần truy đuổi ráo riết.
Cứ để sợi thòng lọng từ từ siết lại. Tuy vẫn còn tiềm năng và
đang cố vãn hồi trật tự, nhưng Đà Nẵng không khác gì cá nằm trên
thớt, như con mồi đang tuyệt vọng vẫy vùng trong chiếc lưới đang
dần dà phủ chụp.
23:00. Xe về tới Phú Lộc. Khu gia binh
nhìn thoáng qua thì vẫn như lúc bình thường: tối tăm và im vắng
sau khi máy đèn ngưng chạy. Nhưng chắc chắn trong từng nhà là
những thao thức triền miên vì chưa có lần nào Liên Đoàn rối rắm
như hiện nay, kể cả Lam Sơn 719 và Mùa Hè Đỏ Lửa. Bốn năm, ba lần
lui binh khẩn cấp, nhưng lần này thì tình hình tồi tệ đến mức
không ngờ. Hai chiếc GMC nằm ngay giữa sân cờ Bộ Chỉ Huy Liên
Đoàn. Vũ khí tịch thu để nguyên trên xe. Toàn là súng không có
đạn. Mọi thứ khác, kể cả lựu đạn, được mang vào văn phòng Ban 4.
Ai nấy đều mệt nhoài. Hai ngày mất ngủ đang bắt đầu hành hạ tôi.
Chỉ kịp hoàn tất bản báo cáo là cặp mắt đã híp lại không cách gì
cưỡng được. Trước khi thiếp đi, tôi cũng còn đọc thấy mảnh giấy
trên bàn: 8 giờ sáng 26/03 họp với Liên Đoàn Trưởng.
Thứ Tư 26/03/1975.
8:00. Không khí có vẻ căng thẳng khác
thường. Cấp Đại Đội trưởng trở lên đều có mặt. Phòng họp đang xì
xào to nhỏ tự động lắng ngay xuống khi Liên Đoàn Trưởng xuất
hiện. Vào hàng! Phất! Chào kính! Trình diện! Sau phần mở lời của
Trung tá An, Trung tá Hoàng Phổ là người mở đầu cuộc họp. Ông cho
biết là sau khi họp khẩn cấp với Tiểu Khu Quảng Tín vào sáng ngày
24/03/1975, thì ông trở về BCH/LĐ12 BĐQ, đóng tại ga xe lửa, để
thông báo cho Trung tá An biết về cuộc triệt thoái ra khỏi thị xã
Tam Kỳ. Sau đó BCH/LĐ di tản khẩn cấp về Đà Nẵng. Đó cũng là lần
gặp mặt cuối cùng trong ngày của ông với Liên Đoàn Trưởng vì ông
bận rộn với việc điều động các đơn vị trực thuộc (gồm 2 Tiểu Đoàn
21 và 37 BĐQ và 1 Chi Đoàn Thiết Vận Xa) rời vị trí đóng quân để
di tản về hướng Bắc.
Trong ngày 24/03/1975, ông không liên
lạc được và cũng không nhận được một lệnh gì của Trung tá An.
Cũng theo lời Trung tá Hoàng Phổ thì 24/03/1975 là một ngày xáo
trộn về mọi mặt. Tiểu khu không liên lạc được với SĐ 2BB, nên đã
họp các đơn vị còn lại, dưới sự chủ tọa của Đại tá Đào Mộng Xuân,
Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Tín.
Sau khi thẩm định tình hình chung, tất
cả sĩ quan đại diện các đơn vị đồng lòng chấp thuận giải pháp di
tản khẩn cấp ngay sau đó. Kết quả là Trung tá Hoàng Phổ cùng với
Bộ Chỉ Huy nhẹ (6 quân nhân) và hai Tiểu Đoàn 21 và 37 BĐQ về đến
Thăng Bình sau một ngày di chuyển. Khi đó, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn
12 BĐQ đã yên ổn nằm trong căn cứ Hương An từ lâu rồi. Cùng trong
đêm đó, Chi Đoàn Thiết Vận Xa mới rời LĐ12 BĐQ để tăng phái cho
Trung Đoàn 56 của Sư Đoàn 3BB.
Sau cùng, buổi họp của Liên Đoàn được
tập trung vào việc thông báo tình hình chung và tổng kết báo cáo
của từng Ban và từng Tiểu Đoàn. Trung tá An thông báo lệnh ứng
chiến tại chỗ cũng như chờ đợi bổ sung về mọi mặt. Không khí rõ
ràng là rất căng thẳng. Trong ngày, còn có tin Liên Đoàn nhận
lệnh trực tiếp của Tướng Trưởng để cùng với SĐ3 BB khai thông
đoạn đường từ Non Nước đi Hội An. Nhưng rồi chờ mãi cũng không
thấy gì.
11:00. Điện thoại từ văn phòng Liên Đoàn Trưởng gọi đích danh tôi
qua trình diện. Trung tá An ngồi yên tại bàn viết chờ tôi chào
kính. Ông có mệt mỏi và xanh xao thấy rõ.
– Bận quá nên tôi quên. Đây là Sự Vụ
Lệnh về lại 37 để coi hậu cứ cho Thiếu tá Gio. Cố gắng nhé!
Tôi nhận giấy rồi trở về văn phòng Ban
4 ngồi thừ người. Đây là mơ ước từ lâu nhưng bây giờ thì đã trễ.
Trung tá An có lẽ chỉ muốn giữ lời hứa với đàn em mà thôi, vì ông
dư biết trong điều kiện như hiện nay thì khó có thể nhận lãnh
trách nhiệm mới. Tuy vậy, tôi cũng qua hậu cứ của Tiểu Đoàn 37
BĐQ, theo đường tắt vòng ngang trại gia binh.
Hậu cứ vắng tanh. Không gặp ai quen
biết mặc dù chỉ vài tiếng trước đây còn ngồi họp với nhau bên BCH
Liên Đoàn. Văn phòng của Đại Đội 3 cũng trống trơn. Vào Câu Lạc
Bộ thì chỉ gặp những người không quen. Hỏi thăm về Nguyễn Thanh
Vân, người bạn về đơn vị sau tôi chừng một tháng, cũng không ai
biết đang ở đâu. Một người lính cho biết đã thấy Vân theo Trung
sĩ Tuấn, Trung Đội phó của Vân ra Đà Nẵng từ lâu.
Tôi xuống trại gia binh, định vào thăm
gia đình Trung sĩ Chế Việt, một người bạn văn nghệ và thăm chị
Hương, vợ Thiếu úy Vũ Thành Công, người đã nằm lại trên một ngọn
đồi nào đó tại Quảng Tín hai tuần trước. Cả hai nhà đều đóng cửa
im lìm. Tôi buồn bã về lại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, lòng thầm nguyện
vài lời kinh cho Phê–rô Vũ Thành Công, người bạn và cũng là người
anh đã hết lòng chỉ dẫn tôi mọi điều.
Chiều. Dạo một vòng qua hậu cứ hai Tiểu
Đoàn 21 và 39 BĐQ tìm Cốc A Sam và Nguyễn Văn Ước, hai người bạn
cùng khóa, về đơn vị cùng ngày. Nhưng cả hai hậu cứ cũng lác đác
người ra, kẻ vào. Không ai biết hai người đồng khóa của tôi ở
đâu. Lệnh ứng chiến coi như vô hiệu lực. Giá súng vẫn ngay ngắn
nằm im trong các “sam”, nhưng người cầm súng thì tản mát đâu
không thấy. Tình trạng thật đáng buồn. Tôi như kẻ vô gia cư. Trên
nguyên tắc là tôi đã về lại Tiểu Đoàn 37 BĐQ, nhưng thực tế thì
không ai màng tới tôi. Thiếu tá Gio không có công điện triệu hồi.
Ban 1 Liên Đoàn chắc là chưa cắt giảm quân số, nên hỏa đầu vụ vẫn
thoải mái:
–
Mời thiếu úy ăn trưa!
Bữa ăn trưa không có tiếng hỏi han hay
bàn bạc tình hình. Vắng mặt hầu hết mọi người. Không khí thật
buồn nản gì đâu! Vì vậy tôi quyết định ra Đà Nẵng, một mình. Mấy
hôm nay nắng đẹp, trời trong, nhưng lòng người thì héo úa. Nhịp
sống Đà Nẵng vốn đã vội vàng, sôi nổi, nay lại càng dồn dập hơn
và cuống cuồng hơn bao giờ hết.
Bưu điện ra thông báo ngưng mọi dịch vụ
chuyển ngân, bưu phẩm, v.v. Tình hình trầm trọng đến vậy sao? Vậy
là lương tháng nằm gọn trong túi, không còn cơ hội gởi chút ít về
cho gia đình như thông lệ. Chờ gần một tiếng mới tới phiên gọi
điện thoại. Thằng bạn thân lo lắng hỏi han đủ thứ và cho biết Sài
Gòn có tin đồn sẽ bỏ Đà Nẵng. Nhờ hắn nhắn tin tôi vẫn bình an
đến gia đình và vài lời tâm tình vụn vặt khác, là đành gác máy để
còn nhường cho người kế tiếp. Số người chờ gọi điện thoại, chờ
gởi điện tín, đứng đông nghẹt cả tiền sảnh, lao nhao và bất an
thấy rõ. Tôi trở ra đường, lòng nặng trĩu.
Đâu cần phải chờ Sài Gòn tung tin, ngay
tại Đà Nẵng này cũng đã nhìn thấy được phần nào cuộc diện. Thành
phố hỗn loạn hơn bao giờ hết. Ngoài đường bây giờ lính đông hơn
dân. Họ đi thành từng đoàn, từng nhóm, đa số vẫn còn vũ khí. Cướp
bóc xảy ra càng ngày càng nhiều hơn. Nhưng Đà Nẵng vẫn gượng
sống. Hàng quán vẫn xôn xao. Chợ búa vẫn xô bồ. Sinh hoạt nói
chung vẫn như mọi ngày mặc dù tình hình đang đến hồi chung cuộc.
Bước chân đưa tôi dài theo đường Độc Lập, ra Hùng Vương để hướng
về Chợ Cồn. Vừa đi ngang cà phê Diên Hồng, ngay Ty Thông Tin thì
gặp Trần Anh Kiệt, anh chàng vừa theo Liên Đoàn 15 BĐQ rút về từ
mặt trận Tây Bắc đèo Hải Vân.
– Đi đâu lang thang vậy cha. Hai thằng
kia đâu?! Kiệt “Mã Tấu” hỏi tôi trước.
– Tao đi một mình. Không gặp Cốc A Sam
và thằng Ước.
Tôi vừa trả lời, vừa bắt tay chào những người ngồi chung với
Kiệt.
– Không
ngờ mày cũng biết chỗ này. Hai chị em cô hàng là hoa khôi ở đây
đó!
– Tao và
mấy thằng em đi lòng vòng chơi. Tình cờ thấy hai em này bảnh quá
nên nhào vô luôn. Sẵn dịp ngồi nhìn qua khách sạn Ô Kê mà nhớ hồi
tụi mình mới ra nhận đơn vị. Mày còn nhớ không?
Tôi gật đầu rồi gọi cà phê. Anh chàng
chuẩn úy “sữa” của gần hai năm trước vẫn không thay đổi: ồn ào,
ruột để ngoài da, và thoải mái chấp nhận mọi tình cảnh. Chúng tôi
trao đổi tin tức về Liên Đoàn 15 BĐQ vừa di tản vào hôm qua, về
tình hình của Đà Nẵng, và những bạn cùng khóa. “Mã Tấu” nhà ta
khẳng khái kết luận:
– Tới đâu thì tới! Ai sao mình vậy. Cho
tới giờ phút này tụi mình còn nguyên vẹn là đã tốt số lắm rồi.
Hai chữ nguyên vẹn làm tôi chợt nghĩ
tới người đại đội trưởng thời tôi còn ở Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Khi rút
khỏi Kỳ An, Đại úy Vương bị trúng mìn cụt chân, được đệ tử cõng
và tiểu đoàn phó cho xe chuyển thẳng về Đà Nẵng, hiện ông đang
nằm trong Duy Tân. Tôi rủ Kiệt vào thăm Đại úy Vương. “Mã Tấu”
gật đầu ngay và nói thêm:
– Tao có đọc thư của mày nói về một
trong những người hùng trận Sa Huỳnh, kiêm “Bố Già” thương mày
như con, nên muốn xem mặt ông ấy cho biết.
17:30. Quân Y Viện Duy Tân! Vườn Hoa
Tình Thương của Quân Đội! Nơi xoa dịu những nhức nhối cả thể xác
lẫn tinh thần của người chiến sĩ! Niềm hạnh phúc vô bờ của những
ai đã bỏ lại máu, thịt, xương của mình ngoài mặt trận! Bệnh viện
tối tân, đứng hàng thứ nhì của cả nước, chiều nay tất bật không
kém đường phố ngoài kia. Sôi nổi nhưng trật tự. Thật đáng khâm
phục!
Đại úy
Vương còn đau và mệt sau cuộc giải phẫu, nên chúng tôi không nói
chuyện nhiều, chỉ an ủi và bày tỏ sự thông cảm, đồng thời trấn an
nhau về tình hình hiện tại. Mãnh hổ một thời, nay chỉ là cọp già
một chân nên không dấu sự lo lắng cho vợ con. Tôi hứa sẽ làm hết
sức cho gia đình ông và ngay sau đó cảm thấy xấu hổ vì biết là
mình sẽ không giữ được lời.
– Nhưng ít ra mày cũng đã mang tới cho
ổng một tia hy vọng.
Kiệt “Mã Tấu” thở dài khi chúng tôi ra
cổng. Hy vọng là liều thuốc bổ về mọi mặt! Tôi im lặng, trong
lòng vẫn còn áy náy. Tép riu như tôi thì làm được gì!? Ngay lúc
này tôi cũng là “con Bà Phước” như Kiệt mà thôi. Thấy tôi không
vui, “Mã Tấu” cũng không bắt chuyện. Khi về tới Chợ Cồn anh chàng
mới kéo tôi đi ăn ở một quán cơm tại cầu Vồng. Sau bữa ăn, chúng
tôi đi một vòng từ đường Nguyễn Hoàng về ga xe lửa, qua Trần Cao
Vân rồi vào Tam Tòa nhưng không tìm được hai người bạn cùng khóa
Tiếp Liệu Binh Đoàn của tôi. Người nhà của họ cho biết là hai bạn
đó đã không thấy về từ hôm qua. Đến tối, chúng tôi ghé qua Lộng
Ngọc, quán cà phê quen thuộc của dạo nào chân uớt chân ráo mới ra
Đà Nẵng.
Chỉ
để ngồi cầu may xem có tên bạn nào “tung cánh chim tìm về tổ ấm”
hay không. Rốt cuộc cũng chỉ có Kiệt và tôi ôn cố tri tân cho đến
lúc quán đóng cửa.
– Tao hứa với một thằng em là về nhà nó
ngủ, nhưng bây giờ thì trễ quá rồi.
– Nhà ở đâu? Tôi hỏi lại.
– Đường Ông Ích Khiêm.
– Xa quá! Thôi, bụi đời đêm nay đi! Mai
tính.
Lại chui
vào khách sạn Ô Kê! Một đêm thân tình với mọi thứ trên đời đem ra
kể cho nhau nghe. Mới hôm nào cả đám gần 30 tên “quai chảo” quậy
tứ tung lúc mới vừa từ Sài Gòn ra. Sau đó mọi người thức trắng để
sáng chia tay ra đơn vị ngay sau đêm Giáng Sinh. Bây giờ chỉ có
hai đứa chúng tôi nằm rù rì cho quên niềm ưu tư, lo lắng.
Thứ Năm 27/03/1975.
Sáng.
Chia tay với Kiệt mà lòng bùi ngùi. Hai
thằng Sài Gòn gần như thức trắng đêm để bàn loạn đủ mọi điều liên
quan tới thời cuộc, để rồi chỉ nhìn nhau thở dài. Lại bắt tay
chúc bình an như hai năm trước. Lại hẹn gặp nhau, nhưng địa điểm
là tại... Sài Gòn! Hẹn, mà trong lòng rưng rức, bán tín bán nghi
vì...
Đà Nẵng
trong cơn hấp hối đã trở thành ngựa chứng. Hỗn loạn đến cùng cực!
Tình trạng tồi tệ đến mức rối rắm. Không cách gì vãn hồi được
trật tự. Nhà cửa ngoài phố đã có dấu hiệu vô chủ. Quân xa và cơ
giới vẫn chạy nghẹt đường. Lại thêm một ngày gượng sống để chờ
phép lạ, hay đúng hơn là chờ được di tản vào Nam trước khi địch
tràn vào. Con đường từ quốc lộ vào Phú Lộc bình thường chỉ toàn
in bánh xe ôm hay lác đác vài GMC hoặc Jeep ra vào, nhưng sáng
nay thì mù mịt bụi cát vì một đoàn quân xa đang từ hậu cứ chạy
ra. Không phải chuyển quân, mà dẫn đầu là chiếc Dodge của Trạm
Xá. Tôi chua xót nghĩ thầm: không lẽ...
Đúng như tôi dự đoán! Khi về tới
BCH/Liên Đoàn là tôi nhận được tin Tổng Y Viện Duy Tân đang di
tản. Xe ra đón thương binh rồi đưa họ thẳng xuống tàu Hải Quân để
vào Sài Gòn trước. Tàu Hải Quân đậu ở đâu, bến nào? Không ai
biết! Cứ cho xe ra nhận thương binh thì sẽ có chỉ thị tại chỗ
ngay. Thiếu úy cóc cắn như tôi mà còn biết là đã tới ngày cáo
chung của Quân Đoàn I và Đà Nẵng, huống chi các đàn anh cấp lớn
hơn. Cả hậu cứ vắng tanh dù chỉ mới hơn 10 giờ sáng!
Trưa.
Gặp Đại úy Phương tại Ban 4, thì được
biết sáng nay không có họp gì cả, vì Liên Đoàn Trưởng và Liên
Đoàn Phó cùng với các ban trực thuộc hành quân đều không thấy
đâu. Chắc là đi họp bên SĐ3 BB. Các ban khác thì chỉ làm việc cho
có rồi mạnh ai nấy chạy lo gởi gấm gia đình trên những chuyến bay
cuối cùng rời khỏi Đà Nẵng. Ban 4 thì lo giúp Bác sĩ Tín di tản
thương binh. Các Tiểu Đoàn, Pháo Đội 105ly và Đại Đội Thám kích
vẫn án binh bất động. Cũng có nghĩa là bất khiển dụng!
Bữa cơm trưa trong phòng ăn chỉ vỏn vẹn
có năm người: Đại úy Phương, Trung úy Long Ban 5, Thiếu úy Hướng
Ban Tài Chánh, tôi và người Hạ sĩ quan phụ trách ẩm thực. Không
có ai muốn gợi chuyện hay bàn luận, kể lể, nên bữa ăn thật buồn
tẻ. Hầu như ai nấy cũng chỉ cầm hơi và cố nuốt, để không phụ lòng
một quân nhân hết lòng với bổn phận và hết tình với Quân Đội là
người đã lo chu toàn hai bữa cơm cho chúng tôi.
– Có gì đâu, thiếu úy. Bổn phận mà!
Trung sĩ Kính cười nhẹ khi tôi ngỏ lời
cám ơn sau bữa ăn. Tôi lại đảo một vòng hậu cứ của TĐ 21và 39 BĐQ
rồi cả khu gia binh Phú Lộc mà vẫn không tìm được Nguyễn Văn Ước
và Cốc A Sam nên tôi lững thững lội ra tận ga Hòa Khánh, thăm gia
đình người chủ quán cà phê Hương Xưa. Quán trưa, người vắng. Anh
Quyến, một sĩ quan Cảnh Sát còn kẹt đâu đó trong Ty Nội An.
Tiếp tôi là chị Quyến và Hương, em anh
Quyến. Chúng tôi ngồi tại chiếc bàn quen thuộc, trong góc, sát
quầy thu tiền. Nơi mà chỉ mới một năm trước đây là chỗ tụ tập của
nhóm nhỏ ưa thích văn nghệ đủ mọi thành phần, đủ loại sắc phục
trong vùng. Chiếc bàn có khắc tên những người đã vĩnh viễn ra đi,
là nhân chứng của một chuyện tình dễ thương và lãng mạn không
thua gì tiểu thuyết, phim ảnh giữa một lao công đào binh và cô
học sinh Trường Nữ Hồng Đức, ngôi trường kết nghĩa với Tiểu Đoàn
37BĐQ.
Hồ Huy
Đăng, người lao công gốc Tiểu khu Gia Định, dân nhà giầu ham vui,
thích làm binh nhì hơn đi học khóa sĩ quan chỉ vì làm lính thì dễ
xin về gần Sài Gòn hơn làm quan. Anh là tay đàn ghi ta ngọt như
Trung Nghĩa, là thầy dạy nhảy của hầu hết những ai thích “nhót” ở
các Tiểu đoàn 37 và 39 BĐQ và cũng là linh hồn của ban Văn nghệ
Tiểu Đoàn chúng tôi. Lần nào về dưỡng quân, anh cũng ra đây ngồi
mỗi ngày. Cả đơn vị đều tin tưởng anh, nên thả lỏng cho anh muốn
đi đâu thì đi, không hỏi han, dò xét và không sợ anh bỏ trốn, dù
biết là người nhà đã có lần vào tận hậu cứ để thuyết phục anh vọt
ra Đà Nẵng để xuống tàu người anh rể, một sĩ quan cấp tá đang
công tác tuần duyên tại vùng biển miền Trung.
– Dù sao nó cũng có học. Tại gàn bướng
và nghệ sĩ quá nên cứ là lính suốt đời.
Thiếu tá Gio đã từng công khai bày tỏ
sự thương tưởng của mình đối với một lao công đào binh đa tài, đa
năng. Buồn thay! Chỉ một ngày sau khi được phục hồi danh dự, cố
Binh Nhứt Hồ Huy Đăng đạp mìn banh xác tại Trà Kiệu, cuối tháng
7/1974, để lại những trái tim đẫm lệ tại Phú Lộc, Hòa Khánh và cả
Sài Gòn.
– Hồi
đó vui quá! Chị Quyến chép miệng thở dài.
– Ngày nào cũng ca hát tới khuya.
Hương cũng gật đầu phụ họa. Mọi người
đều nói chưa bao giờ khu này dễ thương đến như vậy. Tôi cũng góp
lời nhắc những chuyện tưởng chừng như không thể nào thực hiện
được trong môi trường và điều kiện của đời quân ngũ. Trong một
lần dưỡng quân, nhằm phiên tôi trực Đại Đội, nên phải dẫn cả
Trung đội qua nằm bên hậu cứ Liên Đoàn ứng chiến. Tối hôm đó, cả
nhóm văn nghệ Tiểu Đoàn hẹn nhau ra Hương Xưa để họp mừng Sinh
nhật của Hương. Thiếu một người cũng mất vui, nên tôi bỏ nhỏ với
anh em là nếu có gì cần thì chạy ra quán gọi tôi về ngay.
Buổi họp mặt thật thân tình. Quán cà
phê thành sân khấu văn nghệ. Mọi thực khách, từ bạn học của Hương
cho tới hàng xóm của anh chị Quyến, vốn là những người lính của
SĐ3 BB, Phân Chi Khu Hòa Khánh và cả Nhân Dân Tự Vệ trong khu
vực, đều hát hò với nhóm BĐQ một cách thân mật. Tất nhiên, người
vui nhứt là cô nữ sinh vừa tròn 17 tuổi, và nổi bật hơn hết là Hồ
Huy Đăng. Vui quá nên quên cả giờ giấc và ngoại cảnh. Đến khi tan
hàng thì tôi điếng hồn khi nhận ra cả đám em út, với súng đạn đầy
đủ, đang cười cười đứng ngay ngoài cửa chờ chúng tôi về chung.
Thấy tôi nhăn nhó, anh chàng tiểu đội trưởng khinh binh trấn an.
– Chuẩn úy đừng lo! Chỉ cần có vài
người theo tăng cường cho Kiểm Soát Quân Sự thôi, nên ông phó cho
tụi này ra đây, cả buổi tối mà nằm treo võng trong đó thì chán
chết!
May quá!
Đúng như lời anh ta nói. Không có gì trục trặc trong suốt mấy
tiếng đồng hồ vui chơi ngoài quán. Thật là một kỷ niệm khó quên!
Tôi từ giã chị Quyến và Hương sau vài lời an ủi về sự lo lắng tất
nhiên cho một tương lai mờ mịt. Nói với họ mà cũng như nói với
chính mình vì trong hoàn cảnh hiện nay thì ai cũng như ai. Mọi
người đều là nạn nhân của thời cuộc. Cách này hay cách khác.
Chiều. Hậu cứ vẫn một nhịp điệu lây lất
cho hết ngày. Thưa thớt người qua lại. Chỉ có khu vực phòng Tài
Chánh là còn một số thân nhân tử sĩ ngồi chờ thủ tục giấy tờ. Các
nơi khác đều vắng tanh. Bên Câu Lạc Bộ thì từng nhóm vài ba người
ngồi bàn tán công khai tình hình chiến sự. Tôi gặp lại Đại úy
Phương tại đây. Anh Phương ngồi một mình tư lự, tay xoay xoay ly
cà phê một cách vô thức trong khi mắt dán vào khoảng trống ngoài
cửa sổ kế bên. Thoáng thấy tôi, anh vẫy tay gọi lại ngồi chung
bàn:
– Huy còn
ở lòng vòng với Liên Đoàn hả?
– Thì cũng như Đại úy thôi.
– Tôi thì khác. Dù sao cũng còn mấy tấn
sắt vô dụng vì chẳng còn đạn, nằm bên kia chưa biết giải quyết ra
sao. Còn Huy thì đã hết bổn phận ở đây rồi mà!
Tôi cười, nói đại khái về tình hình bên
Tiểu Đoàn 37 và cả hai Tiểu Đoàn còn lại cho anh biết, rồi kết
luận:
– Hậu cứ
chẳng còn gì để bàn giao. Dù có thì cũng chỉ là con số trên giấy
tờ mà thôi. Giữ sự vụ lệnh lại làm kỷ niệm còn hơn.
Chúng tôi cùng im lặng hồi lâu. Đại úy
Phương lại nhìn ra cửa sổ, còn tôi châm điếu thuốc, dựa lưng vào
tường, thả bâng quơ vài vòng khói trắng, trong đầu trống rỗng.
Một lát sau, chúng tôi từ giã nhau. Anh Phương về lại Pháo Đội
còn tôi bước ra cổng, trong lòng nghĩ ngợi lan man, một lúc sau
mới biết là đang trên đường vào hậu cứ Tiểu Đoàn 37 BĐQ. Nhưng
thay vì quẹo phải để tới cổng chánh thì tôi đi thẳng, xuyên qua
ngôi làng nhỏ, ngay trước mặt hậu cứ để ra tới biển.
Tôi nằm dài trên cát, dưới bóng mát của
hàng dương, nhìn ra khơi. Xa xa là vài chiếc thuyền con đang
hướng về chân trời, nơi có những chấm đen chập chờn trong khói
sóng. Là tàu Hải Quân như lời đồn hay là ảo giác của hy vọng mong
manh? Mặc kệ! Tôi nhắm mắt, thiếp đi trong tiếng sóng đều đặn vỗ
bờ và tiếng rì rào nhè nhẹ như âm nhạc của hàng dương cao, rậm.
Giấc ngủ ngắn nhưng thật say, không mộng mị, đủ lấy lại sức sau
mấy ngày biếng ăn, mất ngủ. Nước biển mát lạnh làm tôi tỉnh hẳn
khi vốc mấy bụm rửa mặt. Trở ra theo con đường cũ, tôi lững thững
vòng qua hậu cứ Tiểu Đoàn 37. Vừa tới cổng thì gặp Nguyễn Thanh
Vân và Trung sĩ Tuấn – từng làm phó cho tôi một thời gian – bây
giờ là Trung đội phó của Vân, cùng đi ra. Gặp tôi, Vân nói đùa:
– Về nhận bàn giao trễ vậy ông?! Phải
khao đó nghe!
Tôi hỏi thăm tình hình, thì được biết hậu cứ TĐ 37 BĐQ chỉ còn
cái vỏ. Mỗi ngày điểm danh cho có lệ. Chỉ có trực gác là còn quy
củ nhà binh. Mọi thứ khác, kể cả lệnh cấm trại và ứng chiến tại
chỗ coi như đã không còn hiệu lực. Bằng chứng là hai chàng đang
trên đường rời hậu cứ để ra Đà Nẵng. Vân rủ tôi cùng đi. Tôi gật
đầu. Cả ba chúng tôi đi tắt xuống khu gia binh, băng qua đám
ruộng và khu nghĩa trang cũ của người Hoa để ra Phú Lộc. Chừng
nửa tiếng sau là chúng tôi có mặt ngoài Chợ Cồn.
Trong những ồn ào của thành phố đang
tuyệt vọng, có ba chàng độc thân đi lang thang, hòa lẫn vào dòng
thác ngược xuôi của đám rắn không đầu, của đám cọp không còn móng
vuốt. Một Sư Đoàn Bộ Binh còn nguyên vẹn, hơn một Trung Đoàn Bộ
Binh từ Huế vào, 3 Liên Đoàn Biệt Động Quân, một Trung Đoàn của
SĐ 2BB, không kể hai Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở vùng Hà Nha,
Thường Đức và các đơn vị của Tiểu khu Quảng Nam, Quảng Tín cùng
với những đơn vị và binh chủng khác đều đang tập trung tại Đà
Nẵng. Nửa triệu người! Trong số đó, có ít nhứt 20 ngàn tay súng
còn đủ khả năng tác chiến. Vậy mà Đà Nẵng không có sức kháng cự
và sắp rơi vào tay địch.
Vì sao!? Chúng tôi không có thì giờ và
cũng không muốn nhức đầu vì những viễn ảnh đen tối, nên tận dụng
thời gian để lòng vòng phố xá. Vui được lúc nào hay lúc đó. Lại
quán hàng lê la, lại cà phê, bida cả buổi tối rồi vòng trở lại
Phước Tường, tìm đến nhà Trung sĩ I Lộc, một thời cũng làm phó
cho Vân. Lộc “điếc” niềm nở tiếp chúng tôi và bày ngay một chầu
nhậu dã chiến để “lãng quên đời”. Chưa có cuộc nhậu nào “êm ái”
như lần này vì cả bốn người không ai buồn mở miệng nói, đùa như
thường lệ. Chỉ rót cho nhau rồi yên lặng nâng ly. Cứ như vậy mà
uống cho tới khi chị Lộc nhắc mọi người đi ngủ thì cũng đã gần
sáng.
Thứ Sáu
28/03/1975. 8:00.
Sáng. Lộc “điếc” quyết định không vào
hậu cứ. Trung sĩ Tuấn cũng về nhà tận trong Tam Tòa. Chỉ có Vân
và tôi đón xe lam vào Phú Lộc dù không biết là sẽ làm gì sau đó.
Lại một ngày dài đang bắt đầu trong hối hả. Đà Nẵng như đang chạy
đua với thời gian. Địch gia tăng pháo kích vào phi trường, đài
Kiểm Báo và căn cứ Hải Quân bên Sơn Trà. Phố vẫn đông nghẹt người
và xe. Vẫn là nỗi hớt hải như những ngày qua, nhưng hôm nay thì
trầm trọng hơn. Chúng tôi chia tay khi vào tới Phú Lộc. Vân theo
đường tắt, băng ruộng vào Tiểu Đoàn 37BĐQ.
Tôi quyết định vào Bộ Chỉ Huy Liên
Đoàn. Vắng ngắt! Chỉ lẻ tẻ một vài người còn ngồi đâu đó trong
các văn phòng. Hình như không còn ai muốn làm việc. Câu Lạc Bộ
cũng không có ai. Tôi rảo một vòng rồi về lại văn phòng Ban 4.
Chỉ có Trung sĩ Năm đang xớ rớ trước cửa. Tôi hỏi thăm anh về Đại
úy Quỳnh, Trưởng Ban 4 và về cuộc di tản thương binh cả ngày hôm
qua. Trung sĩ Năm lắc đầu:
– Tội nghiệp ông Quỳnh lắm! Ổng lo đủ
thứ. Chạy tới chạy lui với Bác sĩ Tín để lo cho anh em ngoài Quân
Y Viện Duy Tân. Nhưng khi xuống tới bến phà thì không thấy tàu
nào vô được. Tụi nó pháo quá xá! Bên phi trường còn tệ hơn, cũng
bị pháo tưng bừng. Chết nhiều lắm! Nghe nói mình xin cho thương
binh nằm tạm trong Bệnh Viện Việt Đức để chờ tải thương tiếp.
Sáng nay ổng có vào đây một chút rồi vọt ngay về nhà để lo cho
gia đình. Công việc ở đây chỉ có tôi. Mấy anh em khác thì cũng ở
nhà luôn từ lâu nay rồi.
Tôi nghe nói mà cảm thấy xấu hổ vì mấy
hôm vừa qua chỉ biết thở ngắn, than dài và lòng vòng cho qua ngày
giờ. Vì vậy tôi quyết định ở lại Ban 4 biết đâu chừng còn có thể
làm được chuyện gì đó. Trung sĩ Năm mừng rỡ giao cho tôi mớ công
điện mới nhận và những báo cáo vừa thảo xong rồi từ giã ra về.
Tôi vừa xem báo cáo vừa quay điện thoại
gọi qua hậu cứ Tiểu Đoàn 37, mục đích là thăm Thiếu tá Gio và
giải thích vì sao tôi có Sự Vụ Lệnh mà không về nhận bàn giao.
Bên kia đầu dây là Thiếu úy Tuấn, người tạm thay thế Thiếu úy
Nguyễn Văn An, để chỉ huy hậu cứ từ tháng Giêng đến nay.
– Ông Huy ơi là ông Huy! Đi đâu mất
biệt vậy?!
Tôi
giải thích việc Trung tá An giữ tôi ngoài Ban 4 hành quân để Đại
úy Quỳnh lo cho Ban 4 hậu cứ. Sau đó “xếp” quên luôn nhu cầu của
Tiểu Đoàn 37, mãi cho tới hôm kia mới có lệnh trả tôi về. Tiếc là
đã quá trễ!
–
Nhờ hồng phúc của ngài, nên tui hưởng nhàn mấy tháng nay. Khỏe
chuyện này nhưng nhức đầu chuyện khác, huynh trưởng ơi!
Chúng tôi nói thêm vài chuyện nữa rồi
gác máy. Người bạn Khóa 59 Rừng Núi Sình Lầy, có gốc cỡ cổ thụ vì
bố là công chức cao cấp, dân kỳ cựu làm tại Tòa Hành Chánh tỉnh.
Từ lề đường Bạch Đằng, thoải mái buớc xuống sông Hàn là có ghe
đưa ngay ra tàu Hải Quân, vậy mà Tuấn vẫn chung thủy ngồi tại hậu
cứ trong lúc chung quanh chẳng còn ai. Thật đáng nể phục!
Có bóng người đến ngay trước cửa. Là
Nguyễn Thanh Vân, với ba lô mini đeo một bên vai! Trên nắp ba lô
là hai trái “măng cụt” M67. Lựu đạn tròn khó cầm nhưng dễ ném
hoặc lăn.
Tôi
cười khi gặp anh chàng vừa bước vào:
– Ông đi hành quân hả?!
– Tui tính đi luôn nhưng nghĩ tới ông,
nên vô đây từ giã.
Tôi hỏi Vân định đi đâu. Người bạn gốc
khóa 6/72 Thủ Đức nói ngay là xuống Thanh Bình, ra bờ biển tìm
ghe đánh cá, mướn họ ra khơi. Cùng lắm là cướp ghe. Tôi hỏi sao
không thực hiện chuyện này ngay tại làng chài Phú Lộc, thì Vân
lắc đầu:
– Họ
chỉ có ghe nhỏ. Máy không đủ mạnh để nhồi sóng. Vả lại quen nhau
quá! Làm liều, trở mặt cướp ghe thì...
Vân bỏ lửng câu nói, nhưng tôi hiểu. Dù
trong hoàn cảnh sống chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc thì người
lính cũng nghĩ đến chút tình quân dân. Huống chi đây lại là những
người rất thân quen với Biệt Động Quân từ bao lâu nay. Biết Vân
không còn tiền, vì lương tháng 3 đã xả láng từ lúc còn nằm trong
Trạm Xá của Bác sĩ Tín khi bị sốt rét ở Tam Kỳ, nên tôi móc túi
đưa cho anh chàng một ít. Anh bạn gốc Long Xuyên từ chối. Tôi
nhét đại vào túi áo của Vân:
– Coi như cho mượn. Nếu về được Sài Gòn
ông thì ghé đưa cho bà già tôi.
Vân ngập ngừng rồi gật đầu. Chúng tôi
từ giã nhau sau lời chúc bình an và cái siết tay thật chặt. Khi
ra tới cửa, Vân bất chợt quay lại hỏi tôi:
– Tụi mình đi chung nha?! Ông đâu cần
phải ở lại đây!
Tôi lắc đầu, không trả lời, chỉ cười
tiễn chân bạn, lòng thầm chúc bình an cho Vân. Bạn đi chưa bao
lâu thì có một chiếc Jeep ghé lại. Bước xuống xe là một trung tá.
Tôi ra cửa chào ông. Vị trung tá cho biết ông thuộc Phòng 1 của
SĐ3 BB, vừa chạy một vòng doanh trại của các Tiểu Đoàn rồi mới
ghé qua hậu cứ Liên Đoàn.
– Như đi vào chỗ không người! Lính
tráng hầu không còn ai. Nơi này cũng vậy. Thiếu úy là sĩ quan duy
nhất còn trực văn phòng.
Tôi không giải thích hoàn cảnh của
mình, mà chỉ hỏi thăm vị trung tá về sự có mặt của ông thì được
biết là Sư Đoàn 3BB cần nắm chắc khả năng tác chiến của đơn vị,
kể cả tăng phái, để có kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng. Ông cho biết
đại đơn vị của Sư Đoàn đang từ vùng Đức Dục và Đại Lộc rút về.
Mặt trận tại Nam Ô, và ở phía Tây Bắc thì hy vọng vào Tiểu Khu
Quảng Nam và Liên Đoàn 12 BĐQ. Ông ra cửa, thở dài, nhìn quanh
một vòng rồi lên xe sau câu nói:
– Với tình hình này thì coi như tuyệt
vọng rồi!
Tôi
thừ người ngồi nhìn mớ giấy tờ bề bộn trên bàn, lòng trống rỗng.
Một lát sau, tôi bỏ ra ngoài, đi một vòng khu vực sân cờ. Đã quá
trưa nên cả hậu cứ đã vắng càng thêm vắng. Bước chân đưa tôi thả
dài qua Câu Lạc Bộ rồi ra cổng chính. Trại gia binh và con đường
ngoài Phú Lộc đang rần rần người qua lại. Không thấy ai quen.
Cũng không biết phải làm gì nên tôi trở vào Ban 4, nằm trên chiếc
ghế bố trong góc phòng, định nghỉ mệt một chút rồi đi kiếm gì ăn,
không ngờ lại ngủ một giấc ngon lành.
Chiều. Bụng đói khi thức dậy. Lại mì
gói bên Câu Lạc Bộ. Cà phê và vài hơi thuốc cho tỉnh táo rồi ngồi
đó mà vẩn vơ nghĩ ngợi về tình trạng của đơn vị và tình hình
chung. Rối rắm và mù mờ về mọi mặt. Bỏ đi, hay ở lại?! Chỉ có bấy
nhiêu thôi mà lấn cấn, phân vân thật nhức đầu. Sau cùng, tôi trở
qua bên dãy văn phòng của Liên Đoàn. Vừa đi ngang qua khu Tài
Chánh thì đã thấy Đại úy Phương và người tài xế của anh. Xe đang
nổ máy. Anh Phương mang nón sắt và cả áo giáp như đi hành quân.
Thấy tôi, anh xuống xe kéo tôi lại.
– Huy hay gì chưa?
– Hay chuyện gì, đại úy?
– Thượng sĩ Chấn ôm tiền vọt rồi! Bây
giờ Ban Tài Chánh trống trơn. Thiếu tá Bộ, Chỉ huy Hậu Cứ thì cả
ngày nay không thấy đâu. Trung tá An nghe nói ở miết trong nhà.
Hậu cứ bây giờ coi như vô chủ. Huy có muốn đi với tôi không?
Lần thứ nhì có người rủ tôi đi. Đi
đâu?! Cá nằm trong rọ. Thú kẹt trong chuồng. Lấy gì mà thoát?!
Cũng như nhiều người khác, anh Phương đưa ra một lối thoát, một
hy vọng:
–
Mình tìm cách qua Bộ Chỉ Huy Hải Quân bên Sơn Trà, hay qua Non
Nước may ra có tàu hay ghe đón ra biển.
Nghe cũng có lý, nhưng tôi ngần ngại vì
nhiều nguyên do mà quan trọng nhứt vẫn là vì đơn vị đang còn đây.
Không thể bỏ đi ngang như vậy! Anh Phương tỏ vẻ thất vọng khi tôi
lắc đầu nhưng không nói gì, chỉ đưa tay bắt rồi ra hiệu cho tài
xế chuyển bánh. Tôi đứng nghiêm chào anh để tỏ lòng kính trọng
một đàn anh vui tánh và hiền hòa với mọi người.
Bên phòng Tài Chánh không còn ai lảng
vảng. Nhưng rồi từ đâu không biết, một số quân nhân đến trước cửa
nhìn vào, bàn tán xôn xao. Có người còn khẳng định thấy Thượng sĩ
Chấn ôm cặp táp đi về hướng biển Phú Lộc. Người khác thì nói ông
Chấn có bà con làm lớn bên Hải Quân nên hẹn nhau đưa tàu vào đón
ra khơi. Thôi thì đủ mọi thứ tin đồn.
Nhưng chắc chắn Thượng sĩ Chấn không
thể mang đi hết số tiền trong két sắt. Hình như lương lính vẫn
chưa phát chỉ vì muốn giữ chân họ, nên tiền còn lại chắc chắn
phải hơn chục triệu. Không phát lương mà lính không làm loạn thì
cũng lạ nên tôi cũng bán tín bán nghi. Mọi người còn đang ồn ào,
lao nhao thì Trung úy Huỳnh Long, Trưởng Ban 5, từ đâu xuất hiện
ra lệnh giải tán. Khi chỉ còn lại hai người, anh nói nhỏ với tôi:
– Trung tá An chỉ thị riêng cho tôi và
ông Hòe bằng mọi cách phải đục tủ sắt lấy tiền. Không thể bỏ cho
tụi nó lấy xài! Cơm chiều xong là bắt tay vào việc. Huy có thể
giúp một tay không? Bí mật! Càng ít người biết càng tốt!
Tôi gật đầu, phần lớn vì tò mò và cũng
vì không biết đi đâu, làm gì cho qua đêm nay. Trung úy Long vui
mừng hẹn gặp lại khoảng 7 giờ tối, rồi về khu cư xá sĩ quan bên
kia đường. Còn tôi định ra Hòa Khánh xem lễ chiều và ghé cà phê
Hương Xưa giết thì giờ. Nhưng mới đi tới sân cờ là gặp Đại úy
Hòe, Trưởng ban 3. Ông cho biết là cần gấp một số quân xa, càng
nhiều càng tốt để lo chuyển gia đình binh sĩ ra bến phà ngoài
sông Hàn chờ tàu Hải Quân vào đón.
– Không có Ông Quỳnh ở đây. Huy lo dùm
nha. Càng sớm càng tốt!
Tôi gật đầu, không suy nghĩ. Quay điện
thoại gọi hậu cứ của các tiểu đoàn, nói ngắn gọn mọi chuyện. Đi
một vòng gom những ai còn lai vãng để phụ mở kho kiểm lại xăng,
dầu, chờ cấp phát cho đoàn xe. Còn đang đôn đốc nhân sự, thì có
người nói đã thấy Đại úy Quỳnh đưa đoàn xe Quân Vận vào hậu cứ.
Ông đang vào tìm và bàn riêng với Trung tá An bên khu cư xá.
19:00. Bên ngoài rần rần người đang lên
xe. Trong dãy văn phòng của Liên Đoàn chỉ có phòng của Ban Tài
Chánh có đèn. Các nơi khác đều đã đóng cửa im lìm. Đại úy Hòe,
Trung úy Long và tôi ngồi trên băng ghế nhìn tủ sắt đựng tiền.
“Đồ nghề” chỉ có hai cây búa và một cái đục sắt tà đầu. Hơn 10cm
bê tông đằng sau lớp vỏ bằng thép, đục như thế nào đây!? Bàn qua
tính lại một hồi thì Trung úy Long ra tay trước, mới đầu gõ nhè
nhẹ, sợ có ai nghe được rồi tò mò vào xem thì phiền. Nhưng sau đó
là tống hết sức. Tiếng kim khí vang rền trong đêm.
– ... Mẹ! Thằng nào mò vô đây, tao bắt
làm cho biết. Tiền của Quân Đội mà! Chỉ có mấy “quan” làm thì bất
công quá! Đau tay thấy mẹ!
Trung úy Long lẩm bẩm xong liền đưa búa
cho tôi. Ba người thay nhau hì hục làm đến nửa đêm mà kết quả chỉ
mới được một lỗ cỡ chừng trái cam quanh ổ khóa. Chúng tôi bàn
nhau chắc là phải dùng claymore thì họa may mới phá được tủ bê
tông, nhưng lại sợ náo động cả hậu cứ và gây hoang mang cho những
người còn đang chờ di tản ngoài kia.
Thứ Bảy 28/03/1975.
Khoảng 2 giờ
sáng, Đại úy Hòe cho biết Trung tá An có hỏi thăm tình hình “thụt
két”, rồi nói là cứ ráng thêm chút nữa xem sao. Mỏi nhừ và vộp cả
hai tay mà chưa phá được lớp bê tông. Chán nản, chúng tôi ra ngồi
ngoài sân cho mát. Đến lúc này mới nghe loáng thoáng tiếng vọng
của pháo kích. Không biết là địch đang rót vào đâu, rất đều đặn.
Đoàn xe di tản cũng đang vét chuyến cuối cùng. Tin tức cho hay
mỗi lần trở ra đường là càng khó di chuyển vì xe cộ lưu thông bừa
bãi và đều hướng về phía Sơn Trà, qua ngõ cầu Trình Minh Thế. Ba
chúng tôi nhìn nhau. Không ai nói lời nào. Một lát sau lại trở
vào tiếp tục “công tác”.
5:00. Cả khu hậu cứ im lìm. Hoặc là mọi
người đã được đưa đi, hoặc Phú Lộc đang ngủ vùi sau một đêm dao
động. Mệt, mỏi, thất vọng và bất lực nên chúng tôi bỏ cuộc. Tủ
sắt vẫn ngạo nghễ nằm im đó, loang lở, lem nhem, nhưng... vô sự!
Đại úy Hòe sang cư xá báo cáo cho Trung tá An rồi trở qua tự mình
ngồi vào tay lái của chiếc Jeep đang chờ sẵn. Trung úy Long kế
bên, còn tôi và tài xế cùng với một “đệ tử” ngồi băng sau. Trên
xe có đủ vũ khí cho mọi người, kể cả lựu đạn và M79. Xe ra cổng.
Người lính vẫn còn đứng trong vọng gác nhìn theo. Thôn Phú Lộc
không có tiếng động. Trên xe cũng im lặng, mỗi người một tâm
trạng. Không ai nói với ai lời nào.
Quang cảnh ngoài quốc lộ thật bình yên.
Xe cộ lác đác nên Đại úy Hòe phóng thoải mái. Tới ngã ba Cây Lan
rồi vào Đà Nẵng mới bắt đầu đông dần. Tân cảng thì khác. Xe cộ đủ
loại đậu loạn xạ. Khó khăn lắm mới lách vào tận cổng. Người lính
an ninh Tân Cảng nhứt định bắt chúng tôi bỏ xe, bỏ súng mới cho
vào. Đang căng thẳng thì ông Hòe bảo lên xe rồi quay đầu chạy ra,
vượt cầu Trịnh Minh Thế. Tới ngã ba Non Nuớc, vừa quẹo về hướng
Sơn Trà thì đã thấy quân xa đủ loại nằm chơ vơ trên đường. Không
thể nào chạy tiếp. Đại úy Hòe cho xe quay đầu nhắm hướng Non
Nước, tống hết ga.
6:30. Ánh bình minh lờ mờ đủ soi sáng
cảnh tượng hoang tàn trong Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Vùng 1. Giấy
tờ vung vãi đầy đường. Căn cứ Non Nước đã thành một bãi rác với
từng nhóm người đang phá tung những dãy nhà tiền chế và kho quân
lương của Liên Đoàn 14 BĐQ để hôi của. Đại úy Hòe chán nản quay
xe trở ra. Trạm gác ngoài cổng đã mất bóng người lính đứng trực
khi mới vào. Nhìn thoáng qua nhà chờ đợi kế bên thì thấy lố nhố
những bóng người với mớ vũ khí không thể lầm lẫn được: B40 và...
AK!
– Chết mẹ!
Việt Cộng!
Đại
úy Hòe rít lên trong kẽ răng rồi nhấn ga. Chiếc Jeep lao vội trở
ra, bụi bay mù mịt, bánh nghiến trên đường khét lẹt. Đôi bên
không ai nổ súng. Nếu có thì hậu quả sẽ ra sao? Chúng tôi cùng im
lặng cho đến khi trở lại khu Tân Cảng dưới chân cầu Trịnh Minh
Thế. Đã không có cách nào chạy sâu vào tận cổng như lúc sáng sớm.
Xe cộ bỏ lền khên ngoài đường, chắn cả lối vào vốn rất rộng. Đại
úy Hòe do dự dừng xe, chúng tôi bước xuống nhìn đoàn người đang
lũ lượt tay xách, nách mang, vượt qua cổng để vào trong bến phà.
Lưỡng lự và phân vân một hồi lâu, Trung
úy Huỳnh Long đề nghị chạy một vòng qua quận Nhứt, xuống đại lộ
Bạch Đằng cầu may, hay về bên biển Thanh Bình tìm ghe. Đại úy Hòe
gật đầu, ra hiệu lên xe. Nhưng tôi chán nản không muốn đi đâu
nữa. Ai cũng nhìn tôi ngạc nhiên nhưng rồi chỉ lặng lẽ chào nhau
sau vài lời chúc may mắn. Tôi đứng im nhìn theo xe vọt về hướng
Đà Nẵng rồi lẫn vào dòng người bước vào Tân Cảng. Đã không còn
bóng dáng người lính giữ an ninh ngoài cổng. Mọi người thoải mái
mang vũ khí đủ loại xuống bến phà. Tôi bất giác sờ vào bụng và
túi quần. Khẩu Colt 45 với hai gắp đạn cùng với hai trái “măng
cụt” M67 làm tôi yên tâm phần nào.
8:00 Tôi chọn đại chiếc xà lan gần
nhứt. Vừa ngồi xuống một chỗ trống là đã nghe một câu than thở
thật não lòng:
– Chờ từ 2 giờ sáng cho tới giờ này mà
không thấy tàu vô kéo ra. Rầu quá!
Như vậy là trước đó đã có người được
đón ra tàu Hải Quân. Và những căn cứ sát biển dễ dàng di tản hơn
hết. Còn tại đây và trên sông Hàn thì đành chào thua vì địch pháo
chận ngay ngoài cửa biển. Biết như vậy thà ở lại Phú Lộc rồi liều
mạng lấy ghe vượt sóng cho rồi. Tôi nhủ thầm, trong lòng nặng
trĩu. Đang còn vẩn vơ nhìn qua ngó lại thì có người gọi tên tôi.
Chị Hương từ trong đám đông chen đến kế bên tôi. Vừa nắm tay tôi
là chị bật khóc nức nở. Tôi cũng kềm lòng để khỏi qụy ngã trong
lúc này. Nhìn chị tiều tụy và hốc hác làm tôi thấy nhói nơi ngực.
Người vợ lính là như vậy. Chịu đựng một
cách âm thầm. Chấp nhận mọi nghịch cảnh.
Nhưng trong trường hợp của chị và những
ai cùng hoàn cảnh thì thật đau lòng. Xác chồng không nhận được.
Nay lại phải chấp nhận đời góa phụ trong lúc cô đơn và đau khổ
tột cùng. Tôi không biết phải an ủi thế nào nên chỉ hỏi chị Hương
về dự định cho tương lai.
– Thì chỉ mong đừng lọt vào tay tụi nó
thôi. Đã chạy một lần rồi. Bây giờ lại gặp nữa thì đúng là tận
số. Tôi chỉ mong về đến Hố Nai thì xin lễ và phát tang cho anh
Công một lượt. Hai, ba tuần nay chỉ biết chầu chực lo giấy tờ mà
thôi.
Rồi chị
lại bật khóc, làm tôi luống cuống. Nhìn túi xách nhỏ xíu trên vai
chị, tôi bùi ngùi nghĩ đến anh bạn thân. Có lẽ hành trang của chị
chỉ là mớ hình ảnh kỷ niệm mà tôi đã xem đi xem lại mấy lần trong
căn nhà của trại gia binh. Đang tìm lời an ủi chị Hương thì một
tràng đạn giòn giã quét ngang trên đầu. Mọi người hết hồn rạp
người trên xà lan. Nhiều tiếng la hét kèm lời văng tục và tiếng
chửi thề vọng lại từ trên bờ.
– Thôi mấy ông ơi. Giờ phút này còn bắn
nhau làm gì. Sao không giỏi bắn nhau với Việt Cộng đi!
Một cụ già đã thống thiết kêu lên giữa
tiếng lên đạn và tiếng chân chạy rầm rập, nghe thật gần.
– Ông là sĩ quan. Vậy nói với họ một
tiếng đi!
Tôi
ngẩng dậy nhìn quanh. Thì ra một bà cụ ngồi gần chị Hương đang
còn chỉ vào tôi.
– Nói một tiếng đi ông!
Tôi than trời trong bụng. Nhìn lại thì
ai nấy đều không có lon lá, còn mình thì vẫn sờ sờ bông mai trên
cổ áo. Chết lúc này thì thật là lãng nhách. Tôi vừa lồm cồm ngồi
dậy vừa than thầm. Trên bến là một nhóm quân nhân chừng hơn chục
người đang dàn hàng ngang, súng chĩa thẳng ra hướng sông. Sau
lưng họ là những người cùng phe đang vào trong kho Quân Tiếp Vụ
hôi của. Tràng đạn vừa rồi là để cản bước những ai muốn ăn ké để
lôi ra nào là thuốc lá, sữa hộp và những thùng giấy, xa quá không
nhận ra là thứ gi.
Tôi bước lên bờ, đang lưỡng lự vì thấy
không đáng để dàn xếp gì cả, thì có vài tiếng reo từ phía sau
lưng:
– Có đồ
chơi đây thiếu úy.
Quay lại thì thấy một người ngồi trên
xe lăn với vũ khí đủ loại vắt ngang bụng. Ba bốn người đi theo
chung quanh, trang bị như đang ở hành quân, với cả M60 và M79.
Người thương binh cười thật tươi, chìa cho tôi một khẩu M16, băng
cong.
– Lâu
quá mới gặp lại thiếu úy!
Là Đồng “đen”, do nước da thật sậm nhìn
thoáng cứ tưởng là lai Miên hay Mỹ đen! Lê Thành Đồng, bỏ học
đăng lính năm 16 tuổi chỉ vì “... Thích bộ đồ bông và cái mũ nâu.
Trông ngầu gì đâu!”. Là binh nhì muôn năm dù đánh trận không thua
bất cứ một chiến sĩ xuất sắt nào. Không lên lon được là vì ba gai
và thường xuyên trốn trực gác mỗi lần về dưỡng quân tại hậu cứ.
Anh cũng là thương binh đầu tiên vì đạp mìn trong ngày giải tỏa
áp lực địch tại Trà Kiệu, mở đường cho cuộc di hành về cầu Giao
Thủy, để từ đó tiến vào quận Đức Dục, tháng 7/1974. Đồng “đen”
vẫn không thay đổi mặc dù đôi chân bây giờ là chiếc xe lăn. Vẫn
nụ cười tươi như một hình thức ngụy trang cho tình cảm bên trong
và vẫn là sự hăm hở khi nhập trận. Chỉ có điều...
– Thôi đi mấy ông ơi. Vịêt Cộng tới sát
bên đít rồi còn ở đó sanh sự với nhau làm gì!
Tiếng ai đó bất chợt kêu lên thống
thiết làm mọi người chùn bước. Và nhóm lính bên kia dường như đã
hôi của chán chê, hay nhìn đám đồ bông bây giờ đang hàng ngang cỡ
vài chục mạng, nên đâm ra lạnh giò, nên lần hồi tản mát vào đám
đông. Dường như chỉ chờ có thế, đám bạn của “nguời hùng xe lăn”
ào ạt xung phong vào kho. Theo sau họ là một rừng người, mới vừa
rồi còn nép mình thật sát xuống sàn tàu hay trên mặt đường, bây
giờ thì tranh nhau vào quơ quào, vơ vét. Tôi lẳng lặng trở về xà
lan, ngồi nhìn về hướng biển rồi Sơn Trà. Không có bóng dáng một
con tàu nào trở lại kéo xà lan ra khơi. Hằng ngàn người tuyệt
vọng đứng ngồi không yên, đã có một số bỏ lên bờ và tiến dần ra
cổng.
Tôi xách
khẩu M16 đi dài theo bến phà tân cảng. Cả chục chiếc xà lan đông
nghẹt người và người. Ai nấy thấp thỏm, âu lo, trông ngóng. Trong
số hằng ngàn người chắc chắn có đồng đội của tôi, nhưng không ai
nhìn nhau. Để làm gì! Bất quá cũng chỉ là những câu chuyện về đơn
vị, hay cùng lắm là trao đổi một vài tia hy vọng mà thôi.
Khi tôi trở lại chỗ cũ thì Đồng “đen”
đang làm công việc “từ thiện”. Anh chàng phân phát toàn bộ “chiến
lợi phẩm” lấy trong kho ra cho mọi người. Thấy tôi đang trờ tới,
Đồng “đen” đưa tay vẫy rồi sau đó nhét vào tay tôi hai cây thuốc
Quân Tiếp Vụ:
– Thiếu úy hút với tụi em cho vui.
Tôi cám ơn rồi bỏ vào túi mọi đeo trên
vai mặc dù Ruby Quân Tiếp Vụ không phải là loại thuốc lá tôi
thường hút. Nhìn qua phía nhà kho thì vẫn còn người ra kẻ vào
không ngớt. Có lẽ ngồi lâu, buồn chán nên khi có dịp là họ sẵn
sàng khuấy động, huống chi đây lại là dịp may hiếm có để vơ vét
của chùa.
12:00. Nắng trên đầu dọi xuống. Nóng nực và khô khốc. Người chen
chúc, chật chội. Cảm giác thật khó chịu khi mà hy vọng theo từng
giờ vơi dần đi. Tôi đang ngồi nhắc chuyện xưa với chị Hương thì
bỗng dưng cổng chánh của Tân Cảng mở toang. Một nhóm người ùa vào
la toáng lên:
– Tụi nó tới rồi. Việt Cộng đã chiếm Đà Nẵng rồi bà con ơi!
Không phải ong vỡ tổ, mà là sóng vỗ
tràn bờ! Hàng ngàn người từ các xà lan túa lên bờ trong nháy mắt.
Lại là cơn hoảng loạn tột cùng. Phút chốc lại là cảnh chen lấn
ngay tại cổng. Lần này là để chạy trở ra. Tôi thừ người ngồi tại
chỗ. Nhìn mọi người chen chúc mà chua xót nghĩ thầm về màn hài
kịch di tản. Còn gì nữa mà hối hả trở ra... nạp mạng! Trốn cũng
chạy mà trở về nhà cũng chạy. Thật là mỉa mai làm sao! Cũng có
nhiều người ngồi lại như tôi. Không biết họ đang nghĩ gì. Riêng
tôi thì hoang mang cùng cực. Đầu óc trống rỗng, nhẹ tênh như đang
hiện diện trong một khoảng trống rất mơ hồ. Đã có lúc tôi dựng
ngược khẩu súng, nhìn vào nòng sắt đen ngòm rồi nghĩ đến viên đạn
đang nằm sẵn trong đó. Chỉ cần bóp cò...
Có ai đó vỗ nhẹ vai tôi. Ngẩng đầu lên,
tôi nhận ra vợ chồng Trung sĩ Trần Sự và hai cháu nhỏ. Người Hạ
sĩ quan Tiếp Liệu của ĐĐ 3/Tiểu Đoàn 37 BĐQ ái ngại nhìn tôi.
– Mình về đi thiếu úy!
Về! Về đâu!? Gia đình tôi ở tận Sài
Gòn. Giờ phút này chắc trong đó vẫn hy vọng vào một phép lạ cho
Đà Nẵng. Còn ngôi nhà lợp tôn trong trại gia binh cấp cho anh có
lẽ chỉ còn tường và vách mà thôi. Thấy tôi vẫn còn lạc hồn, Anh
Sự chụp ngay khẩu M16 quăng xuống sông, rồi lôi tôi đứng dậy. Tôi
đi theo anh như cái máy. Mãi đến khi ra tới cổng, tôi mới nhận
thấy chị Sự có vẻ mệt vì phải bồng đứa con nhỏ và xách túi khá
to. Tôi đỡ lấy cái túi nhưng chị giao cháu bé chừng 2, 3 tuổi cho
tôi bồng. Đường về Đà Nẵng cũng một nhịp điệu cuống cuồng, lũ
lượt, lính tráng có người còn nguyên súng ống còn dân chúng thì
tay bế, tay bồng, tay dắt, chạy ngang, chạy ngược. Ai nấy cũng
đều hớt hải và thất thần như nhau. Anh Sự cho biết là sẽ đưa gia
đình về nhà người chị ở gần ngã ba Cây Lan, và chúng tôi đang
hướng về Ông Ích Khiêm, theo đường tắt để đi cho nhanh. Đang vội
vàng rảo bước thì có một chiếc Jeep mui trần chặt cua thật gấp.
Trên xe nhảy xuống 5, 6 người, trên cánh tay trái có mang băng
đỏ, chĩa súng vào chúng tôi và vài quân nhân còn mang vũ khí đi
chung hướng. Sau vài phát chỉ thiên, họ đồng loạt hét lớn, đằng
đằng sát khí:
– Bỏ súng xuống! Cởi đồ ra, mau lên! Chống cự bắn bỏ mẹ!
Tôi đang ôm con anh Sự trên tay, chưa
kịp thả cháu xuống đất thì ăn một đạp ngang hông, đau điếng.
– Ngoan cố hả?! A! Giờ này mà còn khoe
lon lá.
Thêm
một cú lấn bằng báng súng vào vai làm tôi nóng mặt nhưng chưa kịp
có phản ứng thì một người quát lên, giọng nghe rất quen:
– Để đó cho tao. Mày qua bên kia đi!
Gã thanh niên hứ một tiếng rồi bỏ qua
bên kia đường hò hét thị uy tiếp. Còn tôi và cả anh Sự trố mắt
nhìn người đàn ông có vẻ là chỉ huy của đám thanh niên mang băng
đỏ này. Không thể nào ngờ được kẻ đang cầm M16, mặc thường phục,
đeo kiếng đen đang đứng trước mặt chúng tôi, lại là Nguyễn Văn
Bi, mới năm ngoái còn là Tiểu đội trưởng khinh binh của tôi,
người vỗ tay lớn nhứt mỗi lần nghe tôi hát. Nghe nói hồi trước
Tết anh chàng được đưa về Duy Tân vì bị sa ruột. Bây giờ lại là
kẻ cầm súng áp đảo chúng tôi. Bi “thòng” kéo tôi qua một bên, nói
nhỏ:
– Thiếu
úy thông cảm. Tình thế bắt buộc thôi. Tụi nó là Thanh Niên Quyết
Tử. Đang hăng máu ghê lắm! Cởi bỏ đồ lính đi thiếu úy. Ông còn
đeo lon như vầy dễ chết lắm. Anh Sự nữa. Lột đồ ra, mau lên đi!
Tôi lột áo, lòi khẩu Colt nằm gọn trước
bụng. Trung sĩ Bi lật đật chộp ngay.
– Tụi nó thấy là ông kẹt lắm. Mất mạng
như chơi!
Không có áo thay, tôi đành ở trần đứng xớ rớ không biết làm gì.
Lại có tiếng la hét, chửi thề bên kia đường. Lại súng nổ. Hai đứa
bé rúc vào lòng mẹ khóc tấm tức. Chúng tôi nép sát vào cổng sắt
của căn nhà ngay góc phố, dù biết là đạn không nhắm qua bên này.
Trung sĩ Bi nhìn đám “quyết tử” rồi quay lại lùa chúng tôi rẽ qua
góc phố.
– Anh
Sự và thiếu úy đi lẹ lên. Mau đi!
Chúng tôi dắt díu nhau đi sau cái vẫy
tay kín đáo của người đồng đội cũ. Vừa khuất sau vài căn nhà, thì
lại nghe tiếng la hét của mấy tên “quyết tử” bắt bỏ súng, cởi đồ.
Nhưng lần này thì có tiếng chửi thề đáp trả.
– Bỏ súng cái con...
Ngay sau đó là súng nổ liên tục. Người
chạy tán loạn, hãi hùng. Khi im lắng thì tôi lóng nhóng định trở
lại xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng Anh Sự đẩy tôi tiếp tục chạy
theo chị Sự và hai đứa nhỏ. Thật tình, tôi chỉ muốn biết người
đồng đội cũ ra sao mà thôi. Suốt trên đường về chỉ thấy toàn là
đám băng đỏ, cầm loa phóng thanh, chạy xe lòng vòng thành phố kêu
gọi “ngụy quân” buông súng, rồi trấn an bà con và ca ngợi “giải
phóng”. Không thấy một bóng dáng Việt Cộng chánh hiệu nào cả.
15:00. Mãi đến khi về tới ngã ba Cây
Lan mới gặp vài nhóm “nồi niêu soong chảo” đội nón tai bèo, mang
dép râu, ngơ ngác nhìn phố xá hai bên đường. Thì ra chỉ là đám
hậu cần của Mặt Trận quảy gánh vào trước. Địch sợ mắc bẫy như hồi
Mậu Thân nên để cho đám “quyết tử” ra mặt trước, rồi tới đám nhà
bếp theo sau dọn đường để nếu lỡ xảy ra chuyện gì, bọn chính quy
vẫn nguyên vẹn quân số. Thật là đau đớn và mỉa mai làm sao! Đà
Nẵng của khí thế hừng hực lúc chào đón Thủy Quân Lục Chiến Mỹ 10
năm trước, và của một thời oanh lịêt, vàng son, đã bị đám đàn bà,
con nít chiếm cứ một cách êm thắm! Mọi sự diễn ra như trong một
giấc mơ.
Đồng
thời, trong những mờ ảo của hình ảnh và sự vật chung quanh, là cờ
đỏ sao vàng cùng với cờ hai màu của Mặt Trận xuất hiện đầy trên
các dãy phố. Mau quá! Và cũng lạ quá! Chỉ mới mấy tiếng đồng hồ
thôi mà đã phất phới rợp trời. Chị của Trung sĩ Sự nghẹn ngào khi
mở cửa cho chúng tôi vào nhà. Sau những giọt nước mắt mừng mừng,
tủi tủi, là những tiếng than vắn, thở dài, không biết ngày mai sẽ
ra sao. Buồn bã và tuyệt vọng tới mức không ai muốn ăn uống gì
cả.
Khi cởi bỏ
chiếc quần lính tôi mới nhớ là còn hai trái lựu đạn M67 trong
túi. Anh Sự lấy gói chung với giày Saut, bỏ vào bao rác rồi ném
đại ra đường. Chúng tôi đứng ngay ngoài cửa nhìn bâng quơ một
vòng. Ngoài đường lại đông nghẹt người qua lại. Lần này, xen lẫn
với y phục dân sự là nón cối, mũ tai bèo và kaki Nam Định. Đà
Nẵng đã thật sự rơi vào tay kẻ địch. Người dân, sau những ngày
phập phồng, sợ hãi, đã phần nào tỉnh táo trở lại mặc dù vẫn còn
dáo dác tìm nhau sau những trốn chạy bất thành. Đà Nẵng vẫn đang
nhốn nháo, phân vân. Nhưng lần này là do sự hiện diện của những
người mà trước đó một ngày còn là mối đe dọa nặng nề.
Đêm. Vẫn là nỗi thao thức triền miên
cho một tương lai bất định. Buồn bã và trống rỗng trong đầu.
Không ăn gì mà vẫn thấy no. Mệt nhoài sau một đêm thức trắng và
một ngày căng thẳng mà vẫn không thấy buồn ngủ. Anh Sự và tôi
ngồi ngoài phòng khách hút thuốc liên tục. Chúng tôi ngồi im
lặng, mỗi người một dòng suy nghĩ trong khi cả nhà đã ngủ yên
(hay làm bộ ngủ yên?!) từ lâu. Tôi cố nhớ lại cả ngày hôm nay và
thầm cầu chúc bình an cho những người thân quen không biết đang
làm gì, ra sao, nhứt là sự cô đơn của chị Hương và sự trở cờ của
người đồng đội đã từng vào sanh ra tử với tôi trước đây. Càng
nghĩ tới Trung sĩ Bi, tôi càng thấy đau cho số phận của đơn vị và
của những người lính miền Nam. Bỗng dưng tất cả đều buông xuôi để
bọn nằm vùng nổi lên nắm lấy cơ hội, rồi dọn đường cho đám bộ đội
nhởn nhơ tiến vào thành phố như đi ngắm cảnh giữa chỗ không
người.
Không
ai có dự định gì cho ngày mai hay tương lai. Gia đình anh Sự sẽ ở
lại đây vài hôm để thăm dò tình hình. Còn tôi thì chưa biết sẽ
làm gì, đi đâu. Có lẽ sẽ ghé qua nhà bạn bên đường Trần Cao Vân
hay Nguyễn Hoàng, hoặc lần mò tìm cách ra biển rồi tới đâu thì
tới. Buồn quá! Phước Long mất, cả nước để tang. Cao nguyên mất,
mọi người bàng hoàng. Bây giờ Đà Nẵng và cả Vùng 1 cũng không
còn. Có bao nhiêu giọt lệ nhỏ xuống để tiếc thương phần đất đã
lọt vào tay địch? Hôm nay là Đà Nẵng. Ngày mai đến lượt nơi nào?!
Thì hãy đợi ngày mai! Còn bây giờ là đêm dài vô tận: Đêm của
người Lính thuộc Liên Đoàn 12 BĐQ nói riêng đã tức tưởi tan hàng
sau 9 năm góp mặt trong cuộc chiến. Đêm của Đà Nẵng buồn thiu
trong ngày đầu thay đổi chủ. Than ôi!!!
HUY VĂN (HVC)
(Để nhớ những ngày sau cùng của Liên đoàn 12 BĐQ và của
thành phố Đà Nẵng.
Kính dâng hương linh Trung tá Nguyễn
Văn An, Quyền Liên Đoàn trưởng và Chiến hữu các cấp thuộc Liên
Đoàn 12 BĐQ)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Huỳnh Văn Của chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, March 30,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang