Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn 12 Con Giáp Phương Đông
Chủ đề:
Con Mèo & Tết Quý Mão
Các tác giả:
Bài 1:
Bảo Kiếm sưu tầm
Bài 2:
Đặng Quốc Minh Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu:
Nhân dịp tết Quý Mão, bkt xin được trân trọng giới thiệu 2 bài
viết loại sưu tầm dưới đây bàn về sự liên quan giữa con “MÈO”
và một số ca dao, tục ngữ/thành ngữ trong dân gian Việt Nam.
Bài 1 liệt kê các câu ca dao & tục ngữ/thành ngữ
một cách khái quát; Bài 2 giải thích chi tiết về các câu ca dao &
tục ngữ/thành ngữ liên quan đến con “MÈO”.
Kính mời Quý Độc giả thưởng lãm. Trân trọng.
–bkt.
Nhân
năm Quý Mão, xin gom góp ít câu tục ngữ – thành ngữ và ca dao có
Mèo hiện diện làm thành một từ điển bỏ túi, để bạn đọc xem qua
trong những giờ phút rảnh rỗi. Xin xếp theo mẫu tự A, B, C...
Xem, để biết Mèo không chỉ có công diệt chuột, mà còn làm giàu
ngôn ngữ nước nhà.
Ăn nhỏ nhẻ như mèo: Là ăn từ tốn, từng
miếng một. Phụ nữ ăn nhỏ nhẻ được khen là có nết. Nhưng đàn ông
ăn như mèo thì bị chê bai, cho là tật xấu.
Buộc cổ mèo, treo cổ chó: Nói kẻ hà
tiện, có tính bủn xỉn.
Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào: (Mỉu:
do tiếng miu là mèo đọc chệch ra) nghĩa bóng nói rằng mỗi người
đều có sở trường riêng của người ấy, chưa chắc ai đã hơn ai.
Chó giữ nhà, mèo bắt chuột: ý nói ai
cũng có nghề nghiệp chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau, và
cũng đừng can thiệp vào việc của nhau.
Chó chê mèo lắm lông: Phê phán kẻ không
thấy lỗi mình, mà chỉ thấy lỗi người.
Chó gio, mèo mù: Dùng để chê những
người đần độn, ngu ngốc.
Chó khô, mèo lạc: Chê hạng người không
có tài năng.
Chó tha đi, mèo tha lại: Nói những vật vô giá trị bỏ lăn lóc
chẳng ai thèm lấy.
Chó treo, mèo đậy: Thức ăn treo cao để
tránh chó ăn, và đậy kỹ để không cho mèo lục đớp. Ý khuyên cảnh
giác cửa nẻo rương hòm để phòng trộm cuỗm mất.
Có ăn nhạt mới thương tới mèo: Ngụ ý
người ta có lâm cảnh khổ thì mới biết thương người không may mắn
bằng mình.
Chuột cắn dây buộc mèo: Làm ơn cho kẻ có thể hại mình.
Chuột gặm chân mèo: Làm một việc liều
lĩnh, nguy hiểm.
Chửi chó mắng mèo: Tỏ vẻ tức giận người
khác bằng cách chửi mắng vu vơ.
Đá mèo, quèo chó: Bực mình người khác
nhưng lại trút bực tức qua những con vật nuôi trong nhà.
Giấu như mèo giấu cứt: Chê những người
giấu giếm thứ gì, thường là điều xấu, nhưng lấm la lấm lét và bị
lộ vì mùi tanh.
Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt: Càng mất
quyền lợi ở địa vị cao thì càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.
Im ỉm như mèo ăn vụng: ám chỉ những kẻ
cố tình che giấu tội lỗi bằng cách im lặng tuyệt đối, hoặc những
kẻ hễ thấy lợi là giấu giếm hưởng một mình, không cho ai hay
biết.
Không có
chó bắt mèo ăn cứt: Phải dùng một người trong một việc không đúng
với sở trường, khả năng của người đó.
Lèo nhèo như mèo vật đống rơm: Nói dai,
nói đi nói lại để nài xin.
Lôi thôi như mèo sổ chuột: (Sổ: làm sẩy
mất) chỉ sự thẫn thờ, ngơ ngác của người đang tiếc rẻ, vì trót
lầm lỡ một dịp may nào đó.
Mèo cào không xẻ vách vôi: Ngụ ý khuyên
trước khi làm việc gì phải tự lượng sức mình, cố gắng cho lắm
cũng vô ích.
Mèo con bắt chuột cống: Chỉ người trẻ tuổi tài cao, làm được việc
mà nhiều người lớn làm không nổi.
Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì
sang: Một quan niệm mê tín từ xưa lưu truyền lại. Do mèo kêu
giống với âm “nghèo” còn chó gâu gâu giống với âm “giầu”
Mèo già hóa cáo: Ngụ ý người già sống
lâu nên đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Cũng có nghĩa là
người mới làm việc gì thì rụt rè nhút nhát, nhưng ở lâu năm thì
tinh ma ranh mãnh.
Mèo già lại thua gan chuột nhắt: ý nói
người lớn tuổi thì không còn bạo gan như kẻ thanh niên.
Mèo hoang lại gặp chó hoang; anh đi ăn
trộm gặp nàng bứt khoai: Chỉ những kẻ vô lại mới kết bè tựu đảng
với nhau.
Mèo
khen mèo dài đuôi: Tự đề cao, khen ngợi mình.
Mèo làm ai nỡ cắt tai; gái kia chồng
rẫy khoe tài làm chi?: (Rẫy: bỏ, chê) chỉ những người đàn bà bị
chồng chê, chồng bỏ vì hư đốn, phải về nhà cha mẹ ruột, thay vì
chỉ còn biết âm thầm sống đến già, không mong được ai cưới hỏi
nữa, nhưng lại khoa trương nọ kia để củng cố danh giá mình.
Mèo lành chẳng ở mả; ả lành chẳng ở
hàng cơm: Chê người đàn bà ngày hai bữa cứ ăn cơm hàng cháo chợ,
không lo chợ búa cơm nước cho gia đình, đó là tính xấu, tính hư.
Mèo mả gà đồng: ám chỉ hạng người vô
lại, trai trộm cướp, gái lăng loàn khiến ai cũng khinh ghét.
Mèo mù móc cống: Chỉ những kẻ không còn
phương kế sinh nhai.
Mèo mù vớ cá rán: Vận may bất ngờ đến
với kẻ nghèo hèn đang túng quẫn.
Mèo nhỏ bắt chuột con: Khuyên hãy biết
liệu sức mình mà đảm đương công việc. Tài hèn sức mọn mà ham đảm
trách việc lớn thì chỉ chuốc lấy thất bại thôi.
Mèo tha miếng thịt xôn xao; hùm tha con
lợn thì nào thấy chi: Ý nói kẻ quyền hành làm việc sai trái lớn
thì không sao, trong khi kẻ dưới sai trái nhỏ đã bị phạt nặng.
Mèo uống nước bể chẳng bao giờ cạn:
Khuyên người biết tiện tặn chi tiêu thì không sợ túng.
Mèo vật đụn rơm: Chỉ kẻ tài thô trí
thiển mà muốn cáng đáng việc lớn lao quá sức mình, không đúng với
khả năng cho phép.
Mỡ để miệng mèo: ý nói đặt trước mặt
người ta một thứ gì mà người ta đang mong muốn, thèm khát.
Như mèo thấy mỡ: Giễu người tỏ vẻ hăm
hở trước thứ gì mình thèm muốn.
Rình như mèo rình chuột: Sự kiên nhẫn,
siêng năng cho đến khi được việc mới thôi.
Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo: Dù
kẻ thù nguy hiểm đến cỡ nào nếu mình có mưu mẹo, có phương tiện
thì mình cũng thắng.
Tiu nghỉu như mèo cắt tai: ý nói vì
thất vọng nên buồn rầu lắm, không muốn nói năng, không muốn làm
gì.
Bảo Kiếm
sưu tầm
Nguồn:
https://gxdaminh.net/meo-trong-tuc-ngu-ca-dao-viet-nam
Bài
2
Tác giả:
Đặng Quốc Minh Dương
CON MÈO TRONG TỤC
NGỮ, THÀNH NGỮ VIỆT NAM
Trong bài vè
về “Mười Hai Con Giáp”, mèo được phác họa như sau:
... Tuổi Mão, là con mèo ngoao
Hay quấu hay quào, ăn vụng quá tinh.
Mèo là loài thú được thuần dưỡng từ lâu
và trở thành một con vật thân thiết, hữu ích đối với các gia
đình. Cũng từ rất lâu, nuôi mèo, “chơi” mèo là thú vui của các
gia đình – đặc biệt là gia đình khá giả (chẳng hạn, trong giai
thoại Truyện Trạng Quỳnh có truyện Ăn trộm mèo). Nhân năm mới Quý
Mão đến, chúng tôi thử làm cuộc khảo sát về con mèo trong văn hóa
dân gian – chủ yếu là qua tục ngữ, thành ngữ của Việt Nam.
Trước khi tìm hiểu vấn đề, xin được nói
sơ về tên gọi. Ngoài tên gọi quen thuộc thuần Việt là
mèo, con
vật này còn được gọi bằng các khác tên như: mão,
miêu
(Hán Việt),
mỉu, miu và gần đây, “dân nhậu” còn “sáng tạo” ra tên gọi mới là
“tiểu hổ”!
“Mất điểm” trong quan niệm dân gian
Khảo sát kho tàng tục ngữ, thành ngữ
người Việt, chúng tôi nhận thấy rằng, mèo có vẻ bị mất điểm trong
quan niệm dân gian. Số câu thành ngữ, tục ngữ có sự xuất hiện của
mèo mang nghĩa tích cực không nhiều lắm. Chúng tôi chỉ thấy 4 lần
mèo có “phút huy hoàng”. Đó là khi cha ông mô tả cách ăn từ tốn,
“ăn nhỏ nhẻ” của mèo và từ đó mượn câu nói “Ăn nhỏ nhẻ như mèo”
để khuyên người phụ nữ về nết ăn. Phụ nữ ăn nhỏ nhẻ được khen là
có nết. Nhưng đàn ông ăn như mèo thì bị chê bai, cho là tật xấu.
Khi so sánh cách ăn của hai phái này, dân gian đã nói “Nam thực
như hổ, nữ thực như miu” là vậy. Ngoài câu thành ngữ trên, chúng
tôi còn thấy thêm 2 câu nữa có ý nghĩa tích cực khi nói về mèo là
“Có ăn nhạt mới thương tới mèo”. Câu này ngụ ý nói khi lâm cảnh
khổ thì người ta mới biết thương người không may mắn bằng mình.
Câu “Mèo con bắt chuột cống” chỉ người trẻ tuổi tài cao, làm được
việc mà nhiều người lớn làm không nổi. Riêng câu “Rình như mèo
rình chuột” để chỉ ý chí và sự kiên nhẫn, siêng năng khi thực
hiện công việc của một ai đó; nhưng cũng có nghĩa là chê bai ai
đó tò mò, xăm soi chuyện người khác. Câu “Mèo già hóa cáo” ngụ ý
nói người già sống lâu nên đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý
báu. Ngoài ra, nó còn nghĩa là người mới đầu làm việc gì thì rụt
rè nhút nhát, nhưng ở lâu năm thì tinh ma, ranh mãnh. Hai câu này
có nghĩa trung tính, ý nghĩa kép.
Ngoài những điểm sáng trên, số còn lại
là các thành ngữ, tục ngữ mà hình ảnh của mèo được nhìn với cái
nhìn tiêu cực. Chẳng hạn, như để nói về kẻ hà tiện, bủn xỉn, dân
gian nói “Buộc cổ mèo, treo cổ chó”. Khi chê những người đần độn,
ngu ngốc hoặc không có tài năng người xưa cũng lôi mèo vào “Chó
gio, mèo mù”. Ai đó tỏ vẻ tức giận người khác bằng cách chửi mắng
vu vơ thì được mô tả là “Chửi chó mắng mèo” hay khi bực mình
người khác mà trút giận qua những con vật nuôi trong nhà thì gọi
là “Đá mèo, quèo chó”. Ngay cả một tập tính rất đáng quý – mà con
người cũng cần phải học là trước khi đại tiện, mèo thường moi một
lỗ để sau khi “hành sự” xong thì chôn dấu đi cũng bị gia chủ nói
“Giấu như mèo giấu cứt”. Câu này ý chê những người giấu giếm thứ
gì, điều gì đó quá ư là kỹ. Mượn thói quen “Im ỉm như mèo ăn
vụng” để ám chỉ những kẻ cố tình che giấu tội lỗi bằng cách im
lặng tuyệt đối, hoặc những kẻ hễ thấy lợi là giấu giếm hưởng một
mình, không cho ai hay biết.
Thương mèo nhất là khi nói về hạng
người vô lại, trai trộm cướp, gái lăng loàn khiến ai cũng khinh
ghét thì dân gian nói đồ “Mèo mả gà đồng”. Tương đồng với thành
ngữ này là câu: “Mèo hoang lại gặp chó hoang, anh đi ăn trộm gặp
nàng bứt khoai”. Và đặc biệt, do quan niệm mê tín, người ta cho
rằng tự dưng mèo đến nhà thì thường mang lại điều xui xẻo: “Mèo
đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”.
Về mối quan hệ của mèo với các con vật
khác có vẻ cũng không... ổn lắm. Trước hết là quan hệ với chó.
Mèo với chó thường tranh giành thức ăn của nhau, cắn xé nhau.
Chính vì vậy mà khi anh em trong gia đình hay mâu thuẫn, cãi lộn
nhau, bố mẹ hay so sánh: “Anh em như chó với mèo”. Nhưng có lẽ
mối quan hệ giữa chuột và mèo mới là điểm không thể bỏ qua. Người
ta cho rằng đó là “mối thù truyền kiếp”. Đa số khi nói đến chuột
là người ta nhắc đến mèo, và ngược lại: “Con mèo, con méo, con
meo, Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà”. Nói về “thâm tình” này,
người ta hay nhắc đến câu đồng dao trào lộng:
“Con mèo mà trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà,
Chú
chuột đi chợ đàng xa,
Mua mắm, mua muối
giỗ cha chú mèo”.
Mượn hình ảnh mèo để gởi gắm những kinh
nghiệm, triết lý nhân sinh
Song song với nhận định trên, tác giả
dân gian đã mượn hình ảnh mèo để gởi gắm những kinh nghiệm, đúc
kết những triết lý sống ở đời.
Trước hết, đó là kinh nghiệm cảnh giác
khả năng ăn vụng của mèo bằng cách “Chó treo, mèo đậy” hoặc “Mỡ
(chớ) treo miệng mèo”. Nhiều nhất là mượn hình ảnh của mèo để gởi
gắm, đúc kết hoặc phê phán những thói hư ở đời. Chẳng hạn như,
khi ai đó tự đắc về tài cán của mình, quá tự tin vào khả năng
chắc thắng của mình, dân gian nhắc: “Chẳng biết mèo nào cắn mỉu
nào”. Câu này ý nói mỗi người đều có sở trường riêng của người
ấy, chưa chắc ai đã hơn ai. Từ công việc của mỗi loài: “Chó giữ
nhà, mèo bắt chuột”, dân gian khái quát: ai cũng có nghề nghiệp
chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau, và cũng đừng can thiệp
vào việc của nhau. Nhận định “Không có chó bắt mèo ăn cứt” ý nói
phải dùng một người trong một tình huống bất đắc dĩ, không đúng
với sở trường, khả năng của người đó. Khi bắt tay vào việc, dân
gian khuyên rằng “Mèo nhỏ bắt chuột con”. Câu này ngụ ý nhắc nhở
hãy biết liệu sức mình mà đảm đương công việc. Tài hèn sức mọn mà
ham đảm trách việc lớn thì chỉ chuốc lấy thất bại thôi. Do vậy mà
khi nói về ai đó làm một việc nguy hiểm, liều lĩnh, dân gian nói
“Chuột cắn dây buộc mèo” hoặc “Chuột gặm chân mèo”. Để phê phán
kẻ không thấy lỗi mình, mà chỉ thấy lỗi người, dân gian nói “Chó
chê mèo lắm lông”. Một người tài thô trí thiển mà muốn cáng đáng
việc lớn lao quá sức mình, không đúng với khả năng cho phép dân
gian nói “Mèo vật đụn rơm”. Còn những người không có tài cán gì,
nhưng lại đòi hỏi quyền lợi cao thì dân gian lại phê phán “Mèo
miệng đòi ăn xôi vò”. Những người không có tài năng đi lang
thang, vơ vẩn thì bị dân gian chê là “Chó khô mèo lạc”. Hình ảnh
“Mèo mù móc cống” được dân gian mượn để chỉ những kẻ không còn
phương kế sinh nhai. Câu nói quen thuộc “Mèo khen mèo dài đuôi”
thực ra, còn một vế nữa “Chuột khen chuột nhỏ dễ chui, dễ trèo”.
Câu này ý chê trách ai đó quá tự cao, tự hào về bản thân. Suy tư
về chuyện quyền chức, địa vị thì mượn tương quan của cọp với mèo:
“Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt”. Càng mất quyền lợi ở địa vị cao
thì càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.
Dân gian khá dị ứng với những người đàn
bà bị chồng chê, chồng bỏ vì hư đốn, phải về nhà cha mẹ ruột,
thay vì chỉ còn biết âm thầm sống đến già, không mong được ai
cưới hỏi nữa, nhưng lại khoa trương nọ kia để củng cố danh giá
mình. Họ phê phán rất tinh tế “Mèo lành ai nỡ cắt tai, gái kia
chồng rẫy khoe tài làm chi?” Tương đồng với nhận định này là câu
“Mèo lành chẳng ở mả, ả lành chẳng ở hàng cơm”. Từ đó, dân gian
gởi gắm những bài học trong quan hệ vợ chồng: “Vợ quá chiều ngoen
ngoẻn như chó con liếm mặt, vợ phải rẫy tiu nghỉu như mèo lành
mất tai”. Câu này có ý khuyên các ông chồng không nên nuông chiều
vợ quá, mà cũng không nên hiếp đáp quá. Nuông chiều thì vợ lờn
mặt, lâu dần sẽ lấn áp quyền chồng. Còn hiếp đáp thì vợ buồn rầu,
gia đình mất hòa khí, mất hạnh phúc.
Trên đây là vài phác thảo về chân dung
con mèo trong kho tàng văn hóa dân gian. Bức tranh chung về mèo
là... mất điểm. Tuy nhiên, người viết nghĩ rằng, mèo đã và đang
làm vật hy sinh, làm tấm bia để cho chúng ta thấy rõ những vấn đề
của cuộc sống để từ đó mà sống tốt, sống vui ở đời hơn. Đây cũng
là tâm nguyện và mong ước của chúng tôi khi viết những dòng này.
Đặng Quốc Minh Dương
Nguồn:
https://songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=887
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: bkt sưu tầm, trình bày & ấn loát
Đăng ngày Chúa Nhật, January 1, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang