Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề: Hồi ký Chiến trường
Tác Giả: Trang Châu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Vài nét về tác giả (Trang Châu): Trang Châu tên thật là Lê Văn Châu,
sinh năm 1938 tại Huế. Theo học trường Yersin, đậu Tú Tài Triết
năm 1957. Tối nghiệp y khoa bác sĩ năm 1965. Phục vụ tại Tiểu
Đoàn Quân Y Sư Đoàn Nhảy Dù. Chuyên về thơ, truyện ngắn. Viết
cho các báo Văn Học, Khởi Hành, Tiền Phong.
Y
sĩ Tiền Tuyến
1. Trận thử lửa của các Y sĩ
thuộc Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù tại mặt trận Tam Quan Bồng Sơn năm
1966
Chúng tôi trình diện Đại Đội Quân Y Sư
Đoàn Nhảy Dù trước một ngày Bộ Tư lệnh tung năm tiểu đoàn giải
tỏa vùng Tam Quan, Bồng Sơn. Tôi còn nhớ hôm ấy là ngày 4 tháng
2 năm 1966, mùng bốn Tết. Chúng tôi có năm tiểu đoàn để đáo nhậm
chức vụ Y sĩ Trưởng: Ba tiểu đoàn cũ là Tiểu Đoàn 1, 6, và 7, và
hai tiểu đoàn tân lập là Tiểu Đoàn 2 và 9. Thiếu tá Y sĩ Trưởng
thỏa thuận để chúng tôi chọn lựa với nhau. Trong năm chúng tôi,
Tín, Đoàn, Nghị đã lập gia đình, Bá và tôi độc thân nên tình
nguyện đi xa. Tôi chọn Tiểu Đoàn 6 Dù, hậu cứ ở Vũng Tàu. Bá về
Tiểu Đoàn 7, hậu cứ ở Biên Hòa. Tín chọn Tiểu Đoàn 1. Đoàn về
Tiểu Đoàn 2. Nghị về Tiểu Đoàn 9. Hai tiểu đoàn tân lập đang ở
thời kỳ huấn luyện, sáu tháng nữa mới xuất quân.
Ngày hôm sau cuộc hành quân Thần Phong
11 khai diễn. Trong năm tiểu đoàn tham dự có Tiểu Đoàn 6 của
tôi. Tiên đoán sẽ đụng độ lớn mà chúng tôi quá mới mẻ, thiếu
kinh nghiệm nên Thiếu tá Y sĩ Trưởng quyết định chiếm xong mục
tiêu mới cho bàn giao chức vụ. Ông cũng tháp tùng Chuẩn tướng Tư
lệnh trong cuộc hành quân. Trong khi chờ lệnh đáo nhậm hành
quân, chúng tôi đều làm việc tại Bệnh Xá Đỗ Vinh.
Báo cáo tổn thất hai ngày đầu cuộc
hành quân là mười lăm tử thương, ba mươi sáu bị thương, trong số
đó có ông tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 6 và ông tiểu đoàn phó Tiểu
Đoàn 3. Trận chiến kéo dài đến ngày thứ ba thì các mục tiêu mới
được thanh toán. Công điện khẩn gọi tôi ra mặt trận thay thế Bác
sĩ Cảnh, bị thương ở chân phải về điều trị. Cảnh cho tôi biết
tình hình đã yên, đến giai đoạn bình định và dân sự vụ. Một giờ
sau khi bàn giao chức vụ, chiếc C–130 đưa tôi cùng một toán binh
sĩ Dù ra tăng cường đi Qui Nhơn.
Tôi ngồi lạc lõng giữa những khuôn mặt
sạm đen đang tò mò nhìn tôi. Bộ đồ hoa mới tinh, nước da trắng
trẻo cộng với tính trầm lặng khiến tôi có bộ mặt một tân binh
còn rụt rè trận mạc và e ngại phong sương. Tôi không nghĩ đến
những ngày sắp tới. Trong tiếng động cơ rì rầm ở cao độ, dưới
ánh đèn mờ nhạt của lòng tàu, tôi ngồi ôn lại quá khứ. Suốt
quãng đời niên thiếu, những lúc tôi sung sướng, yên đời nhất lại
là những lúc tôi được một mình mơ mộng. Con người tôi không thể
tìm thấy hạnh phúc, dù ngắn ngủi, với một cuộc sống bình thường
an phận được. Phải đi, phải khổ, thì tôi mới thấy đời sống có
chút ý nghĩa. Nếu có một lý do nào để giải thích sự lựa chọn của
tôi thì lý do mơ hồ nhất lại là lý do xác đáng nhất.
Tôi ngủ lại Quân Y Viện Qui Nhơn một
đêm. Sáng hôm sau Đại úy Lộc, sĩ quan hành chánh quân y Dù, đưa
tôi dạo quanh thành phố kiếm chỗ ăn sáng. Dấu vết ngoại nhân in
hằn lên mảnh đất quê hương. Nó cần thiết nhưng nó cũng làm tôi
đau lòng, dễ ngộ nhận. Chiếc trực thăng Mỹ đưa tôi ra Bồng Sơn
lúc hai giờ chiều. Một chiếc xe Jeep Hồng Thập Tự đưa tôi về Bộ
Chỉ Huy Sư Đoàn đóng ở Đề Đức, cách phi trường Bồng Sơn độ ba
cây số. Sau khi trình diện Thiếu tá Y sĩ Trưởng Sư Đoàn tôi được
hướng dẫn lên trình diện Chuẩn tướng Tư lệnh. Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn
đóng trên một ngọn đồi. Ngọn đồi bên kia đường là bãi đáp trực
thăng. Xa hơn tí nữa giàn đại bác Tân Tây Lan chốc chốc ìm ầm
nhả đạn. Con đường đất gồ ghề bốc bụi đầy trời vì những quân xa
thường xuyên qua lại. Đã ngửi thấy mùi chiến tranh.
Tôi ngủ đêm ở Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn.
Trong câu chuyện buổi cơm chiều, ông thiếu tá có vẻ bằng lòng sự
tình nguyện ra Vũng Tàu của tôi. Tôi không thích Vũng Tàu lắm,
nhưng muốn xa Sài Gòn ít lâu. Người yêu tôi ở Sài Gòn, nhưng tôi
vẫn muốn đi xa, xa để xem mình nhớ Sài Gòn đến mức nào. Sáng hôm
sau tôi xuống Tiểu Đoàn 6 nhậm chức Y sĩ Trưởng. Tiểu Đoàn 6
đóng cách Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn chừng năm cây số, trong làng, dưới
những bóng dừa xanh mát. Dưới quyền chỉ huy của tôi là trung đội
Quân Y gồm mười sáu y tá và tám cáng viên. Tuổi lớn tuổi nhỏ lẫn
lộn. Tôi đến họ thật cởi mở. Tôi muốn hòa mình vào đời sống mới,
còn bỡ ngỡ nhưng chắc rồi sẽ quen đi.
Tiểu đoàn đóng ở Hoài Sơn được năm
hôm. Ở giai đoạn bình định này, công tác duy nhất của các Tiểu
đoàn Dù là làm dân sự vụ. Các trạm cứu thương khám bệnh, phát
thuốc, chích ngừa, băng bó thương tích, gắp mảnh bom đạn cho
đồng bào. Những nạn nhân vô tội làm tôi đau lòng: Một cậu bé
mười bốn tuổi bị mảnh bom cắt ngang xương sống lưng làm bại liệt
hai chân, bò lết lâu ngày đít và đầu gối thối dần; một gia đình
mười người bị đạn đại bác chỉ còn sống sót một cô gái mười sáu
tuổi và một em bé trai một tuổi bị mảnh ghim vào lưng. Tôi gắp
mảnh đạn ra, vết thương sẽ lành nhưng hai chị em sẽ sinh sống ra
sao? Những nạn nhân trẻ thơ kia sẽ là môi trường tuyên truyền
hữu hiệu của đối phương.
Công tác y tế giúp tôi gần dân chúng
hơn, ban đầu họ còn e ngại, dần dần họ trở nên cởi mở và biết
ơn. Tôi cho tranh thủ nhân tâm không phải là vấn đề khó, khó là
ở chỗ không có người biết tranh thủ nhân tâm.
Theo tin không chính
thức thì mười lăm tháng Hai sẽ có đơn vị bạn ra thay thế. Hôm
nay mười ba, tôi nghĩ chậm lắm là mười bảy thì tiểu đoàn sẽ về
hậu cứ. Cuộc xuất trận đầu tiên của tôi như thế không có gì gay
cấn cả. Tôi vẫn ước ao lần thử lửa đầu tiên của tôi phải là một
trận đánh lớn và là một chiến thắng lớn.
Nhưng buổi chiều hôm đó, tôi được mời
lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn họp hành quân. Tôi nhận tin trên trong
thích thú và hồi hộp. Tôi tập họp toán y tá căn dặn chuẩn bị
thuốc men và đi nghỉ thật sớm để lấy sức. Chúng được đánh thức
lúc ba giờ sáng. Trời rét căm căm. Cơm nước, cà–phê xong xuôi,
bốn giờ nhổ trại. Lặng lẽ chúng tôi tiến hàng một ra đường. Một
đoàn xe GMC chờ đón. Bốn giờ ba mươi, xe chuyển bánh. Tôi ngồi
chung cabine với ông tiểu đoàn trưởng. Chúng tôi không ai nói
với ai một lời. Vượt quãng đường chừng năm cây số, rẽ trái vào
con đường đất gồ ghề, xe đổ chúng tôi xuống ven cánh làng nằm
dưới chân một ngọn đồi. Ông y tá trưởng cho tôi biết làng tên
Gia Hựu, ngọn đồi tên Đồi 10.
Mười ngày trước đây Gia Hựu là chiến
trường đẫm máu. Cố thủ trong những giao thông hào kiên cố, địch
chống trả mãnh liệt. Vào ngày thứ ba sau trận mưa bom kéo dài
hàng giờ, Tiểu Đoàn 6 Dù mới chiếm nổi mục tiêu. Một trái 60ly
rơi đúng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn làm bị thương tiểu đoàn trưởng,
tiểu đoàn phó, và cố vấn trưởng. Trong khi chạy lên săn sóc
thương binh, Bác sĩ Cảnh bị tiếng nổ của một quả 81ly rơi cách
mấy thước hất té nhào xuống hố làm ông trật chân nặng. Cảnh làng
thật thê lương, chỉ còn tro tàn gạch vụn, những thân dừa cháy đổ
ngổn ngang. Trời mưa lâm râm. Tôi ngồi trú mưa dưới mái nhà
tranh, một ngôi nhà đã sụp mất một nửa. Ông y tá trưởng ngồi
cạnh tôi, tháo chiếc nhẫn ở tay cho vào túi, xong nói với tôi:
– Bác sĩ ạ, lần trước trời cũng mưa
lâm râm như thế này, tôi cũng tháo nhẫn cất vào túi và đã đánh
nhau to.
Tôi
hiểu ông muốn nghĩ gì: Lần này trời cũng mưa lâm râm, ông cũng
tháo nhẫn cho vào túi và chắc sẽ đánh nhau to. Tôi không cười sự
dị đoan của người y tá trưởng già vì một lẽ rất dễ hiểu: Tôi
cũng hay tin nhảm như vậy. Suốt tuần trời nắng ráo, đúng vào hôm
xuất quân trời mưa. Điềm xấu, tôi nghĩ thế.
Khoảng bảy giờ sáng, cánh quân Đại Đội
Chỉ Huy có Trạm Cứu Thương đi theo được lệnh di chuyển. Chúng
tôi tiến hàng một theo con đường mòn chạy quanh co trong làng.
Mưa nặng hạt hơn trước, con đường trở nên trơn trượt. Nhìn theo
giao thông hào sâu lút đầu người chạy quanh bờ làng, tôi hiểu vì
đâu Tiểu Đoàn 6 phải mất ba ngày tròn mới chiếm nổi mục tiêu.
Bất chợt tôi lo lắng: Nếu mục tiêu cuộc hành quân này cũng có
một giao thông hào tương tự?
Cánh quân dừng lại. Tôi vào trú mưa
trong một ngôi nhà tranh. Trong nhà có hai thiếu phụ và hai đứa
bé trai chừng năm và bảy tuổi. Chúng tôi dừng lại đây khá lâu.
Đã chín giờ hơn. Người y tá mang cho tôi một đĩa cơm. Hai đứa bé
nhìn tôi ăn thèm thuồng. Cơm có thịt kho, trứng gà, tôi vẫn nuốt
không trôi. Tôi trao cho đứa bé lớn phần ăn còn lại. Chúng nó ăn
ngấu nghiến ngon lành. Ngoài đường mòn, dân làng từ phía dưới
bồng bế gồng gánh, dắt trâu bò tiến ngược trở lên. Tôi nghĩ
thầm, dân mà tản cư thì chắc chắn có địch.
Cơn mưa đã dứt. Có tiếng động cơ mỗi
lúc một gần, tôi nhận ra tiếng máy thiết vận xa M–113. Một giờ
trưa được lệnh di chuyển. Tôi biết giờ phút gay go bắt đầu. Đi
hết con đường mòn, hiện ra trước mặt tôi mấy chóp làng có dừa
bao bọc nằm rải rác như những hòn cù lao giữa biển lúa xanh mênh
mông. Súng trên các M–113 bắt đầu khai hỏa dọn đường tiến quân.
Chen lẫn trong những tràng liên thanh, những tiếng nổ lớn của
pháo binh yểm trợ. Một đại đội bên tay phải tôi băng qua cánh
đồng bọc trở lên. Đại Đội 60 tiến theo sau. Bùn ngập tới đầu
gối. Tôi phóng tầm mắt quan sát. Đằng xa hai mặt, các M–113 sắp
hàng ngang từng bốn chiếc tiến bắn không ngừng vào hai ngôi làng
nhỏ. Từng hàng lửa đỏ rực nối tiếp nhau mất hút trong rặng dừa.
Đại Đội Chỉ Huy tiến vào mé trái một ngôi làng thứ ba. Sau dẫy
làng là những ngọn đồi bốc khói xám xịt.
Một lúc một mặt quân được trực thăng
trút xuống án ngữ trên ấy. Đại Đội Chỉ Huy dừng lại ở bờ ruộng
cách làng chừng năm trăm thước. Ở hai làng trên, các M–113 tiến
sát đến bờ làng.
Tiếng súng vẫn ròn rã, thỉnh thoảng
chen lẫn vài tiếng “tắc cù” chát chúa. Tiếng đạn xé gió nghe đến
rợn người. Lúc này tôi hơi sợ. Nhưng khi nhìn toán y tá thấy sắc
mặt người nào cũng bình tĩnh, tôi yên tâm. Cánh quân được lệnh
tiến vào làng. Tôi lom khom chạy, cố vượt một khoảng trống để
bấu vào bờ làng. Tiếng một người y tá phía sau dặn nhỏ tôi:
– Bác sĩ khom người, đầu sẽ ngay tầm
đạn của địch nguy hiểm. Bác sĩ cứ thẳng người chạy, lỡ có trúng
cũng trúng từ chân trở xuống.
Tôi đã nghe theo lời dặn. Dù sao kinh
nghiệm chiến trường tôi chưa có gì. Tôi đặt chân lên bờ làng sau
khi qua một con suối. Tựa lưng vào một gốc dừa, tôi ngồi thở,
mắt hướng về phía mịt mù lửa đạn. Tôi ngạc nhiên thấy những
chiếc thiết vận xa vừa bắn vừa lùi, bọt nước tung tóe lên chung
quanh.
–
“Chúng nó có cả 57ly!” Tiếng một binh sĩ ngồi quay lưng lại với
tôi.
Trúng
phải đại bác 57ly, thiết vận xa sẽ bốc cháy. Đoàn “cua” lùi mãi,
lùi mãi, ngưng bắn để chuyển thành hàng dọc rồi nằm im. Các loại
súng vẫn nổ tứ phương. Đang phân vân không biết trận chiến ngã
ngũ ra sao thì nghe trên không có tiếng ù ù. Lòng tôi khắp khởi
mừng. Không trông thấy phi cơ nhưng tôi nghe hình như nó đang
chúc xuống. Tiếng gió ào ào từ cao bổ xuống đầu chúng tôi, tiếp
đó một tiếng ầm ghê gớm nổi lên. Tôi không kịp có phản ứng nào.
– Chúng nó canh 81!
– Không phải, “rốc–kết” của mình!
– Thả khói vàng! Thả khói vàng! Mau
lên!
– Bác sĩ
ơi, em bị thương!
Tôi quay đầy lại. Người binh sĩ ngồi
cạnh tôi ban nãy nằm ngửa người, một tay ôm cổ. Tôi gỡ tay anh
ta ra, một giòng máu nhỏ chảy xuống vai. Vết thương nhẹ. Tôi bảo
anh ta nằm yên đó rồi chạy về phía xảy ra tiếng nổ. Quả
“rốc–kết” rơi xuống suối. Đại đội bọc hậu có bảy người bị
thương. Chỉ có một người nặng: mảnh ghim nát cả chân phải.
Tôi cho bó bất động, chích morphine và
truyền một chay dextran. Toán y tá của tôi làm phận sự cấp cứu
thông thạo và lanh lẹ. Chúng tôi khiêng các thương binh để nằm
dưới hiên một ngôi nhà tranh chờ di tản. Lát sau hai chiếc khu
trục trở lại. Lần này “rốc–kết” và bom xăng đặc rơi đúng mục
tiêu. Tiếp đến hai trực thăng võ trang thay nhau bắn phi đạn và
đại liên. Sau hai đợt oanh tạc, nhiều đám cháy đỏ rực bốc lên.
Cảnh tượng trông thật khốc liệt. Hai chiếc trực thăng vừa bay
khuất, đoàn thiết vận xa dàn ngay hàng ngang tấn công trở lại.
Nhìn ra cánh đồng, tôi thấy vo số nón sắt nhấp nhô trong đám
lúa. Đây là đợt tấn công quyết định. Nếu không chiếm được mục
tiêu chắc phải rút vì trời đã xế chiều.
Tôi trở lại xem chừng tình trạng các
thương binh. Nửa giờ sau, tôi gặp ông đại đội trưởng Đại Đội Chỉ
Huy. Ông cho hay đã chiếm được mục tiêu 1, đang tiến chiếm mục
tiêu 2 và 3. Ông cũng cho tôi biết một tin buồn: Trung úy Vân,
Đại Đội Trưởng Đại Đội 64 đi theo thiết vận xa đã tử trận. Nghe
tin, tôi bàng hoàng cả người. Tôi chỉ gặp Trung úy Vân một lần
hôm tôi đến nhậm chức. Đại đội ông đóng xa Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn
nên tôi không có dịp tiếp xúc thêm. Không ngờ buổi gặp gỡ lần
đầu ấy lại là lần cuối cùng. Tôi cố nhớ mãi mà không sao hình
dung nổi khuôn mặt người bạn đồng đội vừa ngã xuống.
Trời bỗng dưng u ám. Cơn mưa lại bắt
đầu. Nhìn ra đồng ruộng, tôi thấy bốn binh sĩ khiêng cáng một
người bì bõm lội về phía tôi.
– Ai vậy?
– Dạ Thiếu úy Toàn, ở Đà Lạt mới ra.
Thấy cả ngực ông băng kín, tôi hỏi một
trong bốn người khiêng cáng:
– Bị thương ở đâu?
– Dạ nghe ông y tá Đại Đội nói bị đạn
xuyên qua vai.
Mạch nhanh và yếu. Người sĩ quan trẻ
tuổi mắt lờ đờ, trăn trở người muốn kiếm một thế nằm cho đỡ đau,
dễ thở. Ông luôn miệng gọi tên một người con gái. Tôi cho truyền
một chai huyết–thanh có pha thuốc chống xúc kích, thuốc trợ tim,
thuốc điều hòa hô hấp. Máu vọt ở hai lỗ đạn vào và ra. Xuất
huyết trong lồng ngực. Để tránh biến chứng do không khí tràn vào
lồng ngực, tôi khâu sống bít hai lỗ đạn.
Hết chai huyết–thanh, tôi cho truyền
tiếp chai huyết–tương. Người y tá chích bốn năm lần vẫn không
vào máu. Các tĩnh mạch bị tắc nghẽn. Mạch nhanh yếu không đếm
được. Tôi phải dùng kim lớn đâm vào tĩnh mạch đùi để truyền
nước. Một xác chết gói trong poncho được đưa đến trạm cứu
thương. Tôi không biết mặt người chết mà tự nhiên lòng căm hờn
phừng phừng trong tôi. Ở giây phút này tôi hiểu thế nào là thù
hận.
Cánh
quân được lệnh di chuyển. Phải di tản thương binh theo. Chỉ có
hai người đi được, ba phải dìu, hai phải khiêng cáng, một xác
chết phải gánh theo. Một số binh sĩ được huy động giúp di tản.
Tôi phụ khiêng cáng ông Thiếu úy Toàn nằm. Trông ông co quắp,
rên rỉ thật tội nghiệp.
Quần áo ướt dầm làm tôi lạnh run. Súng
vẫn nổ nhưng thưa và xa dần. Trời đã tối hẳn, mưa vẫn không
ngừng. Chúng tôi khó nhọc theo đuôi toán quân. Bờ đê ruộng bùn
trơn hết người này trượt chân đến người khác. Hết bờ đê đến một
căn nhà sàn. Trạm cứu thương được chỉ định đóng đêm tại đó.
Đại Đội 64 ngoài Trung úy Vân còn thêm
bảy binh sĩ thiệt mạng, hai bị thương. Phía Tiểu Đoàn 5 Dù, sáu
binh sĩ tử thương, ba bị thương. Bên Thiết Vận Xa, hai xạ thủ
đại liên tử trận, năm bị thương. Tất cả thương binh được trạm
cứu thương của Tiểu Đoàn 5 săn sóc.
Đã chín giờ đêm. Tiếng súng im hẳn.
Mưa cũng tạnh. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn yêu cầu tôi báo cáo tổn thất
và tình trạng thương binh. Trong báo cáo tôi nói rõ tình trạng
khẩn cấp của Thiếu úy Toàn. Ông sẽ không qua khỏi đêm nay nếu
không được di tản. Và thật là một niềm vui sướng cho tôi khi
biết tin sẽ có trực thăng đến tải thương. Tôi huy động nhân viên
đưa các thương binh ra cánh đồng, bãi đáp. Gặp Bác sĩ Cơ của
Tiểu Đoàn 5 Dù, chúng tôi vui vẻ bắt tay nhau, phụ lực khiêng
cáng. Chúng tôi sắp thương binh theo thứ tự ưu tiên di tản. Ba
chiếc trực thăng trong hai đợt đã cho Bác sĩ Cơ và tôi trút được
mối lo canh cánh bên lòng. Còn lại mười mấy xác chết phải chờ
đến sáng mai.
Tôi trở về căn nhà, cởi giầy rửa chân,
ăn cơm tối. Mười một giờ đêm. Trời lạnh buốt. Tôi nằm trên tấm
ván, không mùng màn. Một ngày máu lửa đã cho tôi cảm nghĩ gì?
Điều tôi ước mong đã đến: có đụng độ lớn, có chiến thắng. Nhưng
trong vinh quang tôi thấy buồn hơn vui. Chiến tranh ở giờ phút
này, trong tư tưởng tôi, không còn là một ván cờ như tôi thường
ví. Quân cờ bị loại là quân cờ vứt đi, nhưng những cái xác nằm
kia còn liên hệ ảnh hưởng đến biết bao nhiêu người.
Nếu hôm xảy ra trận đánh là một ngày
căng thẳng tinh thần, thì hôm sau là một ngày hành xác. Tờ mờ
sáng đã lo tải xác ra bãi đáp. Rồi theo tiểu đoàn tảo thanh vùng
mới chiếm. Quanh làng xác địch còn nằm phơi trong các hố cá
nhân. Họ mặc đồng phục ka–ki vàng. Theo lời khai của một trung
úy tù binh thì họ thuộc Sư Đoàn Sao Vàng. Tiểu đoàn này đóng ở
Hy Văn đã ba tháng nay. Không có bóng một người dân. Cảnh làng
tan nát. Lục soát đến trưa không có gì. Về vị trí cũ vừa nuốt
được miếng cơm lại có lệnh trực thăng vận.
Gặp tôi, ông tiểu đoàn trưởng nói, “Đi
gồng tí chơi, Bác sĩ.” Chúng tôi nhảy xuống ngọn đồi án ngữ phía
sau làng. Từ đó men theo con suối tiếng ngược trở xuống. Pháo
binh được gọi bắn vào những điểm khả nghi. Không gặp địch. Chúng
tôi trở về điểm xuất phát lúc năm giờ. Tính cơm nước thì có lệnh
rút. Chúng tôi băng ruộng trở lại Gia Hựu. Chờ mãi không thấy xe
đến đón. Có lệnh đổ bộ trong đêm tối. Mười giờ đêm mới đóng
quân. Mệt mỏi, tôi ăn qua loa rồi leo lên võng nằm. Trằn trọc
suốt đêm vì lạnh và vì không quen nằm võng. Sáng hôm sau lại
cuốc bộ về Hoài Sơn. Không biết tôi đã đi bao nhiêu cây số, chỉ
biết đôi chân mỏi vô cùng.
Một người đàn bà đứng tuổi đến mời tôi
đi thăm bệnh cho con gái bà, đau đẻ đã một ngày một đêm vẫn
không sinh được. Nhà bà ta ở ngoài vòng canh gác. Sau một phút
lưỡng lự, tôi cùng ba y tá theo gót người đàn bà. Tôi khám người
thiếu phụ và thấy cái thai nằm ngang nên không sinh được. Trường
hợp này ngoài khả năng tôi. Chỉ còn có cách đưa đi Qui Nhơn mổ.
Tôi trở về xin xe đưa người thiếu phụ lên Đề Đức, rồi liên lạc
với người Mỹ xin trực thăng. Họ rất sốt sắng. Chiếc trực thăng
cất cánh mười lăm phút sau đó.
Buổi chiều trò chuyện với ông tiểu
đoàn phó, vị sĩ quan mà tôi có nhiều cảm tình. Ông thuộc mẫu
người vui vẻ trong câu chuyện, nhưng cứng rắn trong công việc.
Tôi hỏi ông có bao giờ cảm thấy sự hy sinh của mình vô ích
không? Ông trả lời nếu chiến đấu để bảo vệ một số người thì thật
vô ích, nhưng để bảo vệ miền Nam thì ông sẵn sàng hy sinh khi
nào chiến tranh vẫn còn. Tôi lại hỏi ông có bao giờ ông chán nản
không. Ông đáp:
– Có, những lúc nhìn kẻ khác an nhàn
thụ hưởng mà mình thì cực khổ.
Rồi ông tiếp:
– Nhưng khi nhìn xuống thấy lính chúng
nó còn khổ gấp mấy trăm lần mình thì tôi lại thấy mình đầy đủ
quá.
Rồi như
để lái câu chuyện. Ông chỉ tay về phía một đám binh sĩ cười hỏi
tôi:
– Đố bác
sĩ biết hai đứa kia đang làm gì?
Nhìn theo ngón tay chỉ tôi thấy hai
binh sĩ ngồi dưới gốc dừa chăm chăm nhìn xuống đất. Một lúc có
tiếng cười, rồi một người lượm một tờ giấy mà tôi đoán là tiền
cho vào túi. Anh kia móc tờ giấy khác, xếp đôi bỏ xuống đất rồi
cả hai chăm chăm nhìn. Đoán mãi không hiểu họ chơi trò gì, tôi
lắc đầu. Ông tiểu đoàn phó cắt nghĩa:
– Chúng nó chơi trò con ruồi. Tờ giấy
một đồng được xếp làm đôi, mỗi đứa một nửa. Con ruồi đầu tiên
đậu lên tờ bạc nửa phía đứa nào là đứa nấy ăn.
Tâm hồn người lính thật bình dị. Họ
như quên hết những gì đã xảy ra. Không cần tìm hiểu thắc mắc,
tính toán. Đóng quân thì vui nghỉ. Cầm súng là hăng say chiến
đấu. Nhìn họ tôi thấy tôi còn xa lạ. Cũng áo hoa, mũ đỏ, nhưng
tôi nghĩ rằng phải còn lâu tôi mới trở thành một chiến sĩ Nhảy
dù đúng theo nghĩa của nó.
MĐ Trang Châu
Y sĩ Trưởng TĐ6ND
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, April 10, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang