Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Sưu tầm
Chủ đề:
Địa danh
Miền Nam
Tác giả:
Hồ Đình Vũ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Có
nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc
đã đọc được ở đâu đó... riết rồi những địa danh đó trở thành quen
thuộc; nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như
vậy?
Bài viết này
được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả
miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ
của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền
bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình. Xin mời các
bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác –
để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn. Đất Nam Việt mà trước
đây người ta còn gọi là Nam Kỳ, người Tây Phương khi đặt chân lên xứ
mình hồi thế kỷ 16, 17 đã gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong.
Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai (đồng
có nhiều nai), Lộc Dã, Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại, là
nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu tiên năm 1623. Sử chép rằng
Chúa Sãi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613–1635), đã gả Công chúa Ngọc
Vạn, lệnh ái thứ 2, cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618–1626) từ
Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong. Nhờ sự giao hiếu ấy
vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ. Chúng ta đã
đặt đầu cầu tại Mô Xoài (gò trồng xoài), gần Bà Rịa đúng vào năm
1623 (Theo Claude Madrolle –Indochine du Sud, Paris 1926).
Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại
giao đã được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Thuế
quan Sài Gòn. Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan (1642–1659), em
vua trước, vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên cho
phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đã giao hảo với nước ta
và tự ý nhân nhượng một phần nào, là vì muốn cậy thế lực của triều
đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm. Như vậy chúng ta đã
đến sinh cơ, lập nghiệp, khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa
thuận hoàn toàn của đôi bên, chứ tuyệt nhiên không phải là một sự
xâm nhập. Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đã đối phó
hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc
lập của mình.
Nói
tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất
là hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Nói một cách khác công cuộc Nam
tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch, nó hiển
nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc
Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên
Hòa (hòa bình ở biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào nước ta
năm 1653. Khoảng đất này xưa được gọi là Đông Phố đúng ra là Giãn
Phố vì hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ Hán hơi giống nhau. Về sau
nơi này đã được triều đình Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc
Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến
khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù lao Phố, sau khi nhà Minh bị
nhà Thanh lật đổ.
Miền trên Biên Hòa thì có Hố Nai (hố sập
nai), Trảng Bom (trảng là một đồi bằng phẳng và rộng rãi có trồng
nhiều cây chum–bao–hom đọc trạnh thành bom, sinh ra một thứ dầu gọi
là chaulmougra, dùng để trị phong hủi). Phía dưới là nhà thương điên
Nguyễn Văn Hoài, một nhà bác học đã quả quyết với chúng tôi rằng
trong một đời người, số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất
cũng được vài năm!
Biên Hòa là quê hương của Đỗ Thành Nhân,
một trong Gia Định Tam hùng. Hai người kia là Võ Tánh quê ở Gò Công
và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An. Biên Hòa là xứ bưởi bòng ngon ngọt
có tiếng nên mới có câu ca dao:
Thủy để ngư, thiên biên nhạn
Cao khả xạ hề, đê khả điếu,
Chỉ kích nhơn
tâm bất khả phòng
E sau lòng lại đổi lòng,
Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu
Thới cao 65m, trên có ngôi chùa Hội Sơn, được trùng tu vào đầu thế
kỷ thứ 19, nhờ công đức sư Khải Long:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền!
Rồi đến Thủ Đức với những hồ bơi nước
suối, và những gói nem ngon lành. Thủ nhắc lại ngày xưa có những
chức quan văn như thủ bạ, thủ hộ lo về việc thuế má và nhơn thế bộ.
Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm, Thủ Thừa, Thủ Ngữ, v.v. để
nhắc lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước. Miền Thủ Đức lại
nhắc cho ta hai câu đối “tréo dò”:
Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ.
Có lẽ vì năm canh thức đủ mà có kẻ than
thân trách phận tự mình sánh với cái nem Thủ Đức lột trần:
Người ta năm chị bảy em
Tôi đây như thể chiếc nem lột trần.
Phía tay mặt là Gò Vấp, xưa kia là một
ngọn đồi trồng cây vấp. Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc,
yểm hộ cho dân tộc Chàm. Dã sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối
cùng là Pô Romé (1627–1651), vua này muốn vừa ý một ái phi người
Việt đã ra lệnh đốn cây Kraik (vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự
uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi
lần bổ xong thì khép lại ngay. Nhà vua tức giận cầm lấy rìu hạ xuống
một nhát, tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa
một vũng máu. Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày
tàn tạ.
Bây giờ
ta vào thành phố Sài Gòn, nơi mà 300 năm về trước (1674) tiền đạo
quân ta lần đầu tiên đã đặt chân tới, mang theo khẩu hiệu: “Tĩnh vi
nông, động vi binh”. Quân ta không phải tự động mà đến, chính là do
lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ. Họ khai khẩn
đất đai với sức dẻo dai sẵn có, đào sông ngòi trong vùng đất thấp và
đây đó khắp nơi, xây dựng thành trì kiên cố.
Một trong những công tác quân sự ấy do
tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772, rồi đến thành trì Phan An xây năm
1790, kế đến là thành Gia Định xây năm 1836. Những thành ấy xây đắp
với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đã ghi trong câu ngạn
ngữ:
Dân đất Bắc
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi vọi!
Chúng ta đang ở trung tâm thành phố Sài Gòn (sài là củi, gòn là bông
gòn) chuyển sang chữ nho thành Sài–Côn là củi gòn, vì chữ nôm gòn
viết là Côn, như Ông Trịnh Hoài Đức (1765–1825) đã ghi trong tác
phẩm Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng còn một bản dịch ra pháp
văn của ông Gabriel Aubaret. Theo một số người khác thì Sài Gòn có
lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng Quảng
Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu, dùng để chỉ thành phố do
người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên hòa vì chiến
sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa
Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm
của một danh xưng tối cổ Preikor, có nghĩa là rừng gòn, một loại cây
hiện nay còn trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille thì Sài Gòn có thể là
hai chữ nho: Tây Cống đọc chạnh ra, tên này ám chỉ rằng thành phố là
phần đất xưa kia đã được các vị vua phía Tây cống hiến cho ta. Ta
nên lưu ý rằng tên Sài Gòn chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp
kể từ 1784 trở đi mà thôi.
Còn danh xưng của Chợ–lớn mà người Tây đọc
liền lại là Cholon, nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện
tại của Sở Bưu điện Chợ–lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ. Chợ này
lập song song với chợ nhỏ hiện nay còn tồn tại với tên chợ Thiếc ở
phía trường đua Phú Thọ. Về sau Chợ–lớn được dời tới Chợ–lớn mới do
nhà đại phú Quách Đàm xây tặng, tượng họ Quách vẫn còn ở giữa đỉnh
chợ Bình Tây.
Sự
biến đổi địa âm dạng của địa danh Sài Gòn đã tùy sự hiện diện liên
tiếp của những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng gòn),
Tai–Ngon hay Thầy gòn của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê–ngan,
người phương tây dùng chữ La Mã ghi là Sài Gòn từ năm 1784.
Hồi xưa tên Sài Gòn chỉ áp dụng cho khu
vực Chợ–lớn hiện thời, còn chính Sài Gòn bây giờ thì khi ấy là Bến
Nghé (theo Trịnh Hoài Đức, theo các nhà hàng hải Âu Mỹ, theo bản đồ
do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia Long thứ 14
(1815) ghi trên vùng Chợ–lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ Rẫy ba chữ
Sài Gòn xứ, khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm. Khu Sài Gòn cao, nằm
phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi
nổi loạn, chắc đã có người ở từ thời thượng cổ, chứng cớ là những
khí giới và đồ dùng bằng đá mài tìm thấy khi đào móng nhà thờ Đức
Bà. Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành.
Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia
Định, nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến Nghé
và có cái chợ gọi là chợ Bền Thành. Cái rạch ấy về sau lấp đi thành
Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau:
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh
đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi
nào hơn em!
Bến
Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một
tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng ông
Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765–1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá
sấu chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé – Trịnh hoài Đức dịch
là “Ngưu–tân” Bến Nghé là cái bến sông Sài Gòn có tên là sông Bến
Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban
Bót (theo Gia Định thống chí). Còn cái rạch Bến nghé nối dài bởi
kinh Tàu–hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó
chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Sài
Gòn và khi ta nói Đồng Nai–Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Sài Gòn có một cái kênh gọi là
rạch Thị Nghè hay là rạch Bà Nghè. Bà tên là Nguyễn Thị Canh, con
gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu, đẹp duyên với một
ông nghè. Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm
trong thành, bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được.
Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ lưu, họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè.
Đến khi Tây đến đánh thành Sài Gòn, pháo hạm Avalanche tiến vào rạch
này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l'Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc
cầu ván dựng tạm cho người qua lại.
Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là Cầu Ông
Lãnh, được xây nhờ công ông Lãnh binh, thời tả quân Lê Văn Duyệt.
Còn những chiếc cầu khác là Cầu Muối, Cầu Khóm (thơm), Cầu Kho và
Cầu học (giếng học). Về các công sự thì có:
Chợ Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu
năm 1950
Nhà thờ Đức Bà khởi công năm
1877,hoàn thành năm 1883
Sở Bưu Điện và Tòa
án cất năm 1883.
Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23/2/1868 với sự tham dự dông
đảo của dân chúng. Thủy sư Đô Đốc De La Grandière với sự hiện diện
của kiến trúc sư Hermitte từ HongKong tới, đã đặt viên đá đầu tiên
vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó đựng một hộp chì chứa những đồng
tiền vàng và bạc dập hình vua Napoléon III. Đức Giám mục Miche, cai
quản địa phận, với một số đông con chiên, đã ban phép lành và đọc
một diễn văn lời lẽ cao quý đã làm cử tọa đặc biệt chú ý. Công cuộc
xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai
triệu viên gạch, và cái móng dày tới 3.5m tốn mất 2,436 thước khối
đá xanh Biên Hòa. Công tác đã hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên
đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze. Sau 84 năm Pháp thuộc,
ngày 7/9/1954 Đại tướng Ely, Cao ủy Pháp đã trả dinh thự này cho
Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ.
Tòa Đô Sảnh (1901–1908) trên có một gác
chuông do họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền.
Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927, khánh
thành ngày 1/1/1929, bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại ngày
8/3/1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam ngày 19/9/1951 thu thập
tới 4,000 cổ vật đã kê thành mục lục và trình bày trong 14 gian
phòng.
Vườn Cầm
Thảo (Sở Thú) tương tự với rừng Vincennes ở Pháp, được lập năm 1864.
Sau khi đã san bằng,việc đưa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865.
Ngày 28/3/1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển
vườn Cầm Thảo Sài Gòn và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta còn mang
tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta còn gặp một số địa danh nguồn
gốc Tây Phương như: Ba–son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu
(bassin de radoub) xây bằng xi–măng cốt sắt từ năm 1858, và bến tàu
nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866. Chữ Ba–son do chữ Bassin mà
ra.
Vườn Bờ Rô
(do chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là vườn Ông Thượng, xưa kia là
hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao Đàn.
Dakao là biến danh của Đất Mộ (đất của
lăng).
Lăng–tô là
biến danh của Tân Thuận, tên một làng mà dân Sài Gòn thường đến hóng
mát (pointe des flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời Sài Gòn xuống đò Thủ
Thiêm qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định một
chương trình kiến thiết rộng lớn, để biến nơi này thành một khu vực
nguy nga tráng lệ.
Con đò Thủ Thiêm ngày xưa đã hấp dẫn một
số đông những chàng trai trẻ:
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.
Nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi
trong khói lửa chiến tranh, đến khi trở về thì than ôi:
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ Thiêm!
Từ Thủ Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một
nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngã Ba Sông Nhà Bè, nơi mà con sông Đồng
Nai gặp con sông Sài Gòn cũng gọi là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ
ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ
đường và ngày nay còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của cô lái miền
quê:
Nhà Bè nước
chảy chia hai:
Ai về Gia Định Đồng Nai thì
về!
Rời Nhà Bè,
chúng ta trở lại Sài Gòn để đi về miền Bà Chiểu, một vùng ngoại ô
trù mật ở phía đông, chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu
Bông, vì xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất
ngoạn mục. Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia Định, nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê
Văn Duyệt (1764–1832), một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn
thờ như một vị thần thánh.
Theo Trương Vĩnh Ký thì Bà Chiểu là một
trong 5 bà vợ của ông Lãnh Binh đã xây cái cầu ông Lãnh. Theo phương
pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đã lập ra
5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản một cái: Bà Rịa (Phước Lễ), Bà
Chiểu (Gia Định), Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà
Điểm (phía Thuận Kiều). Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân Thới quê
hương của Cụ Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, thi phẩm đầu giường của
đồng bào Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam. Món trầu
là đầu câu chuyện, cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở gì cũng do miếng
trầu trao cho nhau mà sinh ra cả:
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Sài Gòn để rẽ
về Phú Nhuận, qua Cầu Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng
rất nhiều hành kiệu. Phú Nhuận (giàu sang và thuần nhã) là nơi còn
nhiều cổ tích như: Lăng Đô đốc Võ Di Nguy, mất tại cửa bể Thị Nại
năm 1801. Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ Quốc Công tức là hậu quân
Vũ Tính, nơi đây vua Gia Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế
vào để tỏ lòng mến tiếc. Võ Tánh là một trong Gia Định tam hùng mà
dân chúng nhắc tới trong những điệu hò giao duyên. Theo thường lệ:
Người con gái lên tiếng trước:
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam–Trung:
Hỏi ai Gia
Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung
một lòng?
Người
con trai liền đáp lại:
Ông Tánh, Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh
Gia Định tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có
Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh, trọn nghĩa
quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu
mình như không!
Về phía Tân Sơn Hòa có Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam
xưa nhất ở vùng Sài Gòn. Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá–Đa–Lộc,
mất tại cửa Thị Nại năm 1799.
Rời khỏi ngoại ô Sài Gòn chúng ta thuê một
chiếc thuyền con về vùng Lái Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đã
thiêu nhà vì say rượu) để thăm vườn trái:
Ghe anh Nhỏ mũi tráng lường
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc
biệt như: dâu da, thơm, bòn bon, mít tố nữ, măng cụt và nhất là sầu
riêng (durian) là giống cây từ Mã Lai đưa vào. Cây Sầu riêng thân
cao lá ít, trái có gai bén nhọn kinh khủng, cho nên trời chỉ cho
phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi! Đồng bào Nam bộ liệt
nó vào hàng đầu trong các loài trái, vì nó có đủ năm mùi hương vị
đặc biệt như quả lê Trung hoa. Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại
một thời gian mới thông cảm và khi đã thông cảm rồi thì thèm muốn
như mê say, chỉ trừ anh học trò thi rớt:
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng
anh chẳng buồn ăn,
Bòn bon, tố nữ anh quăng
cùng đường!
Tại
vùng Lái Thiêu, có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ XVIII trên
ngọn đồi xinh tươi, chung quanh có nhiều lò gốm, lò sành và một
trường dạy học cho trẻ em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
Đến Búng chúng ta không quên đi thăm chùa
Phước Long ở vùng An Sơn, có ông huề thượng thâm nho, thường ra
nhiều câu đối bí hiểm cho những khách nhàn du:
Rượu áp sanh (absinthe) say chí tử
Có người đã đối lại như sau:
Bóng măng cụt mát nằm dài
Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu:
Cúng bình hoa, tụng pháp hoa, hoa khai
kiến Phật,
Dâng nải quả, tu chánh quả, quả
mãn thông Thần.
(sưu tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong Văn hóa nguyệt san số
33 năm 1958)
Tên
gọi Sài Gòn từ đâu?
Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu,
học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức.
Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về
xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn.
Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi–Coón
(Tây Cống):
Đây
là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis
Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết). Theo Aubaret,
Histoire et description de la Basse–Cochinchine và Garnier, Cholen,
thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên
thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là
Tai–ngon hay Ti–ngan. Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát
âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng
Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì
Thầy Ngòn, Xi–Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì
không phải.
Tại
sao? Vì lịch sử chứng minh rằng Sài Gòn có trước, rồi người Tàu mới
đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi–Coón.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết
năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn
đánh Cao Miên và phá vỡ “Luỹ Sài Gòn” (theo Hán–Việt viết là “Sài
Côn”). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử
sách Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán “Côn” được dùng thế cho
“Gòn”. Nếu đọc theo Nôm là “Gòn”, còn không biết đó là Nôm mà đọc
theo chữ Hán thì là “Côn”.
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh
Sài Gòn! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị
Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay
Xi–Coón tức Tây Cống.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor.
Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa
ra dựa theo sự “nghe nói” như sau:
“Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có
nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn. Người ta nói rằng
tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã
trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa
Cây Mai và các vùng lân cận”.
Pétrus Trương Vĩnh Ký – Souvenirs
historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et
Reconnaissance X. Saigon, Imprimerie Coloniale 1885.
Không biết tại sao mà sau này Louis
Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là “của” Trương
Vĩnh Ký, mặc dù ngay sau đoạn này, TVK lại viết tiếp “Theo ý tôi,
hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem
làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của
tên đó”.
Tương
tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sài Gòn từ “Cây Gòn” (Kai Gon)
hay “Rừng Gòn” (Prey Kor) mà ra.
Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một
đặc điểm chính: cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì
lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ “rừng gòn”
ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà
bác học Trương Vĩnh Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức
khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng
này, mặc dù lúc đó Sài Gòn không có phát triển hay thay đổi gì cho
lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không
có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sài Gòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp
nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là “most likely”.
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu
Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đối chiếu 187
địa danh Việt–Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp,
Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokor.
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại
bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem
quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Sài Gòn)
và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong
Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn
Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì
Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có
nghĩa là “thị trấn ở trong rừng”, Prei hay Brai là rừng, Nokor hay
Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu
thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay
Brai biến thành RAI, thành “Sài”, Nokor bị bỏ “no” thành “kor”, và
từ “kor” thành “Gòn”.
Từ Prei Nokor ...mà thành Sài Gòn thì thật
là ...dễ sợ!
Còn
sở dĩ có Sài Gòn viết dính nhau là do các giáo sĩ Tây phương đã bỏ
mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc
“sai” ra “sê” theo giọng Pháp nên Sài Gòn được viết với hai dấu chấm
trên chữ i.
Sài Gòn... muôn thuở là Sài
gòn!
Ca dao tục
ngữ Sài Gòn
Sài
Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những
nơi như Sài Gòn được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà
phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Sài Gòn, ra vào chợ
Sài Gòn hẳn không quên. Chợ Sài Gòn được đồng bào Hậu Giang so sánh
với ngôi chợ tỉnh nhà:
Chợ Sài Gòn cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở
vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp
sống Tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại
chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ
sở.
Cúc mọc bờ ao
kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ
cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Sài Gòn và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên
sáu chục cây số, nay tuy thật gần nhưng xưa thật xa, vì phương tiện
di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau,
nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn
bán, nàng ở chợ Sài Gòn, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ
biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên,
vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy
nàng nghèo mà chê.
Chợ Sài Gòn đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh
em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có
nơi nào hơn em.
Chợ Sài Gòn với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê
lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được,
nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể
sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới
bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn.
Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa
người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên:
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì?
Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các
nàng Lục tỉnh, cô gái Sài Gòn thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy
ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em
giao hòa.
Sự ước
vọng, lòng mong mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
Chợ Sài Gòn ngày nay ta vẫn gọi là chợ Bến
Thành, nhưng Bến Thành trước đây là bến tàu và hàng ngày thường 10
giờ thì tàu đến bến này:
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Súp lê còi thổi bộ hành lao xao.
Sao lại mệnh danh Bến Thành? Phải chăng
đây là bến của đô thành Sài Gòn hay của Gia Định thành? Còn khách bộ
hành lao xao vì muốn ngắm tàu Tây.
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om!
Anh ngồi
quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá
om quăng lò.
Chàng trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin
người mình thương đã có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình
trà đi! Kể cũng đáng buồn, tưởng được cùng người thương thưởng thức
bình trà (om) ngon, ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng đành ôm hận,
trút mối giận vào om, cái bình trà vô tội.
Nhắc đến Bến Thành, quên sao được thành
Tây:
Dân đất Bắc,
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông,
Sầu Nam vời vợi.
Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những
người dân miền Bắc bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp thành cho người
Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm, Đông thật là đông. Sự đông đúc này quả
là một mối sầu vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan,
thân làm nô lệ, phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào
thành trì đô hộ đồng bào mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng
than thở:
Nhà tan
nước mất ai ơi,
Cái thân nô lệ sống đời cu
ly!
Người dân
than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân để
nịnh bợ quân thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh,
cõng rắn cắn gà nhà, có bao giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và
trong khi sống đời cu ly đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người
bỏ thây cùng công việc, ngày xưa đâu đã có máy móc, kỹ thuật xây
dựng đắp hoàn toàn công ở sức người.
Đắp thành Tây rồi xây soái phủ cho Tây,
người dân Nam trong cảnh căm hờn muốn nói không ra, đành gởi tâm
tình vào ca dao tục ngữ:
Trên thượng thơ bán giấy
Dưới Thủ Ngữ treo cờ.
Kìa Ba còn đứng trơ
vơ!
Nào khi núp bụi, núp bờ,
Mũi Di đánh dạo bây giờ bỏ em.
Thượng thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam
ở góc đường Tự Do và Gia Long ngày nay. Nơi ấy có bán ấn chỉ cho
dân, trong Nam quen gọi là bán giấy. Thủ Ngữ là nơi thủy quân Pháp
đóng, có dựng cột cờ. Con người ái quốc trông hai nơi này căm gan
sôi ruột! Ai đã khéo đặt ra câu ca dao trên để kích thích lòng căm
hờn của người dân Việt, đã nhắc đến tượng Gambotta ở vườn Tao Đàn,
gọi một cách nhục nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là Ba, ai là
dân Việt ắt thấy nhục vong quốc này. Nếu câu ca dao chỉ có ba dòng
đầu có thể gợi sự nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy phải thêm hai
hàng sau gắn vào, mượn lời tình nhân oán trách tình nhân che dấu ý
kín của câu hát. Tuy đây là lời tình nhân oán trách tình nhân, nhưng
cũng là lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng nhau núp bụi ngồi
bờ, đã cùng nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu thú
người Pháp để cầu công danh phú quý.
Pháp chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam
căm hờn, một mặt một số cô gái Việt Nam kém ý thức, vì hoàn cảnh đã
sánh duyên với Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp lấy me trong thời
gian ở đất Việt, rồi anh lính trở về Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt
lại lấy chồng, đậng một anh lính khác, chẳng khác chi các nàng Giao
chỉ sau này trong thập niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các
chú lính Mẽo:
Sài
Gòn mũi đỏ,
Gia Định súp lê.
Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
Thuyền anh ra
cửa bể như rồng lên mây.
Thuyền, tàu Sài Gòn hồi đó sơn mũi đỏ để
phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề kiểm
soát.
Thuyền anh
ra cửa bể như rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây đã ra
cửa bể rồi, anh tha hồ được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết duyên
cùng người mới.
Về các cuộc hôn nhân Việt—Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc
tới một câu trong ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại
như sau:
Còi súp
lê một anh còn than thở,
Còi súp lê hai anh
nức nở vắn dài.
Còi súp lê ba, tàu ra biển
Bắc,
Nước mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa
anh chậm,
Tình nghĩa vợ chồng ngàn dặm
không quên.
Cuộc
tiễn đưa ắt phải xảy ra tại bến tàu Sài Gòn, và có anh chàng Tây đã
thút thít vì phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật
hay chăng anh ra cửa bể như rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa
hai câu thơ trên, hay ý tại ngôn ngoại, chỉ có sự mâu thuẫn trên
hình thức, còn thực ra thì ngàn dặm có đời nào mà không quên đối với
những lứa đôi dị chủng, nhất là trong cuộc chắp nối giang hồ.
Sài Gòn nơi có đô hội lớn, phố xá rộng
rãi, cây cao và rậm mát:
Đường Sài Gòn cây to bóng mát,
Đường Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi.
Đường Sài Gòn có đúng cây to bóng mát, còn
đường Chợ Lớn có lẽ trước đây với đất phù sa của đồng bằng Cửu Long,
cát nhỏ dễ đi chăng! Dưới thời Pháp thuộc, đường Sài Gòn cũng như
đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này tráng nhựa... Ngày nay, với
thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay tráng nhựa, mà chính quyền
có ít chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người than:
Đường Sài Gòn ổ gà đi xóc,
Đường Chợ Lớn đi xóc ổ gà.
Ca dao Sài Gòn có những câu rất ngộ
nghĩnh, nhắc tới địa danh một cách khéo léo:
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Trong bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật
ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai địa danh là Đồng Nai, Bến Nghé.
Dưới đây là câu ca dao nhắc tới các chợ
khác ngoài chợ Bến Thành:
Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh.
Sáng
mai đi chợ Gò Vấp,
Anh mua một xấp vải đem
về.
Cho con hai nó cắt, con ba nó may,
Con tư nó đột, con năm nó viền.
Con sáu đơm
nút, con bảy vắt khuy;
Anh bước ra đi,
Con tám núi, con chín trì,
Ớ em mười ơi!
Sao em để vậy còn gì áo anh?
Ca dao Sài Gòn hẳn phải còn nhiều, biết
tới đâu xin tỏ tường tới đó, những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ
giáo của người biết.
(Trích tác phẩm “Hương Nước Hồn Quê” –
Toan Ánh)
Các địa
danh mang tên BÀ:
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi
trước của con rạch Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia
Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh:
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây
tờ quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây
xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây
“chàm rai” là cây gì, mà lá nó xanh dữ vậy.
Nội ô Sài Gòn còn có một bà cũng nổi tiếng
đó là Bà Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình
Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm,
chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà
Điểm. Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới
Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên
soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt
cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh, một con đường, con hẻm một
cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích
của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu
vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai
đi trên đường lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam–pu–chia, có
một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5,
thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là
tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị
Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh
Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định
phú có câu ví rất hay:
Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái
nhảy thỏa tình khát vọng
Cầu Bà Thuông
đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có
từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận
Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân
Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập
Hạ, huyện Củ Chi dài 15km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng
Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân
Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng,vừa là
các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào
trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà
Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp... cũng là cầu,
là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở
vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu
khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay
không còn nữa. Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh
Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue
Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên
Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay. Bà Ký là đường trên địa bàn phường
9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay
tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có
tên là Frostin. Đến 19/10/1955 đổi lại thành đường Bà Lê Chân. Bà
Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là Merlande. Năm
1955 mới đổi thành Bà Triệu... Chắc là còn nhiều “bà” nữa mà người
viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con
sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất gắn với một bà nào đó,
thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông
thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có
bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng
vậy.
Ở Sài Gòn
địa danh mang tên năm ÔNG sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão,
ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông
Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này
hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có
cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là
ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm! Có giả thuyết cầu
này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798–1866) đóng quân ở đồn
Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả
lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh
binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ
không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh
sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục
mấy.
Hai là Ông
Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng
thì biết ngay là Công viên Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn
trẻ, chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên
dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và
30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát
đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi
nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố, hồi năm nẳm, ở
vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố.
Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào,
châu chấu vậy. Không rõ ông Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ
biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là giồng) có lẽ là của ông
chăng?
Bốn là Ông
Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn
gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5,
7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông
Tạ là gợi ngay đến các hàng thịt chó treo lủng lẳng cả chục con thui
vàng rực, coi bắt mắt lắm.
Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông
Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên
tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa
khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã
nâng thành cầu đúc dài 162m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn
này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là
lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng
18,500m². Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở
Huế. Ngày 16/11/1988, Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Lăng Ông là
di tích kiến trúc nghệ thuật. Ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp
ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm,
tĩnh mịch.
Ở Sài
Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã
Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông Ích Khiêm.
Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2,800m
từ ngã ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm); rạch Ông Cái ở
quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ
đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông
Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng
lá đến sông Lòng Tàu.
Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hũ; cầu
Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều... Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình
Hưng dài đến ba cây số.
Về vài địa danh mang tên thảo mộc.
Ở Việt Nam có rất nhiều địa danh mang tên
thảo mộc. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến Gò
Vấp, Củ Chi, Trảng Bàng, Giồng Trôm, Thốt Nốt và Bạc Liêu mà thôi.
GÒ VẤP
Trước năm 1975 Gò Vấp là một quận của tỉnh
Gia Định gồm có 8 xã. Quận lỵ Gò Vấp cách Sài Gòn 10km. Đó là nơi có
nhiều thành quách (An Nhơn, Hạnh Thông Tây), vườn rau cải (Hạnh
Thông Tây), ruộng rau muống (Xóm Mới), vườn dừa (An Phú Đông, Bình
Triệu), vườn sầu riêng, măng cụt (Nhị Bình), vườn bưởi (Thạnh Lộc)
với hai xã đông dân cư và phồn thịnh về kinh tế và thương mại gần
Sài Gòn: Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
Sau năm 1975 Gò Vấp là một quận trong
thành phố. Diện tích Gò Vấp bấy giờ thu hẹp chỉ còn 20km². Các xã
Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây trở thành quận Bình Thạnh, Nhị Bình, Thạnh
Lộc, An Phú Đông sát nhập vào quận Hóc Môn.
Gò Vấp là quận đông dân cư. Đó là nơi có
nhiều giáo đường và chùa chiền. Viện Mồ Côi và bịnh viện Cộng Hòa
nằm trong quận này. Sau năm 1954 Gò Vấp nổi tiếng về việc sản xuất
pháo (Xóm Mới).
Địa danh Gò Vấp do tên của cây vấp mà ra. Tên khoa học của cây vấp
là Mesua coromandelina, Mesua ferrea, Mesua nagassanium... thuộc gia
đình Clusiaceae hay Guttiferae. Loại thảo mộc này có nhiều ở Ấn Độ,
Sri Lanka và các quốc gia Đông Nam Á. Người Ấn Độ gọi là nagkesa;
tiếng Phạn (Sanskrit): nagakesara; Khmer: bos neak. Người Anh gọi là
cobra saffron vì theo tiếng Phạn naga có nghĩa là con rắn và chữ
saffron gợi lên màu vàng của cây vấp. Tiếng anh cũng gọi cây vấp là
iron wood tree hay Ceylon ironwood (thiết mộc Tích Lan).
Cây vấp cao từ 15–20m. Gỗ màu vàng rất
cứng, ngâm duới nước không bị rã mục. Lá cây vấp nhọn, thon, dài
trông rất đẹp. Lá non màu đỏ bầm. Hoa to, màu trắng bốn cánh với
nhụy vàng. Hoa có hương thơm. Trái có hột dùng để lấy dầu.
Gỗ cây vấp dùng để làm nhà, ngạch đường
rầy xe lửa rất tốt. Dầu lấy từ hột cây vấp dùng để thắp đèn. Cây vấp
là quốc mộc ở Sri Lanka (đảo Ceylon: Tích Lan), nơi cây vấp được gọi
là nahar.
Người
ta dùng hoa, rễ và hột cây vấp để làm thuốc trị bịnh. Hoa được dùng
để trị táo bón, đau bụng, phong hủi, ho, sốt, bất lực sinh lý. Dầu
dùng để trị các chứng bệnh ngoài da, trị ghẻ, tê thấp. Dầu cây vấp
có nhiều ác xít béo: ác xít stearic, oleic, linoleic và arachidic.
Hoa khô dùng để trị bịnh trĩ, kiết lỵ. Hoa tươi trị ngứa, kinh
nguyệt, khát nước quá độ (tiêu khát; tiểu đường), ra mồ hôi. Rễ dùng
để trị rắn cắn. Lõi cây vấp có nhiều xanthones: euxanthones,
mesuaxanthones A, mesuaferrone B. Nhụy hoa có hai bioflavonoids:
mesuaferrone A và mesuaferrone B và ác xít mesuanic. Vỏ có ferruol B
và triterpenoid gutiferol.
CỦ CHI
Trước năm 1954 Củ Chi là một quận trong
tỉnh Gia Định. Sau năm 1954 quận này nằm trong tỉnh Bình Dương một
thời gian ngắn. Khi tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập, Củ Chi nằm trong
tỉnh tân lập này. Trước năm 1975 Củ Chi có 14 xã.
Sau năm 1975 Củ Chi là một quận ngoại
thành của thành phố. Quận Củ Chi nằm cách Sài Gòn 40km. Diện tích
quận Củ Chi lối 435km². Đa số dân đều sống bằng nghề nông và đan
thúng rổ, làm vật dụng bằng mây. Củ Chi được biết đến nhiều trong
chiến tranh vừa qua. Vùng này nằm trong vùng Tam Giác Sắt. Bộ tư
lệnh Sư Đoàn 25 đóng tại đây. Sau năm 1975 tân chế độ gọi Củ Chi là
Đất Thép Thành Đồng và biến Địa Đạo Củ Chi thành vùng du lịch.
Củ Chi là sinh quán của Trần Minh Tiết,
Chánh Án Tối Cao Pháp Viện VNCH; Phan Văn Khải, cựu thủ tướng
CHXHCNVN.
Địa
danh Củ Chi phát xuất từ tên gọi của cây củ chi tức mã tiền. Cây củ
chi hay mã tiền được tìm thấy nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á. Tên khoa
học của nó là Strychnos nux–vomica thuộc gia đình Loganiaceae. Người
Anh gọi là poison nut (vì độc chất của mã tiền), quaker buttons,
snake–wood, nux–vomica, strychnine tree. Người Ấn Độ có nhiều kinh
nghiệm về việc dùng mã tiền (củ chi) làm thuốc. Họ gọi mã tiền (củ
chi) là kuchala. Người Trung Hoa gọi là ma qian zi.
Cây củ chi cao đến 25m. Lá bầu như trầu.
Trên lá có nhiều gân lá song song với rìa lá. Hoa nhỏ màu trắng ngà
kết thành chùm. Trái tròn màu vàng cam khi chín. Gỗ trắng và cứng.
Củ chi nổi tiếng vì độc chất của nó. Nhưng
độc chất đó cũng được nghiên cứu kỹ lưởng để dùng vào việc chữa trị
bệnh. Nó có alkaloid strychnine rất độc. Vỏ có brucine và nhiều hợp
chất độc khác. Nói chung cây củ chi có nhiều độc chất. Nhưng dùng ở
liều lượng đúng, nó trở thành thuốc trị đau bụng, gây nôn, táo bón,
mất ngủ, bịnh tim, thần kinh, tinh thần hồi hộp bất an, kinh nguyệt
không điều hòa, bịnh hô hấp của người già, viêm vành tai ngoài gây
ngứa ngáy khó chịu.
Trong y học dân gian người ta xem mã tiền
như thuốc bổ tạo sự thèm ăn. Hiện nay ở Trung Hoa người ta nghiên
cứu xem củ chi có thể dùng vào việc chữa trị ung thư gan hữu hiệu
hay không.
TRẢNG
BÀNG
Tràng Bàng
là một quận trong tỉnh Tây Ninh gồm có 7 xã. Quận này nằm cách Sài
Gòn 50km về phía tây bắc. Quận Trảng Bàng rộng lối 340km². Trảng
Bàng nổi tiếng với bánh canh giò heo ăn với bánh tráng phơi sương
(không cần nhúng nước), rau rừng và nước mắm pha chế đặc biệt của
người miền đông Nam Bộ. Năm 1972 một bức ảnh chụp một em bé trần
truồng chạy ngoài quốc lộ ở Trảng Bàng sau một cuộc dội bom napalm
trong một làng trong quận Trảng Bàng được giải thưởng Putlitzer.
Trảng Bàng là sinh quán của giáo sư Nguyễn
Ngọc An, người sáng lập hai trường Minh Đức (Trảng Bàng) và Tân Dân
(Hóc Môn). có một thời ông là tổng trưởng bộ Thông Tin và Chiêu Hồi.
Theo từ nguyên thì Trảng (savanna) là một
vùng đất trống có nhiều cỏ và cây cùng một loại mọc lưa thưa. Bàng
là cây bàng, một loại thảo mộc được tìm thấy nhiều ở Nam Á, Đông Nam
Á, Nam Hoa, các hải đảo Thái Bình Dương và biển Caribbean.
Tên khoa học của cây bàng là Terminalia
molucca (còn nhiều tên khác) thuộc gia đình Combretaceae. Chữ
molucca trong tên khoa học cho thấy nguồn gốc Molucca, Indonesia,
của loại thảo mộc này hay ít ra nó cũng có nhiều trên đảo này. Người
Anh gọi cây bàng là umbrella tree (vì bóng mát rộng lớn của nó),
tropical almond (hạnh nhiệt đới) như người Tây Ban Nha gọi almondro
de la India (hạnh Ấn Độ) Người Miến Điện gọi là badan và Khmer là
pareang prang.
Cây bàng cao đến 25m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rộng lớn. Lá
bàng to, dày và láng. Vào mùa thu lá chuyển sang màu vàng rồi đỏ rất
đẹp trước khi rụng. Trái bàng khá to, cơm dày ăn được. Hột có nhiều
dầu và có mùi dễ chịu. Hột được ăn sống hay rang chín. Lá hay hoa
cây bàng đều đẹp. Lá tươi hay khô đều được dùng làm thuốc nhuộm. Màu
xanh chuyển sang màu vàng khi cho phèn chua và sulfate sắt vào. Gỗ
cây bàng rất cứng và đẹp. Nó được dùng để cất nhà hay làm đồ mộc.
Trồng cây bàng để có bóng mát, có nhiều gỗ, thanh lọc không khí,
chống xâm thực ngoài bờ biển và tạo phong cảnh đẹp.
Lá, gỗ, vỏ, hột cây bàng đều được dùng làm
thuốc. Sự dồi dào tannins của lá, vỏ làm cho cây bàng hữu dụng trong
việc trị chứng tiêu chảy, kiết lỵ và đau nhức. Hột được dùng làm
thuốc trị huyết tiện (hematuria). Ở Ấn Độ người ta dùng lá bàng trị
tê thấp. Kết hợp với thuốc xức để trị ghẻ, phong hủi và các chứng
bịnh về da.
Trái
bàng có ác xít tannic. Tannin của lá và vỏ cây bàng có punicalag.
Hồ Đình Vũ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trịnh Tường Vân chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 20, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang