Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
MĐ BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Qua 47 năm kể từ khi CS cưỡng chiếm Miền Nam Việt
Nam, biết bao nhiêu người đã lần lượt vào tù, đôi khi không chỉ
một lần, mà nhiều lần vì mang tội phản động, bị nghi ngờ làm gián
điệp, vì tôn giáo chống cộng, vì văn hóa đồi trụy, hay đôi khi
chỉ vì ca hát nhạc vàng, có tiền có của, hay vượt biên vượt
biển...
Mục
đích bài viết này không phải để nhắc đến những hình ảnh đau xót,
những đọa đày trong tù tội, hay những câu chuyện bi thảm, những
chà đạp nhân phẩm mà những tù cải tạo phải gánh chịu. Trong hoàn
cảnh khắc nghiệt, người tù cần nương dựa vào tình yêu, vào tình
đồng đội, tình người... để sống sót. Phải trông cậy vào niềm tin,
trong cầu nguyện, và đừng bao giờ đánh mất niềm tin trong cuộc
sống. Chỉ niềm tin mới giúp nuôi được hy vọng nhìn thấy ánh sáng
cuối ở đường.
PHẦN I – TÙ CẢI TẠO
Ngay từ những ngày đầu tiên trong trại
tù cải tạo L19T9 tại Xuân Lộc, tôi được sự may mắn nằm giữa 2 bạn
tù. Một người từng quen thân vì anh là đàn anh của tôi tại trường
Y Khoa Huế, chẳng may anh bị động viên sau 1968. Anh Hồ Xuân Tịnh
từng sống sót, không một vết thương, khi anh là một Trung úy Trợ
Y trong chiến tích lẫy lừng và tan hàng anh dũng của Tiểu Đoàn 95
Biệt Động Quân tại trại biên phòng Ben Hét vào mùa Hè Đỏ Lửa
1972. Người bạn tù nằm bên trái của tôi là Trung úy Không Quân
Hoàng Văn Tân. Là người Bắc di cư, công giáo, có đi học ở Mỹ về
tiếp liệu, anh rất mộ đạo. Anh là một con người hiền lành, chất
phác, gia đình anh có tiệm bán thuốc Lào 3 số 8 tại chợ Ông Tạ.
Ba chúng tôi trở thành thân thích, che chở cho nhau, tâm sự với
nhau, chia sẻ với nhau những nỗi buồn xa vợ con – đặc biệt các
bạn ấy rất thông cảm nghe tôi thường xuyên thảm thiết kêu tên vợ
mình trước khi đi ngủ – và rủ đọc kinh với nhau. Nhất là Tân, gọi
tôi là huynh và xưng mình là đệ, nhắc nhở nhau đọc kinh cầu
nguyện mà tôi hằng ghi nhớ câu Tân nói khẽ “Huynh, đọc kinh với
đệ” mỗi sáng và tối. Sự gắn bó đùm bọc nhau đã giúp tôi giữ vững
lòng tin trong cuộc sống tù đày hỗn tạp, nhất là mang cho tôi sự
lạc quan khiến tôi không còn cảm sợ sự lạc lõng trong cảnh chim
lồng cá chậu. Đọc kinh mỗi ngày trở thành thói quen cho tôi trong
suốt thời gian tù tội và về sau, khi chuyển trại hay khi về lại
nhà, khi sống trong nước hay hải ngoại.
Đây cũng là thời gian có nhiều thử
thách cho tất cả khi cả trăm người không từng
quen biết từ trước
phải chung sống với nhau trong một không gian xa lạ, vừa nhỏ hẹp
vừa bị kềm kẹp, vừa đói khát, vừa phải nghe các chính trị viên CS
lên lớp. Để thoát khỏi những áp lực trên, những bạn tù thi nhau
phát huy tài nghệ riêng, đua nhau làm những món đồ thủ công nghệ
mang tính cách thực tế. Bạn Tân giúp tôi làm nhiều thứ, trong đó
có ống hút thuốc lào, cái ba–lô bằng vải dày che trần của các xe
quân đội hư hỏng, túi xách tay lớn cùng cái mũ rộng vành che nắng
khi lao động, một cây đờn Tây Ban Cầm với đầy đủ các sợi dây quấn
từ dây điện điện thoại quân đội, vài chiếc vòng đeo cổ tay, trâm
cài tóc và một chiếc lược khắc tên vợ, làm bằng nhôm từ các xe
M113 phế bỏ mà tôi tặng cho cho nàng trong lần thăm nuôi đầu
tiên. Biết bao bạn tù còn làm nhiều món đồ chơi như các bộ cờ
tướng, bộ Domino, bộ mạt chược... và các vật dụng trong nhà rất
tinh xảo như bộ tách trà, khay thức ăn, muỗng nĩa mà các quản
giáo phải năn nỉ nhờ làm mang về cho thân nhân ngoài Bắc. Thật là
quý hóa khi chiếc lược tôi tặng cho vợ mình được ông bà nhạc của
tôi chính tay mang qua làm quà cho vợ chồng chúng tôi khi gia
đình ông bà và 3 em vợ còn lại được đoàn tụ năm 1990 với chúng
tôi. Để bây giờ, chiếc lược ấy được nằm trang trọng trong một
chiếc hộp để ngay trên đầu giường của vợ chồng. Thỉnh thoảng tôi
mở hộp, lấy chiếc lược ra chải tóc cho vợ, vừa kể lại vài câu
chuyện bỗng nhớ về cảnh tù đày, những ngày xa nhau vừa nhớ em, vì
tù tội.
Nhờ
sống trong trại tù, tôi học hỏi nhiều cái mới lạ. Ngoài lao động
chung, mỗi người tù có hai hai luống rau lang trồng cho mình.
Trong khi những bạn khác bứt lá, luộc ăn thêm cho đỡ đói, tôi cứ
miệt mài tưới nước 2 luống của mình, không dám hái lá ăn, thích
thú nhìn lá xanh tươi mơn mởn. Khi thâu hoạch, những luống của
người khác cho những củ khoai lang to lớn, trông rất ngon lành.
Hai luống của tôi hầu như không có củ nào. Bài học “tốt lá xấu
củ” là đây! Anh em bạn tù rủ nhau trồng cây đu đủ, dạy khôn cho
nhau cách phân loại hột cái hay đực trong trái đu đủ chín để
gieo. Người khác chỉ cách dùng dao xén một miếng nhỏ ngay trên
thân cây mẹ ở chỗ có mắt, rồi trồng xuống. Đến ngày chúng tôi rời
trại, cây trồng với hột chỉ cao vài gang tay, nhưng bên trồng với
mẫu cắt từ thân mẹ cao hơn nhiều. Thêm một cái hay để học hỏi.
Đói là một trong những ám ảnh người tù
cải tạo chịu đựng. Đói cùng với nhồi sọ chính trị và lao động là
cách thức CS sử dụng triệt để trong các trại tù tập trung. Một
anh bạn nằm đối diện với tôi, ngay cửa ra vào của phòng, có biệt
tài bắt chuột. Bằng một sợ giây nhỏ gắn từ cái lồng bẫy tự làm
nối với ngón chân cái của anh, khi chuột vào cắn mồi trong lồng,
anh giựt sập lồng với ngón chân của mình. Cứ thế mà anh có thịt
ăn liên miên. Có lần tôi nhìn anh thán phục, anh lại nghĩ tôi
muốn xin ăn, anh ngần ngừ rồi đưa tôi nguyên một con chuột nhỏ
bằng hai ngón tay cái, đã lột da, móc ruột và luộc chín. Tôi từ
từ bỏ nó vào miệng, nhưng nhổ phẹt ra lại ngay. Ối trời! Cái mùi
vô cùng kinh hoàng không thể nào chịu nổi! May mà chưa mửa.
Những toán 5 anh nuôi thay phiên nhau
mỗi tuần nấu cơm, nấu cháo sáng, nấu canh... cho đội. Vì cho đây
là chuyện khó làm, nên các tổ trưởng đồng ý cho toán anh nuôi
được giữ ăn phần cơm cháy. Nhóm nhà bếp có kinh nghiệm dần và nấu
cơm cháy càng lúc càng dày, gây nên chuyện “trao đổi” cơm cháy
với thuốc lào hay với các sản phẩm thủ công nghệ của các bạn tù
khác. Thế là các tổ trưởng họp, đảo ngược quyết định trước: cơm
cháy nay cũng phải chia đồng đều cho các tổ. Thế là xảy ra chuyện
nhiều lần chúng tôi phải bị ăn cơm khê – cho bõ ghét – Ngoài ra,
chuyện chia phần ăn lắm khi cũng gây ra cãi vã gay cấn. Đúng với
câu “miếng ăn là miếng tồi tàn – Mất đi một miếng lộn gan lên
đầu.” Với tôi, trong một lần phụ nấu cháo buổi sáng, sau khi hít
một bi thuốc lào lúc bụng còn đói, tôi xây xẩm, xém chúi đầu vào
chảo đang sôi, may có bạn bên cạnh chụp lại kịp. Hú hồn!
Cũng tại trại tù Long Khánh này, sau
lần gặt hái thành quả lao động đầu tiên do tù cải tạo làm ra,
phần lớn các sản phẩm như bắp, khoai lang, khoai mì bị giao nộp
cho bên trên. Để sau đó, trước thời gian Miền Nam bị đổi tiền, có
hiện tượng một bà ốm nhom, dáng người khổ cực, mời chào đoàn tù
trên đường lao động mua khoai lang, khoai mì, bắp luộc. Nhờ có
một lần bắt gặp ông thượng tá của trung đoàn lính đang cai quản
trại tù đến to nhỏ với bà, tỏ ý ngăn cản việc buôn bán, bà ta
đứng dậy, ngang nhiên lớn tiếng chửi vào mặt ông với một giọng
Bắc the thé, rất nhà quê, khiến ông ta bẽ mặt bỏ đi, bấy giờ
chúng tôi mới biết bà ấy là vợ ông.
Sau lần chuyển trại ban đêm, từ Xuân
Lộc đến Trảng Táo, tôi lại may mắn sống chung trong tổ gồm 5 bạn
tù mới, là dược sĩ Lâm Văn Trác, hai nha sĩ cùng một lớp là Hà Tô
và Lộc, một nhà giáo là anh Ba Trí, và tôi. Bốn người kia thuộc
Bộ Binh, tôi là của Nhảy Dù. Nhìn quanh cả đội tôi là đứa “ác ôn”
nhất. Nhưng không vì thế mà các bạn ấy “né” hay lạnh nhạt với
tôi. Ngược lại, theo thời gian, chúng tôi có với nhau một liên hệ
rất mật thiết, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, người này sẵn sàng
choàng qua làm giùm công việc cho người khác, nấu nướng cho nhau,
chia nhau chút thực phẩm hiếm quý do gia đình mang đến. Tình đồng
đội, nghĩa bạn hữu trong cảnh tù đày cho chúng tôi thêm sức sống
và nghị lực nín thở qua sông chờ ngày đoàn tụ gia đình.
Một nhóm tiên phong 50 người tù chuyển
từ Xuân Lộc đến Trảng Táo đầu tiên, để chuẩn bị cho đại quân tù
đến sau từ những trại tù khác. Nhóm được giao phó nhiệm vụ chặt
cây, cắt tranh dựng nhiều nhà ngủ lớn, nhà họp với sức chứa trên
cả trăm người, cùng lúc phải đào giếng tìm nguồn nước uống và tắm
cho toàn trại. Có lẽ do thân hình thấp nhỏ và có “ngón”, tôi được
anh em chỉ định vào toán 4 bạn chuyên đào giếng. Cái khó làm sao
tìm đúng chỗ có nước để đào giếng? Tôi quyết định đào những nơi
có nhiều cây cỏ xanh tốt, nghĩ bên dưới có mạch nước ngầm. Thông
thường ít nhất phải đào sâu trên 5 thước mới bắt đầu có nước.
Nhưng đất ở đây là đất núi. Ui chao ơi là khó! Phải đẽo, phải
đục, phải đập. Phải xắn, phải nạo, phải bươi, phải cuốc, phải
xúc, đồng thời phải giữ miệng giếng cho tròn, thành giếng phải
thẳng và có chỗ cho chân bám vào khi đào sâu dần. Đất đá đào
chừng nào phải cho vào thùng có người ở trên kéo lên. Có khi đào
được ¾ đường bỗng gặp phải 1 tảng đá to tổ bố nằm ngang chặng
đường. Thế đành phải bỏ dở công trình và phải vùi lấp miệng giếng
cho an toàn, tránh chuyện bạn tù rớt vào giếng trong đêm tối.
Càng đào xuống sâu càng nguy hiểm vì đất đá có thể rớt trên đầu
mình hay bị trụt đất, nên tôi thường phải chụp lên đầu một cái
nồi do bạn tù làm. Có lần sợ đến đứng tim khi đang còn nạo, vét
đáy giếng cho bằng phẳng với mức nước ngang cổ chân, thình lình
một con rắn từ trên bỗng rớt xuống, khiến tôi hoảng hồn vừa la
vừa leo nhanh lên miệng giếng. Số giếng do nhóm chúng tôi ra công
đào có lẽ lên đến cả 10 cái. Cái thích của đào giếng là làm việc
một mình khi đào xuống sâu, cảm nhận không khí ẩm và mát lạnh, và
tiếng nói của mình hay tiếng hát nghêu ngao của mình vang dội
nghe có vẻ huyền bí.
Sau những tháng lao động dồn dập, vào
một ngày cuối tuần của hè năm 1976, tôi được gọi lên gặp thân
nhân. Ngạc nhiên hết sức vì đó là anh thứ ba của tôi. Anh Vĩnh
Anh du học Canada năm 1962 qua chương trình Plan Colombo, về sau
hoạt động và hăng say sinh hoạt trong tổ chức Trí Thức Việt Kiều
Yêu Nước tại Montreal, ra mặt chống đối chính phủ VNCH, đất nước
đã giúp anh đi du học và thành đạt. Đây là chuyến đầu tiên từ
ngày du học, anh trở về thăm gia đình, và được cấp giấy phép đến
thăm tôi ở trại tù.
Cùng đi với anh có Măng tôi và vợ tôi.
Câu chuyện không có gì mặn nồng cho lắm, có thể vì tôi chỉ muốn
chú trọng đến vợ tôi nhiều hơn; tôi hỏi anh có giữ ý định về phục
vụ đất nước như anh từng mong muốn. Anh thẳng thắn trả lời “đang
còn trong nước, anh rất khó có quyết định khách quan để trả lời.
Anh sẽ cho biết sau khi về lại Canada, nếu anh không xin vào quốc
tịch Canada, tức phải hiểu rõ anh sẽ về nước phục vụ”. Thế nhưng,
chưa đến nửa năm sau, trong một thư gởi cho tôi, Măng tôi cho
biết anh ấy đã quyết định ở lại Canada sau khi nhập tịch Canada.
Phải chăng cảnh tù đày của thằng em, phải chăng sự so sánh hình
ảnh của một Miền Nam VN trù phú sung túc và hạnh phúc trước khi
anh du học với sự thật phũ phàng hiện tại không thể che dấu cái
nghèo đói, cái trắng tay, nỗi ám ảnh sợ hãi mà anh nay chứng kiến
trong một đất nước được thống trị bằng bạo lực, khi anh ở Sài
Gòn, ra Đà Nẵng thăm anh mình, về Huế thăm bà con bên nội và mộ
phần Ba tôi và của đại gia đình, đã ảnh hưởng lên quyết định của
anh tôi chăng?!
Khách thăm của tôi được các bạn tù cùng
đội 5 người chào đón bằng một bữa cơm trưa sang trọng và ngon
nhất từ trước đến nay của lũ tù chúng tôi: cơm độn với bắp, rau
lang luộc chấm nước muối, thịt kho mặn có lẽ từ gia đình một bạn
nào đó, canh bí đỏ và tráng miệng với chuối. Thật quý hóa! Thật
tình cảm! Giờ nhớ lại mà lòng tôi vẫn chứa chan cảm xúc. Thế mới
biết tình bạn trong cảnh khổ cực với nhau đôi khi đáng trân quý
hơn tình anh em trong gia đình.
Dù mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng cùng
một nỗi đau chung, không chỉ sống với nhau trong cảnh tù đày
chúng tôi mới biết thân thiết, đùm bọc nhau mà chúng tôi còn nhận
bao tình thương của tha nhân những khi lao động bên ngoài. Những
ánh mắt xót xa đầy thiện cảm và chia sẻ của người dân, những gói
bánh cốm, bánh mì, bánh bông lan, bao mì gói, kẹo đậu phụng, kẹo
chuối... của bá tánh trên xe lửa quăng xuống cho tù cải tạo. Có
một lần, tổ chúng tôi nhận được cả chục cây cà rem khi đang còn ì
ạch gánh tranh cạnh con đường sắt. Phải nói là thần tiên khi mút
được cây cà rem mát lạnh giữa nắng trưa trong lúc người ướt thấm
mồ hôi. Tình thương ấy giúp chúng tôi cảm thấy không bị bỏ rơi,
không bị mặc cảm trong sự chà đạp cùng cực của kẻ đóng vai chiến
thắng. Tình thương ấy đã vực chúng tôi dậy, giúp chúng tôi có
niềm tin, trở thành mạnh mẽ đủ để vượt qua những khổ đau thể xác,
những kiệt quệ tinh thần. Chúng tôi có thể trầm cảm, trở nên
khùng điên... nhưng không bao giờ chấp nhận sự khuất phục.
Đi tập trung với hành trang đủ cho 10
ngày, để rồi không biết đi về đâu và không biết ngày về, ngoài
chuyện thương nhớ gia đình, lo âu cho vợ con không biết xoay sở
trong cuộc sống mới, nỗi sợ hãi tận cùng của mọi người cùng hoàn
cảnh là bị lãng quên, bỏ rơi, phụ bạc theo thời gian. Khi niềm hy
vọng đoàn tụ quá mơ hồ, những bạn tù được thân nhân lén tìm thăm,
tiếp tế, là những kẻ hạnh phúc nhất đời, vì biết mình còn được
yêu thương. Trở thành vợ chồng chỉ 3 ngày sau khi mất nước, em đã
nhiều lần tìm cách đến thăm tôi khi tôi đi tù. Lần đầu tiên sau
Tết 1976 khi tôi còn trong trại L19T9, em đã nhiều lần theo chân
vợ của Hoàng Văn Tân đến Xuân Lộc, đứng cầu may chờ tìm chồng,
thay vì trong đám ba quân, thì nay trong đám tù trên đường đến
lao động tại khu rừng cao su. Và thật diệu kỳ trong một buổi sáng
có mưa nhẹ, tôi nhìn thấy em co ro đứng bên kia đường. Thế là em
cùng với chị Tân bám theo sau đoàn tù một khoảng khá xa. Khi anh
em tù được phân phối vào rừng đốn cây làm củi, hai người vợ tù
cũng nhanh nhẹn và kín đáo tìm đến nơi hai người chồng đang lao
động. Mỗi cặp trải poncho giữa đám cỏ cao khuất lấp tầm nhìn, chỗ
này cách chỗ kia chừng hai, ba chục thước. Thật là tuyệt diệu khi
em và tôi có nhau trong khung cảnh lãng mạn tình tứ này, dưới
tàng cây cao su với những giọt mưa rơi nhẹ xuống trên thân thể
chúng mình, như một hòa hợp tình tự cùng với nước mắt của hạnh
phúc lẫn chua xót. Trong niềm hoan lạc, tôi nhìn ngắm em cài áo
làm duyên. Những giây phút thần tiên không một ngỡ ngàng này cho
tôi ý chí và sức sống, tiếp tục nở hoa trong suốt tháng năm mòn
mỏi đợi chờ nhau. Em đã cho tôi tình yêu và hy vọng.
Tại Trảng Táo, có lần nàng tìm cách
nhắn lén để hẹn tôi, nhưng liên lạc không đến đúng người, đúng
lúc. Như chuyện thiên định, tôi tình cờ đứng chơi trên sân ga
Trảng Táo, dù chỉ trong một khoảnh khắc khi chuyến xe lửa chạy
ngang, dưới ánh sáng vàng rực của cuối ngày, chúng tôi nhìn thấy
nhau trong tích tắc, kẻ ở trên tàu, người dưới đất, khoảng cách
không xa nhưng tưởng như vạn dặm. Tôi la lớn, gọi tên em, và xoay
người vội vã chạy theo con tàu. Em chồm hẳn thân hình ra phía bên
ngoài, tay nắm chặt song sắt, đôi mắt mở lớn mừng rỡ như muốn thu
nhận tất cả hình ảnh của chồng. Tôi đau đớn nhìn thấy em gầy gò.
Đôi mắt của em, ôi con mắt đã từng nhốt hồn tôi vào trong đó, vẫn
còn nét tinh anh trong sáng và đoan trang của ngày nào. Tôi bỗng
cảm thấy thân hình mình nhẹ hẫng như được đôi tay thiên thần nâng
đẩy, tim tôi như ngừng đập trong đê mê, bước chân tôi như đang
chạy trên mây, tay tôi rộng với về nàng như thể muốn níu ôm lấy
em vào lòng. Tất cả xung quanh tôi như chậm lại, mơ hồ. Cả hai
chúng tôi tròn mắt nhìn nhau trong vô tận. Chỉ có em và tôi hiện
hữu trong khoảng khắc thần tiên này. Qua ánh nhìn, em gởi đến tôi
thông điệp, “Anh an tâm. Mọi việc ở nhà bình yên. Em yêu anh. Anh
phải sống. Em sẽ chờ đợi với tất cả lòng thủy chung.”
Có lẽ tôi đã chạy theo con tàu chừng
mấy mươi bước, tim đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, rồi tôi
thấy mình dừng lại. Đứng yên tại chỗ để nhìn nàng được rõ hơn khi
con tàu từ từ đưa nàng xa dần tôi. Dù con mắt có đuôi, dù cái
nhìn kéo dài đầy nuối tiếc, rồi cũng đến lúc mờ khuất bóng nhau.
Tôi muốn em biết tôi yêu em đến chừng nào, tôi ước mong có cánh
để bay đến bên em, ôm chặt vào lòng, truyền cho nhau sức sống.
Như hiểu tôi sắp oà khóc vì quá xúc động, nàng thoáng nhẹ lắc
đầu, ánh nhìn thầm nhắc nhở dặn dò đừng bao giờ bày tỏ sự yếu
đuối trước kẻ hành hạ mình. Em đã cho tôi nguồn hy vọng. Sự tình
cờ may mắn thấy mặt nhau hôm nay nói lên được định mệnh ràng buộc
giữa chúng tôi, làm chúng tôi càng thêm gắn bó. Chỉ một lần nhìn
thấy nhau trong đớn đau là cả một ghi nhận nghìn năm không phai.
Sau cuộc gặp gỡ định mệnh ấy, tôi tìm
đến làm quen với ông Ba, người có cảm tình với tù cải tạo và chủ
một căn nhà tranh cách trại tù tôi khoảng 5 cây số băng rừng. Một
dịp thuận tiện, tôi nhờ ông mang lá thư viết tay của tôi đến giao
cho vợ tôi tại Sài Gòn, và cố gắng sắp xếp mang vợ tôi về nhà ông
cho chúng tôi gặp nhau. Trong thư tôi có ghi rõ vợ tôi sẽ bồi đáp
50 đồng cho bác Ba. Đúng một tuần sau, ông Ba kín đáo nhắn cho
tôi rằng vợ tôi hiện có mặt tại nhà ông. Nhận tin, tôi nói nhỏ
cho các bạn trong tổ biết để bao che cho tôi trong phần lao động
và tôi phóng mình chạy nhanh đến gặp vợ mình. Quả nhiên nàng đang
chờ tôi trong túp lều tranh. Chúng tôi sung sướng gặp mặt nhau,
ôm nhau trong vòng tay. Bên nhau nàng và tôi xây mộng bình
thường, chỉ mong sẽ có ngày chúng tôi được sống bên nhau trong
căn nhà tranh đơn sơ như thế! Tôi chạnh lòng nhìn thấy em thật
gầy ốm, nên bỗng quyết định chạy ào về lại trại mình, lấy các
thực phẩm dành dụm đem đến cho vợ mà quên là không gì quý giá
bằng yếu tố thời gian được ở cạnh nhau! Tôi may mắn chạy nhanh về
lại trại vừa đúng lúc điểm danh, lẻn kịp đứng vào hàng, áo quần
ướt nhẹp vì mồ hôi và hồi hộp. Thằng đội trưởng, có tên cúng cơm
là Phước “rắn” vì tài bắt rắn của y và công làm antenne, chưng
hửng vì nó phong phanh nghe có người lén rời trại nên quyết chí
bắt cho được, ra lệnh điểm danh sớm hơn mọi ngày. Hú vía!
Khoảng mấy tháng cuối ở Trảng Táo,
không hiểu vì sao tôi được anh quản giáo cao lớn, người Nùng tên
Thân, giao làm một công việc lạ: chăm sóc vườn hoa màu của nhóm
quản giáo ở với nhau trong một khu cách xa lán của trại tù, có
rào xung quanh. Thế là ngày nào cũng như ngày đó, tôi vào vườn
khoảng 8 giờ sáng làm việc cho đến 12 giờ trưa, về ăn trưa rồi
trở lại làm việc cho đến 3 giờ chiều. Sau đó trở về lo bữa ăn tối
cho tổ 5 đứa. Công việc vườn bao gồm tưới nước (từ giếng mình đào
gần cạnh nhà quản giáo), bắt sâu, tỉa cây lá, nhổ cỏ dại, thu
hoạch lần lượt những trái mướp ngọt (người Bắc không ăn mướp
đắng), bầu, bí đỏ, những trái đậu, đậu bắp, rau muống, rau đay,
cà chua, cà pháo, cà tím, su le, rau xanh, ớt... bỏ vào từng giỏ
để trước nhà cho họ. Với những trái già tôi xắt nhỏ làm phân bón,
chứ không thèm đem về cho tổ mình. Tuy nhiên họ cho phép tôi hái
những đọt bí, hoa bí hoa bầu về tổ để cải thiện bữa ăn. Rõ ràng
đây là một công việc quá nhẹ so với lao động bên ngoài, vì các
bạn tù của tôi vẫn tiếp tục đi xa bên ngoài cắt tranh, chặt tre,
chặt cây lớn cây nhỏ, rồi đốt hết để biến rừng thành những vùng
trồng bắp – thật là một phí phạm tài nguyên, tôi thầm nghĩ – Tôi
mường tượng như mình có được chiếu cố, đơn thuần một đặc ân hay
dấu hiệu tôi sẽ sớm được thả về nhà. Nhất là khi anh quản giáo ấy
nói với tôi: “Tôi về thăm nhà chừng một tháng. Rất hy vọng khi
tôi về lại sẽ không còn gặp anh ở đây nữa!?” Cái lạ là không một
bạn tù nào to nhỏ cho tôi là antenne. Ngược lại, các bạn xáp gần
tôi, hỏi han, nghĩ rằng tôi lên trên ấy giúp các quản giáo sắp
xếp hồ sơ, làm bản danh sách người về, người ở lại hay lại bị đưa
đi trại khác. Tôi thường chỉ biết cười trừ. Đôi khi có vài bạn tù
lớn tuổi rất nghiêm trang hỏi một cách căng thẳng về tình trạng
của mình có sớm được cho về hay không. Tôi phải đành trả lời
chung chung, “tôi đi đâu có anh theo đó”. Vậy là ai cũng vui hẳn
và lên tinh thần.
Cùng thời gian đó, trại ra lệnh tất cả
chúng tôi làm nhà nghỉ lớn, chia thành mười ngăn, mỗi ngăn có
giường ngủ đủ cho 2 người và một cái bàn, hầu hết các vật dụng
đều làm từ tre, để đón tiếp thân nhân đến ở lại đêm. Chúng tôi
hoàn thành nhiệm vụ một cách mau chóng. BS. Tôn Thất Sơn, một đàn
anh của tôi và là người đầu tiên của Y Khoa Huế trở thành một Y
sĩ Đại úy Nhảy Dù sau trận Hạ Lào 1971, một người rất được anh em
trong trại tù nể nang, và tôi, cùng có tên trong danh sách đầu
tiên được người nhà lên thăm. Hai ngăn lại sát cạnh nhau, có
chung một vách tường mỏng bằng tre đan. Có lẽ cả đêm chúng tôi
đều rất khó ngủ vì nghe tiếng rên rỉ tội nghiệp của những chiếc
giường tre, tiếng to nhỏ thủ thỉ giữa vợ chồng... Các bạn trong
tổ của tôi thay phiên nhau đem đồ bồi dưỡng lên tận phòng, nào
chè, nào cháo ăn khuya, cơm chiên buổi sáng với cà phê bít tất.
Khi vợ ra về sáng ngày hôm sau, tôi tự cho phép mình ngủ bù
nguyên ngày. Ái da! Và sau này nghe vợ tôi thì ngủ gục trên
chuyến xe lam về lại thành phố, dưới nhiều ánh nhìn ái ngại, tội
nghiệp của các chị lớn tuổi hơn ngồi cùng xe.
Gần 2 tháng sau vụ thăm chồng, chừng 40
người có tên trong danh sách được thả về – trong đó có anh Tôn
Thất Sơn và tôi – Trong đêm, nhiều bạn tù đến chung vui với tôi.
Bốn bạn của tổ tôi vừa mừng cho bạn mình vừa tủi thân, tâm sự với
nhau cả đêm không hết chuyện. Anh Ba Trí kín đáo nhờ tôi đem về
cho gia đình anh một lá thư trong một phong bì dán kín. Tôi nhận
lời không một do dự. Sau đó một anh tù lớn tuổi hơn tôi khá
nhiều, đến năn nỉ rất tội nghiệp nên tôi cũng nhận thư của anh
luôn. Trong đêm, tôi đọc kinh cám ơn Chúa và Đức Mẹ, xin cho tôi
được bình an về đến nhà, và không quên cầu nguyện cho tôi không
bị trắc trở nguy hiểm vì 2 lá thư này. Hành trang ra về của tôi
rất đơn sơ, gồm cái ba lô nhẹ hều, cái mũ rộng vành, cây đờn
guitar tự làm, và một đôi giày bata rách nát, bẩn thỉu. Mọi thứ
còn lại tôi chia cho các bạn, kể luôn cả đôi giày quân đội của
Mỹ, poncho, võng nylon, bidon nước và mấy lon guigoz với đồ ăn
khô trong đó.
Năm giờ chiều, ngày 24 tháng 8, 1977, những người có tên trong
danh sách ra về được tập họp trước sân nghe quản giáo lên lớp,
căn dặn làm tốt bổn phận khi về đến nhà, khai báo với công an
phường khóm, ghi danh lao động và tự động xin đi kinh tế mới. Mỗi
chúng tôi được phát cho tờ giấy Quyết Định Thả. Cuối cùng, anh
quản giáo lên tiếng “chúng tôi biết một số các anh có nhận những
lá thư của bạn nhờ mang về nhà cho họ. Nếu các anh tự giác bỏ các
lá thư đó trước mặt mình, chúng tôi vẫn để cho các anh về và hứa
sẽ không bắt phạt các người gởi thư lén. Đừng để chúng tôi lục
soát và tìm thấy. Lúc đó chúng tôi sẽ giữ các anh lại trong trại
và hủy lệnh cho các anh về.” Sau một im lặng tuyệt đối, có 4–5
người từ từ móc các lá thư trong áo quần để xuống đất. Tôi vẫn
bình tĩnh đứng yên trong không khí ngột ngạt dưới cơn nắng cháy
da. Vẫn với 2 lá thư nằm ép dưới chiếc tất mang trong giày. Mấy
phút sau, anh quản giáo đi một vòng lượm các lá thư, rồi ra lệnh
cho các bạn tù vừa thành thật bỏ các lá thư đứng ra một bên, phần
còn lại sánh vai bước đi ra khỏi trại, hướng về phía nhà ga Trảng
Táo. Đi một khoảng khá xa, tôi mới nhẹ nhõm thở thoải mái, với
bước chân như đi trên nhung lụa. Cổng trại tù đóng lại sau lưng.
Đến nhà ga, mới biết không còn chuyến
xe lửa nào về Sài Gòn, phải chờ đến sáng mai. Vậy là mọi người đi
tìm chỗ ngủ qua đêm. Trải tạm mấy cái áo quần cũ xuống một khoảng
đất còn nóng hổi, tôi nằm đó, ngắm nhìn trời đang dần tàn. Đang
mơ màng, tôi bỗng nhìn thấy thằng Phước “rắn”. Tôi đứng dậy, chạy
đến gần nó, vừa la hét văng tục kể tội nó vừa vung tay định quyết
chiến với nó. Nhiều bạn tù chạy lại, kẻ đổ thêm dầu, người can
gián, trong đó có anh Tôn Thất Sơn. Vì anh Sơn vốn là đàn anh
trong Quân Y Nhảy Dù nên tôi nguội lại, nhưng vẫn nhất quyết đuổi
hắn ta đi ngủ xa ra khỏi nhóm chúng tôi. Biết thân phận, nó bỏ đi
nằm khuất đâu đó.
Trên chuyến xe lửa về Sài Gòn ngày hôm
sau, một lần nữa chúng tôi cảm động đón nhận những thức ăn đưa
đến tận tay từ những người xa lạ nhưng có cử chỉ thân thiện và
ánh mắt bao dung. Ngay cả anh xe ôm chở tôi về nhà cũng chỉ lấy
chút tiền tượng trưng. Đứng ở balcon nhìn xuống, em là người đầu
tiên thấy tôi về. Vợ tôi từ trên lầu ba chạy bay xuống đón. Xúc
động trong niềm hạnh phúc gặp lại, tôi lúng túng chạm vào ống bô
xe nóng hổi lúc cúi người xuống xách đồ nên bị phỏng nặng một bên
cánh tay.
Một
giai đoạn mới đang mở ra, với những thử thách khó khăn mới, những
thích nghi trong một xã hội xô bồ, nghèo đói và ngược ngạo.
PHẦN II: TÙ CHÍ HÒA
Về nhà, tôi mới biết trong thời gian
tôi đi tù, có người quen xưa là “dì” Bích Hà, con gái đầu của
“bác” Đặng Thái Mai, đồng thời là người vợ sau của ông Võ Nguyên
Giáp, đến tận nhà thăm Măng tôi hai lần, do hỏi thăm địa chỉ từ
ngoài trường Đồng Khánh. Ba tôi và ông Đặng Thái Mai từng là bạn
học với nhau ở Hà Nội trong thập niên 20. Có thể nhờ hai cuộc
viếng thăm đặc biệt này, cộng thêm với người chồng mới cưới của
một trong hai chị sinh đôi của tôi còn lại tại Việt Nam – anh ta
là một cán bộ giảng dạy tại trường Mỹ Thuật Gia Định – các anh
công an khu vực có phần nương tay với ngôi nhà của Măng tôi trong
cư xá Bắc Hải; đến khi đi tù về, tôi cũng không bị làm khó dễ,
nhất là Măng tôi rất biết điều, thường xuyên tặng 5–10 đồng khi
các anh ghé thăm.
Tôi muốn tạo cơ hội đến gần để tìm hiểu
người anh rể mới nên tôi đề nghị anh dạy tiếng Nga cho tôi, vì
(theo lời kể) anh từng được gởi qua Liên Xô học mỹ thuật trong 3
năm. Sau nhiều lần từ chối không được, cuối cùng anh thành thật
cho biết tất cả sinh viên Miền Bắc du học Nga bắt buộc phải học
qua người thông dịch – có nghĩa là chính các sinh viên không có
đủ trình độ ngoại ngữ tiếng Nga để nghe, hiểu và học trực tiếp từ
thầy dạy người Nga. Cái may mắn của sinh viên là có người thông
dịch giỏi, có lương tâm, hiện diện thường trực tại các giảng
đường... nhưng chuyện này rất ít xảy ra. Tôi quá ngạc nhiên, cho
anh biết tất cả các du học sinh của Miền Nam, tự túc hay được học
bổng, hay từ gốc quân đội, đều phải hiểu và nói trôi chảy lưu
loát sinh ngữ của nước mình sẽ du học. Anh ta còn cho tôi biết
thêm một ví dụ chính xác về du học. Như sau: nước Tiệp Khắc muốn
tặng cho Miền Bắc một nhà máy có 200 người làm việc, từ kỹ sư đến
chuyên viên, nhân công. Miền Bắc tuyển chọn đúng 200 người theo
đúng vị trí phân phối như vậy và ráp vào làm việc bên cạnh các
đồng nghiệp người Tiệp, không cần phải biết nói, tiếng Tiệp Khắc.
Sau khi nhà máy được xây dựng xong tại Miền Bắc, 200 người trở về
nước và cứ thế copycat làm việc theo đúng cách thức từng nhìn
thấy trước đây tại Tiệp Khắc. Nghe xong, tôi xin chào thua!!!
Vụ hỏi thăm sức khỏe thằng Phước “rắn”
tưởng xong rồi, không ngờ trại cải tạo gởi hai anh quản giáo
xuống tận nhà tìm tôi, muốn biết câu chuyện thực hư ra sao. May
nhờ hôm ấy tôi không có nhà, lại có anh công an khu vực thêm lời
che chở này nọ, nên họ đi về, không làm khó dễ. Về nhà nghe Măng
tôi kể lại, tôi cũng hết hồn. May mà chưa thượng cẳng tay hạ cẳng
chân với nó! Vào lại tù như chơi!
Trong những ngày đầu tiên, tuần đầu
tiên về lại nhà, ngoài hâm nóng tình yêu vợ chồng, chúng tôi đèo
nhau trên xe đạp rong chơi khắp Sài Gòn, nhìn thế thái dân tình,
những nhóm người rách rưới lang thang vô định hay túm chùm tại
các góc đường, cảnh xuống cấp của các khu phố, khu thương mãi,
đâu đâu cũng tràn ngập những biểu ngữ sắt máu... Sài Gòn nay mất
hẳn sự sầm uất, thịnh vượng và hoa lệ. Chúng tôi không quên rủ
nhau lai rai đi ăn vặt, ngồi xe đò lên Thủ Đức thăm đại gia đình
bên ngoại của vợ, hay đến tìm gặp các bạn tôi của một thời từng
vừa học vừa chơi vừa phá khi còn sinh viên hay khi tại ngũ, là
Hoàng Ngọc Vinh (Thiết Giáp), Bùi Cao Đẳng (Nhảy Dù), Lê Quang
Tiến (Nhảy Dù), cùng nhau nối lại tình thân... Mới biết trong các
bạn, tôi là người được thả về sau cùng. Tôi cũng không quên nhờ
em vợ giao 2 lá thư mang về từ trại tù cho gia đình anh Ba Trí và
anh kia.
Các
bạn cùng tổ với tôi trong trại tù cũng lần lượt được thả ra. Tôi
gặp lại anh chị Trác, và Lộc. Qua chuyện trò, tôi được cho biết
khi nhóm tù đầu tiên được cho về, bị “dụ” phải bỏ thư ra, anh Ba
Trí điếng cả người vì trong thư nhờ tôi đưa tay, anh bàn chuyện
với vợ về chuyến vượt biên đang chờ anh về ráp vào là đi ngay.
Anh đã không hết lời cảm phục tính khí khái của tôi giữ lời giúp
anh đến cùng. Trong khi đó, sau khi nghe qua câu chuyện, dù tán
đồng với quyết định của tôi, nàng vẫn phán một câu xanh dờn “Anh
coi bạn trọng hơn gia đình. Nếu chúng bắt được cái thư thì anh
còn ngồi tù mục xương.” Xin bạn đọc cho lời bàn nhé.
Sau đó, Lộc cho biết gia đình anh Ba
Trí đã ra đi. Từ đó tôi chưa bao giờ nhận được tin tức của anh và
cả của Hà Tô. Cầu mong cho gia đình hai anh Ba Trí và Hà Tô đến
nơi bình an. Năm 1978, người nhà của Lộc, là bạn tù thân nhất của
tôi trong tổ 5 người, báo tin Lộc bị chết đuối khi công tác với
Đoàn Thanh Niên Xung Phong tại Miền Tây. Thật đau đớn và xót xa!
Chúng tôi có ghé thăm gia đình cha mẹ Lộc nhiều lần. Về sau khi ở
Mỹ, thỉnh thoảng chúng tôi có gởi chút quà đến cha mẹ Lộc, cho
đến khi ông bà qua đời trong gần cuối thập niên 80.
Một ngày đang chở vợ bằng xe đạp về
thăm nhà ở đường Cao Thắng, tôi gặp người bạn đồng khóa tại YK
Huế. Dương Đình Công và tôi khá là thân; chúng tôi từng học chung
với nhau, phụ nhau chụp slices trong bộ Atlas of Anatomy mượn từ
thư viện YK Sài Gòn trong thời gian chúng tôi dời vào học tại đây
sau Mậu Thân, để làm tài liệu giảng dạy sau này cho trường YK
Huế. Ngoài ra, chúng tôi cùng sinh hoạt chung trong nhóm Thanh
Niên Thiện Chí tại Huế. Chẳng bao giờ thắc mắc anh không vào
trưng tập dù anh là con đầu của một gia đình nhiều em trai. Tôi
không ngờ sau 1975, anh làm việc trong Sở Y Tế Sài Gòn. Sau khi
hai đứa vui vẻ mi tau chào hỏi nhau, và khi biết tôi chưa có việc
làm, anh dặn tôi ngày mai ghé đến tìm anh ở Sở Y Tế. Ngày hôm sau
tại phòng làm việc, anh thân ái đưa tôi giấy giới thiệu đến làm
việc tại BV Trưng Vương. Sự giúp đỡ vô vụ lợi và đúng lúc của anh
khiến tôi cảm thấy cái gì cũng có nguyên nhân, cái gì cũng có bàn
tay của Chúa an bài.
Sáu tháng làm việc ở BV Trưng Vương,
tôi được chỉ định làm việc trong một phòng Nội Thương có khoảng
30 giường bệnh, người trưởng khoa là một bác sĩ tốt nghiệp Hà
Nội, lùn tủn mà lại răng hô, nói lí nhí trong miệng có lẽ do
thiếu tự tin. Phòng Nội Thương thứ hai có trưởng phòng là một nữ
bác sĩ, nghe đâu tu nghiệp từ Tiệp Khắc, và bác sĩ Lê Vân Cương,
tốt nghiệp trước tôi vài năm từ YK Sài Gòn. Anh Cương là một con
người rất dễ mến, lưu loát và rất giỏi về chuyên môn, chiếm lấy
sự kính phục của đồng nghiệp và bệnh nhân. Bấy giờ tôi mới biết
thế nào là giao ban, thế nào là hội chẩn – mà đa số được xem như
một hình thức bán cái, phủi trách nhiệm cá nhân dựa trên ý kiến
của tập thể... Theo lệnh, tôi chuyển hộ khẩu của mình từ nhà vào
BV, nên mới hiểu thêm chế độ tiêu chuẩn, như 12 kí gạo và thỉnh
thoảng được chia thêm các thứ lặt vặt khác như đường, thịt, cá,
đồ tươi, bột ngọt, rau xanh... do các cô y tá lấy giùm, tôi khỏi
sắp hàng chờ chực. Trong cùng thời gian, vợ tôi đang mang thai,
và chúng tôi đang bàn tính vượt biên, nên tôi rất tránh né va
chạm, ngay cả khi nhìn cách ông bác sĩ trưởng phòng loay hoay
chữa bệnh và lúng túng trong sử dụng thuốc mới vì các dữ liệu kèm
theo toàn viết bằng tiếng ngoại quốc, do cơ quan y tế quốc tế
viện trợ; tôi chỉ chú trọng làm tốt, làm đúng khả năng chuyên môn
của mình đối với bệnh nhân.
Khi nhạc gia của tôi được thả về từ
trại tù ngoài Bắc vì sức khỏe quá yếu với nhiều chứng bệnh, tôi
đưa ông cụ vào nằm trong BV Trưng Vương gần hai tuần, vừa khám
tổng quát để chữa trị, vừa bồi dưỡng sức khỏe vừa tìm cho ông cụ
một chứng bệnh kinh niên khả dĩ giúp ông cụ tránh bị bắt đi kinh
tế mới. Thấy các cô y tá ào ào “tấn công”, nói chuyện vui vẻ với
tôi, ông cụ ái ngại cho con gái. Vui thật! Khi xuất viện tôi ký
cho ông cụ một giấy chứng nhận bị bệnh lao phổi với những căn
dặn: tiếp tục uống thuốc, tái khám hàng tháng, cấm lao động nặng,
bồi dưỡng...
Trong một lần từ Đà Nẵng vào Sài Gòn thăm, anh đầu Vĩnh Toàn gặp
tôi, rủ và chở tôi đến nhà người bạn của anh. Đây là lần đầu tiên
chúng tôi gặp nhau, kể từ tháng 10 năm 1974. Trong suốt thời gian
thằng tôi đi tù, anh không hề liên lạc. Có lẽ sự khác biệt chính
kiến kèm theo án tù cải tạo đã tách rời con đường chúng tôi đi và
làm tẻ lạnh tình máu mủ. Tôi không ngờ người anh đến thăm là linh
mục Phan Khắc Từ. Tại đó tôi cũng gặp luôn cả linh mục Nguyễn
Ngọc Lan và một người đàn bà được giới thiệu là vợ của cha Từ,
vốn là một bà sơ trước đây. Họ ăn nói cười giỡn lung tung, tôi
ngồi im lặng, trong lòng chán chường. Tôi vẫn tự hỏi: anh tôi
muốn gì khi đem tôi đến gặp các ông cha đó, vì với tôi, không
những họ có tội với Miền Nam khi họ núp bóng dưới áo dòng tu để
sách động quần chúng chống chính quyền và làm lợi cho CS, mà họ
còn làm cho giáo hội Công Giáo Việt Nam bị tai tiếng. Câu trả lời
duy nhất có thể thỏa mãn tôi là anh tránh né hay nghĩ không cần
phải có một lời giải thích riêng cho tôi về những việc anh từng
làm trong bóng tối để giúp MTGPMN, dù sau 1975 cái MTGPMN đã bị
xóa sổ!?? Anh em chúng tôi không hề đề cập về chính trị vì biết
nói ra chỉ làm thương tổn nhau thêm.
Măng tôi có một người chị kế đi tập kết
1954, nay từ Hà Nội quay về sinh sống tại Sài Gòn với người con
trai, vốn từng được nuôi dưỡng chung với anh em chúng tôi dưới
một mái nhà. Sau khi học hết lớp Đệ Tứ, với tính tình ngang
bướng, anh bỏ học, tự động tình nguyện gia nhập Không Quân VNCH,
phiêu bạt giang hồ với cuộc sống biệt lập từ đó. Hai mẹ con đến
nhà Măng tôi mấy lần, không phải để nối lại tình chị em mấy chục
năm xa cách, mà để bắt lỗi Măng tôi, vì sao sáu đứa con Măng tôi
được nuôi ăn học đàng hoàng trong khi đó con trai bà ở trong cùng
nhà lại không được học đến nơi đến chốn mà phải đi lính... Có lẽ
họ nghĩ Măng tôi có tiền của, như bao nhiêu gia đình Miền Nam
khác, nên muốn kiếm chuyện gây khó dễ, mà chẳng hề biết Măng tôi
từng mắc nợ cả mấy trăm ngàn đồng mới nuôi nổi các anh chị lớn
trong nhà đi học xa. Nếu người anh họ tôi chăm chỉ đeo đuổi việc
học, Măng tôi cũng lo cho anh đến nơi đến chốn như lo cho các con
mình. Thôi thì cũng đến lúc tình chị em đành phải chấm dứt!
Mấy ngày trước khi vượt biên trong
tháng 7, 1978, tôi bị sốt cao, có triệu chứng của Sốt Xuất Huyết
với những chấm đỏ xuất huyết dưới da và ói mửa. Đang nằm chữa trị
tại BV Trưng Vương, tôi xin xuất viện sớm, tiếp tục tĩnh dưỡng
tại nhà. Chẳng qua là ngày vượt biên đang kề cận. Cùng ra đi với
tôi, có vợ tôi đang mang thai hơn tám tháng và cô em gái. Nhạc
gia tôi muốn khuyên can vì không những lo ngại con gái bào thai
quá lớn có thể nguy hiểm trên biển, mà cũng vì thấy tôi đang còn
đau ốm mặt mày xám xịt, là điềm không tốt. Nhưng tôi cứng đầu vẫn
quyết chí ra đi.
Khi nhìn chiếc thuyền, nhỏ như loại
thuyền tôi từng thấy trên sông Hương của Huế dạo nào, nằm chờ gần
cầu Chữ Y với cả 20 người, tôi thật sự bối rối và hoảng sợ. Nhưng
anh tổ chức, là bà con của một bạn quen thân của tôi, vẫn thuyết
phục được tôi bằng cách cho tôi thấy nhiều thân nhân của anh đang
ở trên thuyền, kể cả ngay cả sau khi chú tài công không nổ máy
tàu được. Thế lại phải kêu thợ đến sửa bloc máy. Theo lời kêu
gọi, tôi còn cởi cái nhẫn cưới (điều làm Nàng cảm thấy phi lý và
bất bình) trả cho thợ vì không ai trên chuyến đi chịu đóng góp,
ngay cả anh tổ chức và chú tài công. Khi thuyền ra đến gần Cần
Giờ, bỗng có 3–4 chiếc thuyền nhỏ cặp sát thuyền chúng tôi, đổ
thêm cả mấy chục người nữa. Anh tổ chức cũng chưng hửng, chỉ biết
người tài công muốn kiếm thêm tiền. Mạn thuyền lặc lè sát mặt
nước, thuyền chạy chậm thấy rõ. Ra đến biển khoảng chừng hai ba
cây số, hai chiếc thuyền công an rượt theo, bắn chỉ thiên, rồi
bắn mấy quả M79, nổ cách thuyền khoảng 30 thước. Thấy quá nguy
hiểm và khó chạy thoát, thuyền đành ngừng và bị kéo vào bờ. Mọi
người đều bị lục soát, rồi đưa về trại giam Cần Giờ.
Hai ngày sau, vợ tôi được thả cho về
cùng với cô em gái, sau khi nàng giả lên cơn đau chuyển dạ. Một
tuần sau đến phiên tôi cùng nhóm vượt biên bị giải lên nhốt vào
khám Chí Hòa. Trước đây, tôi từng leo lên nóc nhà mình ở EE 10
trong cư xá Bắc Hải vài lần, nhìn thấy khám Chí Hòa đồ sộ màu
vàng, có tám góc với tám khu nhà. Tôi thầm tự hỏi có khi nào mình
vào trong đó!? Vậy mà nay tôi ở đây, trong một phòng giam vuông
vức, khoảng 10 mét ngang x 10 mét dọc, với chừng trên 40 tù nhân,
hình sự lẫn chính trị. Mấy ngày đầu tiên, toán tù mới chúng tôi
được anh tù trưởng phòng chỉ định chia nhau nằm ở cuối góc phòng,
gần hố xí, dần dần được nhích xa hố xí khi có tù mới nhập vào
phòng. Có những ngày số tù trong phòng lên đến bảy tám chục
người, không khí nóng và ngột ngạt, hầu như không có đủ chỗ để
đứng, ngồi, nằm và thở. Ban đêm, chúng tôi không những phải xen
kẽ nằm ngược chiều nhau, mà còn phải cùng xoay người nằm ép
nghiêng qua một phía khi anh tù trưởng phòng vỗ tay hai cái, rồi
hai giờ sau lại cùng xoay nghiêng qua phía bên kia. Y như hình
ảnh những con cá mòi trong hộp Sumaco!
Mỗi sáng và mỗi chiều, anh công an
trưởng phòng mở cửa, bước vào điểm danh, đứng trước lằn vạch sơn
màu trắng ở nền xi măng, rộng chừng bàn tay, dọc theo chiều ngang
của phòng. Lũ tù được lệnh sắp hàng đứng sau lằn ranh đó, rồi đếm
số. Mỗi lần như thế, tôi cúi nhìn màu trắng, nao nao nghiệm màu
trắng như dấu hiệu của yếu đuối và đầu hàng, đồng thời tôi cũng
cảm nhận màu trắng ấy cũng là màu tinh khiết của tình yêu vợ
chồng chúng tôi hiện đang bị cách ngăn bởi nghịch cảnh.
Được vài ngày, anh tù trưởng phòng và
nhóm anh chị thân cận của anh biết tôi vốn là một bác sĩ Nhảy Dù
nên họ đặc biệt đối xử tử tế, cách riêng với tôi. Chỗ ngủ của tôi
được dời ngay dưới cửa sổ, thoáng mát hơn nhiều. Họ còn “biệt
phái” một bạn tù trẻ lo tẩm quất cho tôi. Tôi giữ ý tránh tẩm
quất nhiều, một phần vì không muốn mình bị xem cùng phe với nhóm
anh chị trong phòng, mặt khác vì anh bạn trẻ đấm bóp có nhiều ghẻ
lở trên thân thể, tay chân và cả mặt. Tôi may mắn không bị lây
bệnh truyền nhiễm ngoài da này, dù chỉ được cho tắm và giặt áo
quần một lần một tuần.
Nằm, ngồi suốt ngày trong một phòng
đóng kín, đầy chật người, không được cho ra ngoài lao động hóng
ánh sáng mặt trời, chỉ nhìn được một khoảng trời qua cái cửa sổ
nhỏ chút có lưới chắn, đau đớn, dằn vặt, không biết chuyện thai
nghén vợ ra sao? Nàng sinh chưa? Tốt đẹp? Trai hay gái? Khi nào
mình được trả tự do lần này? Trong phòng lại không có người gốc
quân đội hay có trình độ cho tôi tìm đến nói chuyện, ngược lại đa
số là dân anh chị giang hồ với đủ thứ tội hình sự, nên tôi co
lại, trở nên chán nản, trầm cảm. Trong một thoáng nhớ tôi từng
đọc kinh khi tù cải tạo, nên tôi lại cầu nguyện. Tôi thầm cảm tạ
Chúa cho gia đình tôi tránh được nguy hiểm vì bị bắt giữ trước
khi con thuyền mong manh vượt xa ra ngoài khơi, cho dù, để bù
lại, tôi phải trả giá bằng ở tù. Ngoài ra, tôi chịu khó đi lui đi
tới cả trăm lần mỗi ngày, vừa đi vừa thầm đọc kinh trong miệng.
Nhờ vậy mà tôi lấy lại phần nào bình an cho mình và tinh thần dần
dần trở nên vững mạnh lại.
Để tránh khỏi suy nghĩ vẩn vơ, để giết
thì giờ và đồng thời giải khuây cho mình và cho các bạn tù, tôi
kể các chuyện Tàu, những đoạn hay trong bộ Nhạc Phi, Thủy Hử,
Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí... chuyện đường rừng, chuyện
ma, truyện kiếm hiệp Kim Dung, chuyện trong Tự Lực Văn Đoàn,
những chuyện nhẹ nhàng của các tác giả ngoại quốc... Nhờ đó, tôi
gây được một bầu không khí lành mạnh, sống động và thiện cảm cho
cả phòng. Thường vào khoảng 9 giờ sáng, và 3 giờ chiều, các bạn
tù bắt đầu ngồi tụ tập gần tôi, yêu cầu tôi kể chuyện. Vui với
nhau, cười nhỏ với nhau nhưng ai cũng biết không dám vỗ tay vì sợ
công an phòng vào truy hỏi.
Chế độ ăn uống trong nhà tù Chí Hòa nói
chung thua kém một vài phần so với trại tù cải tạo. Ít rau trái
tươi, ít chất xanh hơn vì không có chuyện lao động bên ngoài
trồng trọt để cải thiện thêm. Đến giờ ăn trưa hay chiều, có mấy
tội phạm gánh thùng cơm, thùng canh và thau cá để ngay trước cửa
phòng, anh công an mở khóa để tù trong phòng ra lấy đem vào chia
nhau ăn. Cá nhỏ cá lớn kho chung, rất tanh hôi vì đa số cá bị
ươn; canh rau xanh rửa không sạch nên thường có cát sạn, sâu bọ,
ốc sên, gián, trùn... nằm trong nước. Thôi thì cứ nhắm mắt ăn đại
cho xong bữa vì nghĩ cái gì có protein cũng tốt thôi! Vậy mà tôi
chưa bao giờ bị tiêu chảy.
Chừng ba bốn tháng trong tù, tôi quá
nhớ vợ, thương cảnh vợ sinh con đầu lòng mà không có chồng bên
cạnh. Qua vài ngày đắn đo suy nghĩ, tôi đánh liều xin gặp mặt làm
việc với thiếu úy Thuận, công an trưởng phòng tù. Anh ta chấp
nhận, có thể nghĩ là tôi muốn gặp riêng để bí mật báo cáo chuyện
gì trong phòng?! Ngồi ở bàn nhỏ ngay gần trước phòng tù, tôi mở
lời, nói một mạch “Vợ tôi có bầu gần sinh lúc tôi vượt biên. Hơn
cả bốn tháng qua, tôi không nhận tin tức nào về chuyện sinh đẻ
của vợ, tốt xấu như thế nào? Con tôi là trai hay gái?! Nay tôi
xin thiếu úy thông cảm, giúp đem cái thư tôi sẽ viết tay về nhà
mẹ tôi ở gần đây, ngay trong cư xá Bắc Hải, rồi thiếu úy mang lại
cho tôi thư trả lời của gia đình tôi, cùng với giỏ đồ ăn. Trong
thư, tôi viết gia đình tôi sẽ bồi đáp 100 đồng để cám ơn thiếu
úy. Nếu thiếu úy cho việc tôi nhờ thiếu úy giúp đỡ là sai, xin
thiếu úy cứ phạt kỷ luật tôi, tôi chẳng dám than phiền. Còn không
thì tôi cám ơn thiếu úy vô cùng...” Tôi nhớ lương tháng của mình
thời làm việc ở BV Trưng Vương là 55 đồng. Sau một vài phút im
lặng, anh công an đứng dậy, và không một lời đưa tôi trở lại
phòng. Một vài bạn tù có ánh mắt thắc mắc nhưng tôi tỉnh bơ, làm
như không biết.
Tôi có nhiều hy vọng thiếu úy Thuận sẽ
giúp tôi. Nghiệm lại, nếu anh ta không
bằng lòng thì anh ta đã tỏ
thái độ giận dữ, la hét, còng tay tôi tại chỗ, nhốt tôi vào phòng
tối. Nhưng không, anh ta giữ im lặng. Hai ngày sau, thiếu úy
Thuận mở cửa phòng, kêu tôi ra làm việc. Lần này, chúng tôi bước
đến cuối hành lang của dãy lầu, nơi có kê một cái bàn lớn với 4
cái ghế. Anh ra dấu cho tôi ngồi xuống ghế, đưa tôi xấp giấy và
cây bút, bảo tôi viết thư, trong khi anh ta đứng xa ra, nhìn trời
đất, châm điếu thuốc. Sau khi tôi viết xong, anh ta đọc lá thư
trước khi đưa tôi về lại phòng. Qua ngày hôm sau, trong lúc các
tù nhân sắp hàng xuống lầu đi tắm, anh thiếu úy Thuận đến gần
tôi, kín đáo cho biết anh đã đem thư tôi đến nhà rồi và 2 ngày
nữa anh sẽ đến lấy thư và giỏ đồ ăn đem vào cho tôi.
Lại đúng hai ngày sau, anh công an
Thuận kêu tôi ra và trao cho tôi giỏ đồ ăn khá lớn. Tôi xách giỏ
vào phòng dưới ánh mắt vô cùng ngạc nhiên của mọi người. Lẳng
lặng về chỗ của mình, tôi run run mở thư vợ ra đọc, ứa nước mắt
nhìn tấm hình mẹ bồng khoe con gái trên tay, với hàng chữ phía
sau “gởi anh yêu tấm hình mẹ con em chụp ngày con gái chúng mình
rửa tội”. Tôi xúc động nhìn khuôn mặt đoan trang với ánh mắt buồn
sâu của em và con gái mình xinh đẹp, bụ bẫm, bình yên với nụ cười
cho cha. Thư vợ không dài nhưng đủ cho tôi biết chút tin tức của
hai gia đình bên tôi và bên nàng, ngày và tháng sinh cùng tên của
con gái... Tôi úp lá thư lên mặt, như thể muốn hít hương thơm của
vợ mình vào tận sâu trong lòng. Sau đó, tôi đem chia những món ăn
liền cho các bạn tù, đủ mỗi người một miếng nhỏ, để chung vui với
tôi nhận tin vợ con, và dành cho mình các đồ ăn khô cất lâu được.
Những bạn tù ở lâu cho tôi biết chưa bao giờ họ thấy công an
phòng đem thức ăn gia đình đưa tận tay cho tội phạm. Tuy nhiên họ
cho biết tù được thăm nuôi mỗi sáu tháng một lần.
Mấy ngày sau, vài bạn tù tìm đến nhờ
tôi chỉ dẫn cách thức. Tôi thành thật nói sự thật. Vậy là sau
tôi, có thêm 2 bạn tù khác cũng được ra làm việc riêng với thiếu
úy Thuận, rồi cũng được nhận thức ăn của nhà gởi vào. Tôi không
biết có nên “hãnh diện” nghĩ mình có thể là người đầu tiên sử
dụng đồng tiền, đúng lúc đúng thời, để làm lung lạc người cai tù.
Từng là tù cải tạo, tôi không mấy ngạc nhiên khi thấy cứ khoảng 2
tháng, có chuyện chuyển tù từ phòng này qua phòng nọ, với đa số
là tù chính trị. Cái lạ là tôi vẫn “dậm chân tại chỗ” không dời
đâu cả. Trong một lần chuyển vào phòng của tôi, có một người tù
rất cao nhưng rất ốm, đeo kính trắng, dáng người thanh nhã. Hỏi
ra mới biết đó là linh mục Nguyễn Văn Vàng thuộc dòng Chúa Cứu
Thế. Thế là tình cảm giữa cha và con chiên từ từ gắn bó. Nhờ cha
mà tôi nhận bánh thánh, dưới hình thức hột cơm, từ tay cha kín
đáo trao cho tôi hầu như mỗi ngày. Trong một lần tâm sự, cha cho
tôi biết cha nhìn thấy rất nhiều văn nghệ sĩ Miền Nam bị giam cầm
tại Chí Hòa, và cha từng bị công an cùm vào xà lim mấy lần. Cha
cho biết cha cũng từng bị một tù phạm giữ chức trưởng phòng theo
dõi cha sát nút, báo cáo từng hành động nhỏ của cha. Và người
antenne đó không mấy xa lạ. Ngược lại, anh ta rất nổi tiếng trong
giới văn nghệ sĩ và dân làm báo, từng viết nhiều truyện về cao
bồi du đãng của Sài Gòn và bốc thơm những nhân vật giang hồ, nhất
là đề cao sự trung tín trong giới anh chị này. Nhưng vào tù, hành
động hèn hạ của anh ta hoàn toàn đi ngược với hình ảnh anh hùng
của các nhân vật trong truyện. Lâu về sau, tôi nghe tin linh mục
Vàng đã chết trong một trại tù tại vùng rừng núi hiểm trở ngoài
Miền Trung.
Sau lần đầu tiên nhận quà của gia đình, tôi lại nhờ anh công an
Thuận làm thêm một lần nữa. Tuy nhiên lần thứ hai này, tôi mặc cả
được số tiền bồi đáp xuống còn 50 đồng thôi!? Có thể anh có những
mối khác từ những phòng kề cận hay quá cần tiền bao gái?! Sau lần
thăm nuôi đầu tiên cũng là duy nhất vào khoảng tháng 2, năm 1979,
là dịp vợ tôi đem theo con gái, đưa con gái lên thẳng quá đầu
mình cho tôi được nhìn thấy con. Vào một ngày tháng 3, 1979, tôi
được thả ra khỏi Chí Hòa. Cầm trong tay giấy “Lệnh Thả” tôi tự
hỏi “Rồi sao nữa”. Con xin tạ ơn Chúa tiếp tục cứu vớt và dìu dắt
đời con.
Không có bút
mực nào diễn tả cho hết sự vui mừng khi vào nhà bất thình lình,
tôi ôm con gái vào trong lòng trong lúc mẹ đi làm chưa về. Hình
như con biết đó là cha nên không khóc, chỉ ư e thật dễ thương.
Rồi em về nhà, tôi nhảy ra ôm chặt em cùng với con gái trong tay,
nước mắt sum họp chan hòa hạnh phúc. Con gái được bà Nội đặt tên
trong nhà là Bồ Câu, mang ý nghĩa hòa bình trên đất nước. Tên
trong giấy khai sinh là Hoài Anh. Vợ nhớ chồng không nguôi.
Trong thời gian ở nhà, tôi hạnh phúc
tập làm cha, dành phần cho con bú bình khi mẹ đi làm, pha sữa,
rửa sạch bình sữa, thay tã, thay áo quần, ẵm con, ru con ngủ,
chơi với con... Vui quá đi chứ! Đi đâu bây giờ luôn có cả ba, vợ
và con gái ngồi sau lưng chồng trên chiếc xe đạp. Từ nhà bà Nội
ra đến nhà ông bà Ngoại, Bồ Câu được thương yêu đầy đủ, nhất là
được các dì cậu dành nhau bồng ẵm. Tôi cũng được biết khi tôi nằm
tù, bạn Hoàng Ngọc Vinh của tôi bị cướp mất chiếc xe đạp khi đến
thăm vợ tôi sau khi sinh. Nhóm bạn thân của tôi đang rục rịch
kiếm đường đi.
Như lần trước, bạn Dương Đình Công và
tôi lại gặp nhau bất ngờ ngoài đường phố. Bạn hỏi tôi được thả về
lâu mau, lời khai của tôi lúc bị bắt như thế nào. Tôi trả lời tôi
khai vượt biên vì kinh tế, lương 55 đồng mỗi tháng không đủ nuôi
vợ con. Bạn Công nói, “Mi chờ ở nhà, tau sẽ cho người đem tới cho
mi giấy đi làm”. Hai ngày sau, có người thừa phái đạp xe đến nhà
tôi đưa cho tôi giấy của Sở Y Tế thành phố giới thiệu tôi đến
nhận việc tại BV Sùng Chính. Tôi chỉ biết cám ơn tình bạn giúp
tôi một lần nữa vượt qua một giai đoạn khó khăn. Và tôi không
quên cám ơn Chúa tiếp tục nâng đỡ tôi trong cơn bão dữ.
Ngày 5 tháng 4, tôi đến BV. Sùng Chính
trình giấy giới thiệu. Ban giám đốc đưa tôi làm việc trong Khu
Nội Thương #2, phụ tá cho BS. Bùi Xuân Nhiếp, trưởng phòng. BS.
Nhiếp thuộc loại đàn anh, cùng lứa với anh đầu của tôi tại YK Sài
Gòn, tính tình rất hiền hòa. Hai anh em chúng tôi chia nhau việc
làm thật hòa hợp và chu đáo. Khu Nội Thương #2 có 2 bác sĩ đàn
anh của tôi tại YK Huế, là BS. Đặng Ngọc Hồ và BS. Phạm Kỳ Nam.
Hai bác sĩ này có vẻ rất ăn jơ với ban giám đốc, vì tôi thường
thấy họ hay đi ăn trưa bên ngoài với anh Ba giám đốc, anh Tư
trưởng ban tổ chức, anh Năm phó giám đốc... Hầu như đa số bệnh
nhân khu Nội Thương #2 là người Việt gốc Tàu, có vẻ vẫn giàu có
hơn bệnh nhân người Việt rất nhiều. Có lần tôi cũng nhìn thấy ca
sĩ Phương Hồng Quế đến tìm thăm BS. Phạm Kỳ Nam. Ông cụ của BS.
Nam là Cụ Chánh Nhất tại tòa án thượng thẩm Huế, bị tù cải tạo và
chết ngoài Bắc, trong một trại tù với nhạc gia của tôi.
Ngoài ra, tôi còn thấy khá nhiều bác sĩ
trong BV Sùng Chính là những người tôi từng biết, quen ngoài đời
hay trong tù cải tạo. Như BS Đinh Xuân Dũng, YK Sài Gòn, trưởng
khu giải phẫu, BS Liên, YK Sài Gòn, khu bệnh nhiễm, cùng lứa
trưng tập với tôi; BS Võ Văn Cầu, đàn anh của tôi từ YK Huế,
trưởng khu Sản Phụ Khoa...
Tình trạng kinh tế xã hội tại Sài Gòn
có vẻ thảm thương hơn nhiều so với năm trước khi tôi vào tù Chí
Hòa. Ở đâu cũng thấy người bán đủ thứ nhiều hơn người mua. Chế độ
thuốc men tại bệnh viện khan hiếm, buộc lòng bác sĩ chữa trị phải
ký toa thuốc cho thân nhân mua thuốc ngoài chợ trời đem vào BV
chữa trị cho người nhà của mình. Chụp hình quang tuyến phải xin
phép ban lãnh đạo. Tại Sùng Chính, tôi được trả lương 65 đồng,
tăng 10 đồng so với năm trước tại BV Trưng Vương. Không hiểu sự
tăng lương cho bác sĩ có phải là một trong những cố gắng chính
quyền thành phố thực hiện nhằm giữ chân các thành phần khoa học
kỹ thuật vẫn đang lũ lượt liều mạng trốn bỏ khỏi nước?! Chuyện
giao ban, hội chẩn, hộ khẩu, trực gác... không khác, “vũ như
cẩn”. Trong một buổi trưa đạp xe về nhà ăn cơm trưa, một chiếc xe
honda chạy xẹt gần tôi, có bàn tay đập vào vai tôi, rồi xe chạy
vút vượt qua mặt tôi, thằng nhỏ ngồi sau ngoái lui nhìn tôi cười.
Tôi chẳng biết chuyện gì xảy ra. Chỉ một hai phút sau đó, tôi mới
chưng hửng nhận biết chiếc đồng hồ Omega nhạc gia tôi mới tặng
cho tôi sau khi tôi nhận việc làm tại Sùng Chính, đã bay mất khỏi
cổ tay bên trái mình hồi nào tôi chẳng biết?! Thật là quái đản.
Về nhà, vợ tôi chỉ an ủi với câu “của đi thay người đó”.
Đúng vậy, vài tháng trước thời hạn thẻ
công nhân viên BV Sùng Chính đáo hạn vào ngày 31/12/79, vợ chồng
chúng tôi làm chuyến vượt biên lần thứ hai, qua ngã Rạch Giá vào
tháng 9, 1979. Lần này ngoài vợ chồng chúng tôi và con gái Bồ Câu
trên một tuổi, còn có một em gái và một em trai của vợ. Cùng trên
chuyến tàu vượt biên, tôi nhìn ra nhiều người quen biết, như vợ
chồng BS Võ Văn Cầu, vợ chồng gia đình BS Trần Tiễn Ngạc, bạn
thân cùng khóa với tôi tại YKH, chị vợ BS Tạ Quang Hát và các
con... Tàu chúng tôi đến được Thái Lan an toàn, dù mất một người
bị chết đuối và bị tàu hải tặc đuổi theo nhưng mất dấu trong đêm.
Chuyện may mắn không dừng ngang đó. Sau một tháng ở trại tỵ nạn
Lêm Ngọp, bỗng nhiên một tàu vượt biên chui thẳng vào ngay đúng
bờ biển của trại. Trong những người bước xuống tàu có hai em trai
của vợ tôi, và BS. Tạ Quang Hát cũng đoàn tụ với vợ và con. Gia
đình chúng tôi, gồm có vợ chồng chúng tôi và con gái, một em gái
vợ và 3 em trai vợ, ghép cả 7 người vào chung một hồ sơ, lần lượt
được chuyển qua trại tỵ nạn Bataan, Phi Luật Tân, rồi từ đó định
cư tại Mỹ. Chúng tôi đáp xuống phi trường San Francisco vào ngày
24 tháng 7, 1980. Một ngày huy hoàng khó quên, linh thiêng như có
một sự sắp xếp của định mệnh. Đó đúng là ngày kỵ giỗ của ba tôi.
Một tương lai tươi sáng đang chào đón.
Một chân trời mở rộng ra trước mắt. Cảm tạ Chúa về những ân sủng
Ngài đã ban cho chúng con.
Tháng Tư, 2022
Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ BS Vĩnh Chánh chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, June 2, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang