Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
giao thương
Tác giả:
Robert Hopkins
Miller
Dịch giả:
Ngô Bắc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Giới Thiệu: Đặc phái viên Edmund Roberts các
sứ bộ ngoại giao Hoa Kỳ đầu tiên sang Việt Nam, các năm 1832 và
1835.
Đăng ngày 12/05/2020 By editor.
No Comments on
Đặc phái viên Edmund Roberts các sứ bộ ngoại giao Hoa Kỳ đầu tiên
sang Việt Nam, các năm 1832 và 1835.
Robert Hopkins Miller
Ngô
Bắc dịch.
*****
Năm 1802, tàu Fame là chiếc tàu Hoa Kỳ đầu tiên và thuyền
trưởng Jeremiah Briggs là người Hoa Kỳ đầu tiên trong lịch sử
sang thăm Việt Nam để tìm kiếm cơ hội thương mại; năm 1831, John
Shillaber, Lãnh sự Hoa Kỳ tại Batavia (tức Jakarta ngày nay), đã
soạn thảo Bản báo cáo chính thức đầu tiên về Việt Nam gửi lên Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ. Sau đó, năm 1832, Edmund Roberts, đặc sứ của
Tổng thống Andrew Jackson, được chỉ định để thương thảo với Nhật
Bản và các nước Á Châu khác, trong đó có cả Việt Nam. Phái đoàn
của ông trở thành những nhà ngoại giao Hoa Kỳ đầu tiên sang thăm
Việt Nam. Dưới đây là các văn bản liên quan đến chuyến công du
lịch sử của Edmund Roberts.
I. Chỉ thị của Ngoại trưởng Livingston
gửi Đặc sứ Edmund Roberts về nhiệm vụ tới Việt Nam
Gửi ông Edmund Roberts,
Bộ Ngoại giao,
Washington, ngày 27 tháng
1, 1832
Thưa
ông, Tổng thống đã bổ nhiệm ông làm phái viên của Tổng thống với
mục đích khảo sát các phương thức để mở rộng nền thương mại của
Hoa Kỳ tại vùng Ấn Độ Dương bằng cách thiết lập quan hệ thương
mại với các nước giáp ranh với vùng đại dương nói trên. Ông sẽ
đáp lên chiến hạm mang tên Khổng Tước (Peacock), chiếc tàu đó sẽ
giúp che giấu nhiệm vụ của ông nhằm tránh các nhóm lợi ích khác
có thể tìm cách phá hoại các mục tiêu mà Tổng thống nhắm đến. Ông
sẽ đóng vai Thư ký của Thuyền trưởng. Lý lịch thực sự của ông
được thông báo cho Thuyền trưởng Geisinger, và không cần tiết lộ
cho bất kỳ người nào khác trên tàu trừ khi ông thấy là cần thiết
cho công việc của ông.
Khi ông tiến vào vùng Ấn Độ Dương từ
phía đông, địa điểm đầu tiên mà ông cần thực hiện nhiệm vụ sẽ là
Cochinchina (Việt Nam ngày nay – chú thích của BBT). Ông sẽ tới
kinh đô của xứ sở đó, tức Huế, đôi khi được gọi là Huéfoo. Một
kinh thành như thế là nơi có Quốc vương cư ngụ. Trên hành trình
đến nơi này, ông sẽ phải tự tìm hiểu một cách tỉ mỉ hoạt động mua
bán giữa Vương quốc này với các xứ khác, bao gồm: đặc điểm các
sản phẩm của nước này, bất luận là sản phẩm thiên nhiên, canh
tác, hay chế tạo; nền thương mại trên biển và sức mạnh quân sự
của nó; các loại hàng hóa để tiêu dùng trong nước hay để trao đổi
với các nước khác; những đặc ân được ban cấp, hay các sắc thuế
quá đáng được hành thu; nền thương mại của các quốc gia khác đang
giao thương với họ.
Khi đến nơi, ông sẽ đích thân yết kiến
Quốc vương, trình bày thẩm quyền của ông và đệ trình thư gửi đến
Quốc vương. Ông sẽ phát biểu rằng Tổng thống chúng ta có nghe
biết về danh tiếng của Quốc vương [là người] yêu chuộng lẽ công
bằng, và mong muốn vận dụng các ưu thế của nền thương mại để làm
lợi cho người dân của Ngài, nay phái ông sang để tìm hiểu là liệu
Quốc vương có sẵn lòng cho phép thuyền bè của chúng ta cặp bến
các hải cảng của Ngài với những loại hàng hóa sẽ hữu dụng cho
Ngài và thần dân của Ngài, và đổi lại, để thu mua các sản phẩm
công nghiệp hay sản phẩm canh tác từ đất đai của họ. Rằng chúng
ta chế tạo và có thể mang đến các vũ khí, đạn dược, vải dệt bằng
bông và len, thủy tinh, v.v. (hãy liệt kê tất cả những loại hàng
mà ông biết được là họ thường nhập cảng) — rằng chúng ta có thể
cung cấp các hàng hóa đó với giá rẻ hơn bất kỳ nước nào khác, bởi
vì nguyên tắc của quốc gia chúng ta là chống lại việc xây cất các
thành lũy, hay kiến tạo các cơ sở tốn kém tại các xứ sở ngoại
quốc — rằng chúng ta không bao giờ thực hiện các cuộc chinh phục
[thuộc địa], hay đòi hỏi bất kỳ quốc gia nào khác cho phép chúng
ta định cư tại quốc gia của họ, như người Anh, người Pháp hay
người Hòa Lan đã làm tại vùng Đông Ấn Độ. Tất cả những điều mà
chúng ta yêu cầu là quyền tự do đến và đi cho mục đích mua bán,
sẵn sàng tôn trọng các luật lệ của xứ sở trong khi chúng ta có
mặt ở đó. Nhưng mặc dù chúng ta không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi
nào, chúng ta sẽ không tiến hành mua bán tại nơi mà chúng ta bị
đối xử tồi tệ hơn các quốc gia khác. Chúng ta sẽ đóng tất cả các
sắc thuế mà Quốc vương yêu cầu, nhưng chúng ta sẽ không chịu trả
nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, hay chúng ta sẽ không chịu
đóng các khoản lạm thu quá đáng của bất kỳ quan chức nào là thuộc
cấp của Quốc vương — rằng vị Tổng thống của chúng ta rất hùng
mạnh, có nhiều chiến thuyền đặt dưới quyền chỉ huy của ngài nhưng
các chiến thuyền chỉ được dùng vào việc bảo vệ nền thương mại của
chúng ta chống lại sự cưỡng chế — rằng nếu Quốc vương mong muốn
tận dụng được các ưu thế của nền mậu dịch của chúng ta, Quốc
vương phải ký kết một hiệp ước theo đó các điều kiện nêu trên
phải được bảo đảm cho các thương nhân của chúng ta — rằng ngay
khi hiệp ước này được công bố, các tàu bè của chúng ta sẽ lui tới
các hải cảng của Quốc vương, làm giàu cho Ngài bằng tiền thuế mà
Ngài sẽ thu được, và làm giàu cho thần dân của Ngài thông qua
việc mua bán với họ.
Một điểm quan trọng là, việc trao đổi
mua bán với người dân phải được cho phép công khai, bởi chúng ta
được biết rằng tại phần lớn, thậm chí tại tất cả các hải cảng,
các quan chức hay các viên chức khác hiện đang nắm độc quyền
ngoại thương và không chấp thuận cho bất kỳ công dân nào được mua
bán với người ngoại quốc.
Ông sẽ được giao thẩm quyền để ký kết
một hiệp ước — với các điều khoản xác định ở trên, nếu có thể,
cùng các điều khoản khác như sẽ được nêu ra sau này – và [thẩm
quyền] để hứa hẹn, mà ông có thể hứa bằng miệng hay bằng văn bản,
rằng chúng ta sẽ trao các tặng phẩm khi hiệp ước được phê chuẩn.
Ông có thể ấn định một danh sách các tặng phẩm sao cho chúng có
thể làm người nhận hài lòng nhất, nhưng trị giá không được vượt
quá mức 10,000 mỹ kim cho mỗi vị Chúa tể.
Khoản bồi dưỡng của ông sẽ là 6 mỹ kim
mỗi ngày, và tất cả các chi phí cá nhân cần thiết — chỉ tính
những trường hợp không tiên liệu được, bởi việc ăn ở trên tàu đã
được cung cấp cho ông. Ông sẽ được ứng trước số tiền 1,000 mỹ kim
vào trương mục để ông chi trả, và khoảng 500 mỹ kim để mua các
tặng phẩm cần thiết để có thể được yết kiến Nhà vua.
Các chỉ thị nêu trên sẽ được áp dụng cho các sứ mệnh của ông tại
Xiêm La, và các nước vùng Ả Rập trong miền Hồng Hải (Red Sea),
nơi ông cũng sẽ được phái đến.
Ông được phép rút tiền từ Bộ Ngoại giao
đến ngạch số trợ cấp của ông, khi chúng đáo hạn, sau khi khấu trừ
đi khoản ứng trước vừa xuất ngân cho ông, và cho các chi phí cần
thiết của ông, như được chứng thực bởi chỉ huy trưởng chiếc tàu
mà ông cùng đi.
Tôi xin trân trọng chào ông.
Kính thư,
Edw. Livingston
Tái bút: Khoản thù lao của ông sẽ được
tính từ ngày 9 tháng 1 năm 1832, ngày ông rời nơi cư trú để lên
đường công tác.
II. Báo cáo của Đặc phái viên
Edmund Roberts về Sứ bộ đầu tiên
Batavia,
Ngày
22 tháng 6, 1833
Thưa ngài,
Tôi hân hạnh báo tin ngài hay rằng
chúng tôi đã lái tàu rời Lin–tin vào ngày 26 tháng 12 vừa qua để
đến Turon Bay (Vịnh Đà Nẵng ngày nay – chú thích của BBT) nơi bờ
biển phía bắc của nước Cochinchina, đã chờ đợi chiến hạm U.S.S.
Boxer đến nơi cho tới khi mọi hy vọng về sự xuất hiện của nó tan
biến. Vào ngày đầu tiên của tháng 1, chúng tôi đã đến ngoài khơi
của Vịnh, trong điều kiện thời tiết vô cùng giông bão, và thời
tiết còn tiếp tục như thế trong vài ngày, cùng với một trận cuồng
phong và sóng lớn thổi từ một khu vực bất ngờ (khu Tây Bắc) thay
vì từ Đông Bắc, cùng lúc có luồng gió mạnh thổi về hướng Đông
Nam. Chúng tôi tiếp tục chống trả các khó khăn chồng chất này cho
đến ngày mồng 5, và khi đó chúng tôi nhận thấy mình bị trôi giạt
xuống phía đảo Pulo Canton (Cù Lao Ré, nay là đảo Lý Sơn, Quảng
Ngãi – chú thích của BBT), và lui dần mỗi khi gió đổi chiều, cuối
cùng chúng tôi bị đưa đẩy vào hải cảng gần nhất, thuộc vùng Vịnh
Phú Yên, và thả neo vào ngày kế đó tại bến tàu của Vunglam (Vũng
Lấm, thuộc tỉnh Phú Yên – chú thích của BBT). Ngay sau khi cặp
bến, một lá thư viết bằng Anh Ngữ, với một bản dịch bằng Hán ngữ,
đã được quan chức tại Vunglam chuyển lên Kinh đô Huế, gửi đến Vua
Minh Mạng, Quốc vương nước An Nam, thông báo với Quốc vương về sự
có mặt của chúng tôi và trình bày mục tiêu của sứ bộ. Vào ngày
17, một phái đoàn gồm ba quan chức đã đến, một người là Phán quan
của tỉnh Phú Yên, được tháp tùng bởi một đoàn tùy tùng dài cưỡi
voi, ngựa hoặc di chuyển trong các cỗ kiệu, mang theo lá thư được
gửi đến Quốc vương. Họ tuyên bố rằng họ được phái đến bởi vị
“Thượng thư phụ trách Ngoại nhân” để thông báo bằng miệng với tôi
rằng ông Thượng thư đã hoàn trả lá thư chưa hề được mở ra, bởi
thư đề gửi cho Quốc vương An Nam. Vị chúa tể của xứ Cochinchina
giờ đây tự xưng tước của mình là Hoàng đế Wiet Nam (được phát âm
là Yũnam) (Viết y như trong nguyên bản, đây chắc là bản văn chính
thức của Hoa Kỳ đầu tiên nêu danh xưng Việt Nam – chú thích của
BBT) thay vì vương hiệu trước đây của ông là An Nam Quốc vương.
Vì thế, viên Thượng thư yêu cầu chúng tôi gửi một lá thư khác,
trình bày về mục đích của sứ bộ, và đề gửi cho ông ta, bởi ông ta
có thẩm quyền thích hợp để đối thoại với vị Hoàng đế. Một lá thư
đã được thảo theo đó, bao gồm những thông tin mong muốn, và có bổ
sung thêm rằng tôi được ủy nhiệm mang một lá thư của Tổng thống
Hợp Chủng Quốc gửi đến Hoàng đế mà tôi cần phải đích thân giao
thư. Vào ngày 26, hai quan chức ở phẩm trật cao hơn đã đến và nói
rằng họ được Thượng thư phái đến để nhận bức thư của Tổng thống,
hoặc là một bản sao của lá thư. Ban đầu, tôi đã từ chối chấp
thuận, bởi họ không mang theo thư phúc đáp cho lá thư của tôi,
hay họ cũng không có bất kỳ văn bản nào từ vị Thượng Thư về sự
đòi hỏi đó. Tôi còn cáo giác nhiều hơn để chứng minh cho sự từ
chối của tôi, rằng trong một trường hợp tương tự, ông W. Crawford
(đúng ra là Crawfurd, sứ giả người Anh, trước đây đã đến từ Ấn Độ
– chú thích của BBT) đã bị vị đương kim Chúa Thượng khiển trách
thông qua vị Thượng thư này về việc cho phép vị Tổng đốc vùng Hạ
lưu Sài Gòn được đọc lá thư của Quan Toàn quyền tại Ấn Độ gửi
Hoàng đế. Tuy nhiên, nhận thấy sẽ không làm được gì nếu không
chấp nhận việc đó, cuối cùng, tôi đã nhượng bộ và giao cho ông ta
một bản sao lá thư bằng tiếng Anh và Hán ngữ, được mở công khai,
bởi họ từ chối bất kỳ giấy tờ có niêm phong nào. Họ cho hay rằng
họ đã nhận được các chỉ thị dứt khoát từ vị Thượng thư để thẩm
tra mọi văn kiện do tôi giao cho, và họ sẽ không chuyển bất kỳ
văn kiện nào đi trừ khi văn thư được diễn đạt bằng ngôn ngữ nhũn
nhặn và lịch sự, với từ ngữ phù hợp với nghi lễ tại triều đình –
và từ đây khởi sự cho hàng loạt những trở ngại mà cuối cùng đã
khiến cho mục tiêu của Sứ bộ thất bại hoàn toàn. Tôi sẽ bỏ qua
những kháng nghị nhỏ được đưa ra về cách dùng từ trong lá thư của
Tổng thống, và đề cập luôn các trở ngại chính bao gồm những điều
sau đây: trong bản sao lá thư bằng Hán ngữ, họ chỉ ra rằng để bày
tỏ lòng kính trọng, các danh từ “Hoàng đế” và “Cochinchina” phải
được nhấc cao hơn bao nhiêu trên hàng kẻ trên cùng của trang
giấy, trên thực tế cao hơn các chữ “Hợp Chủng Quốc” và “Tổng
thống” một mẫu tự, để thể hiện rằng Tổng thống và Hợp Chủng Quốc
thấp kém hơn Hoàng đế và nước C.C. (viết tắt trong nguyên bản, ý
là Cochinchina – chú thích của BBT) – sau cùng họ khẳng định việc
Tổng thống chỉ đơn giản đề thư gửi cho Hoàng đế là điều rất không
hợp lệ — họ nói nó phải được phiên dịch bằng từ ngữ “im lặng kính
sợ” (silent awe: suh–te) hay “với đôi bàn tay nâng cao để kính
dâng” (with uplifted hands: Yung hay te shang) thường được dùng
bởi người Trung Hoa và những người bắt chước sự nhũn nhặn của họ,
tức người C. Chinese (viết tắt trong nguyên bản, ý là
Cochinchinese – người Cochinchina – chú thích của BBT), trong
cách xưng hô của thần dân với vị Chúa tể. Ý kiến này lập tức bị
bác bỏ và họ bị nhắc nhở rằng đừng lặp lại đòi hỏi sỉ nhục như
thế bởi Tổng thống Hợp Chủng Quốc có một vị thế hoàn toàn bình
đẳng với vị Hoàng đế uy quyền nhất, và do đó không từ ngữ nào có
thể được dùng có thể làm cho ông ấy bị xem là thấp kém hơn Hoàng
đế C. China. Các quan chức Cochinchina được thông báo rằng từ ngữ
được dùng để xưng hô với Er (viết tắt trong nguyên bản để chỉ
Emperor tức là Hoàng đế – chú thích của BBT), như đã được dùng
trong thư của Đặc sứ gửi cho Thượng thư, hàm ý sự bình đẳng chứ
không tỏ bất kỳ thái độ ngạo mạn bất kính nào trong đó. Các quan
chức đã phủ nhận mọi chủ ý muốn sỉ nhục Tổng thống và cho hay
rằng theo tập tục, các sứ giả của Burma (Miến Điện) và Xiêm La
vẫn hay sử dụng các cụm từ này khi xưng hô với Hoàng đế của họ.
Chờ đợi tám ngày sau cuộc đối thoại này, và không nghe thêm điều
gì từ Huế, chúng tôi đã giong buồm lên hôm 8 tháng 2 để lái đến
Vịnh Xiêm La. Nếu chúng tôi may mắn hơn, như đến được Turon hay
đến ngoài khơi của Huế vào lúc bắt đầu có gió mùa Tây Nam, tôi
tin rằng kết quả có thể rất khác biệt. Chúng tôi ở quá xa Kinh
đô, và công việc vì thế bị ủy thác quá nhiều cho các viên chức
thấp kém. Cho đến nay tôi mới chỉ gửi đến ông một bản tường trình
tóm lược về những khó khăn tại C. China vốn đã chiếm một phần
đáng kể đến năm mươi trang trong “Tập nhật ký chính thức” của
tôi.
Trong
diễn tiến của cuộc thương thảo, họ mưu toan giành lấy mọi lợi
điểm nhỏ nhặt cũng như mọi ưu thế có tầm quan trọng hơn, và nếu
họ thành công, nó sẽ được phóng đại thành một chiến thắng trước
Chính phủ của xứ sở của tôi.
Mặc dù tôi đã có thể đánh mất sự tự
trọng và quên đi những trách nhiệm đối với xứ sở của tôi để chấp
nhận các đề nghị của họ, sự việc cũng chưa chấm dứt ở đó. Tôi
được cho biết rằng khi đến Huế, nếu muốn yết kiến Hoàng đế, tôi
cần phải tuân hành các nghi lễ của triều đình và chịu làm lễ
Ko–tow hay “lễ lạy đầu sát đất”, và việc này sẽ được nối tiếp bởi
các điều kiện nhục mạ khác, bởi bản chất của những dân tộc nằm ở
vùng phía Đông của sông Hằng là sẽ gia tăng các đòi hỏi của họ
đến mức mà họ cưỡng hành được, hay buộc đối phương phải thần phục
trước ý chí của họ bằng bất kỳ cách nào. Họ vẫn bị ảnh hưởng một
cách bất thường bởi sự cứng rắn, liều lĩnh và quả quyết hơn là
bởi sự tranh luận vững chắc và thuyết phục nhất, hay thái độ ôn
tồn, không ép buộc, dung hòa nhất. Lịch sử các cuộc thương thảo
trong quá khứ đủ để chứng minh rằng không có đặc quyền, đặc miễn,
hay ưu thế thuộc bất kỳ loại nào lại có thể giành đạt được nhờ sự
phục tùng, hạ thấp mình, hay nịnh bợ. Họ khinh miệt thái độ phục
tùng như là một bằng cớ của sự yếu đuối, coi thái độ nịnh bợ như
là minh chứng cho một tâm hồn hèn hạ. Một thái độ đàng hoàng,
song không kiêu ngạo, cương quyết bảo vệ danh dự của mình, cởi mở
và vô tư, tìm kiếm các lợi điểm cho chính mình, nhưng cũng sẵn
lòng phát huy lợi điểm của người khác, chắc chắn sẽ tạo ảnh hưởng
lớn trên các dân tộc mang đặc điểm và cá tính này, và cuối cùng
sẽ có thể đạt được mục tiêu mong muốn. Một dân tộc vĩ đại, chẳng
hạn như dân tộc của đất nước tôi, vẫn có thể bị bất kỳ dân tộc
nào dưới ánh mặt trời làm hoen ố danh dự quốc gia, và một vài dân
tộc mọi rợ còn có rất ít khả năng gây ra điều đó, kinh nghiệm
[này] làm cho vấn đề trở nên ít bất ngờ hơn là đáng tiếc. Chúng
ta không thể hoàn toàn dửng dưng đối với cách mà quốc gia mình
được nhìn nhận bởi một thành phần quá đông đảo trong nhân loại,
như những người cư ngụ tại những xứ sở nằm giữa Hồng Hải (Red
Sea) và Nhật Bản.
Nếu chúng tôi thất bại trong nỗ lực
thương thảo này song danh dự của chúng ta chưa bị hoen ố, và
chúng ta đã chống lại các đề nghị sỉ nhục của họ nhằm hạ thấp vị
thế cao cả của một Tổng thống Hoa kỳ, điều đó sẽ dạy cho họ rằng
tôi tin tưởng vào bất kỳ cuộc thương thảo tương lai nào với chính
phủ của chúng ta, rằng danh dự quốc gia không phải chỉ là một âm
thanh vô nghĩa, hay một danh từ rỗng tuếch, mà trong đó chứa đựng
sức mạnh của các Vương quốc và sự an toàn của các dân tộc. Đó
chính là động lực để các chiến sĩ chiến đấu, một động lực mạnh mẽ
hơn bất kỳ điều gì khác đã biến con người trở thành anh hùng.
Tôi xin hân hạnh giữ mãi niềm ngưỡng mộ
và tôn kính,
Một công bộc rất trung thành của Ngài
(ký tên) Edmund Roberts
Tái bút: Tôi nhất thiết phải lưu ý rằng
quà cáp là những vật không thể thiếu được ở những xứ sở này và
được xem như biểu hiện của sự kính trọng. Người tặng quà trở nên
có vai vế nhiều hay ít tùy vào tầm mức to nhỏ của quà tặng. Cả ở
C. China và Xiêm La, trong số các câu hỏi đầu tiên là câu, “Ông
mang quà gì đến cho Nhà vua vậy?”, xem như chuyện đương nhiên là
khách không đến thăm với bàn tay không.
Edmund Roberts
***
Trong bản báo cáo được trích dẫn ở trên
cũng như trong nhật ký hành trình, ông Edmund Roberts đã quy sự
thất bại hoàn toàn của phái bộ là do các quan chức Việt Nam:
“Những nghi thức sỉ nhục bắt buộc như
các đoạn mở đầu cho bản hiệp ước, bởi các thượng thư từ kinh đô
nước Cochinchina, khiến tôi không có thể làm gì khác hơn, ngoài
việc chấm dứt một sự trao đổi văn thư kéo dài, mà nét nổi bật
nhất từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết cuộc là tính tráo trở và sự
mập mờ của các quan chức phục vụ cho nhà vua...”
[1]
Edmund Roberts cực kỳ khó chịu với các
quy định mang tính nghi lễ của Việt Nam, từ cách dùng từ ngữ
trong thư gửi lên Hoàng đế (ví dụ như phải dùng đúng những cụm từ
thể hiện sự tôn kính đối với Nhà vua, hay phải tránh các chữ kỵ
húy...) cho đến việc quỳ lạy, mà ông coi là một sự sỉ nhục.
Những vướng mắc về thủ tục và bất đồng
về nghi lễ cứ kéo dài mãi cho đến ngày 26 tháng 1, khi các quan
chức cấp tỉnh [2]
theo lệnh Vua Minh Mạng đã mở một bữa tiệc để khoản đãi phái bộ
Edmund Roberts. Sau bữa tiệc, hai bên lại tiếp tục có những thảo
luận về lễ nghi theo truyền thống Việt Nam nhưng Roberts không
chịu chấp nhận.
Khi bình luận về phái bộ của Roberts
sang Cochinchina, sử gia Nguyễn Thế Anh nêu ý kiến rằng Roberts
xem ra không có “sự linh động về ngoại giao.” Ông ghi nhận rằng
các trang viết trong quyển sách của Roberts riêng về Cochinchina
và về người dân của xứ này đã “tước đoạt đi mất mọi thiện chí và
sự thông cảm.” [3]
Ví dụ, Edmund
Roberts đã miêu tả Việt Nam như sau:
“Trông bề ngoài xứ sở bao quanh vịnh
hùng vĩ này ở trong một tình trạng đang phát triển cao độ, nhưng
với một sự khảo sát kỹ càng hơn, viễn ảnh tươi đẹp này không có
thực. Dân chúng ở đây là những người ăn ở bẩn nhất trên thế giới,
không có một ngoại lệ nào cả... [Họ] không hay biết... khoảng
cách giữa hai xứ sở, hay hiểu biết gì về vị trí của Bắc Mỹ châu,
nhưng lại giả định rằng nó thuộc về Âu Châu...”
[4]
Và miêu tả bữa tiệc do phía
Việt Nam khoản đãi:
“Bữa tiệc đã được mang lên tàu trong
các khay tráp sơn thếp đẹp đẽ; trông bên ngoài, rất gọn ghẽ và
sạch sẽ; nhưng chúng tôi không thể tự mình gạt bỏ ý nghĩ rằng bữa
tiệc đã được nấu trên những chiếc thuyền dơ dáy mà chúng tôi đã
nhìn thấy trên bờ, và rằng đồ ăn đã tiếp cận bởi những bàn chân
dơ dáy, móng tay cáu bẩn, và những cái đầu đầy chí rận, mà chúng
tôi đã nhìn thấy trên bờ; chúng tôi, vì thế, đã chỉ nếm một món,
đó là mứt kẹo. Chúng tôi đã nâng ly uống chúc mừng nhà vua, bằng
loại rượu nếp đặc biệt của họ.”
[5]
Quan tâm đến những tiếp xúc thuở ban sơ
của Hoa Kỳ với Đông Dương, W. E. Scotten, một viên chức lãnh sự
Hoa Kỳ, trong khi phục vụ tại nhiệm sở ở Sài Gòn năm 1932, đã tìm
đọc văn khố của triều đình Huế về bất kỳ thông tin nào liên quan
đến phái bộ Roberts. Đoạn trích dẫn dưới đây được tìm thấy trong
tài liệu của triều đình thời kỳ đó:
“Mùa Đông, tháng 11, năm Minh
Mạng 13 (tháng 12, năm 1832)
Tổng thống nước Cộng Hòa Nha–di–ly (có
kèm theo tên bằng Hán ngữ), tọa lạc ở Đại Tây Dương (Atlantic
Ocean) và còn được gọi bằng các danh xưng là Hoa Kỳ (có ghi thêm
bằng Hán ngữ), Hợp Chủng Quốc (United States), Maly–can (có kèm
Hán ngữ) (American), Tân–anh–cat–lỵ (có kèm Hán ngữ) (New
England), có phái các công dân là ông Nghĩa–Đức–Mon La–Bach (có
kèm Hán tự) [6],
Thuyền Trưởng Đức–giải Tam–gia (có kèm Hán tự), cùng đoàn tùy
tùng, đến xứ sở chúng ta, mang theo một lá thư truyền đạt ước
muốn giao thương với chúng ta. Thuyền của họ thả neo ở Vũng Lấm,
hải cảng của tỉnh Phú Yên. Chính phủ chúng ta đã ra lệnh cho
Chánh Văn phòng Nội các Nguyễn Tri Phương và Phó Văn phòng Nội
các Lý Văn Phức đi cùng các quan lại của tỉnh nói trên lên tàu và
mở một tiệc chào mừng trên thuyền. Được hỏi về mục đích của
chuyến hải hành của họ, những ngoại nhân này đã trả lời rằng ý
định của họ là nhằm thiết lập các quan hệ thương mại tốt đẹp.
Ngôn từ của họ mang vẻ tôn kính và lịch sự. Nhưng, theo bản dịch
lá thư, thư bị xem là có chứa đựng nhiều kiểu thức không hợp lý.
Một mệnh lệnh từ hoàng triều vì thế đã được ban ra như sau: ‘Việc
chuyển thư lên Hoàng Thượng thì không cần thiết. Các sứ giả
Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phức được phép đảm nhận chức năng của
các quan chức phụ trách ngoại thương để phúc đáp một cách tóm
lược cho phía Hoa Kỳ theo ý nghĩa này’: ‘Quý quốc yêu cầu thực
hiện các quan hệ thương mại với chúng tôi. Chúng tôi quả quyết
khẳng định là không phản đối các quan hệ như thế. Mặt khác, quý
quốc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc liên quan hiện hành
trong xứ sở chúng tôi. Từ nay trở đi, khi đến nước chúng tôi, tàu
thuyền của quý quốc sẽ phải thả neo ở vịnh Trà Sơn. Trong bất kỳ
trường hợp nào, quý quốc không được xây cất nhà cửa để sử dụng
trên đất liền. Nếu làm như thế, quý quốc sẽ đi quá các giới hạn
của luật pháp.’” [7]
Ba năm sau, năm 1835, Tổng thống Mỹ một
lần nữa lại bổ nhiệm Edmund Roberts làm đại sứ để đàm phán với
Cochinchina. Trong chỉ thị gửi cho Edmund Roberts, Ngoại trưởng
Forsyth nhắc ông hãy “tự mình thích nghi với những khái niệm và
tập quán đặc thù của xứ sở đó, bất kể chúng có thể phi lý đến
đâu; ông có thể làm như thế ở bất cứ nơi đâu nếu đó không phải là
một sự thừa nhận tư thế hèn kém vốn không phù hợp với phẩm chất
của Chính phủ của chính ông, một chính phủ mà trong mọi trường
hợp, ông sẽ khẳng định sự bình đẳng với những quốc gia hùng mạnh
nhất trên thế giới.”
Đặc
sứ Roberts và hạm đội của ông đi trên chiếc chiến thuyền một buồm
Peacock và chiến thuyền hai buồm Enterprise rời Xiêm La sang
Cochinchina hôm 20 tháng 4, năm 1836. Chỉ trừ một số ít người,
các sĩ quan và thủy thủ của cả hai chiếc tàu đều mắc bệnh, một
vài người bị bệnh nặng. Theo bản tường thuật của W. S. W.
Ruschenberger, một bác sĩ hải quân cùng đi trong chuyến du hành,
bệnh tật lây lan sâu rộng trên cả hai chiếc thuyền và sức khỏe
của Roberts đã lâm vào tình trạng “hiểm nghèo” đến nỗi tàu bắt
buộc phải đi tìm nơi khác để chữa trị.br>
Cái chết của Đặc sứ Roberts tại Macao
hôm 12 tháng 6 năm 1836 đã được Thiếu tướng Kenedy, tư lệnh hạm
đội, báo cáo lên Ngoại trưởng. Kennedy có nói thêm rằng bởi cơn
bệnh trầm trọng của Đặc sứ Roberts, phái đoàn đã không hoàn thành
được sứ mệnh.
Viên
chức lãnh sự Hoa Kỳ, Scotten, tìm thấy đoạn tham chiếu sau đây về
sứ bộ thứ nhì của Roberts trong các văn khố của Triều đình Huế:
“Mùa hạ, tháng 4, năm Minh Mạng
thứ 17 (tháng 5/1836).
Một chiến thuyền Hoa Kỳ đã thả neo ở
vịnh Trà Sơn, hải cảng Tourane, tỉnh Quảng Nam. Các sĩ quan thông
báo rằng họ có một lá thư của Tổng thống nước họ muốn tìm cách
thiết lập quan hệ và yêu cầu được đệ trình lên Hoàng đế. Các quan
chức của tỉnh này đã trình vấn đề này lên Hoàng thượng, và Hoàng
thượng đã thảo luận vấn đề này với ông Đào Trí Phú, một quan chức
của Bộ Hộ: ‘Các ý định và lời lẽ của những người này đối với ta
xem ra có tỏ vẻ tôn kính và lịch sự. Nếu không chấp thuận các
nguyện vọng của họ, chắc sẽ là điều không thích hợp.’”
“Muôn tâu Hoàng thượng, họ là những
người ngoại quốc và chúng ta không biết rằng liệu các cảm tình mà
họ biểu lộ là chân thật hay giả dối. Hạ thần nghĩ rằng chúng ta
nên cho phép họ lai kinh và sắp xếp cho họ trú ngụ tại cơ sở của
phòng ngoại thương, và chỉ thị các quan của ta tiếp đãi họ tử tế
và thăm dò các mục đích của họ.”
Ông Huỳnh Quỳnh, một viên chức thuộc
ban thư ký riêng trong Hoàng cung, nêu ý kiến: “Muôn tâu Hoàng
thượng, dân tộc của họ thì rất quỷ quyệt và [ta] có lý do để cắt
đứt mọi quan hệ với họ. Khoan nhượng với họ lần này có thể gây ra
các khó khăn cho chúng ta trong tương lai. Cổ nhân từ thời xa xưa
đã đóng cửa biên cương đất nước của mình để không phải tiếp đón
người dân của các nước Tây phương và để bảo vệ mình chống lại sự
xâm lăng của giống dân mọi rợ. Đó là một chính sách hay.”
Hoàng thượng đáp lời:
“Vượt các đại dương và một khoảng cách
40,000 dặm, với động lực là lòng ngưỡng mộ quyền lực và đức hạnh
của Chính phủ chúng ta, họ đã đi hết con đường này để đến đây.
Nếu chúng ta nhất quyết cắt đứt mọi quan hệ với họ, chúng ta tự
phơi bày cho họ thấy rằng chúng ta không có thiện chí bao dung.”
Và Hoàng thượng đã phái ông Đào Trí Phú
và ông Lê Bá Tư (viên chức thuộc Bộ Lại), được giao đảm nhiệm các
chức năng của phòng ngoại thương, đi thực hiện các quan hệ hữu
nghị và tìm hiểu tình hình. Khi đến nơi, vị chỉ huy chiếc thuyền
nhắn tin rằng ông ta bị đau ốm và không thể đích thân tiếp đón họ
được. Các sứ giả triều đình vì thế đã gửi một thông dịch viên đến
thăm ông ta. Để đáp lễ, viên chỉ huy thuyền đã phái đại diện đến
để bày tỏ sự cảm ơn. Trong cùng ngày đó, chiếc tàu đã trốn đi.
Ông Đào Trí Phú đã gửi lên Ngai Vàng một bản báo cáo ghi chép về
công việc của ông và nêu nhận định: “Trong vội vã, họ đến; trong
vội vã, họ ra đi; chắc hẳn là họ thiếu lễ nghi.”
Hoàng đế đã phê trên bản báo cáo đó một
bài thơ tứ tuyệt như sau:
“Chúng
ta không chống đối khi họ đến,
Chúng ta
không truy kích khi họ đi,
Chúng ta cư
xử theo cung cách của một dân tộc văn minh,
Chúng ta đâu được lợi gì khi phàn nàn về các ngoại nhân man rợ?”
[8]
Dịch giả: Ngô Bắc
Tài liệu được trích
dẫn:
[1]
Roberts, Edmund.Embassy to the Eastern Courts of Cochin–China,
Siam, and Muscat: In the US Sloop–of–war Peacock, David
Geisinger, Commander, During the Years 1832/3/4. Harper, 1837.
[2]
Chánh Văn Phòng Nội Các Nguyễn Tri Phương và Phó Văn Phòng Nội
Các Lý Văn Phức đi cùng các quan lại của tỉnh Phú Yên.
[3]
Anh, Nguyễn Thế. “Bibliographie critique sur les relations entre
le Vietnam et lOccident (ouvrages et articles en langues
occidentales).” Paris, GP Maisonneuve & Larose(1967).
[4]
Roberts, Edmund.Embassy to the Eastern Courts of Cochin–China,
Siam, and Muscat: In the US Sloop–of–war Peacock, David
Geisinger, Commander, During the Years 1832/3/4. Harper, 1837.
[5]
Roberts, Edmund.Embassy to the Eastern Courts of Cochin–China,
Siam, and Muscat: In the US Sloop–of–war Peacock, David
Geisinger, Commander, During the Years 1832/3/4. Harper, 1837.
[6]
Tức Edmund Roberts
[7] Bulletin
des Amis du Vieux Hue, năm thứ 24, số 1, January–March 1937,
“Notelettes,” bởi L. Sogny, II, “An American Mission in Annam
under Minh Mang,” các trang 63–64. Cũng xem W. Everett Scotten,
“Sire, Their Nation is Very Cunning...,” The American Foreign
Service Journal, tập xii, January 1935, trang 15.
[8]
Bulletin des Amis du Vieux Huế, “An
American Mission,”
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tom tran chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 4, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang