Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu
tầm
Chủ đề:
SOG
Tác giả:
Richard H. Shultz, Jr.
Người dịch:
vđh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
I. LỜI GIỚI THIỆU
Từ quan niệm tổ chức Phòng Dịch Vụ
Chiến Lược (Office of Strategic Services – OSS) trong trận Đệ Nhị
Thế Chiến (WWII) cho đến ngày nay, chính quyền Hoa Kỳ đã sử dụng
những đơn vị “Hành Quân Đặc Biệt” cho những nhiệm vụ bí mật, trợ
lực cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Tuy nhiên vì độ bảo mật
cao, tình hình chính trị không cho phép nên rất ít người biết
được hoạt động của các đơn vị “đặc biệt” này. Từ từ, những câu
chuyện này lộ ra ngoài, nhưng tài liệu, hồ sơ về các đơn vị đặc
biệt vẫn nằm trong tủ sắt khóa kín.
Sau khi cuộc xung đột (conflict) giữa
Đông–Tây chấm dứt (sự xụp đổ của Nga Sô), các hồ sơ, tài liệu
được bảo mật bắt đầu phơi bày ra và chúng ta có thể xem lại, tìm
hiểu về các hoạt động bí mật trong “Chiến Tranh Ngoại Lệ” từ nửa
thế kỷ qua. Để nghiên cứu, học hỏi những thành quả, cũng như thất
bại từ những bài học về các đơn vị đặc biệt để áp dụng trong
tương lai khi cần.
Các hoạt động quân sự bí mật Washington
(chính quyền Hoa Kỳ) sử dụng để chống lại Hà Nội (chính quyền
miền Bắc Việt Nam) được trao cho Đoàn Nghiên Cứu – Quan Sát
(Study & Observation Group – SOG) trực thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Viện
– Việt Nam (cơ quan MACV). Đó là một hoạt động (chiến dịch) rộng
lớn, phức tạp nhất, người Mỹ thực hiện kể từ sau cơ quan OSS. Đơn
vị MACVSOG (Đoàn Nghiên Cứu & Quan Sát hay SOG) thực hiện “Trận
Chiến Bí Mật” kéo dài tám (8) năm chống lại Hà Nội kể từ tháng
Giêng 1964 cho đến tháng Tư năm 1972.
II. BẰNG CHỨNG
Tài liệu (tác phẩm) này, dựa trên kinh
nghiệm, nhiệm vụ của những người (quân nhân) đã chỉ huy trận
chiến bí mật chống lại chính quyền Bắc Việt và những nhân vật
quan trọng đặt ra luật lệ ở thủ đô Washington, D.C., những người
(thực sự) chỉ huy đơn vị đặc biệt (SOG). Tác giả (Tiến sĩ Richard
H. Shultz, Jr.) được cơ may xem xét các tài liệu mật (đã hết hạn
bảo mật) và tiếp chuyện (phỏng vấn) những nhân vật chỉ huy đơn vị
đặc biệt cho các hoạt động bí mật được biết qua danh xưng (vỏ bọc
bề ngoài) “Đoàn Nghiên Cứu & Quan Sát”. Cơ may đặc biệt này cho
phép tác giả gặp gỡ vị tướng lãnh, sau này trở thành Tư Lệnh Hành
Quân Đặc Biệt, Trung tướng Terry Scott.
Câu chuyện bắt đầu trong mùa hè năm
1995, một việc nghiên cứu về các hoạt động bí mật chống lại chính
quyền Bắc Việt được khởi xướng. Đầu tiên, phỏng vấn hơn 60 sĩ
quan (Hoa Kỳ) chỉ huy, điều hành các hoạt động bí mật của đơn vị
SOG. Trong số người được phỏng vấn có năm vị chỉ huy đơn vị SOG,
và những sĩ quan cao cấp đảm nhiệm chức vụ chỉ huy hoặc nắm giữ
chức vụ quan trọng trong bốn bộ phận (cơ quan, đơn vị trực thuộc,
như chương trình 34 thả biệt kích ra miền Bắc, chương trình 35
vượt biên sang Miên, Lào...) chống lại Hà Nội.
Đơn vị SOG được trao bốn nhiệm vụ chính
yếu:
1. Thả,
điều hành các toán biệt kích (điệp viên), xây dựng, thi hành các
hoạt động gây hoang mang đánh lạc hướng xã hội miền Bắc Việt Nam,
bao gồm việc sử dụng tù binh (họ dùng tù binh quân đội Hoa Kỳ bắt
được. Không sử dụng tù binh QLVNCH bắt)
2. Chiến tranh tâm lý. Xây dựng, tạo
nên một phong trào du kích nổi dậy (giả tạo) trong miền Bắc Việt
Nam, bắt cóc thường dân (đa số dân đánh cá do đơn vị Biệt Hải bắt
đưa ra cù lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng) nhồi sọ như chuyện nổi dậy
ngoài miền bắc có thật, rồi đưa trở về miền bắc. Điều hành mấy
đài phát thanh “đen” (Gươm Thiêng Ái Quốc, Cờ Đỏ), rải truyền đơn
tuyên truyền phá hoại, gây hoang mang.
3. Sử dụng đơn vị Biệt Hải, ngăn chặn,
bắt sống, tiêu diệt tầu bè Hải Quân Bắc Việt, tấn công bắn phá
các mục tiêu quân sự dọc theo bờ biển miền bắc. Thả truyền đơn
tuyên truyền.
4. Hành quân vượt biên (sang Lào, Miên – chương trình 35) phá
hoại đường tiếp vận HCM đưa người, chiến cụ, đồ trang bị, tiếp
liệu vào miền nam Việt Nam. Tìm kiếm kho tàng, binh trạm của địch
cho phi cơ oanh kích, bắt sống tù binh, gài máy nghe lén điện
thoại của địch, rải truyền đơn tuyên truyền.
Mỗi người trong số 60 người được phỏng
vấn đã được chọn lọc qua nhiệm vụ đảm trách trong đơn vị SOG.
Việc này dựa theo tài liệu, tin tức thâu thập của cơ quan MACV
liên quan trực tiếp đến các hoạt động, chương trình mà người được
phỏng vấn đã từng làm. Tiếp theo là phần phỏng vấn đi sâu vào chi
tiết các cựu biệt kích quân đơn vị SOG.
Các cuộc phỏng vấn dựa theo hồ sơ tối
mật, bao gồm khoảng 2000, 3000 trang giấy của đơn vị SOG đã hết
thời gian bảo mật năm 1995, và những tài liệu “quan trọng” hơn
nữa, được bộ Quốc Phòng, cơ quan tình báo CIA cho phép. Những tập
hồ sơ đó đã cung cấp hình ảnh trung thực, chi tiết về các hoạt
động, chương trình, kế hoạch của đơn vị SOG, bao gồm thêm những
bản nghiên cứu, báo cáo, thẩm định về bốn bộ phận (phòng, ban,
ngành) của đơn vị SOG.
Những bản báo cáo, hồ sơ của đơn vị SOG
đã có lúc được dự trù, sẽ không bao giờ được phơi bày ra trước
ánh mặt trời (công chúng). Đúng thế, nhiều cựu sĩ quan đơn vị SOG
được phỏng vấn đã hết sức ngạc nhiên khi được đặt câu hỏi về
những điều ông ta đã phải tuyên thệ không bao giờ được nói ra
(tiết lộ bí mật). Vài người đòi hỏi phải nhận được giấy cho phép,
hoặc nói chuyện trực tiếp với vị Tướng tư lệnh Hành Quân Đặc Biệt
của Lục Quân, lúc đó họ mới chịu trả lời những câu hỏi một cách
vui vẻ.
Quyển
sách này không chỉ viết lại câu chuyện về các hoạt động bí mật
của đơn vị SOG chống lại chính quyền Hà Nội, còn cho biết thêm
chi tiết sự “liên hệ” giữa giới lãnh đạo cao cấp trong chính
quyền Tổng thống Kennedy, Johnson về các hoạt động bí mật. Khi
Tổng thống Kennedy quyết định vào cuối năm 1962, trao quyền chỉ
huy (bàn giao) các hoạt động bí mật từ cơ quan CIA cho bộ Quốc
Phòng (quân đội). Một phòng đặc biệt trong Ngũ Giác Đài (Bộ Quốc
Phòng / Tổng Tham Mưu Quân Lực Hoa Kỳ) được chỉ định chỉ huy,
điều hành các hoạt động bí mật, thủ tục cho phép (cấp tối cao,
chứ không phải vị Tư Lệnh cơ quan MACV hoặc cấp chỉ huy trực tiếp
của ông ta, vị Tư Lệnh Thái Bình Dương CINCPAC). Phòng này có tên
là Phòng Phụ Tá Đặc Biệt về Chống Xâm Nhập và Các Hoạt Động Đặc
Biệt (SACSA) và báo cáo trực tiếp cho vị Tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng (Hoa Kỳ). Nhiệm vụ chính yếu của phòng này, điều hành thủ
tục chấp thuận (thông qua, cho phép) tất cả các hoạt động của đơn
vị SOG. Viên chức (sĩ quan) làm việc trong ban Hành Quân Đặc Biệt
thuộc SACSA phải thuyết trình những mục tiêu (chọn lọc) của đơn
vị SOG cho các viên chức cao cấp trong chính quyền để được chấp
thuận (thường phải gửi danh sách các mục tiêu trước 1 tháng).
Khi các mục tiêu dự trù phòng SACSA
nhận được từ đơn vị SOG, một sĩ quan hành quân (ban 3) sẽ mang
tay danh sách (mục tiêu) trình cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng để
được chấp thuận. Khi đã được chấp thuận, ông ta (ban 3) sẽ trình
lên cho Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara hay vị phụ tá của
ông ta, Cyrus Vance để thông báo (lấy ý kiến). Sau đó viên sĩ
quan ban 3 sẽ đi sang bộ Ngoại Giao thuyết trình cho vị Ngoại
Trưởng Dean Russ hoặc vị phụ tá. Tiếp theo là vị Cố Vấn (cho Tổng
Thống) An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy. Tuy vậy, nếu ông ta ký
thuận, thủ tục “chấp thuận” vẫn chưa hoàn tất... Bundy thường nói
viên sĩ quan ban 3 trở về Ngũ Giác Đài, nhưng vẫn chưa gửi điện
văn chấp thuận cho đơn vị SOG... cho đến khi Tổng thống Johnson
đã xem qua danh sách các mục tiêu.
Do đó phần quan trọng của quyển sách
này, tập trung vào sự liên hệ của các viên chức trong chính quyền
trong các hoạt động bí mật của đơn vị SOG. Phỏng vấn các sĩ quan
hành quân (ban 3) phòng SACSA (Phụ Tá Đặc Biệt Chống Xâm Nhập và
các Hoạt Động Đặc Biệt) sẽ mở rộng cánh cửa cho độc giả biết thủ
tục chấp thuận (cho phép) tiến hành như thế nào trong Ngũ Giác
Đài (bộ Quốc Phòng, bộ TTM), bộ Ngoại Giao và tòa Bạch Ốc. Các sĩ
quan hành quân SACSA xác nhận các viên chức cao cấp trong chính
quyền gây ảnh hưởng quyết định của chính quyền Washington về trận
chiến bí mật chống lại chế độ Hà Nội.
Tác giả đã phỏng vấn các viên chức cao
cấp trong “thủ tục chấp thuận” như: Robert McNamara, (bộ trưởng
Quốc Phòng từ thời Tổng Thống Kennedy), Johnson Walt Rostow (cố
vấn An Ninh Quốc Gia cho Tổng thống Johnson từ năm 1966–1969),
Roger Hilsman (phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao vấn đề tình báo),
William H. Sullivan (Đại Sứ Hoa Kỳ ở Lào từ năm 1964–1969),
Richard Helms (Giám Đốc cơ quan tình báo CIA từ năm 1966–1973),
William Colby (Trưởng phòng CIA Việt Nam, Giám Đốc CIA từ năm
1973–1976), Victor Krulak (trưởng phòng SACSA từ năm 1962–1964),
và William Westmoreland (tư lệnh MACV 1964–1968, Tham Mưu Trưởng
‘tư lệnh’ Lục Quân 1968–1972).
III. CÂU CHUYỆN
Câu chuyện bắt đầu với quyết định của
Tổng tống Kennedy trong tháng Giêng 1961, ra lệnh cho cơ quan
Trung Ương Tình Báo CIA bắt đầu các hoạt động bí mật chống lại
chính quyền miền Bắc Việt Nam. Ông ta (Kennedy muốn cho Hà Nội
ngồi trên lửa, và làm những gì họ đang làm đối với đồng minh miền
Nam Việt Nam. Hai điều cơ quan CIA có thể làm, chơi trò bẩn thỉu
(làm mất mặt chính quyền Hà Nội) hoặc chiến tranh bí mất (ngoại
lệ). Qua mùa hè năm 1962 (hơn 1 năm), bực mình vì cơ quan CIA
không làm được việc, Tổng thống Kennedy (JFK) ra lệnh bàn giao
cho quân đội và phát triển chiến tranh bí mật. Phần đầu Chương
Một (1) sẽ nói về các chuyện này, giải thích tại sao Kennedy chọn
giải pháp.
Phần thứ hai Chương Một nói về Chương Trình 34A (OPLAN 34A), nền
tảng căn bản cho đơn vị SOG. Phần này nhấn mạnh thủ tục phác họa
kế hoạch, sự khác biệt rõ ràng giữa các bộ phận của chương trình
34A. Chương trình 34A làm nền tảng cho sự leo thang trong trận
chiến bí mật do người Hoa Kỳ phác họa, đảm trách.
Phác họa chương trình cho các hoạt động
bí mật là một chuyện, tổ chức, xây dựng một đơn vị để thi hành
trận chiến bí mật là một chuyện khác. Lúc đó quân đội Hoa Kỳ chưa
có một đơn vị nào làm mô hình, khuôn mẫu để thành lập đơn vị “đặc
biệt” SOG, do đó SOG được thành lập từ “giấy trắng mực đen” trong
Sài Gòn. Chương Hai (2) nói về những khó khăn trong việc thành
lập đơn vị SOG, từ lúc khởi thủy và bắt đầu hoạt động, đặc biệt
khi Washington đòi hỏi (ra lệnh) cho biết kết quả ngay tức khắc.
Cấp chỉ huy đơn vị SOG phải khắc phục năm (5) việc khó khăn:
(1) Yêu cầu
cơ quan CIA trợ lực (họ không sẵn lòng),
(2) Thuyết phục các viên chức cao cấp,
lúc nào cũng lo lắng chương trình 34A (xâm nhập miền Bắc Việt
Nam),
(3) Tổ
chức đơn vị SOG (hành chánh),
(4) Tuyển
mộ người (quân nhân LLĐB) có khả năng,
(5) Thiết lập sự liên hệ với đối tác VNCH (Nha Kỹ Thuật).
Chương Ba cho đến Sáu (3–6) tập trung
vào bốn phòng (ngành) của đơn vị SOG, thi hành các hoạt động bí
mật chống lại chính quyền Hà Nội. Các ngành của SOG nhắm vào hai
mục tiêu “Trung tâm của trọng lực” như Clausewitz (Carl Philipp
Gottfried (or Gottlieb) von Clausewitz (1 June 1780 – 16 November
1831) lý thuyết gia quân sự người Đức, cho rằng những trọng điểm
chiến lược của quân thù. Nếu làm chủ được các điểm đó, địch quân
sẽ mất thăng bằng, mất khả năng chiến đấu.
Một “trọng tâm” của miền Bắc Việt Nam,
đơn vị SOG tìm cách phá hoại là hậu phương an toàn nơi miền Bắc.
Các chế độ như Hà Nội (cộng sản) thường đặt vấn đề an ninh nội
bộ, kiểm soát người dân lên trên hết kể cả trong thời bình. Nhưng
Hà Nội đang phải chiến đấu chống lại một siêu cường, nên vấn đề
an ninh quốc gia rất quan trọng. “Trọng tâm” thứ hai, đơn vị SOG
nhắm vào là con đường tiếp vận HCM. Con đường huyết mạch chuyển
quân, vũ khí, đồ trang bị, tiếp liệu vào miền nam ngang qua hai
quốc gia láng giềng Lào và Cambodia.
Nhằm phá hoại vấn đề an ninh miền Bắc
Việt Nam, đơn vị SOG điều hành nhiều chương trình bí mật chống
lại Hà Nội, kể cả việc cho các toán điệp viên (biệt kích) xâm
nhập (các bộ phận [phòng, ngành] thi hành các hoạt động bí mật sẽ
được nói rõ trong chương Ba). Từ tháng Tư năm 1964 cho đến tháng
Mười 1967, gần 250 điệp viên (quân biệt kích) được thả ra miền
Bắc (các toán biệt kích nhảy dù xuống, điệp viên đơn phương
‘singleton’ xâm nhập bằng xuồng từ biển vào hoặc băng qua sông
Bến Hải). Cộng với số điệp viên (các toán biệt kích) do cơ quan
tình báo CIA đưa ra miền Bắc, con số lên đến 500 người. Cũng như
cơ quan CIA, số điệp viên thành công rất ít (theo tỷ lệ phần
trăm).
Đến
cuối năm 1967, đơn vị SOG nhận được tin “vỡ mặt” (mất mặt) về các
toán biệt kích, điệp viên gửi ra miền Bắc. Chương Ba sẽ nói rõ,
chuyện gì xảy ra, đưa độc giả vào trong một mạng luới điệp viên
“hai mang”, đánh lừa, và các hoạt động phản gián.
Chương Bốn nói về chiến tranh tâm lý,
nhắm vào giới lãnh đạo chính quyền miền Bắc và quần chúng. Mục
đích chính của chương trình này, làm cho chính quyền Hà Nội tin
rằng có một phong trào “nổi dậy” (du kích) nơi miền Bắc Việt Nam.
Đó là nguyên nhân cho việc cấu tạo đài phát thanh Gươm Thiêng Ái
Quốc (SSPL), đơn vị SOG xây dựng đài phát thanh SSPL để phát ra
ngoài Bắc, và thả truyền đơn tuyên truyền (do phi cơ thả xuống
miền Bắc, do Biệt Hải thả ngoài hải phận Bắc Việt cho sóng đưa
vào bờ). Tinh vi hơn, đơn vị SOG xây dựng một khu “giải phóng”
giả (cù lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng), sau đó quân Biệt Hải sẽ bắt
cóc ngư dân miền Bắc đưa ra “Hải Đảo Thần Tiên” (cù lao Chàm) cho
nhân viên đài Gươm Thiêng Ái Quốc nhồi sọ, tuyên truyền trước khi
đưa họ trở lại miền Bắc cùng với “quà tặng”.
Phòng thứ Ba của đơn vị SOG sử dụng
quân Biệt Hải đánh phá các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc,
cũng là một phần trong chương trình 34A (ra miền Bắc). Chương
trình này có tên là MAROPS (Hành Quân Biển), được Tổng thống
Johnson, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara tin tưởng đạt hiệu quả,
gây ảnh hưởng đối với chính quyền Hà Nội.
Phòng thứ Tư (chương trình 35, vượt
biên, xâm nhập Lào, Cambodia), sử dụng quân Mũ Xanh LLĐB/HK làm
trưởng toán biệt kích (VNCH có những toán biệt kích tương xứng
Nha Kỹ Thuật–Lôi Hổ), ngăn cản, phá hoại hệ thống đường mòn HCM
trên đất Lào và Cambodia. Quyết định này gây khó khăn cho chính
quyền Johnson (xâm phạm chủ quyền hai quốc gia Lào và Cambodia).
Phần đầu Chương Sáu, bàn luận về “chiến tranh” chuyện chính trị,
kéo dài gần hai năm giữa bộ Ngoại Giao và Ngũ Giác Đài (Bộ Quốc
Phòng) “Có thể cho đơn vị SOG hoạt động trên hai quốc gia láng
giềng, phá hoại hệ thống đường mòn HCM?”
Chuyện “vượt biên” qua hai quốc gia
láng giềng cuối cùng được “thông qua”, toán biệt kích SOG đầu
tiên do quân Mũ Xanh Hoa Kỳ làm trưởng toán, xâm nhập vào đất Lào
trong tháng Mười năm 1965 (toán Iowa). Phòng này phát triển nhanh
chóng trong vòng ba năm kế tiếp với quân số đông đảo nhất, vũ
khí, quân dụng, số lần hành quân nhiều nhất so với các phòng
khác. Đến năm 1967, phòng này (chương trình 35) nới rộng khu vực
hoạt động sang Cambodia.
Chương Bảy đưa các hoạt động của đơn vị
SOG trên thực tế (ngoài chiến trường) vào quân sử cuộc chiến Việt
Nam. Nhiệm vụ của cấp chỉ huy Hoa Kỳ, làm sao phối hợp giữa chiến
tranh ngoại lệ (bí mật) và chiến tranh diện điạ. Chương này cho
thấy, cấp chỉ huy Hoa Kỳ, đặc biệt Đại tướng Westmoreland đã thất
bại, không nhìn thấy mức độ quan trọng, sự đóng góp của đơn vị
SOG trong cuộc chiến.
Chương Tám, chương cuối cùng trở lại
lúc khởi thủy, sự theo dõi, kiểm soát của hai vị Tổng thống
Kennedy và Johnson trong cuộc chiến bí mật. Bắt đầu với những
nhân vật thân cận của Tổng thống Kennedy, Robert McNamara,
McGeorge Bundy, Walt Rostow, và Robert Kennedy, cho đến khi CIA
không đạt hiệu quả, Kennedy ra lệnh bàn giao cho quân đội, xúc
tiến cuộc chiến bí mật chống chính quyền Hà Nội.
Mặc dầu Tổng thống Kennedy thúc đẩy
mạnh mẽ, các hoạt động của đơn vị SOG vẫn gặp nhiều trở ngại,
ràng buộc vì vấn đề chính trị, bang giao quốc tế. Phần kết luận
để trả lời câu hỏi, chúng ta đã học được những gì về sự cấu tạo,
những đóng góp, thành quả của đơn vị “tối mật” SOG (Đoàn Nghiên
Cứu & Quan Sát)
Fort Hays State University
Dept of Computer Science
02/04/2021
vđh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, March 1, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang