Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
thuyền nhân (boat people)
Tác giả:
MĐ BS Trang Châu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hậu
quả của ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cả triệu người Việt bỏ nước
ra đi, tạo nên thảm trạng thuyền nhân kéo dài hơn 15 năm. Hàng
trăm ngàn người đã vùi thây dưới đáy biển trên bước đường tìm tự
do. Thảm cảnh chìm ghe cùng nạn hải tặc đã đánh động lương tâm
thế giới. Hai con tàu ân nhân:
Cap Annamur của Đức và
Ile de
Lumiere của hội Médecins du Monde của Pháp xuất hiện hàng năm ở
biển Đông tìm vớt những người vượt biên.
Đầu năm 1988 một phái đoàn của hội
Médecins du Monde của Pháp sang Montréal. Tôi nhớ hội Y Sĩ Việt
Nam tại Canada có tổ chức một buổi tiệc tiếp đón họ. Trong phần
thuyết trình, ông bác sĩ trưởng phái đoàn ngỏ ý mong muốn mỗi
chuyến tàu của hội, khi đến vùng biển Đông vớt “boat people”, thì
trên tàu lúc nào cũng có mặt một bác sĩ Việt Nam cạnh một bác sĩ
Pháp. Và sau đó hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada kêu gọi các đồng
nghiệp ghi danh tình nguyện tham gia. Có 5 người ghi tên tình
nguyện. Người đứng hàng thứ 5 là tôi. Hôm đó tôi chần chừ một
chút vì thấy người không được khoẻ với cái tuổi vừa chẵn 50 của
mình.
Chương
trình ra khơi vớt người vượt biên hàng năm của hội Y Sĩ Thế Giới
bắt đầu từ đầu tháng 4 và kết thúc vào cuối tháng 7. Thời gian
này vùng biển Đông thời tiết tốt cho nên số người vượt biên rất
đông. Chiếc tàu được đưa ra khơi năm 1988 là một chiếc tàu chở
hàng nhỏ, chở tối đa 500 người, được một ông tỷ phú người Pháp ở
Cannes tài trợ.
Đầu tháng 4 năm 1988, trong chuyến ra
khơi đầu tiên, bác sĩ Việt trên tàu là là Bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ
đi từ Cali. Sau 2 tuần trên biển, tàu không vớt được ghe vượt
biên nào, ông bác sĩ người Pháp trên tàu chịu không nổi bỏ cuộc,
đòi được thay thế sớm. Khi nhận lời tham gia, tình nguyện viên
phải hứa đi 4 tuần. Phía người Pháp đã có bác sĩ chờ đợi thay
thế. Điện tới tấp gọi về Montréal cử người ra thay bác sĩ Kỳ để
tàu tiếp tục đợt 2. Cả 4 tình nguyện viên trước tôi đều từ chối,
vì quá bất ngờ, không kịp chuẩn bị. Còn một mình tôi. Và tôi nhận
lời thế bác sĩ Kỳ.
Nhận lời hôm thứ tư, trưa thứ năm tôi
đã ngồi trên máy bay, từ Montréal liên tục bay qua các phi trường
Toronto, San Francisco, Honolulu, Manille để đến Puerto Princesa,
thuộc đảo Palawan của Phi Luật Tân. Sau 3 ngày chờ đợi ở khách
sạn, tôi lên tàu Mary’s Kingstown, rời hải cảng Puerto Princesa,
trực chỉ biển Đông. Cũng 2 tuần trôi qua, tàu không gặp chiếc ghe
vượt biển nào. Tôi chỉ bị một trận say sóng nhưng không mất tinh
thần, trong khi tay nhiếp ảnh trẻ người Pháp thì suy sụp tinh
thần nặng, nằm lì không ăn không nói, vì anh chưa chụp được tấm
ảnh nào của “boat people” để mang về cho sở của anh.
Thuyền trưởng cho biết radar của tàu bị
hư nên phải ghé Tân Gia Ba để sửa chữa. Sau 2 ngày nằm ở Tân Gia
Ba, một hôm điều hợp viên chương trình người Pháp, tên Laurent,
gặp tôi và cho biết Paris đã quyết định ra khơi lại lần này, nếu
trong tháng 5 mà tàu không vớt được ai, thì sẽ chạy tiếp cho hết
tháng 6 rồi chấm dứt chương trình luôn. Vậy tôi phải quyết định,
nếu tiếp tục thì phải chấp nhận, nếu cần, đi cho đến hết tháng 6,
bằng không Laurent sẽ xin người thay thế tôi và lo việc lấy vé
máy bay cho tôi về lại Montréal. Sau một đêm trằn trọc, sáng hôm
sau tôi cho Laurent hay tôi sẽ tiếp tục.
Tàu rời Tân Gia Ba sau một tuần sửa
chữa. Có lẽ trời không phụ lòng thành của tôi, trong 2 tuần tiếp
theo tàu đã gặp 5 ghe vượt biên, tổng cộng vớt được 327 thuyền
nhân. Vớt chiếc ghe đầu tiên tôi gặp một người quen, một đồng
nghiệp đàn anh của tôi, bác sĩ Phùng Văn Hạnh.
Bác sĩ Hạnh sau này định cư ở Montréal
và đã từng là Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Vùng Montréal. Ghe
vượt biển thứ hai là một chiếc thuyền buồm chở 81 người đang bị
một tàu công an biên phòng rượt đuổi.
Tàu Mary chỉ tới chậm vài phút là những
thuyền nhân này đã lọt vào tay tàu công an biên phòng.
Tàu Mary trương cờ Pháp, chạy tới
trước. Kết quả tàu Mary vớt được 81 thuyền nhân, tàu công an tịch
thu được chiếc thuyền buồm. Ghe vượt biển thứ năm được vớt trong
một trường hợp hi hữu. Trong đêm tối, tài công của ghe này thấy
bóng của tàu Mary từ xa đang tiến tới, tưởng là tàu VC nên xả hết
tốc lực mong chạy thoát. Không ngờ bị cháy máy tàu, đành nằm im
chờ bị bắt. Khi tàu Mary lại gần, rọi đền pha, tôi cầm loa lớn
tiếng hỏi:
“Có
phải ghe vượt biên không?”.
Có tiếng ngập ngừng trả lời: “Không
phải ghe... vượt biển.”
Tôi nói tiếp: “Đây là
tàu Pháp đi cứu người vượt biên. Nếu đúng là ghe vượt biên, xin
xác nhận, tàu chúng tôi sẽ vớt”.
Sau câu nói của tôi, 75 người núp dưới mui ghe lần lượt chui ra.
Và tiếp đó là tiếng vỗ tay, tiếng reo hò.
Tàu Mary được lệnh đưa các các thuyền
nhân về trại Puerto Princesa. Như vậy coi như chấm dứt cuộc hành
trình của tôi. Đêm họp mặt chia tay, đại diện 5 ghe vượt biển đọc
diễn văn cảm tạ, là cựu Trung úy Trương Quang Tá. Tôi dịch từng
đoạn ra Pháp văn. Tôi còn nhớ một đoạn lời của Trung úy Tá:
“Tàu Mary đã đưa chúng tôi từ cõi chết
về với cuộc sống, từ những con người bị tước đoạt hết mọi quyền
tự do cá nhân căn bản, để trở thành những con người có nhân
quyền, sống trong một xã hội trong đó giá trị con người được tôn
trọng. Chúng tôi nghĩ là chúng tôi đang mơ vì những giấc mơ được
tàu cứu vớt thường chợt biến, chợt hiện trong những đêm thao thức
trắng mắt của chúng tôi...”.
Tôi vui vì chuyến đi thành công.
Ba–lô tôi nặng thêm một chút vì những
chồng thư cám ơn của các thuyền nhân. Tôi nhớ Nhạc sĩ Mạnh Cường,
sáng tác nhạc phẩm rất hay “Con tàu ân nhân” ngay trên tàu Mary.
Cô Kim Dung, người bị xỉu tôi phải cho truyền dung dịch, là một
nhà thơ. Cô làm 3 bài thơ sau khi được tàu Mary vớt. Bài thơ thứ
nhất:
Cảm xúc
khi bước lên tàu Mary:
Bước lên tàu cứu vớt
Ta đã thấy vững tin
Niềm mong ta đã được
Nhẹ bớt nỗi lắng lo
Tàu của người đi
trước
Tiếp rước người đi sau
Thêm thắm nghĩa đồng bào
Vô vàn lòng
nhân ái
Mong ngày mai trở lại
Đất nước ta Việt Nam
Cùng nhau lo xây
đắp
Tự do cho quê hương.
Bài thơ thứ hai:
Niềm vui khi gặp cờ vàng:
Trên đường tìm tự do
Ta gặp lại cờ vàng
Cờ quê hương muôn
thưở
Nghe lòng dâng thân thương
Cờ của ta vàng mãi
Dù bao năm tha hương
Lòng ta càng mong muốn
Cờ về với quê
hương
Để dân ta thoát khổ
Được sống trong tự do
Để dân ta mãi mãi
Được áo ấm cơm no.
Bài thơ thứ ba riêng tặng tôi, tôi
không chép ra đây vì cảm thấy mình không xứng đáng với những lời
khen tặng trong bài thơ. Trong cuốn bút ký Về Biển Đông do Tổ Hợp
Xuất Bản Miền Đông ở Hoa Kỳ ấn hành năm 1995 tôi có viết, rất
chân tình: “Hỡi những thuyền nhân, hỡi những đồng bào thương mến
của tôi ơi! Xin đừng cám ơn tôi về những gì tôi đã làm mà hãy để
tôi cám ơn quý vị đã cho tôi được sống những giây phút trong cuộc
đời mà tôi ao ước sống”.
Trước khi chia tay, tôi đưa lá cờ quốc
gia, mà ông Chủ Tịch Cộng Đồng Montréal trao để tôi mang theo,
cho tất cả thuyền nhân ký tên vào đó.
Lúc về Montréal tôi đã trao lại lá cờ
cùng một số hình ảnh cho Cộng Đồng Montréal. Không biết giờ đây
lá cờ đó cùng số hình ảnh ai giữ?
Thấm thoát thế mà đã 33 năm trôi qua kể
từ chuyến đi của tôi. Chuyện hàng trăm ngàn người liều chết để đi
tìm sự sống nay đã trở thành quá khứ. Có người đã quên, có người
muốn quên nhưng có rất nhiều người không bao giờ quên. Không quên
để canh cánh đợi một ngày về, ngày về sống ở một đất nước mà mình
không bao giờ nghĩ đến chuyện phải ra đi.
Trang Châu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trịnh Tường Vân chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, January 3, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang