Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Sưu Tầm
Chủ đề:
Hoa
Tác giả:
Phạm Đình Lân,
F.A.B.I.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Giáng Sinh năm 2020 là Giáng Sinh buồn nhất trong đời tôi.
Khi còn sống ở quê nhà, trải qua hai cuộc chiến tranh và 10 năm
sống dưới tân chế độ, tôi vẫn có những ngày Giáng Sinh và Tết
Nguyên Đán êm ấm trong cảnh gia đình đoàn tụ mặc cho sự gầm thét
của súng đạn trải qua hai cuộc chiến và sự thiếu thốn cùng cực
sau năm 1975. Đó là truyền thống do cha chúng tôi lưu lại và được
các anh tôi cùng bản thân tôi gìn giữ và tiếp nối mặc dù gia đình
tôi không theo đạo Thiên Chúa.
Sau trên 30 năm sống ở Hoa Kỳ, ngày
Giáng Sinh vẫn là ngày đoàn tụ gia đình giữa vợ chồng chúng tôi
và các con, các cháu. Các cháu nội và cháu ngoại của tôi đều sung
sướng chờ Giáng Sinh đến để về thăm ông bà nội, ngoại để được quà
và được thưởng thức các thức ăn ngon suốt cả tuần về “quê nội” và
“quê ngoại”. Các cháu rất vui với sự xum họp của đại gia đình.
Vui với ông bà, bác, chú, cô, dì. Vui với Santa Clause, vui với
quà tặng và với thức ăn ngon do bà và cô, dì nấu.
Năm nay đại dịch Covid–19 gián đoạn sự
đoàn tụ vào ngày Giáng Sinh của gia đình tôi và nhiều gia đình
khác trên thế giới. Covid–19 làm cho loài người phải bịt mắt, bịt
mũi, bịt miệng. Có mũi nhưng không được thở thoải mái. Có miệng
nhưng không được nói tự do, không ăn, không uống tự nhiên như
thuở mới chào đời.
Tôi viết ra bài này như để khỏa lâp sự
cô đơn và ngăn cách giữa người và người trong thời đại dịch này.
Cảm hứng đến ngẫu nhiên khi tôi mở cuốn Good News Bible ngay phần
Mathew 6: 25 – 34: nói về sự lo lắng với những ẩn dụ về loài chim
và hoa dại. Tôi liên tưởng ngay đến Chúa Jesus và loại hoa trong
sách Mathew vừa nói. Nhưng chỉ một, hai loại hoa thì không thể
tạo thành một bài viết được. Vì vậy tôi nghĩ đến việc kết hợp các
loài hoa liên hệ đến Chúa Jesus và Thánh Mẫu St Mary.
CHÚA JESUS
VÀ HOA HUỆ
Trong Tân Ước Kinh, sách Mathew 6: 25 – 34, Chúa Jesus nói về sự
lo lắng, ăn, uống và áo quần. Trong sách Mathew 6: 28 – 29 có
câu: “Còn về phần quần áo, các ngươi lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem
những loài hoa huệ ngoài đồng mọc lên như thế nào; chẳng làm khó
nhọc, cũng không kéo chỉ; nhưng ta phán cùng các ngươi, dù vua
Salomon sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như một
loài hoa nào trong giống đó.”
Thánh Kinh tiếng Việt viết là hoa huệ
nhưng Thánh Kinh tiếng Anh dùng chữ wild flowers (hoa dại).
Về hoa huệ, có rất nhiều loại hoa huệ
khác nhau trên thế giới. Hoa huệ là một loài hoa có củ. Hoa có
mầu sắc rất tươi, đẹp, luôn luôn có sáu cánh dài và có sáu nhụy
dài. Hoa huệ thuộc dòng Lilium, gia đình Liliaceae.
Tên gọi thông
thường:
Hoa huệ có nhiều ý nghĩa đặc biệt đối
với người Do Thái và tín đồ Thiên Chúa Giáo:
1. Sáu cánh hoa huệ là sáu cánh của
ngôi sao David.
2. Hoa huệ gắn liền với Thánh Mẫu St
Mary. Thiên Thần Gabriel cầm hoa huệ trong tay khi thông báo cho
Đức Mẹ Mary biết Người sẽ là mẹ của một thai nhi Cứu Thế sắp
xuống trần.
3.
Hoa huệ là dấu hiệu phục sinh của chúa Jesus.
4. Hoa huệ trắng (Bạch Huệ) được tín
hữu Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo và Thiên Chúa Giáo trân quí.
Bạch huệ biểu tượng cho sự thanh khiết và vô nhiễm. Theo huyền
thoại Hy Lạp bạch huệ được hóa dạng từ giọt sữa của nữ thần Juno
cho thần Hercules bú rớt xuống trần biến thành. Ngày xưa người La
Mã dùng nước hoa huệ trắng Madonna mang tên khoa học Lilium
candinum để trị các vết phỏng, vết chai dưới chân. Củ và hoa huệ
trắng dùng để trị phỏng lửa, nước sôi, ung nhọt làm mủ, rụng tóc,
v.v.
HOA
KALANIOT HAY HOA HUỆ ĐỒNG
Hoa Mỹ Tân Nương
Phong Hoa (Windflower)
Anemone coronaria
Gia đình: Ranunculaceae
Hoa Kalaniot được gọi là hoa huệ đồng,
là một loại hoa hoang dại mầu sắc sặc sỡ được tìm thấy nhiều ở Do
Thái. Hoa Kalaniot không phải là hoa huệ từ hình dáng đến nguồn
gốc gia đình thảo mộc.
Hoa huệ có 6 cánh, 6 nhị.
Hoa Kalaniot mầu đỏ thẫm giống như hoa
tulip (uất kim hương) hay hoa cây thẩu.
Hoa huệ và hoa Kalaniot (Hoa Mỹ Tân
Nương) đều có củ.
Hoa huệ thuộc gia đình Liliaceae.
Hoa Kalaniot thuộc gia đình
Ranunculaceae.
Theo tiếng Hebrew Kala là cô dâu xinh
đẹp. Ngày xưa hoa Kalaniot luôn luôn có mặt trong đám cưới của
người Do Thái. Vì vậy chúng tôi tạm dịch hoa Kalaniot là Hoa Mỹ
Tân Nương (Cô Dâu đẹp).
Tên khoa học của hoa Kalaniot là
Anemone coronaria thuộc gia đình Ranunculaceae. Chữ Anemone gợi
lên tên thần gió Anemoi trong huyền thoại Hy Lạp. Người Anh gọi
hoa Kalaniot là Windflower (Phong Hoa), Crown anemone (phong hoa
vương miện) vì ngày xưa người Hy Lạp dùng hoa này đặt trước bàn
thờ Venus; poppy anemone (phong thẩu hoa), Spanish marigold (vạn
thọ Tây Ban Nha).
Hoa Kalaniot được người Hy Lạp và Do
Thái cổ trân quí. Vào thời Trung Cổ người Âu Châu tin rằng đặt
hoa Kalaniot vào người bịnh thì bịnh sẽ tan biến ngay.
CÁC LOẠI HOA GẮN BÓ VỚI THÁNH MẪU ST
MARY
BẠCH HUỆ
ĐA HOA
Polianthes tuberosa
Gia đình: Agavaceae
Tín đồ Thiên Chúa Giáo Việt Nam thường
dùng bạch huệ đa hoa dâng cúng trên bàn thờ Đức Mẹ Mary.
Tên khoa học của bạch huệ đa hoa này là
Polianthes tuberosa thuộc gia đình Agavaceae của lô hội. Theo Hy
Lạp ngữ Polianthes có nghĩa là nhiều hoa vì hoa bạch huệ này nhỏ
hơn các loài hoa huệ khác. Do đó bạch huệ này có nhiều hoa nở
trên một thân hoa cao lối 60–70cm. Hoa mầu trắng, có hai lớp, mỗi
lớp có 6 cánh nhỏ, có hương thơm ngào ngạt.
Tên gọi của bạch huệ
đa hoa là:
Có hai giả thuyết về nguồn gốc của bạch
huệ đa hoa này:
1. Nguồn gốc Mexico: Theo cách gọi của
người Trung Hoa thì họ tin loại bạch huệ đa hoa này gốc ở Phương
Tây. Càng về đêm hoa càng thơm. Cách gọi Azucena của người Tây
Ban Nha và Phi Luật Tân cho thấy bạch huệ đa hoa gốc ở Mexico
được người Tây Ban Nha đưa sang Phi Luật Tân. Từ đó giống hoa này
được đưa sang Mã Lai và đảo Java.
2. Nguồn gốc Java (quần đảo Indonesia)
hay Sri Lanka (đảo Ceylon, nam Ấn Độ): Giả thuyết 1 có vẻ thuyết
phục hơn giả thuyết 2. Người Trung Hoa không xem đảo Sri Lanka và
Java là phương Tây đối với nước họ.
Ở Indonesia người ta dùng bạch huệ đa
hoa để nấu súp. Hoa có hương thơm dùng để cất dầu thơm. Trung
bình 1,150 kí–lô hoa huệ trắng cất được 1 kí–lô dầu thơm. Dầu có
benzyl alcohol, butyric acid C4 H8 O2, eugenol C10 H12 O2 (tạo
hương vị cho trà, thức ăn và dầu thảo mộc; trị đau răng),
farsenol C15 H26 O (làm tăng hương vị cho các mỹ phẩm), geraniol,
methyl benzoate, methyl anthranilate, nerol C10 H18 O. Dầu bạch
huệ được dùng trong hương trị liệu làm cho tinh thần sảng khoái,
hô hấp thanh khiết, làm mát da, ngăn ngừa da bị nhiễm trùng.
Ngày xưa người Aztecs (Trung và Nam Mỹ)
cất dầu thơm từ hoa huệ trắng để cho vào sô–cô–la để có hương vị
đặc biệt. Hương thơm của bạch huệ đa hoa rất cần thiết trong việc
sản xuất nước hoa và mỹ phẩm.
***
Có hai loại hoa được gọi là VIRGIN
FLOWERS. Đó là: Hoa Hải Đăng hay Hoa Nhạn Lai Hồng và Hoa Cúc
Trinh Nữ hay Hoa Cúc Nhựa Thơm. Gọi là Virgin Flowers (Trinh Nữ
Hoa) có thể là do dược tính trị liệu của hai loại hoa này được ví
như lòng nhân ái và sự cứu rỗi của Đức Mẹ Đồng Trinh.
HOA NHẠN LAI
HỒNG
Hoa Hải
Đăng
Hoa Dừa Cạn
Trường Xuân Hoa
Vinca minor
Gia đình: Apocynaceae
Hoa nhạn lai hồng hay hoa hải đăng có
nhiều tên gọi và tên khoa học khác nhau. Hai tên khoa học thường
dùng là Vinca minor (lá nhỏ), Vinca major (lá to) hay
Catharanthus roseus thuộc gia đình Apocynaceae của trúc đào.
Sinh quán của hoa nhạn lai hồng hay hoa
hải đăng là các hải đảo trong Ấn Độ Dương và các vùng khô hạn ở
Tây Á.
Cây hoa
hải đăng cao từ 50–60cm, thân dây, rễ bám vào đất cát khô hạn.
Cây không cần nhiều nước và đất mầu mỡ để sinh tồn. Thân cây hoa
dưới dạng dây. Lá dày và láng mầu xanh sậm. Lá xanh quanh năm.
Hoa năm cánh mầu xanh dương hay trắng, đỏ–tím nhạt. Ngày xưa tàu
đi biển thấy hoa này thì biết sẽ gặp hải đảo hay đất liền. Gọi là
hoa hải đăng là thế.
Tên gọi thông thường của hoa hải đăng
hay nhạn lai hồng:
Tên gọi trường xuân hoa của người Trung
Hoa cho thấy sự trường tồn lạc quan của loài hoa này. Có phải
chăng vì hoa có nhiều dược tính nên mới có sức sống ngoan cường?
Hoa hải đăng hay trường xuân hoa có ít
ra 50 alkaloids và sinh tố: vinblastine C46 H58 N4 O9,
vincristine C46 H56 N4 O10, alstonine C21 H20 N2 O3, ajmalicine
C21 H24 N2 O3, leucrocristine (vincristine) C46 H56 N4 O10,
reserpine C33 H40 N2 O9 (trị cao huyết áp), Vincamine C21 H26 N2
O3 (an thần, trị cao huyết áp), v.v. Những hoạt chất này cho thấy
hoa hải đăng có khả năng chữa bịnh bạch huyết cầu (leukemia) với
vincristine C46 H56 N4 O10, kháng tế bào ung thư phổi, ung thư
bàng quang, ung thư não, ung thư ngoại thận, bịnh Hodgkin
(1) với
vinblastine C46 H58 N4 O9, vincristine C46 H56 N4 O10.
Lá và hoa hải đăng trị xuất huyết nội,
máu cam, đau cuống họng. Lá tươi có tác dụng hơn lá khô.
Rễ hạ huyết áp. Rễ tươi hiệu nghiệm hơn
rễ khô.
Ở Nam
Mỹ người ta dùng hoa hải đăng để trị đau nhức, đau cuống họng và
tiểu đường. Những nghiên cứu gần đây cho thấy hoa hải đăng không
chữa được bịnh tiểu đường.
Thảo mộc thuộc gia đình Apocynaceae đều
có nhựa độc. Phụ nữ mang thai không được dùng thuốc làm từ thảo
mộc thuộc gia đình dogbane có chất độc đối với Khuyển tộc.
HOA CÚC TRINH
NỮ
Hoa Cúc
Nhựa Thơm
Tanacetum balsamita
Gia đình: Asreraceae/Compositae
Hoa cúc nhựa thơm được gọi là Virgin
flower (Hoa Trinh Nữ <Virgin flower> không phải hoa Mắc Cỡ) có lẽ
vì ở Âu Châu vào thời Trung Cổ, người ta dùng nhựa thơm này để
chữa các chứng bịnh phụ khoa.
Hoa cúc nhựa thơm gốc ở quanh vùng Địa
Trung Hải. Cây hoa cao từ 1–1.5m. Lá dài mầu xanh tươi; hoa nhỏ,
tròn, mầu vàng với nhiều cánh hoa nhỏ. Hoa kết thành chùm. Lá và
cây hoa có nhựa thơm mùi dầu khuynh diệp.
Hoa cúc nhựa thơm có nhiều tên khoa học
khác nhau. Chúng tôi chỉ chọn một: Tanacetum balsamita thuộc gia
đình Asteraceae. Người Anh gọi hoa cúc Trinh Nữ này là: Bible
leaf, balsam herb, costmary, mint geranium (phong lữ bạc hà).
Công dụng:
– Hoa cúc Trinh Nữ có nhiều tinh dầu,
nhiều carvone C10 H14 O, c–carveol, t–carveol.
– Lá non ăn được. Lá phơi khô dùng làm
trà. Cho vào thức ăn, thức uống, rượu bia để có hương vị thơm
ngon.
– Lá,
hoa dùng để làm thuốc trị kinh nguyệt, kiết lỵ, bịnh liên quan
đến gan, sạn bàng quang, tiêu hóa bất thông, buồn bực, cuồng loạn
(hysteria).
HOA HUỆ KIẾM
Hoa Glaieul
Gladiolus segetum
Gia đình: Iridaceae
Sự phân biệt giữa hoa lan (Iris) và hoa
huệ (Lily) tương đối hơi khó. Vì cả hai loài hoa này đều có 6
cánh, có củ và có nhiều mầu sắc như nhau.
Hoa huệ thuộc gia đình Liliaceae.
Hoa lan thuộc gia đình Iridaceae.
Tên gọi “Huệ Kiếm” dịch từ tiếng Anh
Sword Lily, thực chất đó là hoa lan chớ không phải hoa huệ vì hoa
huệ kiếm thuộc gia đình Iridaceae.
Hoa huệ kiếm mọc hoang ở Tây Á, tức
vùng Trung Đông hay đông Địa Trung Hải và Đông Nam Âu Châu. Cây
hoa cao từ 80–90cm. Hoa có 6 cánh mầu đỏ, hồng, vàng cam, tím,
xanh dương. mầu xanh dương nhạt là mầu liên hệ đến Thánh Mẫu
Mary. Hoa huệ kiếm có trái có vỏ bọc với nhiều hột nhỏ li ti.
Nhưng người ta trồng huệ kiếm bằng củ chớ không trồng bằng hột.
Tên gọi huệ kiếm vì cây hoa có lá dài
và nhọn như cây kiếm. Theo tiếng La Tinh Gladius có nghĩa là cây
kiếm, gợi lại cây kiếm của các giác đấu (gladiators) thời đế quốc
La Mã.
Tên khoa học của hoa huệ kiếm là Gladiolus segetum
thuộc gia đình Iridaceae.
Tên gọi thông thường là:
Hoa huệ kiếm có củ nấu chín ăn được, vị
ngọt. Ngày xưa người ta đào củ huệ kiếm mọc hoang trên đồng cỏ
hay trong rừng để nấu ăn khi thiếu bánh mì.
Hoa huệ kiếm có độc chất đối với mèo,
chó, ngựa nhưng vô hại đối với loài người. Nhựa hoa huệ gây ngứa
khó chịu khi đụng vào da.
Vào thế kỷ XVI người Âu Châu giã củ huệ
kiếm để rút gai nhỏ chích vào người. Hột huệ kiếm sấy khô, nghiền
nát thành bột hòa với sữa dê hay sữa bò dùng để chữa những cơn
đau bụng.
LAN
HỒNG NỮ HÀI
Pink Lady’s Slipper
Cypripedium acaule
Gia đình:
Orchidaceae/Cypripedioideae
Lan hồng nữ hài thường mọc ở những vùng
đầm lầy hay trên những vùng đồng cỏ ẩm ướt. Lá rộng, dài, mầu
xanh sậm, có lông mịn nên gây ngứa khi đụng vào da. Hoa mầu hồng
hay mầu trắng. Hoa nở trên một thân cây hoa cao từ 60–70cm. Hoa
có hình đôi hài.
Lan Cypripedium reginae có hoa to mầu
trắng. Regina có nghĩa là hoàng hậu. Vì vậy người Anh gọi loài
lan này là Queen Lady’s Slipper (Hoàng Hậu Hài), Fairy Queen
(Hoàng Hậu Tiên Nữ), Royal Lady’s Slipper (Nữ Hài Hoàng Gia).
Tên khoa học của Lan Hồng Nữ Hài là Cypripedium acaule thuộc
gia đình Orchidaceae hay Cypripedioideae.
Tên gọi thông
thường:
Công dụng:
– Trồng trong vườn để có hoa đẹp.
– Lan hồng nữ hài có
phenanthrenequinone C14 H8 O2 gây ray rứt cho da.
– Làm thuốc trị viêm da, đau răng, nhức
đầu, làm giảm sự đau nhức.
HOA HỒNG
Rosa officinalis
Gia đình: Rosaceae
Gọi là hoa hồng vì mầu đỏ thẫm của hoa.
Thực tế có hoa hồng trắng, hồng đỏ, hồng hường, hồng vàng và hiếm
nhất là hồng mầu xanh dương.
Hoa hồng được tìm thấy lâu đời ở những
quốc gia ven Địa Trung Hải. Đó là một loài hoa có hương sắc và
nhiều gai. Nên có câu:
Không hoa hồng nào không có gai
(Pas de rose sans épine – No rose without a thorn).
Huyền thoại
La Mã cho rằng khởi thủy hoa hồng mầu trắng (bạch hồng). Trên
đường đi gặp Adonis, nam Thần đẹp trai và thu hút nữ phái, nữ
Thần Venus đạp phải gai hoa hồng. Máu của nữ Thần Venus làm cho
hoa bạch hồng chuyển sang mầu đỏ.
Ý nghĩa của hoa hồng:
Ý nghĩa tổng quát của hoa hồng: thanh
khiết trong tâm, bí mật và tin cẩn.
Hoa hồng liên hệ đến Thánh Mẫu St Mary
là bạch hồng không có gai. Những chuyện hoa hồng liên quan đến
Thánh Mẫu St Mary là những hoa hồng mầu nhiệm, những phép lạ hoa
hồng. Những hoa hồng mầu nhiệm (Rosa Mystica) được tìm thấy trong
Chuyện Tuyết Rơi Vào Tháng Tám, Chuyện Nữ Thánh Elizabeth Bồ Đào
Nha, Chuyện Đức Mẹ Guadalupe, v.v.
Chuyện Tuyết Rơi Tháng 8 và Vương Cung
Thánh Đường St Mary Major.
Chuyện xảy ra ở Rome (La Mã) dưới thời
Giáo Hoàng Liberius (310–366, Giáo Hoàng: 352–366).
Jiovanni là một người giầu có trong
kinh thành Rome (La Mã). Vợ chồng ông không có con. Cả hai khấn
nguyện Đức Mẹ sẽ dâng hiến gia tài của mình sau khi nhắm mắt lìa
đời. Ngày 04 tháng 08 năm 352 sau Tây Lịch, Đức Mẹ xuất hiện
trước mắt ông trong một giấc chiêm bao. Đức Mẹ báo cho ông biết
ngày 05/08/352 tuyết sẽ rơi ở Rome (La Mã). Một giáo đường thờ
Đức Mẹ sẽ được dựng lên ngay nơi tuyết rơi trên đồi Esquiline.
Vương Cung Thánh đường St Mary Major
Jiovanni trình bày câu chuyện cho Đức
Giáo Hoàng Liberius. Vào ngày ấy Đức Giáo Hoàng cũng được Đức Mẹ
cho thấy và nghe những lời dặn tương tự. Một giáo đường được xây
lên ngay trên đồi Esquiline, nơi tuyết rơi vào mùa hè nóng bức.
Giáo đường đó được nới rộng và trở thành Vương Cung Thánh đường
St Mary Major lớn nhất ở Rome. Hàng năm kỷ niệm ngày Đức Mẹ tiên
tri tuyết rơi tháng 08 tại Vương Cung Thánh đường St Mary Major
(Santa Maria Maggiore) nhiều cành hoa bạch hồng rơi lả tả từ trên
trần thánh đường như tuyết rơi vậy.
Chuyện Nữ Thánh St Elizabeth xứ Hungary
St Elizabeth
of Hungary by Francisco de Zurbarán
Nữ thánh Elizabeth là một công chúa
sinh năm 1207 và mất năm 1231
Bà có chồng năm 14 tuổi. Năm 20 tuổi,
tức năm 1227, chồng bà mất. Bà không tái giá mà nguyện hiến dâng
cuộc đời cho các công tác từ thiện. Bà dùng gia sản của mình để
xây bệnh viện giúp đỡ người nghèo đói và bịnh tật. Bà dùng tiền
mua lương thực cứu giúp người nghèo đói. Người ta nghi ngờ bà ăn
cắp tài sản của triều đình để làm công tác từ thiện cứu người
nghèo khổ, đói rách và bịnh tật.
Sự thánh thiện của bà được Thánh Mẫu St
Mary chứng giám. Một hôm đang đi làm công tác giúp đỡ người nghèo
đói, bà bị chồng bà là Ludwig IV xứ Thuringia hạch hỏi xem bà cất
giấu vật gì trong áo? Khi bà mở áo ra thì không có vật gì cả mà
chỉ có hai hoa hồng, một mầu trắng và một mầu đỏ. Thế là sự cứu
giúp người nghèo của bà được hanh thông, suôn sẻ. Triều đình
không còn gì nghi ngờ bà nữa. Đó là ấn dấu của phép lạ hoa hồng.
Bà Elizabeth mất năm 1231, 24 tuổi. Năm
1235, tức bốn năm sau khi bà mất, bà được phong Thánh. Đó là nữ
Thánh St Elizabeth xứ Hungary hay St Elizabeth Thuringia (trên
lãnh thổ Đức bây giờ).
Chuyện Nữ Thánh Elizabeth Bồ Đào Nha
St Elizabeth
of Portugal by Francisco de Zurbarán
Nữ Thánh Elizabeth Bồ Đào Nha là công
chúa vương quốc Aragon, Tây Ban Nha, và là cháu gọi nữ Thánh
Elizabeth Hungary bằng bà. Bà sinh năm 1271 và mất năm 1336.
Elizabeth là một công chúa đẹp tuyệt
sắc nhưng tánh tình hiền hậu, sùng đạo, giản dị trong cách ăn mặc
và lối sống. Bà đi lễ nhà thờ hàng ngày, dùng thì giờ và tiền bạc
của mình để giúp cho người nghèo, người bịnh và người neo đơn.
Chồng bà là Denis, vua Bồ Đào Nha, là
người ích kỷ, tánh khí hỗn mang. Ông sung sướng nhìn người khác
đau khổ vị bị đánh đập, bị áp bức vì cô thế, nghèo khó, thiếu ăn
và lắm bịnh tật. Vua Denis tìm mọi cách ngăn chận bà Elizabeth
làm việc từ thiện. Vua nghi hoàng hậu giấu bánh mì trong áo để
cứu người đói rét. Khi bị tra hỏi, bà mở áo ra nhưng không thấy
vật gì cả mà chỉ thấy vài đóa hoa hồng. Hoa trắng biểu tượng cho
sự trinh trắng; hoa hồng biểu tượng cho lòng nhân ái.
Bà Elizabeth mất năm 1336. Năm 1625 bà
được phong Thánh dưới thời Giáo Hoàng Urban VIII (1568–1644, Giáo
Hoàng: 1623–1644). Đó là nữ Thánh Elizabeth Bồ Đào Nha.
Chuyện Đức Mẹ
Guadalupe
Our
Lady of Guadalupe by Richard Barone
Chuyện xảy ra vào năm 1531 khi các nhà
chinh phục Tây Ban Nha xâm chiếm Mexico. Người bản địa ở Mexico
chịu ảnh hưởng văn hóa Aztec trước khi người Tây Ban Nha chinh
phục phần đất này.
Ngày 19/12/1531 (theo dương lịch hiện
hành), một nông dân gốc người bản xứ tên Juan Diego thấy một
người phụ nữ xuất hiện trước mặt anh và nói với anh bằng ngôn ngữ
bộ lạc Nahuati của anh. Người phụ nữ ấy là Đức Mẹ Mary. Bà thúc
giục Juan Diego gặp tổng giám mục Juan de Zummarraga và nói với
vị tổng giám mục xây một giáo đường thờ phượng Đức Mẹ. Juan Diego
thuật lại cho vị tổng giám mục về sự xuất hiện của Đức Mẹ Mary và
lời dạy xây một giáo đường cho Người. Đức tổng giám mục Juan de
Zummarraga không tin lời thuật của Juan Diego.
Trên đường về nhà Juan Diego thấy Đức
Mẹ xuất hiện lần thứ nhì và yêu cầu anh gặp lại đức tổng giám mục
với những lời dạy nói trên. Juan Diego làm theo lời dạy của Đức
Mẹ. Đức tổng giám mục bảo anh trở lại đồi Tepeyac và yêu cầu
người phụ nữ chứng minh ấn dấu bà là Đức Mẹ Mary. Juan Diego làm
theo lời dạy của đức tổng giám mục Juan de Zummarraga. Đó là lần
thứ ba Juan Diego gặp người phụ nữ trên đồi Tepeyac (20/12) với
lời yêu cầu của vị tổng giám mục. Người phụ nữ hứa sẽ xuất hiện
và ban ấn dấu phép lạ vào ngày 21/12.
Ngày 21/12 bác của Juan Diego bỗng
nhiên bị bịnh nặng. Juan Diego không đến gặp người phụ nữ vào
ngày 21/12 như đã dặn.
Ngày 22/12 Juan Diego đi tìm một linh
mục để cầu nguyện cho người bác hấp hối trên giường bịnh. Trên
đường đi anh né tránh đồi Tepeyac vì đã thất hứa không gặp người
phụ nữ hứa sẽ ban ấn dấu phép lạ theo lời yêu cầu của vị tổng
giám mục. Người phụ nữ xuất hiện. Bà hứa với Juan Diego rằng bác
của anh ta sẽ hết bịnh nên anh không cần phải tìm linh mục. Bà
dặn anh ấy đi ngang qua đồi Tepeyac và hái hoa hồng Cástile bỏ
vào áo choàng đến gặp vị tổng giám mục. Juan Diego đến đồi
Tepeyac, không ngờ gặp một vườn hoa hồng nở rộ vào mùa đông giá
buốt. Anh làm theo lời dạy của người phụ nữ mà anh tin rằng đó là
Thánh Mẫu Mary. Khi gặp vị tổng giám mục, Juan Diego mở áo choàng
ra, hoa hồng rơi xuống sàn nhà và hình Đức Mẹ hiện ra. Vị tổng
giám mục mới tin người phụ nữ xuất hiện cho Juan Diego gặp bốn
lần là Đức Mẹ Mary.
Về nhà Juan Diego thấy bác anh hết bịnh
và làm công việc lặt vặt trong nhà.
Phạm Ɖình Lân,
F.A.B.I.
(Bài viết tổng hợp dựa vào Thế Giới Thảo Mộc
Tự Ɖiển do tác giả Phạm Ɖình Lân biên soạn)
Nguồn:
https://www.art2all.net/tho/phamdinhlan/phamdinhlan_hoalienhe_chuajesus_mary.html
(1)
Bịnh Hodgkin là chứng nở rộng tuyến bạch huyết nên gây ra chứng
sưng gan và lá lách.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, March 6,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang