Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân & Kỷ niệm
Tác giả:
BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Người Việt chúng mình hình như
có cơ hội ăn “thiệt” và tiệc tùng trong năm nhiều hơn dân bản xứ,
vì ngoài các ngày lễ bình thường, mà quan trọng nhất là các lễ
Quốc Khánh, Tạ Ơn, Giáng Sinh, Tết Dương Lịch, còn có Tết Âm Lịch
– bây giờ xin sửa lại như sau: Tháng 12 là tháng ăn chơi, Tháng
Giêng cũng lại chơi với ăn đều đều - đó là chưa kể đến các ngày
lễ không kém phần quan trọng cho cộng đồng người Việt tỵ nạn như
ngày lễ Phật Đản, kỷ niệm Mất Nước 30 tháng 4, ngày Quân Lực
VNCH... cùng các ngày kỵ giỗ của từng gia đình, đại gia đình, và
các đại hội của từng quân binh chủng, từng hội đoàn, từng hội
thân hữu...
Tôi có cảm giác như càng xa xứ lâu năm chúng
ta càng cảm thấy ơ thờ dần khi Tết đến. Có thể vì do công ăn việc
làm, vì không gần với cộng đồng người Việt như trong suốt gần hai
mươi năm của gia đình chúng tôi khi còn ở một thị xã nhỏ của TB
Louisiana, vì những chộn rộn của Christmas và New Year vẫn còn dư
âm... Hay là vì tinh thần Tết không còn sâu đậm. không còn mang
nhiều hứng thú như trong quá khứ, Hay chẳng qua cứ ù lỳ ra vì...
thấy mình bỗng dưng già thêm một tuổi khi vừa qua năm Dương Lịch,
nay chỉ một hai tháng sau, lại bị cộng thêm một tuổi... vì Tết Âm
Lịch.
Nhìn về những cái Tết lúc xưa khi còn ở quê nhà, tại
Huế, từ Phủ Cam hay khi gia đình dời ra trường Đồng Khánh, trước
khi vào lính, Tết là một ngày lễ quan trọng duy nhất cho mọi
người, mọi nhà, cho cả nước. Bởi vậy có những năm Măng tôi được
chính phủ cho thêm lương tháng 13. Người lớn rộn ràng sửa soạn
Tết theo cách người lớn, tỉ mỉ, chuẩn bị trước cả tháng. Con nít
chúng tôi có những náo nức riêng. Nhà nhà đều ăn Tết, vui Tết.
Xin mời quý bạn đọc lại đoạn viết sau đây, trích từ bài “Mùa
Xuân, Chiến Tranh & Tình Yêu”:
“Sáng Mùng Một Tết Nguyên
Đán, gia đình các bác, các cô chú và gia đình Măng tôi đồng tụ
tại nhà ông bà Nội tọa lạc ở phần đất cao nhất của xóm Đường Đá,
Phủ Cam và trải dài xuống gần Bến Ngự. Một truyền thống của đại
gia đình qua bao nhiêu năm, kể từ khi tôi bắt đầu có trí nhớ.
Nghe kể lại, ông Nội dậy sớm nhất bước ra khỏi nhà, tự đạp đất
nhà mình trước khi tất cả con cháu đến chúc Tết. Gia đình nào đến
trước sẽ vào thăm bàn hoa quả bánh mứt của Bà Nội ở nhà chính,
hoặc đứng ngoài sân chờ đợi, chuyện trò rộn ràng với nhau trong
khi những đứa con nít cùng trang lứa tranh nhau chạy chơi trong
sân vườn rộng lớn. Khi mọi gia đình có mặt đầy đủ, tất cả đồng
kéo qua tập trung trước căn nhà riêng của ông Nội, nằm chéo góc
bên cạnh nhà lớn.
Khi ông bà Nội đồng an vị vào 2 chiếc
ghế dựa lớn để ngay ở cửa chính được mở rộng, mặt mày rạng rỡ
trong áo gấm đỏ, lễ Mừng Tuổi bắt đầu bằng tràng pháo nổ tưng
bừng từ dây pháo dài treo trên cây. Riêng tôi bắt đầu ngất ngây
với tiếng pháo nổ chát tai, xác pháo đỏ văng tung toé và mùi
thuốc pháo. Trong không khí trang nghiêm của ngày đầu xuân, Bác
của tôi bao giờ cũng là người đầu tiên mở đầu cho buổi lễ, khúm
núm đứng trước ông bà Nội xướng to những lời chúc mừng, trước khi
cả 2 vợ chồng cùng quỳ trên chiếu vái lạy thân sinh. Tôi vẫn còn
nhớ rõ Bác tôi kêu ông bà Nội bằng Thầy Mạ. Sau Bác là đến phiên
các chú các cô, bao gồm luôn cả rể và dâu, trong đó có Măng tôi,
cùng tiến đến quỳ lạy Thầy Mạ. Bấy giờ, ông Nội mới từ tốn ban
lời mừng Tân Xuân cho từng người con, cũng theo thứ tự, từ con
trai trưởng cho đến cô út.
Sau thế hệ con đến thế hệ cháu
với mỗi gia đình theo thứ tự lần lượt bước vào chiếu hoa. Thông
thường người con lớn nhất hiện diện tại chỗ đứng giới thiệu tên
từng đứa em trong gia đình mình với ông bà Nội trước khi tất cả
đều quỳ lạy mừng tuổi ông bà. Ông Nội thường hay hỏi từng đứa
cháu về chuyện học hành, gia cảnh nếu đã lập gia đình, trước khi
nói lời chúc đầu năm. Có những năm, tất cả các cháu được cho đứng
sát với nhau và đồng quỳ lạy chúc mừng ông bà Nội một lần, sau
khi một cháu lớn nhất đại diện mở đầu lời Mừng Tết ông bà Nội...
Kế thế hệ cháu là đến thế hệ chắt, cùng quỳ lạy chung một lúc
trong khi chắt lớn tuổi nhất trong đám nói lời cầu chúc ông bà
Cố, với sự nhắc lời, trợ giúp của bậc cha mẹ bên ngoài. Trong
những cái Tết trước khi ông Nội tôi mất vào năm 1962, ông bà Nội
tôi đã có trên cả chục đứa chít.
Xong lễ mừng tuổi ông bà
Nội, các người con cùng dâu rể bước đến gần trò chuyện thân mật
hơn, rót trà rượu đưa mời Thầy Mạ của mình. Đó là lúc tôi thoáng
thấy các phong bì đỏ được đưa vào tay ông Nội và cả bà Nội. Sau
đó, Bà Nội mới thủng thỉnh mời tất cả mọi người vào nhà lớn
thưởng thức các món Tết. Tôi nhìn thấy đủ loại mứt, từ mứt hột
sen, mứt thơm, mứt dừa, mứt gừng, mứt mãng cầu, mứt kim quất, mứt
khoai, mứt củ sen, đậu phụng ngào, hột dưa... cho đến các món mặn
như nem, chả heo, chả bò, chả thủ, tré, thịt quay, gà nấu đậu,
vịt nấu măng khô, cải xanh nấu với giò heo, xôi lạp xưởng & tôm
khô, xôi gấc, rồi bánh tét dưa món, bánh tét chiên, củ hành dầm
nước mắm, củ kiệu, bánh chưng, bánh su sê, bánh thuẫn, bánh bột
nếp, bánh hột sen và đậu xanh cái tròn cái vuông gói trong giấy
kiếng nhiều màu sặc sỡ...
Bao nhiêu món ngon vật lạ dọn
bày trên mấy cái bàn khiến tôi nhìn vào thấy no mắt, và no luôn
cả bụng vì mải ham rượt đuổi nhau bên ngoài. Bao nhiêu hương vị
ngọt ngào, hiếm quý và cổ truyền của một cái Tết Âm Lịch do chính
tay bà Nội làm cùng các người con trong gia đình đem đến từ ngày
hôm trước. Khi lớn hơn và ở xa hơn, tôi cũng đã từng đạp xe đạp
đem đồ Tết của nhà mình đến biếu ông bà Nội. Và trên bàn luôn có
món quà Tết của “Cậu” Cẩn và của chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm
gởi đến biếu cho OB. Nội, vì Bà Nội tôi là em của Bà Cụ Cố tức là
Dì ruột của các vị đó.
Buổi ăn chấm dứt, đại gia đình xúm
xít lập sòng chơi đổ tam hường, chơi bài car-tê (5 lá bài), bài
xì lác, tứ sắc, bài xịp... Tiếng la hét của người hên bạc kẻ thua
tiền, tiếng reo hò vui cười, chọc ghẹo hòa cùng với tiếng xoang
xoảng của những con súc sắc đổ trong tô sứ, tiếng pháo lẻ nổ đì
đùng ngoài sân từ lũ con nít chúng tôi làm không khí Mùng Một Tết
thêm hào hứng. Sau phần chúc Tết ông bà Nội, các gia đình lần
lượt kéo nhau đến đạp đất từng nhà một, nhà Bác trước rồi đến nhà
các cô, chú, lập lại màn chúc Tết nhau, rồi ăn uống, và lì xì cho
con nít. Truyền thống này vẫn tiếp nối dù sau này chỉ còn có bà
Nội, vẫn trang trọng và ấm cúng dù mức độ nhỏ hơn vì số con cháu
thưa dần với các anh chị con bác và cô chú vì sinh kế, lập gia
đình và đi học nơi xa nên khó về”.
Trong ký ức tôi, cái
hay nhất, cái đáng nhớ nhất, sống mãi trong lòng của mình, không
phải là những khi được mừng tuổi OB Nội và đi thăm các Bác, Cô,
Chú. Hay là được cho mặc bộ quần áo mới, được lì xì, cho ăn bánh
mứt, các món đăc biệt của Tết. Mà chính là những ngày trước Tết,
đôi khi cả vài tuần trước Tết, thời gian các anh chị xúm nhau sửa
soạn cho ba ngày Tết. Cái truyền thống đó chính là tinh thần đoàn
tụ của một gia đình. Đó là những lúc cùng chia nhau cắt các củ cà
rốt, củ cải, dưa leo, trái su hào, su le. Rồi đem phơi khô trên
các rổ tròn vài ba nắng cùng với ớt, tỏi, củ hành, củ kiệu, để
sau đó cho vào hũ, thẩu to nhỏ, đổ thêm nước mắm nấu với đường
làm dưa món, và hành dầm nước mắm và hành dầm chua. Sau màn dưa
món là đến màn làm các loại bánh bột nếp, bánh đậu xanh khô ép
vào khuôn, bánh hột sen vo tròn mà tôi có nhiệm vụ cắt giấy gương
màu xanh đỏ vàng trắng cho các chị bao lại. Kế tiếp là những ngày
xắt các củ gừng, cà rốt, những trái dừa (cả non lẫn già), cắt các
trái thơm, các củ sen, củ khoai, dùng cả chùm kim cúc đâm vào kim
quất để lấy hột và vắt bớt nước chua ra... để ngào ra các loại
mứt. Nhiệm vụ của tôi là canh lửa, quạt lò, thêm than cho 2-3 cái
lò mà phần thưởng là thỉnh thoảng được cho ăn thử vài ba miếng.
Một khi làm xong, các sản phẩm này, bao gồm mứt gừng khô và dẻo,
mứt thơm, mứt dừa, mứt thơm trộn chung với mứt gừng dẻo, mứt củ
sen, mứt cà rốt, mứt kim quất, mứt khoai lang, thường được cất
giữ trong các thẩu hoặc trong các bao, thùng lớn... Tôi vẫn thích
nhất là mứt dừa và đậu phụng ngào có các màu trắng xanh đỏ khác
nhau và mứt khoai lang có thêm hương vị gừng, vàng cháy dính sát
đáy nồi. Và món bánh tét chiên ăn với dưa món, nhưng phải chờ sau
Tết mới ăn được món này.
Sau đó là đến đợt làm các loại
bánh ngọt như bánh thuẫn và bánh Beignet với các
khuôn bằng kim loại và phải chiên với dầu. Măng tôi và anh chị
tôi làm rất nhiều hai loại bánh này để trong cả chục thùng nhôm
khá lớn trước đây đựng dầu ăn hay nước mắm rửa sạch. Để sau đó,
Măng tôi cùng 2 bà chị sinh đôi và tôi mang đến tặng cho các tù
nhân trong Lao Thừa Phủ, nằm sau lưng tòa hành chánh tỉnh, ngay
sát bên hông trường Đồng Khánh. Lao Thừa Phủ là nơi Măng tôi bị
Pháp cầm tù trong hai năm vì tham gia rải truyền đơn khi đang còn
học nội trú trường Đồng Khánh, và Người cũng từng lên tiếng với
chúng tôi là chắc có những tù nhân bị giam oan trong đó.
Một hai đêm trước giao thừa, một số gia đình trong “xóm” Đồng
Khánh rủ nhau nấu bánh chưng, bánh tét, nhất là trong những năm
còn gia đình của Thầy Lê Yên, gốc Bắc di cư vào Huế và là thầy
dạy về môn hội họa cho nữ sinh ĐK. Các chị trong gia đình Thầy,
nhất chị đầu tên Hà (là mẹ của đàn em Võ Hồng Khanh, khóa 23,
hiện hành nghề YK tại Toronto) gói bánh rất đẹp và chặt chẽ mà
không một ai trong xóm có thể sánh được. Đây thật sự là một điều
rất thú vị cho tôi khi được cho ngồi canh nồi bánh cùng với các
anh chị lớn trong xóm, được nghe những câu chuyện lý thú và nhất
là có một đêm không ngủ nằm trên các chiếu trải trong hành lang
trước dãy các lớp học mà không bị Măng tôi la rầy. Tôi còn nhớ rõ
nồi nấu bánh là nửa phần dưới của thùng đựng dầu (kêu là thùng
phuy, có lẽ là do chữ fuel mà ra?) rất lớn của quân đội được cưa
làm hai, nước trong thùng sôi liên tục cả chục giờ nên cả xóm đã
phải chuẩn bị củi từ cả tuần trước. Ngày mai lại, một chiếc bánh
chưng được vớt ra trước để chia nhau ăn thử, tôi xí được một
miếng nhỏ. Ngon ơi là ngon! Nghĩ lại mà lòng vẫn còn tràn ngập kỷ
niệm. Không ngon sao được khi thức trắng cả đêm đói bụng quá
chừng mà cháp được một miếng thì phải ngon tuyệt và nhớ đời.
Các món khác như chả lụa,
nem tré, mứt hột sen, hột dưa, mứt mãng cầu... thì phải đi mua
bên ngoài. Sau này, khi không còn ai đủ sức kêu gọi nấu bánh
chưng và bánh tét, thì gia đình tôi cũng phải đặt mua thôi. Trước
đó, Măng tôi bao giờ cũng mua một tạ gạo, như một dấu hiệu tốt
cho nhà không thể thiếu gạo cơm, vốn là căn bản của mọi gia đình
nhiều con. Những hũ dưa món, hộp mứt, những bánh trái rồi cũng
được Măng tôi sai chúng tôi đem biếu cho các Dì trong trường ĐK,
hay tặng cho các người quen đã từng cho Măng tôi vay nợ (như nhạc
mẫu của đàn anh Tôn Thất Sơn, bà nội của bạn Trần Tiễn Ngạc, Cô
Hai Trinh của chúng tôi...) mà Măng tôi luôn nhớ ơn vì họ đã tin
tưởng Măng tôi khi thiếu hụt tiền để nuôi các anh chị học xa...
Vào những năm tôi lớn đủ để rủ các bạn trong xóm ĐK đạp xe
qua phố xem đoàn múa lân trình diễn trước các cửa tiệm của phố
Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu hay Gia Hội... Giữa những tiếng nổ
chát tai của từng xâu pháo treo dài từ trên lầu cao xuống tận
đất, đoàn múa lân, áo trắng bên trong và quần đen nửa phần dưới,
đã thay phiên nhau vừa nhún nhảy như thể đi quyền, vừa leo lên
vai nhau hay leo lên thang cố lấy cho được phong bì đỏ đựng tiền,
trong khi bên dưới ông địa cầm quạt làm trò cười và xe trống
chiêng bên cạnh đánh ầm ầm xập tùng xèng thật chát tai. Mãi sau
này, khi về lại Cali và nhất là trong các tiệc Tân Niên của tổ
hợp Y Tế UCMG do anh BS Võ Văn Cầu làm chủ tịch, tôi mới thưởng
thức lại màn múa lân, do chính các em của đoàn Hướng Đạo của anh
chị BS Đồng Sĩ Nam thực hiện. Rất cảm kích!
Tôi cũng đến
các hội chợ Tết, ngay trong khu công viên trước Cửa Thượng Tứ,
xem hoa, xem xiếc, mua pháo, nhìn người chơi bài ba lá, bầu cua
cá cọp hay xổ số loto, mà tôi còn nhớ lõm bõm: “Tôi bắt con nai,
con nai nó dzọt dái (vọt nhảy) là con số 7. Cô kia chưa chồng mà
cô đã thụ thai, là con số 2...” lại nghe người xướng to các con
số bằng câu hát với giọng Nam thật vui. Khi vào học ở Sài Gòn,
tôi cùng chúng bạn cũng có dịp chen nhau đi chợ Tết Bến Thành,
mua các loại khô sặc, khô cá thiều, khô nai... cùng các loại mứt,
rượu mận và trái cây miền Nam thơm ngon. Và nhất là khu bán hoa
trên con đường Nguyễn Huệ.
Tôi nhớ là Tết năm nào nhà tôi
cũng có chưng một cành mai vàng, với vài thiệp chúc Tết treo ở
các nhánh nhỏ. Có hai ba năm liên tiếp, nghe theo người lớn rủ,
tôi đạp xe với họ vào tận trong rừng khá xa, để tìm mai rừng chặt
đem về nhà. Trong mấy lần đi chỉ có một lần thành công, với một
nhánh mai rất nhỏ, dài vài gang tay đem về nhà. Tuy vậy lòng
thằng bé trong lứa tuổi preteen rất thỏa mãn ở chỗ dám mạo hiểm
đi xa vào rừng hơn cả nửa ngày trời.
Ngày cuối năm, tức
ngày 30 Tết, chúng tôi thay phiên nhau dọn dẹp nhà cửa, làm vệ
sinh cá nhân, chuẩn bị áo quần tươm tất cho ngày mai. Người làm
đi chợ mua thêm vài món nấu liền vì chợ đóng cửa trong ba ngày
Tết. Như các món gà nấu đậu, vịt nấu măng khô, canh cải nấu với
giò heo... Và tối hôm đó, Măng cùng các con xúm xít ngồi ăn bánh
chưng và bánh tét với dưa món, hành dầm nước mắm với vài món mặn
khác, cũng như cùng nhau thưởng thức vài món mứt nhà làm. Sau đó
đến màn chơi đổ xâm hường mà tôi mê nhất là tiếng leng keng trong
thanh của ba con súc sắc trong cái tô lớn. Chờ nghe pháo nổ và
đón giao thừa.
“Đó là những năm tháng êm ấm tại Huế,
của cái ‘thuở thanh bình ba trăm năm cũ’ nơi tôi được nuôi dưỡng,
lớn lên và đến trường, trước cuộc Cách Mạng tháng 11 năm 1963”.
Khi các thành phố vẫn thanh bình, cuộc sống dân chúng ấm no hạnh
phúc.
Anh về qua xóm nhỏ, Em
chờ dưới bóng dừa
Nắng chiều lên mái tóc, Tình quê hương đơn
sơ (Tình Quê Hương / Đan Thọ)
Tiếp theo là những năm của phong trào sinh viên Phật Giáo
tranh đấu, những chỉnh lý chính trị ở trung ương, sự hiện diện
của quân đội Mỹ đưa đến những biến động trong quần chúng và dấu
hiệu leo thang dần của chiến cuộc, nhất là vào năm cuối của tôi ở
Trung Học và năm đầu tiên ở Đại Học. Tuy nhiên, do ở thành thị,
đa số học sinh sinh viên như chúng tôi vẫn thờ ơ hưởng thụ, vẫn
ngây thơ với sách vở, chưa hề có khái niệm chín chắn về cuộc
chiến dù có theo dõi tin tức chiến sự, dù nhìn thấy lính tráng xe
tăng máy bay, hay có anh chị, như trường hợp nhà tôi với anh đầu
tôi là một BS và anh rể đầu của tôi cũng là một DS đều trưng tập
vào Quân Y, hoặc có bà con mình ở trong quân đội và thỉnh thoảng
nghe tin người quen này tử trận, người bà con nọ bị thương...
Chúng tôi vẫn nghĩ cuộc chiến xa lạ này không phải của mình và
đang xảy ra ở miền quê hay núi rừng xa xôi, hay tại những địa
danh hẻo lánh. Cho đến Tết Mậu Thân, 1968.
Đúng vậy! Có ai
ngờ quân CS đã tráo trở xé thỏa thuận hưu chiến, đem chiến
tranh đến tận các thành phố trong những ngày thiêng liêng của đất
nước trong Tết năm 1968. Biết bao nhiêu người đã sống lo âu sợ
hãi khi nhìn thấy chiến tranh với bom đạn và chết chóc đến ngay
tận làng xóm mình, ngay tận nơi nhà mình? Đã nhìn thấy cảnh đổ
nát kinh hoàng của thành phố, đã bị kẹt giữa hai lằn đạn? Đã
chứng kiến sự dã man tàn ác của phe gọi là giải phóng? Có bao
nhiêu người là chứng nhân cho sự thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế
khi người thân trong gia đình, người quen trong khu phố bị giết
chết, bị bịt mắt đem đi thủ tiêu, bị tra khảo, đập vào đầu trước
khi bị xô xuống khe suối hay bị cột chùm chôn sống với 2 tay bó
chặt đàng sau lưng bằng dây điện thoại? Ở đâu ra những hố chôn
tập thể tại trường Gia Hội, Gò Cát, Bãi Dâu, Tây Lộc, Phú Thứ, Đá
Mài...? Và biết bao ngàn người đã ai oán khóc trong căm hờn và đã
chít khăn tang?” *** Trích từ “Mùa
Xuân, Chiến Tranh & Tình yêu”.
Vào đêm 30, gia
đình 3 người Măng tôi, chị tôi và tôi đang ở trong căn phòng lớn
trên lầu 3 của trường Đồng Khánh, có cửa sổ lớn phía sau nhìn về
Lao Thừa Phủ ở sau lưng Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đêm ấy, chúng tôi
thức khuya chuẩn bị các món Tết cho ngày Mùng Một. Vào giao thừa,
tiếng nổ xa xa của pháo Tết nghe hơi khác thường và càng lúc càng
dồn dập chen với những tiếng nổ lớn hơn. Vài giờ sau, tôi nghe
tiếng chân người chạy thình thịch trên thang gỗ bên ngoài phòng,
rồi hàng loạt tiếng súng nổ chan chát, cùng với tiếng súng bắn
trả từ Lao Thừa Phủ trúng vào tường và cửa sổ căn phòng chúng tôi
khiến tiếng dội nghe ghê rợn và mảnh gỗ văng tung tóe. Chúng tôi
nằm yên trên sàn nhà, dưới bộ ván dày, tránh gây tiếng động, đọc
kinh cầu nguyện.
Qua ngày hôm sau, khi tiếng súng lắng
dịu, tôi rón rén bò đến cửa sổ phía trước, nhìn xuống sân trường
Đồng Khánh. Cả trăm lính VC, với nón cối và quân phục màu xanh
lục, đang đóng quân, đào hầm, đặt súng lớn trên bãi cỏ, hay dưới
các gốc cây phượng. Biết không thể làm gì hơn, gia đình tôi đành
mở cửa đi xuống lầu, mang theo chút áo quần và thức ăn Tết như
bánh tét, và đến tạm trú trong phòng học cùng với những gia đình
quen thuộc khác trong trường và sau đó những gia đình dân từ Bến
Ngự hoặc Ga Huế chạy đến.
Tôi nhận thấy đơn vị CS đóng
ngay đây có lẽ là quân chính quy, với đa số lính nói giọng Quảng
Bình. Nhiều toán lính đi đi về về, cáng theo hàng loạt đồng đội
tử thương và bị thương. Có lẽ trường ĐK nằm giữa mặt trận, nên
tiếng súng nhỏ lớn nghe liên tục, có khi từ hướng bờ sông Hương,
khi thì từ hướng đường Lê Lợi của Tòa Hành Chánh Tỉnh. Các khẩu
súng phòng không thường xuyên bắn nổ rền trời nhắm vào những
chiếc trực thăng bay trên cao. Mức độ trận chiến có vẻ dữ dội
trong suốt gần cả mười ngày. Cho đến sau một đêm bỗng dưng hoàn
toàn yên tĩnh, sáng hôm sau khuôn viên trường ĐK hoàn hoàn vắng
lặng, không một hình bóng của người lính CS, họ đã lặng lẽ rút đi
trong đêm. Đến trưa toán lính TQLC Mỹ tiến dần về phía chúng tôi,
giải tỏa hoàn toàn trường ĐK và hướng dẫn tất cả mọi người di tản
về hướng an toàn.
Liền sau đó, nhóm chúng tôi gồm chừng
bốn năm chục người im lặng dắt nhau bước đi thật vội trên đường
Lê Lợi hướng về trường Kiểu Mẫu, dưới bầu trời lạnh, xám xịt có
mưa phùn. Cũng con đường hàng ngày tôi thường qua lại bao nhiêu
lần nay trông thật điêu tàn và xa lạ, im lặng một cách rùng rợn
và phảng phất mùi tử khí. Bên kia sông Hương và cột cờ, khung
cảnh vẫn mờ dại trong mây mù. Chiến tranh đang thực sự ở trước
mắt và xung quanh tôi, với hiện trường y như trong cảnh phim. Lá
cây và cành cây gãy tràn ngập lối đi. Đây đó những cột đèn và
thân cây nằm nghiêng ngửa, như muốn che đậy những xác chết, quân
có dân có, ta có địch có. Có những xác nằm ngay trên mặt đường,
bên lề đường. Có những xác nằm sấp hay cong queo trong các hầm cá
nhân dưới các gốc cây, nhất là ở gần phía bờ sông. Rải rác đây đó
là xác xe Jeep, xe cứu thương dân sự và các xe honda, lỗ chỗ vết
đạn với xác người bên cạnh. Nhiều biệt thự to lớn trên con đường
bị đổ nát, hư hại nặng. Khi đến gần khu Morin, tôi lặng người
nhìn thấy cầu Trường Tiền bị gãy một nhịp”
***Trích từ “Mùa Xuân, Chiến Tranh &
Tình Yêu”.
“Niên khóa 1967-1968, tôi học
năm thứ Nhất trường ĐH Ykhoa Huế. Ban Đại Diện trường với anh chủ
tịch Đặng Ngọc Hồ, năm thứ Sáu, và anh Tổng Thư Ký Trần Đình Ái,
năm thứ Tư, quyết định tổ chức party Tất Niên cho trường YK Huế
vào cuối tuần trước Tết Mậu Thân. Tin vui party Tất Niên được tất
cả anh chị em SV YK hân hoan đón nhận, và lẽ đương nhiên, tôi rất
vui mừng và hãnh diện được tham gia. Hai ba tuần trước ngày tiệc,
tin nóng sốt này là câu chuyện hàng ngày bên cạnh ly cà-phê buổi
sáng của hầu hết các SV, bất kể đó là YK hay các phân khoa khác
của Viện ĐH Huế, vì theo truyền thống party nào do các anh chị YK
Huế tổ chức đều rất thành công với số người tham dự luôn vượt sức
chứa của phòng tiệc...”
“Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Thầy
trò, anh chị em chia tay nhau ra về trong đêm mưa. Tưởng như chỉ
là bắt tay, vẫy chào của Ce n’est q’un au revoir, nhưng lại là
một Adieu vĩnh viễn với khá nhiều người. Vì vài ngày sau, CS Bắc
Việt và bọn việt cộng nằm vùng tráo trở xé bỏ đình chiến cho 3
ngày Tết và dốc sức tấn công chiếm giữ Huế trong 3 tuần, gây bao
tang thương chết chóc cho dân Cố Đô. Xin ngậm ngùi xót xa tưởng
nhớ đến Giáo Sư và Bà Gunther Krainick, GS Raymund Disher, GS
Alterkoster đã bị thảm sát và chôn trong cùng một ngôi mộ tại
khuôn viên chùa Tường Vân, Thầy Nguyễn Văn Đệ bị chúng bắt theo
và chết trên đường dài ra Bắc, một số nhỏ anh chị em trong trường
Y Khoa kẻ thì mất tích, vài thằng thì duồn theo phía địch, hay bị
giết, cùng chung số phận với trên năm ngàn người dân, công chức,
lính tráng... bị bắn bỏ, đập vỡ sọ, chôn sống trong các ngôi mộ
tập thể... Thế giới sững sờ, và công phẫn khi nhìn thấy sự dã tâm
và sắt máu của con người CS, giết người hàng loạt trong khi lại
nhân danh giải phóng. Thật là mỉa mai và lố bịch.
Từ biến
cố giết người không gớm tay của CS, với cái chết đau thương của 4
vị giáo sư người Đức, tinh thần học hỏi của sinh viên trường YK
Huế bị thử thách nặng nề, sự liên hệ của các vị GS thỉnh giảng từ
YK Sài Gòn cũng bị chậm lại nếu không muốn nói là chấm dứt;
trường YK Huế trải qua một cơn sóng gió và bắt buộc phải ly hương
và lưu vong tạm thời vào Sài Gòn trong khi chờ đợi sự trùng tu và
tái thiết của thành phố Huế và sự đào tạo một đội ngũ giảng viên
trẻ trung và ưu tú cho riêng mình...
Kể từ ngày ấy, mỗi
khi đến Tết, tinh thần Tết không như trước vì bao nhiêu oan hồn
chưa thể siêu thoát, vẫn còn tức tưởi đòi máu trả bằng máu. Sau
biến cố mất nước năm 1975, Miền Nam trở thành nhà tù lớn, hàng
triệu người bầm dập khốn khổ, hàng trăm ngàn người phải rời bỏ
quê hương. Để từ đó, đường chia muôn ngả, đời rẽ vạn lối đi. Kẻ
chiến thắng nham hiểm ác độc, luôn tìm cách xâu xé Miền Nam và
đày đọa người chế độ cũ và luôn cả dân lành. Những thành phần 30
tháng 4 múa rối thổi kèn, à la mode với dép râu và mũ tai bèo,
người quân tử chật đầy trong nhà tù. Kẻ đành xa xứ tản mác năm
châu bốn bể, người câm lặng mòn mỏi, ngơ ngác ở lại. Mỗi chúng ta
đều cõng trên lưng phận đời trôi nổi. Nhưng chúng ta vẫn phải
vươn lên mà sống, vẫn phải bươn bả về phía trước. Cho dù có khi,
có nhiều khi, phía trước vẫn đục tối, hãi hùng, đầy cạm bẫy, ma
quỷ.” *** Trích từ “Nhớ Về
Tất Niên YKH Tháng Giêng 1968”.
Giờ đây, lòng tự
hỏi lòng có vui không, có rộn rã khi Tết đến? Hình ảnh Ông Đồ Già
vẫn như xưa? Các trẻ nhỏ chạy theo pháo nổ? Và những người dân bị
mất đất mất nhà sẽ lang thang trong những ngày trước Tết và trong
Tết? Những người con gái bị mua bán sang các nước sẽ có thì giờ
cúng vái tổ tiên, nhớ về cha mẹ? Vẫn có những người sẵn sàng bỏ
ra hàng chục triệu đồng để mua quà Tết tặng quan lớn của mình?
Bao người khác lăn xả tiêu xài chục triệu đồng để cao bay trốn
chạy hay quên đi cái sợ hãi vây quanh mình đằng trước cả đằng
sau. Cuộc sống thay đổi, không còn ai mơ những ngày phải tự tay
làm bao thứ mứt món, và mấy ai còn muốn ngồi canh nồi bánh chưng
trong đêm Ba Mươi khi ngoài phố chợ bán không thiếu món gì. Thật
vậy, khi tinh thần Tết đang mất dần, khi không khí Tết không còn
như xưa, khi gia đình các tù nhân lương tâm bị bao vây kinh tế,
thì các bạn đang ở hải ngoại, xin hãy cùng nhau hướng về quê nhà,
thắp một nén hương trong ngày Tết, chân thành cầu nguyện cho chế
độ CS chóng tàn, nước Việt Nam không bị mất tấc đất với bọn
phương Bắc, dân lành tử tế vĩnh viễn sống không bị chèn ép trong
đồng ca an bình, người người xây dựng lại truyền thống công bằng
bác ái, theo đúng nghĩa của người Việt chân chính thương mến nhau
– như đã từng có, trước đây, vì cùng một nòi giống con Rồng cháu
Tiên - trước khi nhóm người CS vô thần vô tổ quốc, là con cháu
của cái mác, cái búa và cái liềm, xuất hiện thống trị đất nước
bằng bạo lực.
“Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi
thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn
toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong
xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những người bạn từ thời xa xưa,
cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy,
các bạn đã chết trong các biến cố của đất nước, trong các trại
tù, trên biển... nhập tiệc. Kẻ đang sống và người thiên cổ bên
cạnh nhau, cùng hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân
tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y
đức, và để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên
của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu
thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm
khắc khoải đau thương...”
***Trích từ “Nhớ Về Tất Niên YKH Tháng Giêng 1968”.
Em ơi, dưa món
năm mô em làm cũng ngon hết. Năm ni cũng hết sẩy. Nhớ chiên bánh
tét cho anh ăn với dưa món nghe.ón nghe.
Tết Kỷ Hợi, 2019
Vĩnh
Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by BS Vĩnh Chánh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
February 2, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang