Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy bút
Chủ đề:
tình anh lính chiến
Tác giả: MĐ
QYS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hầu
như sau những trận đánh lớn, đơn vị thường được di chuyển về
sau chiến tuyến, dưỡng quân, bổ túc quân số, tân trang quân
dụng, chỉnh đốn chiến thuật, chờ đến phiên tái lâm chiến
trong nay mai. Để tưởng nhớ đến cuộc chiến đã chấm dứt 50
năm, Lá Thư Viết Từ Chân Núi xin ghi lại những nỗi niềm của
người lính cùng niềm tin, hy vọng, và tình yêu qua chiều dài
của cuộc chiến tại Miền Nam Việt Nam.
Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi
Các anh đi, đến bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn
chờ trông.
–(Các Anh Đi – Nhạc sĩ Văn
Phụng)
Bạn thân mến!
Tất cả chúng ta đã trải qua những giai
đoạn khắc nghiệt trong chiến tranh và hậu chiến, khi Miền
Nam Việt Nam phải chống trả sự xâm lăng khát máu của CS Miền
Bắc. Hình ảnh của những xuôi ngược hiểm nguy trong bước
đường chinh chiến, những hy sinh hào hùng của người lính
chiến – những mất mát chết chóc, những đau thương tủi nhục,
những thảm cảnh do pháo kích bừa bãi của Việt cộng vào các
thành phố, những lần chạy giặc, Biến Cố Mậu Thân, Đồi 31 Hạ
Lào, Đại Lộ Kinh Hoàng, Trận đánh Đồi Charlie, Tử Thủ An
Lộc, Hải Chiến Hoàng Sa, những di tản triệt thoái không lối
thoát, những kinh hãi trong vượt biên vượt biển, những đọa
đày trong ngục tù CS, và những bôn ba, những cố gắng phi
thường khi làm lại cuộc đời trên xứ người.
Một số
không nhỏ anh em chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc, một số lớn
khác đã mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo
trong tâm hồn, và hầu như tất cả chúng ta còn lại cùng gia
đình và bao người thân quen đều cùng phải gánh chịu những hư
hao gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực trong khói lửa binh
đao. Sau ngày gãy súng trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh
trên biển. Khi làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp
cuộc sống bạc đãi trong nhà tù lớn tại quê hương...
Bạn ơi!
Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn
phá, mà không có tao loạn phong trần. Có cuộc chiến nào mà
không có chết chóc chia phôi, mà không có máu lửa và nước
mắt. Tuy nhiên, bên cạnh nguy hiểm thường trực của chiến
tranh, phải chăng chúng ta vẫn luôn mang một hy vọng sống
còn về lại với người thân, hay một tình yêu trong lòng, một
hạnh phúc thầm kín, và một giấc mơ hiền hòa khi thanh bình.
Vì vậy, trong gian truân nguy hiểm, trong địa ngục trần
gian, trong sóng gió cuộc đời, phải chăng chúng ta đã luôn
cầu nguyện xin Ơn Trên cứu giúp chúng ta vượt thoát và đưa
chúng ta về chốn bình an. Và phải chăng lồng vào giữa đời
người lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì tình yêu
mới có thể giúp đỡ, cưu mang, và nuôi dưỡng người cầm súng
quên đi bao gian khó, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để
vươn lên trong thử thách bão lửa, và sống sót. Cho dù đó là
tình yêu quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên
nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ, là
cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em
gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm đuối trong lần về
phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.
Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một
hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một
vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến
chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và
một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở
cuối cùng.
Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết. Thử
hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần
biết đến những nỗi niềm trên! Có người lính nào mà không một
lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn
gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa,
nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi
thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong
tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy
sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đã
mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và
chết chóc. Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình yêu nơi
người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi
bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ
lửng giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em là bấy nhiêu
lần nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận
hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình giấu kín trong ba
lô, hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn
giản là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em,
những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em.
Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt.
Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ
ra sao:
“Mấy
tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn
Mấy tháng rồi tao không
được ôm em
Tao thèm làm tình như tao thèm sống
Tao
thèm hôn em, hôn liên miên...”
–(Mưa và Nỗi Chết ở An
Lộc/Tác giả Nguyễn Tiến Cung)
Song song với cuộc chiến là những câu chuyện về những
người lính xông pha nơi chiến trường có những người yêu để
lại đằng sau. Là những tình cảnh dạt dào thắm thiết của
chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều
ngoài biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên
bến sông buồn trông chờ”. Là những thơ tình trang trải nỗi
nhớ nhung của nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày
nghỉ phép ngắn ngủi. Những thầm kín, những mơ mộng, những
tâm sự, những dự tính, những ôm choàng, những nụ hôn hay
những gắn bó thể xác, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều
khi, những cuộc tình ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh
chiến, cho dù về sau chàng là “bại tướng cụt chân”; hay cuộc
tình vụt tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn.
Và đôi khi cuộc tình bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa
gục ngã nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên
viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người tình
còn đó anh nhớ không anh”.
Bạn thân mến, trong thời
gian chờ ra đơn vị, tại BV Đỗ Vinh, tôi tình cờ đọc lại cuốn
truyện dịch “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết”. Một câu
truyện về người lính, tình yêu và sự chết xảy ra như bao câu
chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu
vì lý do gì cuốn truyện này đã để lại bấy giờ cho tôi một ấn
tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi vơi
đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những
giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chửi thề, nghiến răng
của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng
thấm máu, và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh
phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ,
người chị hay em, hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn
quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là
những e ấp nắm tay, những an ủi trìu mến. Là những ánh mắt
thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nhìn thấy vết thương nặng
của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những
câu nói bâng quơ, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những
gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn
truyện từ tay các em gái hậu phương...
Câu truyện
“Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” của tác giả Erich M.
Remarque chọn bối cảnh nước Đức trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Anh lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2
năm ở chiến trường Miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị
trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được
tình yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của
gia đình. Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn
gì để phải sợ mất mát thêm đã nảy mầm giữa tiếng bom đạn và
chết chóc rồi mãnh liệt vươn lên, trong âu lo mơ mộng, ngọt
ngào khắc khoải, nồng nàn ân ái, hy vọng mơ mộng, bàng bạc
mong manh trong nỗi buồn miên man vô định của có nhau hôm
nay, xa nhau ngày mai, rồi mất nhau. Thay vì đào ngũ, Erust
quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi hòn đạn từ
chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang
cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết
thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”, thế
nhưng tôi lại liên tưởng đến một khép kín của cả một khung
trời, của nguyên cả một giấc mơ nhẹ nhàng bình dị vụt biến
khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Một cái chết quá dửng
dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Mà chỉ một dấu
chấm hết. Như tiếng hát Soprano đang vút cao bỗng chợt
ngưng. Mong manh thay cho một cuộc tình tuyệt đẹp của thời
chiến, đến nhanh và tan nhanh, mà trong đó bao hình ảnh của
thuở tình tự bên nhau, bao lời yêu thương, bao cảnh âu yếm
tuần tự quay diễn nhanh trước khi đôi mắt khép kín rồi tất
cả tan biến vào hư vô.
Đọc truyện người để nhìn lại
thực tế cuộc chiến tranh chống CS xâm lăng của ta, cảm
thương người lính của ta, trân quý tình yêu của họ. Người
lính chiến vẫn làm bổn phận người trai khi đất nước cần,
tình yêu vẫn giống nhau trên danh nghĩa, và cái chết vẫn là
cái chết dưới mọi hình thức, bình đẳng cho cả quan lẫn quân,
bình thản như trong một giấc ngủ, hay hung bạo với thân thể
nổ tung, xác người bầm dập không toàn thây, hoặc một cái
chết từ từ trong đau đớn mang đầy thương tích loang máu đào.
Bạn ơi! Vậy người lính của chúng ta là những ai? Phải
chăng đó là những người trai trẻ theo tiếng gọi non sông, kẻ
động viên hay đôn quân, người tình nguyện nhập ngũ; là những
người con của thế hệ, kẻ trước người sau, xa rời mái trường,
quê nhà, và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước.
Họ thuộc mọi thành phần của xã hội tự do Miền Nam, đến từ
mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông
người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu ngang qua
Cố Đô Huế rồi đến Duyên Hải nắng đẹp Miền Trung, lên tận Cao
Nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn Thủ Đô Sài Gòn–Gia Định
mến yêu, xuyên qua những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ của Đồng
Bằng Cửu Long đến tận cùng Cà Mâu, bao gồm mọi tôn giáo, với
đầy đủ giọng nói ba miền Nam–Bắc–Trung, đồng một lòng sát
cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ các trường Đại Học
Quân Sự Hải Lục Không Quân, từ trường Thiếu Sinh Quân hay
các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung Đồng
Đế, Dục Mỹ, TT Huấn Luyện Nhảy Dù... và của các địa phương.
Họ là những:
“Người
lính trẻ đã một thời giong ruổi
Đem tình người tình lính
trấn biên cương
Vẫn một lòng chung thủy với quê hương
Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng”.
–(Huy Văn)
Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng
một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ, cùng làng xóm
phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay
xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, tình nguyện gia nhập quân đội
VNCH để chống kẻ thù xâm lăng. Họ là những người con ưu tú
của đất nước trong mọi binh chủng mà tổ quốc luôn ghi ơn khi
họ đền nợ nước.
“Xin
tạ lỗi với đời trai khói lửa
Những địa danh ngang dọc
bước quân hành
Đoàn tráng sĩ qua sông lần vĩnh biệt
Tưởng đang còn cuộc rượu lúc tàn canh.”
–(Xin Một Lần Tạ Lỗi. Trần
Ngọc Nguyên Vũ)
Còn những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người
lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng là em gái của thằng
bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, trong
một thị trấn, ở làng bên cạnh, cùng một quận lỵ, một trường
tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là
người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ
Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông thượng sĩ trong trại
gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong các áo bà
ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi ta
dừng chân uống nước ở ven đường; Đó cũng là những nữ sinh
môi đỏ má hồng vùng Cao Nguyên hay các nữ sinh trong đồng
phục áo trắng hay đầm hồng, jupe xanh với áo sơ–mi trắng
tung tăng trên các đường phố...
“Thấy
em xỏa tóc ngả nghiêng bên trời
Ta cầm một sợi lên chơi
Ai dè suốt cả một đời lao đao”.
–(Nguyên Miên Thảo)
Em là người con gái ta chưa quen biết nhưng chợt thấy
giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem, quán
phở quán hủ tiếu, đang ăn vụng bò bía, phá lấu nước mía ở
góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn
Huệ, Thương Xá Tax mà ta muốn tìm quen theo về tận nhà. Họ
cũng là người em hậu phương đến choàng vòng hoa chiến thắng
“trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về
làng”, là người mà ta tình cờ bắt gặp có một đôi mắt long
lanh thơ ngây, đôi má hây hây, và một nụ cười hồn nhiên
khiến ta bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một
mái tóc mây hồng ngiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền
khiến ta mê mẩn dù lời nói khó hiểu “mô tê răng rứa – anh
đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay
là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với
câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu – Dzậy sao?!” Là một tà
áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em
Bắc Kỳ nho nhỏ”... Là bao nỗi nhớ. Bao chờ mong. Bao vấn
vương. Bao mộng ảo. Bao diệu kỳ không nên lời... Là con suối
nhẹ nhàng đi qua tim ta. Là cơn đau nhức nhối trong nỗi
thương nhớ.
“Nếu
một mai bé nhìn hoa dù nở
Lời tỏ tình anh gởi đó nghe
cưng
Hoa dù tròn như nguyện ước yêu thương
Anh lơ lửng
giữ dòng đời vạn biến...”
Chuyện tình của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo
sợ, lãng mạn, và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, đột ngột
lâng lâng đến, để rồi nhanh chóng đi vào thương đau. Cuộc
tình lính chiến như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung
động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông
thả trữ tình, ngay sau lần đầu gặp nhau “chưa nắm tay em mà
lòng đã yêu, chưa uống môi em mà tình đã say!” Với người
lính, cuộc tình thường long đong ray rứt, yêu trong vô vọng,
yêu trong cuồng si, yêu trong chớp nhoáng, dù chỉ để đổi lấy
một phút bên em rồi cả đời vĩnh viễn mất nhau. Đó cũng là
một cuộc tình chớp nhoáng, đam mê mạo hiểm, bất chấp ngày
mai, thuộc loại tình lính là “tính liền” với đám cưới trong
ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.
“Hôn
em mà đất trời say,
Môi không ướp rượu mà ngây ngất buồn”.
Tuy chai sạn trong phong sương, nhưng người lính rất mềm
yếu, ngây ngô, dễ rung động và non nớt trong tình trường
“Đôi khi muốn nói yêu em nhưng ngại ngùng đành lãng phai!”
Người lính thường xin chịu phần thua thiệt, lo sợ cho sự xa
mặt cách lòng, cạm bẫy, và cám dỗ của đèn màu đô thị, nhưng
tình yêu đã nuôi dưỡng họ, cho phép họ thơ thẩn giữa những
thực tế khắc nghiệt của chiến tranh. Tình yêu cho họ thêm ý
chí và tinh thần chiến đấu. Vì vậy tình yêu của lính cao
thượng, biết chấp nhận sầu ly, biết thông cảm cho tình cảnh
của người hậu phương, “đường vào ngày mai sỏi đá, thôi, em
về, quên hết đi ngày xưa!” Nhận thư Má viết ngắn gọn “con Tú
qua thăm Má và khóc, nói nó không thể đợi con được. Tuần sau
nó sẽ lấy chồng, là thầy giáo gần nhà”, người lính hoa mắt,
đông đá, sau một vài câu chửi thề, xách súng bắn một tràng
chỉ thiên. Nổ nghe như pháo ngày cưới. Ông Thầy cũng đành
lắc đầu. Thế là xong! Còn với ông Thầy “tử thương” vì tình
thì sao? Thầy và đám đệ tử tụm lại làm vài chầu ngất ngư để
quên sầu hay tưởng như quên sầu, rồi lầm lì để sau đó tình
nguyện lãnh nhiệm vụ nguy hiểm nhất cho đơn vị trong lần
đánh tới. Càng yêu và khi được yêu, người lính càng lúc càng
nghiệm rõ tình yêu mang đến sức sống, niềm hy vọng, giúp họ
tự tin và quyết chí xông xáo, xong nhiệm vụ để được sớm đi
phép thăm em. Tình yêu là nắng ấm giữa dông tố đời lính.
Nuôi nấng ta khi ta bị thương tật. Nâng ta dậy khi ta bị chà
đạp. Là nơi bám víu khi ta sa cơ thất thế. Là ân tình của
hạnh phúc cuối đời.
Bạn thân mến!
Phải chăng
em yêu anh vì yêu dáng phong trần hiên ngang của anh, yêu
luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù. Yêu cái nhìn nồng
nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với tiếng cười sảng
khoái của anh. Yêu sự chiều chuộng săn đón của anh, yêu con
đường mình cùng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn
nóng bỏng mang theo mây trời và dông bão vào đời em. Là mong
đợi những thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ. Là thích nghe
anh kể chuyện đời quân ngũ, chuyện xông pha ngoài trận
tuyến. Thương anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao
carré, làn da đen thui khét nắng, và luôn cả mùi ẩm mốc của
bộ lính trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết
yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi
chờ tin anh, biết cầu nguyện Ơn Trên gìn giữ anh, và theo
dõi bước chân anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Yêu anh
là chấp nhận những ngày cô đơn xa anh, những chiều dạo phố
một mình, rán làm quen với tên xa lạ của những nơi anh bước
qua, là đến thăm anh trong quân y viện. Làm vợ anh là chấp
nhận thương đau thua thiệt, chắt chiu với tiền lính nuôi đàn
con dại, là đếm những ngày xa anh, là tạm ở tại hậu cứ trong
căn phòng nhỏ lợp tôn, hay nay đây mai đó theo đơn vị anh,
và đành phó mặc tương lai cho số phận. Là lỡ làng đời em. Ai
trong chúng ta đã không một lần ngậm ngùi trước hình ảnh
chẳng thể quên của người cô phụ trẻ tuổi phủ phục bên cạnh
quan tài chồng, tay xoa xoa lá cờ che kín nắp hòm, thì thầm
những lời yêu đương giữa những nức nở.
Xin tạ lỗi với ai người chinh
phụ
Đã hóa thân nàng Tô Thị trông chờ
Đứng sừng sững
giữa hai vầng nhật nguyệt
Nhỏ xuống dòng lệ máu bốc thành
thơ
Xin tạ lỗi cùng em người hiền phụ
Đã vì ta lận đận
suốt một thời
Cùng ngụp lặn trôi theo dòng sinh mệnh
Tấm gương đời cuối thế kỷ hai mươi.
–(Trần Ngọc Nguyên Vũ)
Bạn thân mến!
Có tình yêu hay chưa có tình yêu,
người lính vẫn dũng cảm xông pha trận tuyến, làm tròn bổn
phận giao phó. Thương tật hay chết chóc là chuyện không ai
mong muốn nhưng vẫn chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái
chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài
ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có
khi đi đong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm, hay
nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập... Có cái chết đến
nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại
trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái
vì can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết
trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung
phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên
các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung?
Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở
về tận nhà trong hòm nhôm? Trong giây phút tử thương, “nằm
chết như mơ” ấy, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng kêu
lên Mẹ ơi, như anh đã từng làm khi đau ốm hay trong rủi ro?
Có đủ chăng anh thì giờ nhớ đến người vợ bé bỏng luôn trông
ngóng chờ đợi anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng anh nụ
cười ánh mắt của người em nhỏ anh thầm yêu mà anh đành giã
từ nơi ngôi làng xa trên bước đường chinh chiến?!
Mày nghĩ, tụi mình như cánh
gió
Ai đi nhốt gió được bao giờ.
–(Lá thư Pleime – Lê Anh
Tuyến)
Người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là
những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng
của sông núi. Họ là những cứu tinh của đơn vị, là huyền
thoại của đất nước. Chết trận là chết không một than vãn.
Không một ai oán. Không có lấy một lời trăng trối cho người
yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà.
Những ai đã chết vì
sông núi
Sẽ sống muôn đời với núi sông.
–(Trần Trung Đạo)
Khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn
hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình
thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình.
“Anh
đi mãi, không bao giờ trở lại!
Tôi viết vần thơ của thời
hoang dại.
Những vần thơ hoài niệm nhớ thương anh.
Và
đêm nay, trong khóe mắt long lanh giọt lệ buồn...
Tôi
khóc anh vĩnh biệt!”
–(Hồ Sĩ Duy)
Khi một người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu
nhau, Một thoáng ngậm ngùi, thì các bạn thân mến ơi, là
những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước nghỉ
ngơi dưới chân núi, chúng ta cần phải ngồi gần bên nhau,
xích sát vào nhau hơn nữa. Xin đừng hững hờ. Chớ xa lánh
nhau. Và xin đừng quên nhau. Hãy nhớ: những người sống sót,
bại trận như chúng ta đây vẫn còn nợ những người tử trận.
Mãi mãi không quên!
Bạn ơi!
Xin hãy cùng nhau
thắp nén nhang lòng, cầu xin cho anh linh các tử sĩ được
vinh hiển chốn ngàn thu. Xin cho tình đồng đội chúng ta vẫn
trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành
với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh
em đoàn kết một nhà. Cùng tham gia sinh hoạt cộng đồng chống
CS, làm nghĩa vụ giúp đỡ anh em thương phế binh của ta ở quê
nhà, đồng thời góp thêm bão lửa và sức sống cho các tù nhân
lương tâm, xem đó như một trách nhiệm chung. Mong các thế hệ
hậu sinh thấu hiểu về tinh thần chiến đấu bất khuất cùng
lịch sử của VNCH và tiếp tục dương cao ngọn cờ tự do.
Chúng ta học hỏi từ quá khứ đau thương để rút kinh
nghiệm sống được thực tế hơn. Nhưng đồng thời chúng ta phải
nhìn thẳng vào tương lai với tất cả sự nhiệt tình và lòng
trung kiên còn lại, để tiếp tục nuôi nấng ý chí trong hoài
bão rằng, một ngày không quá xa, quê hương sẽ sớm thoát
xiềng xích của CS, và dân lành sẽ được sống trong một chính
thể mới, thật sự có tự do, bình đẳng, và bác ái.
Viết cho tháng 4, 2025
Vĩnh Chánh
nguồn:
blog người phương nam
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by kb chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy June 14, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH