Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Âm nhạc Miền Nam–VN
Chủ đề:
Nhạc & Địa Danh MNVN
Tác giả:
Phạm Văn Duyệt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trong vài chục năm ngắn
ngủi, các nhạc sĩ thân thương của Miền Nam Tự Do đã dày công sáng
tác nhiều bài hát để đời. Một số địa danh được nhắc nhở trang trọng
qua những dòng nhạc lãng mạn trữ tình.
Bài này xin nêu lên mười vùng đất quê
hương để cùng nhớ lại trang sử “nhạc vàng” từng được ưa chuộng mê
say trước cũng như sau 1975.
1. CẦU ÁI TỬ
“Mẹ thương con ra cầu Ái Tử
Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu
Chiều chiều
trông về biên khu
Lòng căm hờn oán quân
thù...”
Mở đầu là
hai câu ca dao mà Nhạc sĩ Duy Khánh nhắc lại trong bài
Lối Về Đất
Mẹ.
“Chiều qua
giã từ đất Mẹ mà đi
Vì nghe tình quê tình
nước đôi bề
Nước chia hai đường nước chưa
về
Trót thương cho người lỡ câu thề
Lên đường từ ly, hỏi lòng mình lưu luyến gì...”
Vậy Ái Tử nằm ở đâu? Vì sao tác giả nói
tới địa danh này?
Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta hãy tham
khảo wikipedia, lần giở lịch sử nước nhà giai đoạn Trịnh Nguyễn phân
tranh.
Năm 1527
Mạc Đăng Dung cướp ngôi Nhà Lê, Nguyễn Kim (1468–1545) cùng một số
danh tướng khác chạy sang Ai Lao phù Lê diệt Mạc, lập nên Nhà Lê
Trung Hưng (1533).
Vì quý mến tài năng Trịnh Kiểm nên Ông gả
con gái Ngọc Bảo cho viên tướng này.
Sau khi Ông mất, Trịnh Kiểm lên nắm binh
quyền, liền giết ngay anh vợ Nguyễn Uông. Người em còn lại Nguyễn
Hoàng lo âu cho số phận mình. Thỉnh ý Trạng Trình Bỉnh Khiêm thì
được lời khuyên “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”. Nghe xong
Nguyễn Hoàng (1545–1613) nhờ Chị xin anh rể cho vào trấn Thuận Hóa
năm 1558. Nơi dừng chân đầu tiên là vùng đất hoang vu Ái Tử, Triệu
Phong, Quảng Trị. Chúa Nguyễn đóng đô ở đây cho đến 1626 thì dời đi.
Trong thời chiến tranh Quốc–Cộng, một dạo
Hoa kỳ từng sử dụng Ái Tử làm căn cứ quân sự.
Mới nghe qua ai cũng hiểu ái tử là thương
con. Nhưng vì sao Duy Khánh lại mượn câu ca dao để mở đầu cho bài
hát của mình?
Đây
là chuyện kể của một người gốc Quảng Trị: vào giai đoạn toàn dân
kháng chiến chống Pháp (1945–1954) có người chiến binh ôm mìn ngụy
trang trôi theo đám lục bình bơi tới cầu Ái Tử đang thuộc quyền cai
quản của Pháp với mưu toan giựt sập. Chẳng may viên lính gác cầu
phát hiện bắn chết, có ngờ đâu đó là đứa con trai của mình.
Người Mẹ hay tin vội vã ba chân bốn cẳng
chạy tới ôm xác kẻ lìa trần mà đau đớn tột cùng. Suốt mấy tháng trời
bà vẫn hay ra cầu Ái Tử vật vã kêu gào thương khóc con. Phải chăng
cảnh tượng này làm động lòng nhạc sĩ miền Trung đa tình?
2. PHÁ TAM GIANG
Năm 1972, Thi sĩ Tô Thùy Yên cùng Nhạc sĩ
Trần Thiện Thanh viếng thăm vùng địa đầu giới tuyến. Bay ngang phá
Tam Giang thấy cảnh sông nước lững lờ trong buổi chiều tà, chợt nhớ
Sài Gòn đang bước vào mùa thi, Nhà Thơ dạt dào thi hứng làm bài thơ
dài đưa cho Nhật Trường xem. Quá xúc động và đồng cảm với thi nhân,
Trần Thiện Thanh phổ thành bài Chiều Trên Phá Tam Giang để rồi nhận
ngay vòng nguyệt quế. Thi sĩ nổi tiếng hơn mà nhạc sĩ cũng được hâm
mộ nhiệt thành. Đã 50 năm trôi qua vẫn còn hằng triệu người khắp nơi
ca hát xem như tâm sự của chính mình.
“Chiều trên phá Tam Giang
Anh chợt nhớ em
Nhớ ôi! Niềm nhớ! Ôi niềm
nhớ
Đến bất tận! Em ơi! em ơi!”
Phá Tam Giang rộng 50km² chạy dài từ Sông
Ô Lâu tới Cầu Hai, ngang qua hai huyện Phong Điền và Quảng Điền,
Thừa Thiên, với độ sâu 2–4m. Phá này được biết tiếng từ lâu với câu
ca dao:
“Thương
em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ
phá Tam Giang”.
Xưa có gã thư sinh từ xứ Nghệ vô kinh đô ứng thí. Khi ngang qua bến
Sông Ô Lâu thì chàng phải lòng cô lái đò duyên dáng dễ thương. Hai
người thề non hẹn biển sau khi đỗ đạt sẽ cùng kết tóc se tơ.
Chàng thi đậu công thành danh toại, nàng
ngày ngày ngóng trông tái hợp. Nhờ người nhắn gởi thì chàng mượn câu
ca dao đó để thoái thác lời ước thề.
Về sau Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng
(1690–1725) đã điều động dân phu đào bới mở rộng cửa phá cho nên
sóng biển không còn. Nhờ vậy mà tai nạn giật thuyền bè giảm hẳn.
“Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ Nội Tán dẹp tan”.
Còn cô lái đò vẫn giữ lòng chung thủy, mơ
màng lặn lội băng rừng vượt núi kiếm tìm.
“Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương”.
Tới nơi mới hỡi ơi chàng đã yên bề gia
thất. Nàng choáng váng xây xẩm mặt mày. Cố lê lết trở về quê cũ với
nỗi niềm chua xót thở than:
“Đi đường những lách cùng lau
Những tràm với chổi bỏ nhau sao đành”.
Thế rồi không chịu nổi nghịch cảnh bị phụ
tình, lỡ bước sang ngang, nàng trầm mình theo dòng nước nơi hai
người từng tha thiết hẹn hò.
3. LẦU ÔNG HOÀNG
“Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu
chuyện xưa
Lầu Ông Hoàng đó, thuở xưa chân
Hàn Mặc Tử đã qua
Ánh trăng treo nghiêng
nghiêng, bờ cát dài hoang vắng”.
Đó là lời trong bài “Hàn Mặc Tử” của
Trần
Thiện Thanh.
Theo
wikipedia, tòa lâu đài này được công tước người Pháp vốn là cháu nội
vua Louis xây cất năm 1911 rộng 500m² cách tháp Chàm Pôshanu vài
trăm mét thờ công chúa người Chăm và cách thành phố Phan Thiết 7km.
Vua Bảo Đại từng mua lại Lầu này làm chỗ nghỉ ngơi, thưởng ngoạn
cảnh đẹp hoang dã nên thơ của bãi cát dài trắng xóa cùng tiếng sóng
rì rào với gió thổi vi vu từ đại dương.
Về sau người Pháp xây dựng nhiều đồn bót
quanh khu vực nên không tránh khỏi chinh chiến điêu linh, danh thắng
này trở nên đổ nát hoang tàn chẳng còn để lại dấu tích. Nhưng nơi
đây từng là chốn hẹn hò của đôi tình nhân Hàn Mặc Tử (1912–1940) và
Mộng Cầm (1917–2007) trong những năm 1936–1937. Ta hãy nghe Hàn thổn
thức khắc khoải nhớ nhung thần tượng bẻ nhỏ tên Nghệ (Mộng Cầm) qua
bài Muôn Năm Sầu Thảm:
“Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
Thân tàn
ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột
gan
Thấy gió là ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong đó có hương
Của người
mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng
vương vấn gì
Nhớ lắm nhớ như si như dại
Nhớ quá nhiều mà bại hoại chân tay
Nhớ hàm
răng nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng
khít nhiều
Dẫu đau đớn vì lời phụ rẫy
Nhưng mà ta không lấy làm điều
Trăm năm vẫn
một lòng yêu
Và còn yêu nữa rất nhiều em
ơi!”
Thêm nữa,
hãy đọc bài Phan Thiết! Phan Thiết! để nghe Hàn thở than rên xiết:
“Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu
Ông Hoàng người thiên hạ đồn vang
Nơi đã
khóc đã yêu thương da diết
Ôi trời ơi! là
Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn
lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi nàng ấy vắng
lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ
Ta
nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi
vung thơ lên tận sông Hằng
Thơ phép tắc
bỗng kêu lên thống thiết
Hỡi Phan Thiết!
Phan Thiết
Mi là nơi ta ôm hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”.
Nghe lời thơ tưởng chừng như không có ai
đau thương vì tình hơn chàng thi nhân đoản mệnh. Có biết đâu rằng
trong một lúc nào đó song đôi với Mộng Cầm mà nhà thơ họ Hàn đã dịu
dàng thỏ thẻ như trong bài Đà Lạt Trăng Mờ:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ
liễu run trong gió
Và để nghe trời giải
nghĩa yêu”.
Hiện
nay khu vực Lầu Ông Hoàng là địa điểm du lịch của tỉnh Phan Thiết.
4. ĐỒI THÔNG HAI MỘ
Cạnh Hồ Than Thở, Đà Lạt có ngôi mộ đôi
nằm hiu quạnh hoang vu trên đồi thông. Ngang qua đây mấy ai mà không
khỏi chạnh lòng một nỗi u hoài. Trong tâm trạng đó, nhạc sĩ Hồng Vân
đắm mình sáng tác bài ĐỒI THÔNG HAI MỘ kể lại cuộc tình bi thương ai
oán có một không hai trên cõi đời này.
Chàng tên Tâm, con nhà địa chủ ở Gò Công.
Đang theo học khóa Võ Bị Đà Lạt thì gặp Thảo, con một gia đình công
chức. Hai người thầm yêu trộm nhớ và thường hẹn hò bên Hồ Than Thở.
Mãn khóa ra trường, Tâm xin cưới Thảo nhưng bị cha mẹ từ chối vì
không môn đăng hộ đối.
Buồn tình trắc trở, chàng xin ra tiền
tuyến. Phần Thảo còn đau khổ hơn khi biết song thân người yêu khước
từ và chàng vì phẫn chí mà tình nguyện xông pha ngoài biên ải. Tuy
vậy nàng luôn một lòng chung thủy đợi chờ, lấy niềm vui qua những
giờ phút trông ngóng thư người tình từ nơi phương trời lửa đạn.
Bỗng một hôm có thư báo về cái tin sét
đánh ngang tai: Tâm vừa anh dũng hy sinh ngoài trận tuyến. Trời đất
quay cuồng sụp đổ.
“Rồi nàng buồn thơ thẩn
chẳng còn ngồi trang điểm qua màu phấn
Để
phai úa đến tàn cả hương sắc
Tháng ngày
luôn héo hon”.
Chờ ai đây đợi ai đây khi mà người thương vĩnh viễn ra đi. Thế rồi
tuyệt vọng tình, nàng nhảy xuống bờ hồ quyên sinh theo người yêu.
Gia đình thương tiếc cho lập mộ trên đồi thông.
Ngang trái thay lá thư báo tử là lá thư
lầm lẫn chết người. Tâm không tử trận mà vẫn còn chiến đấu dưới cờ.
Tám tháng sau chàng trở về thăm thì nghe hung tin Thảo không còn.
“Sao người về đây để tìm nhưng thôi đã mất
còn đâu
Ôi buồn làm sao đồi thông xưa nay
vắng bóng người yêu
Đời hợp tan, hợp rồi
tan như mây kia gặp gió”.
Thật đắng cay chua xót, đồng cảnh ngộ của
Thi Bá Vũ Hoàng Chương thuở nào: Đời vắng em rồi say với ai!
“Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu
Thôi rồi
tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh
biệt nhau
Gặp gỡ
chừng như chuyện Liêu Trai
Ra đi chẳng hẹn
một ngày mai
Em ơi! Lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai?”.
Nghĩ mình đã tới đường cùng. Chàng quẩn
trí tự vẫn với ước nguyện mồ chôn nằm bên cạnh người yêu. Cha mẹ
chấp nhận và cho mai táng gần Thảo.
“Rồi mộ chàng được ở bên cạnh nàng như lời
xưa thề ước
Nằm hiu hắt đến ngàn thu an
giấc dưới mộ sâu đất khô”.
Nhưng từ sau 1975, do tuổi già sức yếu,
đường sá đi lại quá khó khăn nên cha mẹ phải đành đoạn di dời mộ
chàng về quê quán. Còn Thảo tuy xa Tâm nhưng vẫn nằm yên nghỉ bên
cạnh ngôi mộ trống của chàng. Ai qua đây mà không khỏi bùi ngùi cho
số kiếp người bạc mệnh.
5. ĐỒI CHARLIE
Dựa theo bút ký Người Ở Lại Charlie của
Nhà Văn Phan Nhật Nam, Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã soạn thành ca
khúc cùng tên.
Charlie với cao độ gần 1000m là dãy đồi nằm cạnh huyện Dakto,
Kontum.
Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972 khởi đầu giai đoạn chiến tranh khốc liệt nổ ra khắp các
chiến trường miền Nam. Binh sĩ Cộng Hòa hành quân liên miên không
một ngày thư thả.
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Người Anh Cả
Nguyễn Đình Bảo đã quần thảo ở Toumorong, Dakto, Dambe, Krek, Snoul,
Đức Cơ, Khe Sanh, Hạ Lào... Có nơi chỉ đáo qua vài ngày rồi phải vội
vàng từ giã theo tình hình chiến sự nóng bỏng trên bốn vùng chiến
thuật.
Tháng
4/1972 được lệnh trấn đóng đỉnh đồi Charlie với nhiệm vụ án ngữ và
kiểm soát ngã 3 biên giới Việt–Miên–Lào. Chừng 500 binh sĩ Nhảy dù
đối đầu lực lượng địch hùng hậu cấp sư đoàn. Chúng vẫn sử dụng chiến
thuật tiền pháo hậu xung quen thuộc, cường tập pháo kích hàng ngàn
hỏa tiễn suốt ngày đêm nhằm uy hiếp tinh thần và làm tiêu hao quân
số trú phòng.
Sau hơn mười ngày đêm tử thủ dưới làn mưa pháo, Trung tá Bảo bị sập
hầm trúng đạn tử thương. Ngay sau đó Thiếu tá Tiểu Đoàn Phó Lê Văn
Mễ lên thay thế khi mà đơn vị gần như cạn kiệt vũ khí và lương thực.
Tình hình quá khẩn trương không thể cầm cự
lâu hơn. Nếu chậm trễ sẽ bị bao vây tràn ngập. Thiếu tá Mễ cùng một
số đồng đội phải gấp rút kiếm đường thoát thân, tìm cái sống trong
cái chết rồi kêu gọi thượng cấp cho pháo đài bay B52 dội bom ngay
ngọn đồi vừa rút đi. Hàng ngàn cán binh sinh bắc tử nam bị tiêu
diệt. Còn theo Nhà Văn Phan Nhật Nam, bên ta thiệt mất 400 binh sĩ
đền nợ nước.
Trong số sĩ quan thoát ra từ tử địa có Y sĩ Tô Phạm Liệu. Tuy thương
tích ở chân nhưng Anh vẫn không nản chí ngã lòng. Ráng điều trị rồi
chờ đơn vị tái bố sung để cùng ra trận trong tháng 6 nơi vùng hỏa
tuyến.
Tới tháng
9/1972 tất cả quân cộng sản xâm lăng phải tháo chạy về phương bắc. Y
sĩ Phạm Anh Dũng cho hay Đại úy Tô Phạm Liệu được tuyên dương sĩ
quan xuất sắc nhất của Sư Đoàn Dù.
Hy sinh vì đại nghĩa, Trung tá Bảo được
truy thăng đại tá, để lại bao tiếc thương cho hình ảnh người chỉ huy
tài ba, gan dạ, luôn hết lòng thương yêu thuộc cấp. Ông giã biệt vợ
trẻ và 3 con thơ lúc mới 36 tuổi đời. Bà Nguyễn Đình Bảo là cựu
chiêu đãi viên hàng không vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con ăn học thành
tài.
“Anh! Anh!
Hỡi Anh ở lại Charlie
Anh! Anh! Hỡi Anh giã
từ vũ khí
Vâng, chính Anh là ngôi sao mới
Một lần này chợt sáng trưng
Là cánh dù đan
bằng tiếc thương vô cùng
Anh! Cũng Anh vừa
ở lại một mình
Charlie, tên vẫn chưa quen
người dân thị thành
Xin một lần thôi, một
lần thôi
Vẫy tay tạ từ Charlie
Xin một lần nữa, một lần nữa
Vẫy tay chào
buồn Anh đi”.
Vời
lòng cảm phục vô biên những Người Anh Hùng Mũ Đỏ, nhiều cựu binh và
dân thường đã lặn lội tìm đường tới Charlie thăm chiến trường xưa.
Trong tận sâu thẳm đáy lòng, ai ai cũng đều ngậm ngùi khi nhìn lại
ngọn đồi nơi mà 50 năm về trước những người con thân yêu của Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù oanh liệt ra đi chẳng hẹn ngày về.
6. PLEIME
Trại Lực Lực Lượng Đặc Biệt Pleime nằm
giáp ranh vùng 3 biên giới, cách Pleiku 40km về hướng nam.
Pleime được Phạm Duy nhắc tới trong nhạc
phẩm Kỷ Vật Cho Em, phổ từ bài thơ Để Trả Lời Một Câu Hỏi của Thi sĩ
Linh Phương với lời lẽ vô cùng ảo não tang tóc bi ai dễ làm nao lòng
chiến sĩ. Chính vì vậy mà từng bị xếp vào loại nhạc phản chiến và
cấm hát một thời gian.
“Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh
trở về có thể bằng chiến thắng Pleime
Hay
Đức Cơ Đồng Xoài Bình Giã
Anh trở về, anh
trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về có
khi là hòm gỗ cài hoa
Anh trở về trên chiếc
băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang
trắng”.
Nhạc sĩ
Trúc Phương cũng nhắc đến Pleime trong bài Trên Bốn Vùng Chiến
Thuật:
“Tôi
thường đi đó đây
Bùn đen in dấu giày
Chân nghe lạ từng khu chiến thuật
Áo nhà
binh thương lính, lính thương quê
Vì đời mà
đi
Pleime gió mưa mùa
Bốn vùng nghe lưu luyến bước bâng khuâng của vạn người thân”.
Tại Pleime từng xảy ra hai trận đánh khốc
liệt.
* Trận đầu
ở Thung lũng Ia–Drang:
Theo lời kể của Thiếu úy Trần Quốc Cảnh
(khóa 19 Võ Bị Đà Lạt) thì cuối tháng 10/1965 Việt cộng bao vây Trại
Pleime. Lực lượng tham chiến bên ta có Trung đoàn 3 Thiết giáp, Tiểu
đoàn 21 Biệt động quân, Tiểu đoàn 1/42, 400 dân sự chiến đấu và một
bộ phận của Lữ Đoàn Nhảy Dù cùng chống trả chiến thuật công đồn đả
viện của 3 trung đoàn cộng quân.
Mặc dù quân số đông đảo cộng thêm trang bị
vũ khí tối tân nhưng sau 7 ngày giao tranh ác liệt, phía bắc phương
thiệt hại nặng nề phải rút chạy vào rừng. Ta bẻ gẫy kế hoạch cắt đôi
Tây Nguyên của chúng.
Đó là nhờ tinh thần chiến đấu gan dạ cùng
sự phối hợp nhịp nhàng hoàn hảo giữa quân đội Cộng Hòa và Không Lực
Hoa Kỳ. Theo Time Magazine ngày 5/11/1965, trong số 6,000 quân cộng
phỉ, ước chừng 1,000 tử vong và 2,000 thương tích.
* Trận thứ nhì: sau trận đầu, trại Pleime
cũ bị phá hủy và trại mới được xây dựng. Đầu năm 1974, Thiếu tá
Vương Mộng Long nhậm chức Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân Biên Phòng phụ trách bảo vệ vùng núi rừng rộng lớn bao quanh
Pleime.
Đây là
hành lang chiến lược cho cộng quân di chuyển từ bắc vô nam, từ đồng
bằng lên Tây Nguyên và vận hành binh lính vũ khí quân lương qua các
tỉnh vùng 3 biên giới. Vì vậy mà chúng quyết tâm nhổ sạch Trại để
rộng đường cho giấc mộng xâm lăng. Cuộc chiến khởi đầu từ cuối tháng
7/1974.
Theo
Thiếu tá Long về tương quan lực lượng đôi bên thì địch có quân số
gấp mười lần, chưa kể cơ giới, pháo binh, chiến xa và phòng không.
Biết mình sức yếu thế cô phải một chọi
mười, thật là không cân sức. Nhưng cả Tiểu Đoàn quyết tử để quyết
sinh. Chiến đấu đến người lính cuối cùng. Thề sống chết có nhau đồng
lòng bảo vệ quê hương tự do và đời sống ấm no cho đồng bào. Nhiều
ngày bị cô lập với bên ngoài và lương thực đạn dược gần như cạn
kiệt. Nhưng Trời luôn phù hộ người chính nghĩa. Bất chấp hàng loạt
mưa pháo hoặc cái lạnh cắt da của núi rừng trùng điệp. Thiếu tá Long
khóa 20 Võ Bị Đà Lạt luôn điều động binh sĩ vững lòng chống trả các
đợt tấn công biển người của giặc thù. Nhờ vậy mà chúng không thể
tràn ngập tiêu diệt căn cứ kể cả cho Tank 54 lồng lộn xung trận
nhưng cũng đành thúc thủ rút lui vào cuối tháng 8 sau 33 ngày đêm tử
thủ kiêu hùng của Tiểu Đoàn. Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa lại phất phới
tung bay trên cột cờ cao vào sáng ngày 2/9/1974.
Hai dải băng trắng chữ sơn đỏ căng ngang
trước tư dinh Tướng tư lệnh Quân Đoàn 2: “Toàn dân Pleiku ghi ơn
Thiếu tá Vương Mộng Long và các chiến sĩ Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân”. Hàng ngàn quân dân cán chính long trọng làm lễ khao quân suốt
mấy ngày. Đâu đâu cũng nghe vang dội khúc quân hành: “Kìa đoàn quân
chiến thắng trở về trong nắng hồng...” (Bài Ca Chiến Thắng, Minh
Duy).
7. THA LA
XÓM ĐẠO
Tha La là
xóm nhỏ ở vùng Trảng Bàng Tây Ninh.
Gần 200 năm trước một số con chiên từ Huế
do bị Vua Minh Mạng cấm theo Thiên Chúa Giáo nên chạy trốn vào ẩn
trú ở vùng đất hẻo lánh này. Họ chung tay khẩn hoang lập ấp, xây
dựng thôn xóm để bảo tồn niềm tin tôn giáo.
Năm 1950, Nhà Thơ Vũ Anh Khanh (1930–1956)
tình cờ ghé thăm nơi đây. Duyên nợ đẩy đưa Anh sáng tác bài thơ dài
Hận Tha La:
“Đây
Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng
hanh”.
Nhạc sĩ
Dzũng Chinh đã phổ thành bài hát Tha La Xóm Đạo:
“Đây Tha La, đây xóm đạo tiêu điều
Cây buồn quanh hận thù dâng ai oán”
Người Tha La rất hãnh diện hát bài quê
hương mình để ghi nhớ một thời đao binh:
“Đây Tha La, đây xóm đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh màu tang khói lửa
Bao
năm qua Tha La còn trơ đó
Đoàn người đi
giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy
Lòng viễn
khách bồi hồi như thương tiếc mùa xuân nắng hanh vàng”.
Nhà Văn Xuân Vũ gặp Anh Khanh tại miền Tây
năm 1950 khi cùng tham gia kháng chiến. Xuân Vũ cho biết: “Nhà thơ
tốt nghiệp khóa lục quân 12 tháng. Anh hay mặc áo nhà binh xập xệ,
quần ống cao ống thấp, miệng cười xề xề. Lúc nào có liên hoan thì
bạn bè hay bắt Anh lên ngâm thơ”.
Tới hiệp định Geneve 1954 cả hai cùng tập
kết ra bắc. Vài năm sau Anh được cử đi dự hội nghị văn chương quốc
tế ở Ấn Độ. Khi về Anh kể chuyện thăm ngôi đền lạ lùng thờ “cái đó”
và “cái ấy”. Bạn bè thắc mắc một hồi thì Anh cho biết “cái đó” dài
bằng cây cột còn “cái ấy” to bằng cái nia. Ai nghe cũng ôm bụng cười
sặc sụa.
Bữa ấy
Anh khao anh em một chai rượu ngoại vừa mang về từ hội nghị.
Thế rồi Anh xin đi công tác. Giấy phép ghi
tới Vĩnh Phúc nhưng anh sửa thành Vĩnh Linh để tìm cách vượt tuyến
vào Nam. Gần Cầu Hiền Lương anh nhìn lui nhìn tới rồi vội vàng lặn
hụp cố bơi qua bờ. Rủi thay bị công an biên phòng phát hiện. Chúng
dùng mũi tên tẩm độc bắn chết anh rồi vùi thây ngay đụn cát ven
sông. Thế là mộng ước của bao nhiêu người Tha La đành trở thành
tuyệt vọng, cho dù ai nấy đều thầm ca bài Chuyến Đò Vỹ Tuyến của Lam
Phương như bày to niềm khát vọng một ngày Anh Khanh trở lại:
“Bùi ngùi nhìn cách xa ngàn trùng
Giờ đây em điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm
Bao đêm thổn thức dưới trăng ngà
Hồn đắm
say chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau”.
Xuân Vũ từng đóng vai phóng viên thăm vùng
giới tuyến. Ngang khúc sông Anh Khanh gặp nạn, Vũ âm thầm muốn trốn
nhưng quan sát kỹ thấy nguy hiểm không an toàn nên đành thối lui.
Khi về Nhà Văn Đoàn Giỏi hỏi:
“Mày vô đó có thấy mộ Anh Khanh không?
– Chẳng biết mộ anh ấy nằm ở đâu vì gặp
quá nhiều nắm đất dọc bờ cát trắng.
Đoàn Giỏi buồn rầu nói thêm: Phải chi biết
ngày nó chết tụi mình cơm canh cúng giỗ một bữa cho nó bớt tủi vong
hồn”.
Anh Khanh
là văn nghệ sĩ hăng say theo cộng sản rồi bỏ hàng ngũ trở về với
chính nghĩa tự do sớm nhất. Sau Anh có nhiều người vượt thoát thành
công như Xuân Vũ, Ca sĩ Bùi Thiện... Một số manh nha ly khai nhưng
chưa kịp đào tị thì bị trù dập tả tơi. Điển hình là Nhà Thơ Trần
Vàng Sao đang là sinh viên đại học Huế lại thoát ly lên rừng núi
Trường Sơn “chống Mỹ cứu nước” rồi chợt hiểu rõ bộ mặt giả nhân giả
nghĩa của cộng sản liền thức tỉnh viết ra những nhận thức phê phán
chân thành. Hậu quả là không những bị hạch hỏi trừng trị mà còn hết
tin dùng. Ai đọc bài thơ “Tau Chửi” nguyền rủa lên án việt cộng tàn
ác gian manh vắt chanh bỏ vỏ mới hiểu thấu nỗi uất hận cay đắng của
kẻ trót dại lầm đường như Ông.
8. ĐƯỜNG DUY TÂN
Là đoạn đường nối Nhà Thờ Đức Bà và Hồ Con
Rùa thuộc quận 3 Sài Gòn. Hai bên đường có hàng cây sao cổ thụ cao
vút, vài cây tồn tại cả trăm năm, xen lẫn nhiều ngôi biệt thự uy
nghi kín cổng cao tường che phủ bởi những giàn bông giấy sắc màu rực
rỡ.
Đường Duy Tân
mang tên Nhà Vua thứ 11 Triều Nguyễn là Thái Tử Vĩnh San lấy niên
hiệu Duy Tân (1900–1945) với hoài vọng đổi mới cải cách cho đất
nước. Năm 16 tuổi do chống Pháp nên Ngài bị đày sang Đảo Reunion
(Phi Châu) và tới 1945 thì tử thương trong một tai nạn phi cơ.
Con đường này trở nên nổi tiếng từ khi
nhạc phẩm Trả Lại Em Yêu của Phạm Duy ra đời.
“Trả lại em yêu khung trời đại học
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Trả lại
em yêu con đường học trò
Những chiều Thủ Đô
tưng bừng phố xá
Chủ nhật uyên ương hẹn hò
đây đó
Uống ly chanh đường uống môi em
ngọt...”
Duy Tân
là con đường tình yêu học trò, con đường hẹn hò đưa đón, con đường
tạ từ chia biệt, con đường gặp gỡ lứa đôi, con đường hạnh phúc thiết
tha, con đường ngọt ngào âu yếm, con đường giận hờn đổ vỡ, con đường
đau khổ ly tan...
Đường này có Đại Học Luật Khoa với hàng
chục ngàn sinh viên ghi danh. Trong 20 năm trời lắm cuộc tình diễn
ra ở đó để lại bao nhiêu dư âm buồn vui suốt cả cuộc đời. Ai có chút
tâm hồn mơ mộng mà không bày tỏ nỗi niềm thi nhân khi mỗi chiều
ngang qua đây tình cờ bắt gặp những đôi tình nhân sánh bước chung
đôi dưới hai hàng cây xanh mát.
Khung cảnh thơ mộng tưởng chừng Lưu Thần
Nguyễn Triệu đáo Thiên Thai. Nhưng xa rồi những ngày xưa thân ái.
Không chỉ tên đường thay đổi mà cảnh vật xung quanh cũng đổi thay.
Không còn hai hàng cây thẳng tắp quen thuộc. Chủ nhân mấy ngôi nhà
cổ kính bỏ đi xa, thay vào đó là lớp người mới giàu có từ đâu tới
xây cất những biệt thự cao tầng nguy nga tráng lệ. Vừa chật hẹp mà
lưu lượng quá đông nên nạn kẹt xe xảy ra hằng ngày.
Chính tại đường Duy Tân đã chứng kiến bản
chất côn đồ giết người không gớm tay của việt cộng.
Mùa hè 1971 diễn ra cuộc bầu cử Ban Chấp
Hành Sinh Viên Đại Học Luật Khoa giữa hai liên danh Lê Khắc Sinh
Nhật và Trịnh Đình Ban. Kết quả inh Nhật thắng cử vẻ vang. Phe thất
bại là nhóm thân cộng đã điên cuồng tức giận trả thù hèn nhát và ra
tay bắn chết đối thủ trước cổng trường ngay giữa ban ngày. Từ đó con
đường cây dài bóng mát trở thành con đường đau buồn tan nát.
Ai gây ra thảm cảnh này?
9. PHÀ HẬU GIANG (Phà Cần Thơ)
Băng qua Sông Hậu nối liền Cần Thơ và Vĩnh
Long dài 1,840 mét.
Trong một chuyến về quê vợ ở miền Tây có
công việc nhà, Nhạc sĩ Nhật Ngân đang thơ thẩn đi tới đi lui ngóng
chờ phà Hậu Giang thì chợt nghe văng vẳng đâu đây tiếng hát mượt mà
của ai đó giữa đám đông người lũ lượt chen chúc trên bến sông. Tiến
lại gần thì Ông thấy người thương binh chống nạng, cụt mất một chân
bận bộ đồ treillis rách nát bạc màu đang ca bài Xuân Này Con Không
Về.
“Con biết bây
giờ Mẹ chờ mong con
Khi ánh mai đào nở vàng
bên nương
Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về
Nay én bay đầy trước ngõ mà tin con vẫn xa nghìn xa
Con biết không về Mẹ chờ em trông
Nhưng nếu con về bạn bè thương mong
Bao lứa
trai hùng chào xuân chiến trường
Không lẽ
riêng mình êm ấm
Mẹ ơi! Con xuân này vắng
nhà”.
Nghe xong
Nhạc sĩ quá xúc động, đâu ngờ ở nơi chốn chợ đời đua chen này lại có
người hát thành thạo bản nhạc của mình mà không cầm được nước mắt.
Ông chạy tới chuyện trò hỏi han, bỗng nhận
ra người bạn cùng lớp thời trung học sau gia nhập Võ Bị Đà Lạt. Ra
trường một năm thì bị thương gẫy chân phải giải ngũ. Trở lại Mỹ,
Nhật Ngân cùng Trần Trịnh hợp soạn ca khúc Chiều Qua Phà Hậu Giang
để nói lên tâm sự của người thương binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
sau cuộc chiến:
“Chiều qua phà Hậu Giang, tiếng ai hát dạo buồn thay
Tiếng ca sầu mênh mang như khơi niềm đau năm tháng xưa
Chân nạng gỗ thấp cao kéo lê đời theo dòng nhạc đưa
Mảnh chiến y phai màu khúc ca nào gợi sầu không nguôi”.
Sự hy sinh tuổi thanh xuân và một phần
thân thể của hàng vạn thanh niên trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam là
vô bến bờ, không lấy gì đền đáp được. Bao năm qua nhiều nơi tổ chức
Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh nhằm vinh danh Người Thương Binh, gây quỹ
giúp Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa còn
kẹt lại ở quê nhà. Trong nước có Dòng Chúa Cứu Thế, Chùa Liên Trì...
đã tận tay trao phát nhiều đợt quà tình nghĩa cho thành phần thiệt
thòi này.
Nhưng
nghĩa cử đó thực ra cũng quá nhỏ nhoi. Chỉ ước mong may ra có thể
làm ấm lòng các gia đình kém may mắn trong một chừng mực nào đó mà
thôi.
Về phần bến
phà, sau khi Cầu Cần Thơ khánh thành năm 2010, tuy đường sá được
thông xe, phà Hậu Giang kết thúc sứ mạng sau 100 năm hoạt động nhưng
hiện nay vẫn còn bến đò vận hành loại phà nhỏ hơn cho người và xe mô
tô qua lại vì nhanh và ít tốn phí hơn so với lưu thông bằng xe.
Không biết có còn ai sống đời hát dạo như trước không?
10. LĂNG MẠC CỬU
Nhạc sĩ Lê Dinh một lần ghé thăm đã cảm
tác ca khúc dễ thương Hà Tiên Mến Yêu.
“Tôi nhớ hoài một chiều
Dừng chân ghé qua thăm miền ước mơ
Tôi qua
Lăng Mạc Cửu
Nằm trên con voi phục
Tôi vô thăm Thạch Động
Trời bát ngát mênh
mông”.
Mạc Cửu
(1655–1735) là thủy tổ dòng họ Mạc ở Hà Tiên. Do không thần phục Nhà
Thanh nên Ông rời bỏ Quảng Đông trốn qua Nam Vang năm 1668 hành nghề
thương nhân quanh các nước Đông Nam Á. Đến 1699 Ông khai khẩn nhiều
khu vực hoang địa của Hà Tiên lập thành 7 xã thôn. Năm 1708 chịu
thần phục Chúa Nguyễn, được phong Tổng Trấn Hà Tiên, cai quản như
một Tiểu Vương theo truyền thống cha truyền con nối. Liên tục 7 đời,
con cháu họ Mạc cải biến Hà Tiên từ vùng đất ít người biết đến thành
cửa ngõ giao thương sầm uất của Đại Việt.
Di tích Lăng được xây dựng từ năm 1739.
Trên cổng nhà thờ có câu đối Hán Nôm do chính Nhà Nguyễn ban tặng:
“Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ
Bảy lớp giậu che, cả nước mến yêu”.
Quanh mộ phong cảnh mây, nước, biển, trời
quyện vào nhau thành bức tranh thủy mạc hữu tình, ngắm trông hoài
tưởng chừng như lạc vào tiên giới.
Người Việt cảm hoài tấm lòng của dòng họ
Mạc tận tụy mở rộng bờ cõi phương Nam cho cả nước. Nhớ ơn Mạc Cửu,
thiết tưởng chúng ta không thể quên hai nhân vật gốc Hoa khác từng
đóng góp nhiều cho sự phồn vinh của Miền Nam.
* Chú Hỏa (1851–1901)
Người gốc Phúc Kiến, Trung Hoa, mang quốc
tịch Pháp. Di cư tới Sài Gòn sống bằng nghề bán ve chai mà trở nên
giàu có nhanh chóng.
Khoảng nửa đầu thế kỷ 20 đã là một trong
tứ đại phú hào của Sài Gòn: nhất sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa
(Huyện sĩ – Lê Phát Đạt, Tổng Đốc Phương – Nguyễn Hữu Phương, Bá Hộ
Xường – Lý Tường Quan, Chú Hỏa – Hui Bon Hoa).
Tuy xếp thứ tư nhưng Chú vẫn để lại tiếng
thơm muôn đời nhờ tấm lòng không chỉ làm giàu cho riêng mình mà còn
quan tâm giúp đỡ cộng đồng xung quanh.
Suốt thời gian dài gia đình Chú đóng góp
lớn lao cho sự phát triển của thành phố về vật chất lẫn tinh thần,
hiến tặng nhiều công trình phúc lợi như Bệnh Viện Từ Dũ, Bệnh Viện
Đa Khoa Sài Gòn, Bệnh Viện Nguyễn Trãi, Trường Tiểu Học Minh Đức...
Phạm Văn Duyệt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Suong Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, January 5,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang