Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
cái đói ở XHCN
Tác giả:
Phạm Nga
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Vài cái Tết thuộc những năm người dân
cả nước “ăn độn” trong thập niên 1970 thế kỷ trước đã để lại
trong tâm khảm tôi dư vị rất chua chát. Nay ngồi chợt nhớ lại mà
không khỏi chạnh lòng, vừa sượng sùng vừa tội nghiệp chính mình.
Sau biến cố 30 tháng 4, khi tôi đi học
tập cải tạo về rồi lập gia đình (1977) thì cuộc sống chất chồng
khó khăn về mọi mặt. Gia đình cha mẹ, anh em tôi ở Sài Gòn còn
gia đình bên vợ tôi ở Vũng Tàu, cách nhau khoảng hơn 100 cây số,
còn tôi thì sau ngày học cải tạo về đã bị buộc phải đi làm ở một
nông trường tận vùng Củ Chi, cách Sài Gòn 45 cây số. Bên nào cũng
nghèo, nhất là nhà bên ba má tôi rất chật hẹp, nên vợ tôi cùng
hai đứa con phải về nhờ đỡ bên ông bà ngoại ở Vũng Tàu. Ngày
thường thì đã phải sống xa vợ con cha mẹ, nên mùa Tết đến là tôi
đắn đo và thường là tôi chọn (gọi là) ăn Tết ở quê vợ, vì dù sao
cũng là gần vợ, gần con mình. Thế là, khoảng 27, 28 tháng chạp,
từ Củ Chi về Sài Gòn tôi chỉ ngủ lại một đêm, rạng sáng hôm sau
tất tả ra bến xe miền Đông đón xe về Vũng Tàu. Cái thời các năm
1976–1979 ấy, phương tiện giao thông công cộng rất eo hẹp và khó
khăn, vài năm đầu còn phải đi xe than. Vì xăng dầu khan hiếm,
ngày thường xe khách tại bến rất ít chuyến, còn vào mùa Tết, có
tăng cường thêm xe nhưng không bao giờ đủ cho nhu cầu người dân
đổ xô về quê ăn Tết. Do đó, tôi phải thức dậy lúc 3, 4 giờ sáng,
vội vội vàng vàng kiếm xe lam chạy ra bến xe, xếp vào cái hàng
người đã dài thượt trước quầy vé, thấp thỏm chờ mua cho được cái
vé giá chính thức quý giá để về quê vợ, mới mong có mặt bên cạnh
vợ con trong 3 ngày Tết. Có năm, liên tiếp các chiều 29, 30 tháng
chạp tôi lại thất thểu quay về nhà ba mẹ, vì dù nhịn cả cơm trưa,
đứng lì tại chỗ, không dám bỏ hàng nhưng kết quả thê thảm là
không mua được vé chính thức vào các ngày cao điểm cận Tết này.
Khoảng 5 giờ chiều, hàng người còn không bao nhiêu nhưng loa
phóng thanh ở bến đã lạnh lùng thông báo: “Đã hết vé tuyến đường
Bà Rịa–Vũng Tàu. Bến xe sẽ bán vé tiếp vào 4 giờ 30 sáng mai. Mời
bà con về nghỉ hoặc tìm phương tiện khác mà đi!” “Phương tiện
khác” có nghĩa là xe chui, xe dù đậu rải rác quanh bến xe, đến
8–9 giờ đêm cũng còn nhưng vé giá chợ đen mắc gấp 3, 4 lần giá
chính thức tại quầy vé.
Tôi buồn rầu, nhớ vợ con đến quặn cả
lòng và vô cùng nóng ruột. Thời đó không có điện thoại di động
tràn ngập như bây giờ để gọi cho vợ con đỡ mong ngóng, chỉ còn
đường ra bến xe vào sáng sớm mùng 1 Tết. Sáng ngày đầu năm mới
cũng có vài chuyến xe về Vũng Tàu và được cái là khách rất vắng,
mua vé chính thức rất dễ... Niềm hạnh phúc lớn lao của tôi năm đó
là dù hơi muộn nhưng trưa mồng 1 Tết tôi đã được có mặt bên vợ
con.
Về–với–vợ–con–mình, tôi luôn khát khao niềm hạnh phúc đơn sơ ấy
nên không chờ gì ngày lễ tết, vào ngày thường cứ vào kỳ lãnh
lương cuối tháng tôi lại tất bật làm cuộc hành trình Củ Chi–Sài
Gòn–Vũng Tàu. Chuyến đi chỉ dài tổng cộng 145–150 cây số nhưng từ
khoảng 9–10 giờ sáng thứ bảy, tôi đã “dù” sớm (11:30g mới hết giờ
làm việc tại nông trường) sau khi không quên xuống nhà bếp báo
cắt cơm đến hết bữa điểm tâm sáng thứ hai tới, xong xuôi tôi leo
hàng rào ra hương lộ 7 (dài 3 cây số), hối hả lội bộ ra tới quốc
lộ 13 rồi ngoắc xe Daihatsu hay xe đò nhỏ về ngã tư Bảy Hiền, từ
đây lấy xe lam, xe buýt về bến xe Miền Đông. Phải tất bật tranh
thủ thời gian như thế để kịp đứng vào hàng, chờ đến 12 giờ trưa
là phòng vé rục rịch bán vé tiếp cho buổi chiều.
Không hiểu sao cái gã thanh niên xung
phong/nông trường viên gốc nhà giáo, tuổi đã trung niên là tôi
thời đó lại khỏe đến thế, vì suốt cuộc hành trình tất tả về thăm
vợ con, thường là tôi nhịn đói hay chỉ “thủ” gói xôi hoặc ổ bánh
mì xịt nước tương để ăn trưa, nước uống thì đã có bình toong nhà
binh mang theo – nghĩa là sao cho ít tốn nhất để tháng lương được
giữ cứng nguyên trong túi. Thèm thuốc lá thì tôi đã kiếm loại
thuốc “cũi” quấn thủ công, nhãn hiệu Quốc Hùng, chỉ mấy đồng là
được một bó.
Tất nhiên khi ngồi trên xe đò “tịnh tâm” (không ăn nên tâm hồn
thanh tịnh!) và “tịnh khẩu” (có gì bỏ vô miệng đâu nên miệng cũng
rất sạch sẽ, thanh tịnh!) như thế, bây giờ nói ra vẫn thấy mình
quá hèn mọn: đó là tôi đã không khỏi thèm thuồng trước những món
ăn vặt, giá rẻ mạt, bán tại bến xe hay ở những chặng xe dừng bắt
thêm khách, bất kể là ổ bánh mì thịt, gói xôi mặn, bịch trà đá,
chai nước ngọt hay củ khoai lang, khoai mì, gói mía ghim...
Còn xấu hổ hơn là một lần, khi xe dừng
lâu ở ngã ba Vũng Tàu, quà bánh rao bán nườm nượp, tình cờ ngồi
bên cạnh tôi là một anh đội nón cối, nói giọng Bắc, có vẻ hiền
lành với đôi kính cận và chiếc sơ mi trắng. Anh ta đã mua 2 bịch
đậu hủ chiên chấm muối tiêu, mời tôi một miếng. Tôi đã lịch sự từ
chối và cám ơn anh đã mời. Tôi đã làm bộ ngó chỗ khác – khốn nỗi
ngay lúc này bao tử tôi lại chơi xấu tôi: nó cứ sôi lên òn ọt như
kêu gào, nhắc nhở... – khi anh ta nhấm nháp hết miếng đậu thứ
nhất. Rồi anh gật gù: “Chà, cái thứ quà này rẻ thôi mà ăn cũng
thích thích ấy chứ!” Rồi quay sang tôi chìa bịch đậu ra ân cần
mời lần nữa: “Này, anh cứ thử một miếng đi, quà vặt rẻ mạt ấy mà,
có gì mà ngại!” Trước thành ý của người lạ này, tôi đã buông thả
ý thức tự trọng mà mình “nhắm mắt đưa... tay” nhón lấy một miếng
đậu hũ...
Xưa
nay, dù là người giàu hay người nghèo, dù là người lớn hay trẻ
con, có ai lạ gì món ăn vặt rất rẻ tiền, đạm bạc và lạt lẽo, bán
nhan nhản trên đường thiên lý là đậu hủ chiên, nhưng lúc này,
riêng đối với tôi, phải nói là cái miếng đậu hủ nhỏ chỉ bằng hai
ngón tay ấy lại ngon, thơm cực kỳ! Đồng thời tôi cũng chua chát
nhận ra là trước đó tôi đã bỏ rơi đâu mất con–người–nhà–giáo mình
từng có trong quá khứ, tức dù chỉ là một thầy giáo nghèo nhưng
vẫn một mực nho nhã, thanh cao với thiên hướng nghiêng về những
giá trị tinh thần hơn là của cải vật chất, chuộng chữ nghĩa, sách
vở hơn là món ngon vật lạ, tiện nghi sinh hoạt... nay chợt đổ đốn
là ngồi trên xe đò mà cứ bị thu hút bởi những món ăn thức uống
bán rong như: bánh mì, đậu hủ chiên, xôi, bánh tét, bánh tráng,
khoai lang, khoai mì, trà đá, nước ngọt, mía ghim, v.v. Toàn
những món ăn thức uống bình dân rẻ mạt, nào phải cao lương, mắc
mỏ gì, nhưng như đã nói, bởi nhất định phải đem về cho vợ con
càng nguyên vẹn càng tốt cái đồng lương ít ỏi mới lãnh, tôi không
thể luông tuồng bỏ tiền ra–dù chỉ rất ít–để mua đồ ăn, dù cái dạ
dày lép kẹp đang sôi ùng ục như nổi loạn.
Và tôi nhận ra mình đã cùng khổ đến như
tàn mạt khi đậu hủ chiên, cái món cũng có luôn trong danh sách
những thứ đồ ăn mình vừa ước ao, lại ngẫu nhiên có người lạ mặt,
bảo chỉ là “quà vặt, rẻ thôi mà” rồi chìa ra mời, rồi... tôi đã
giữ không được sĩ diện chỉ vì... đói! Quả là một quãng tối tăm
thảm hại trong ký ức...
Phạm Nga
(Sydney, 23 đưa ông Táo)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 11, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang