Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn HOA XUÂN
Chủ đề:
MAI
Tác giả:
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hoa Mai gắn liền
với Tết ở các tỉnh ở phía nam vĩ tuyến 17. Ở phía bắc vĩ tuyến 17
dân chúng không chưng cành mai mà chưng cành đào. Hoa mai màu
vàng rực rỡ, màu của các quân vương Á Đông ngày xưa. Hoa đào màu
hồng, màu của hạnh phúc.
Nhân dịp này chúng tôi xin nói khái
quát về tất cả những đặc điểm của hoa mai đồng thời phân biệt hoa
mai ở nước ta và hoa mai (meihua) ở Trung Hoa, Triều Tiên, Taiwan
(Đài Loan) và Nhật Bản.
Hoa mai vùng nhiệt đới
Mai là một loại cây mọc hoang trong
rừng, trên hốc đá hay trên những vùng đất khô cằn ở Đông Nam Á,
Phi Châu, Mỹ Châu nhiệt đới, bắc Úc Đại Lợi và vùng khí hậu bán
nhiệt đới. Ở Nam Mỹ có loại mai Ochna suaveolens hay
Ouratea
suaveolens giống như loại mai vàng thường thấy ở Trung Bộ và Nam
Bộ. Ở Việt Nam cây mai được tìm thấy nhiều ở phía nam vĩ tuyến 17
và hiếm dần ở các tỉnh bắc Trung bộ và Bắc Bộ. Hoa mai được tìm
thấy ở Hawaii, Hoa Kỳ. Nhiều xã trong quận Thủ Đức, Gò Vấp thuộc
tỉnh Gia Định trồng cây mai để bán vào dịp Tết.
Hoa mai được người Việt Nam chưng trong
những ngày Tết mang nhiều tên khoa học và dòng thảo mộc khác nhau
như dòng Ochna, Eleaeocarpus, Discladium thuộc gia đình
Ochnaceae.
Tên
khoa học thường dùng cho hoa mai là Ochna harmandii, Ochna
serrulata, Ochna integerrima, v.v. Theo từ nguyên Hy Lạp
Ochna có
nghĩa là trái lê rừng, ám chỉ hình dạng của hột của cây mai.
Người Hoa Kỳ gọi mai là Mickey mouse plant vì màu đen bóng của
hột hoa mai giống màu đen và đỏ của con chuột Mickey (hột đen,
đài hoa đỏ). Người Trung Hoa gọi hoa mai là Jin Lian Mu (Kim Liên
Mộc: cây sen vàng).
Cây mai không to và không cao. Chiều
cao trung bình xê dịch từ 2–5m. Lá mỏng, cứng, có răng cưa nhuyễn
màu xanh nhạt. Hoa 5 cánh màu vàng, nhụy màu vàng cam. Ong và
bướm thích hút nhụy hoa mai. Chim thích ăn trái chín màu đen bóng
dưới dạng hột. Mai là loại thảo mộc tăng trưởng rất chậm. Cành
mai nhỏ nhắn, thanh nhã và rất dẻo.
Thông thường người ta thích hoàng mai
mặc dù có bạch mai (mai trắng) tức mai oằn và hồng mai (mai đỏ)
còn được gọi là mai tứ thời.
Tên khoa học của bạch mai là Ochna alba
và tên khoa học của hồng mai là Ochna atropurpurea. Bạch mai hoa
trắng, 05 cánh, nhụy vàng được tìm thấy nhiều ở Phi Châu.
Cây mù u Xiêm Ochrocarpus siamensis
cũng được gọi là bạch mai hay Nam mai.
Hoàng mai được trân quí vì màu sắc đẹp,
biểu tượng tốt cho việc cầu phúc vào năm mới. Hoa mai có 05 cánh
biểu tượng cho:
– 05 thành phần xã hội: Sĩ, Nông, Công,
Thương, Binh.
– Ngũ hành: Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ.
– Ngũ tạng: Tâm, Can,
Tỳ, Phế, Thận.
Cây mai gợi lại sự hy sinh cao cả của
người phụ nữ trong xã hội nông nghiệp. Mai mọc trên hốc đá, vùng
đất khô cằn, thi gan trước nắng lửa mưa dầu vào mùa hạ và tiết
trời băng giá vào mùa đông. Nó không được ai chăm sóc hay vun
phân tưới nước nhưng vẫn tươi cười nở hoa để chung vui với vũ trụ
chào đón Xuân về. Đó là hình ảnh của người phụ nữ Đông Phương
suốt đời làm lụng cực nhọc với tư cách môt người dâu, người vợ,
người mẹ trong gia đình và người phụ nữ trong xã hội nhưng lúc
nào cũng nở nụ cười và mang lại nguồn sống, niềm vui và hạnh phúc
cho gia đình và xã hội. Muốn mai ra nhiều hoa phải lặt sạch lá
của nó. Người phụ nữ ngày xưa phải quên đi mọi gánh nặng mới giữ
được sự lạc quan và nụ cười như cành mai phải trải qua sự khắc
nghiệt của thời tiết, sự cằn cỗi của môi trường sống và cành bị
lặt lá để có nhiều hoa vàng tươi thắm.
Trong tỉnh Gia Định có địa danh Hoàng
Mai Thôn. Ở Chợ Lớn có địa danh Cây Mai, nơi có ngôi chùa cổ nhất
ở Nam Bộ.
Vào
thế kỷ XIX Tôn Thọ Tường lập ra Bạch Mai Thư Xã để xướng họa thi
văn với các nho gia ở Nam Kỳ.
Mai, trúc là đề tài hội họa được các
nghệ nhân dùng để vẽ tranh hay làm tranh sơn mài. Họa sĩ Lê Trung
thường vẽ cành hoàng mai trên báo Xuân khi Xuân về.
Ở Nam Bộ có hiệu thuốc kiết Nhành Mai
được quân đội Viễn Chinh Pháp dùng khi chiến tranh Việt–Pháp bắt
đầu bùng nổ.
Sau năm 1954, sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa mang dấu hiệu hoa mai:
hoa mai vàng cho thiếu úy, trung úy và đại úy; hoa mai trắng cho
thiếu tá, trung tá và đại tá. VNCH cũng có phát hành tem Hoa Mai
trắng. Không rõ đây là Bạch Mai Ochna alba hay hoa mai
Prunus
mume (mai hay mơ)? Sau năm 1975 xuất hiện thuốc lá Hoa Mai ở Nam
Bộ.
Dòng thảo
mộc Ochna có flavonoids, ochnaflavone. Người Zulu ở Phi Châu sắc
rễ cây mai để uống như thuốc trục lãi
[sán lãi/giun ruột], trị
bệnh viêm ruột thừa, bạch huyết, bịnh về xương, kinh nguyệt,
loét, đau thắt lưng, động kinh.
Mai chiếu thủy
Mai chiếu thủy không thuộc gia đình
Ochnaceae của hoa mai vừa đề cập. Nó thuộc gia đình Apocynaceae.
Mai chiếu thủy được gọi là thủy mai dựa theo cách gọi của người
Trung Hoa Shui mei. Mai chiếu thủy được tìm thấy nhiều ở Việt
Nam, Thái Lan, Mã Lai, Lào, Cambodia, Indonesia, Nam Hoa dưới
dạng cây cảnh trồng trong bồn nhỏ: cây cảnh bonsai.
Tên khoa học của mai chiếu thủy là
Wrightia religiosa (do tên của bác sĩ William Wright (1735–1819),
người Scotland) thuộc gia đình Apocynaceae của trúc đào. Về
phương diện thực vật học, mai chiếu thủy không có liên hệ gì đến
hoa mai dòng Ochna và gia đình Ochnaceae ngoại trừ tên gọi có chữ
MAI. Mai chiếu thủy có hoa màu trắng hay hồng nhạt nhỏ hơn hoàng
mai nhưng có hương thơm. Ở Thái Lan người ta thường đặt các chậu
mai chiếu thủy trong chùa để cúng Phật. Do đó người Anh gọi mai
chiếu thủy là Sacred Buddhist (hoa thiêng Phật Giáo), water
jasmine (thủy lài), Philippine jasmine (hoa lài Phi Luật Tân);
tiếng Sanskrit (Phạn): Kutaja; Thái Lan: Mok ban.
Rễ của mai chiếu thủy được dùng để trị
bịnh về da.
Bạch mai hay Nam mai: cây Mù U Xiêm
Cây mù u Xiêm có hoa trắng rất thơm nên
được gọi là bạch mai hay Nam mai. Nó được tìm thấy nhiều ở Nam
Bộ. Đó là một cây to, gỗ cứng, lá to, dầy xanh mượt rất đẹp (theo
Hy Lạp ngữ phylla: lá (diệp); kalos: đẹp); hoa 05 cánh màu trắng,
nhụy vàng rất thơm; trái tròn khi chín màu vàng.
Tên khoa học của Nam mai hay cây mù u
Xiêm là Ochnacarpus siamensis thuộc gia đình Callophyllaceae hay
Clusiaceae của cây vấp hay măng cụt. Người Thái Lan gọi Nam mai
là sarapi hay soi phi. Người Anh âm thành salapee.
Ở Thái Lan người ta không trồng một số
cây quanh nhà vì sợ xui xẻo. Trong số này có cây mù u Xiêm (Nam
mai hay bạch mai). Nó chỉ được trồng quanh các chùa, đền đài,
cung điện nhà vua mà thôi.
Hoa Nam mai có terpenoids và steroids.
Hột có nhiều hợp chất phenol. Trái dùng để khai thác dầu như trái
mù u ở nước ta. Theo y học dân gian Thái Lan, người ta dùng hoa
Nam mai sarapi nấu nước uống trị chóng mặt.
Cây mai vùng bán nhiệt đới và ôn đới
Cây mai vùng bán nhiệt đới và ôn đới
được gọi theo cách gọi của người Trung Hoa: Mei. Người Nhật gọi
là ume (ô mai); Triều Tiên:
Maesil. Người Việt Nam còn gọi là cây
mơ. Người Anh gọi là apricot, Chinese
plum, Japanese apricot,
Japanese flowering apricot; Pháp là abricotier (cây).
Tên khoa học là Prunus mume hay
Armeniaca mume. Cây cao từ 3–6m, hoa bắt đầu trổ vào mùa đông để
kịp nở rộ vào mùa Xuân. Hoa có 05 cánh màu trắng hay hồng nhạt,
nhụy vàng. Hoa gọi là mai hoa (meihua). Cây mai hay mơ có trái to
có hột cứng và to. Trái chín vào mùa mưa nên được gọi là mai vũ
(meiyu). Trái chín có cơm mềm màu vàng sậm, vị ngọt lợ. Trái khô
có màu đen nên được gọi là ô mai (wumei, oomei). Trong tỉnh Hubei
(Hồ Bắc) có hạt Huangmei (Hoàng Mai) có cây mai Prunus mume 1,600
tuổi nhưng vẫn ra nhiều hoa hàng năm.
Hoa mai trong tem phát hành ở VNCH có
vẻ giống hoa mai (meihua) của cây mai Prunus mume chớ không phải
hoa mai Ochna harmandii. Loại cây mai ăn trái này có ở miền Bắc
Việt Nam. Người ta chọn những cành mai màu hồng để chưng vào dịp
Tết. Đó là “cành đào” trong câu “Mỗi năm hoa đào nở” trong bài
thơ của Vũ Đình Liên. Đào ở đây chỉ màu đỏ của hoa chớ không phải
hoa của cây đào (peach tree – Prunus persica) có trái đỏ–vàng
trong tranh Phước Lộc Thọ. Người ta không chưng loại hoa mai có
hoa màu trắng vì người Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa nên không thích màu trắng và cho đó là màu tang. Năm hạn gặp
sao Thái Bạch, người ta kiêng mặc quần áo màu trắng! Trái lại
người Triều Tiên và Nhật Bản – giống như người Tây Phương – yêu
sự thanh khiết của màu trắng. Quốc kỳ của Nhật Bản và Đại Hàn có
nền màu trắng.
Trái và hoa mai Prunus mume đều ăn
được. Trái dùng làm đồ chua, nước giải khát, vô hộp, ô mai, xí
muội, nước chấm gọi là mai giang (meijiang), cất rượu. Rượu gọi
là mai tửu (meijiu). Ở Nhật rượu ô mai gọi là Umechu (Ô Mai Tửu).
Lá cây mai hay mơ Prunus mume được dùng
làm màu nhuộm xanh. Trái cho màu nhuộm xanh sậm.
Trái ô mai có sinh tố C, B1, B2, B3,
B9, phosphorus, Ca, Fe, K, proteins, calories, carbohydrates,
sợi. Hột có amydalin, prunasin gặp nước chuyển sang prussic acid
tức Cyanide rất độc. Ăn hột đắng rất độc có thể chết. Trái và hoa
mai Prunus mume được dùng để trị sốt, ho dai dẳng, đau bụng, mất
ngủ, kinh nguyệt bất thông, loét, trùng lãi, cầm máu, kiết lỵ,
tiêu chảy, phòng ngừa bịnh tim. Hoạt chất lấy từ cây mai có tính
sát trùng được dùng trong ngành nha khoa để ngừa bịnh đau răng
hay bịnh về nướu răng.
Người phụ nữ đẹp luôn luôn là người
mình hạc xương mai. Thi hào Nguyễn Du tả vẻ đẹp thể chất và tinh
thần của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân qua hai câu thơ:
Mai cốt cách
tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười
phân vẹn mười.
Mai, trúc là hình ảnh của cặp vợ chồng
hạnh phúc và tâm đầu ý hiệp.
Ai đi đường đấy hỡi ai?
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.
Hay:
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu biển cả, càng dài tình sông.
*
Gió đưa liễu yếu mai oằn,
Liễu yếu mặc liễu mai oằn mặc mai.
Rắn hoa mai là một loại rắn có đốm
trắng hay vàng nhạt.
Mai hoa lộc là một loại mai có đốm
trắng.
Mai thê
hạc tử nói lên cảnh sống cô đơn của người ẩn dật trong rừng. Vợ
là hoa mai, con là chim hạc.
Những chữ MAI trong các câu thơ và nhóm
chữ trên đều không phải là cây mai Ochna harmandii trong gia đình
Ochnaceae mà là cây mai hay cây mơ Prunus mume thuộc gia đình
Rosaceae tức cây mai hay cây mơ có trái to ăn được gọi là mai vũ
(meiyu) (vì trái chín vào mùa mưa) hay ô mai (wumei/oomei) vì
trái chín khô có màu đen.
a. Thi hào Nguyễn Du là người Hà Tĩnh,
nơi hiếm thấy cây mai Ochna harmandii tức kim liên mộc (jin lian
mu).
b. Truyện
Thúy Kiều là truyện của Trung Hoa. Nhân vật lẫn cảnh vật đều
thuộc về Trung Hoa, nơi chỉ có nhiều cây mai (Mei) Prunus mume
hơn là kim liên mộc.
Cây mai Prunus mume tượng trưng cho Hy
Vọng, Sắc đẹp, Thanh Khiết, sự Chuyển Tiếp của cuộc đời. Cây mai,
cây tre, và cây thông là ba loại thảo mộc được xem là bạn của mùa
đông. Mai hoa là đề tài của hội họa với Mai, Lan, Cúc, Trúc. Có
người cho rằng tranh Tứ Thời là Lan, Sen (Liên), Cúc, Mai có hoa
nở theo mùa như sau:
Đó là bốn loại hoa đẹp nở trong bốn mùa
trong năm. Hoa mai Prunus mume nở vào lúc giao thời của mùa Đông
và mùa Xuân (hạ tuần tháng giêng và thượng tuần tháng hai Dương
Lịch).
Hoa
mai Prunus mume là quốc hoa của Trung Hoa Dân Quốc (Taiwan – Đài
Loan – R.O.C.: Republic of China). Hoa có:
– 03 nhụy cho mỗi cánh hoa. Ba nhụy
tượng trưng cho Tam Dân Chủ Nghĩa (San Min Chu I: Dân Tộc, Dân
Quyền, Dân Sinh) do Sun Yatsen (Tôn Dật Tiên) khởi xướng.
– 05 cánh hoa tượng trưng cho Ngũ Quyền
phân lập:
a.
Hành Pháp.
b. Lập Pháp.
c. Tư Pháp.
d. Giám Sát.
e. Khảo Thí.
Nghệ nhân Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam
dùng cành hoa mai Prunus mume làm đề tài sáng tác chớ không dùng
hoa mai Ochna harmandii.
Để chấm dứt bài viết này chúng tôi tóm
lược những tương đồng và dị biệt giữa Mai
Ochna harmandii và
Mai
Prunus mume:
Tương đồng
–
Tên gọi thông thường là MAI.
– Hoa cùng kích thước và có 05 cánh.
– Liên hệ đến thân hình đẹp của nữ phái
và các đức tính cao cả của người phụ nữ.
– Biểu tượng: (ngũ hành, ngũ tạng, ngũ
nghiệp, ngũ quyền, Tam Dân Chủ Nghĩa, v.v.)
– Cả hai loại mai đều được chưng vào
dịp Tết để mong cầu may mắn và hạnh phúc.
Người ta chưng cành đào với hy vọng
được Thần Trà, Uất Lủy ẩn nấp để giúp đỡ xua đuổi điều xấu.
Dị
biệt
– Môi trường sống khác nhau. Mai Ochna harmandii sống ở vùng khí
hậu nhiệt đới. Mai Prunus mume sống ở vùng khí hậu bán nhiệt đới
hay ôn đới.
–
Mai Prunus mume có công dụng đa dạng hơn mai Ochna harmandii
(trái ăn được, làm nước chấm, nước giải khát, đồ hộp. Trái và hoa
dùng để trị bịnh theo y học dân gian cổ truyền).
– Màu sắc khác nhau. Hoa mai Ochna
harmandii màu vàng và hoa mai Prunus mume màu trắng hay hồng.
Bài viết tổng
hợp này trích từ Thế Giới Thảo Mộc Tự Điển do tác giả Phạm Đình
Lân biên soạn.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, January 31, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang