Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng thời gian
Chủ đề:
Hồi Ký
Tác giả:
BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sài Gòn ngày 30 tháng Tư. Bài mới của ông là một hồi ký sống động và xúc động về những ngày cuối của cuộc chiến. -- Khuyết Danh.
Không một ai ở Miền Nam Việt Nam có
thể quên được những cay đắng, uất hận nghẹn ngào, nhục lụy, chết
chóc tang thương khi quân dân VNCH bị đồng minh bỏ rơi, đẩy vào
cảnh sụp đổ.
Sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng B, 1975, thảm
họa lan rộng khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến
quân khu 3. Trong cương vị nhỏ nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù
theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân tôi đã sống trọn
vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Ngày
30 Tháng 4,1975.
Trong một ngày vào tháng Hai 1975 khi
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1ND) với Thiếu tá Ngô Tùng Châu
làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm trên Quốc
Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẳng, sau chiến trận ở Thường Đức-Đại Lộc, Y
Sĩ Thiếu tá Nhảy Dù Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người
bạn thân đồng môn đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn
thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ1ND.
Ngay sau khi bàn giao, tôi được chở
thẳng đến phi trường Đà Nẳng để trong cùng ngày, trước Tết 1975,
vào Sài Gòn lãnh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ trưởng Tiểu Đoàn 15 ND.
Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 Trinh Sát
ND và Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn
4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung tá Lê Minh Ngọc, vừa
được thành lập vào đầu năm 1975.
Trên chuyến bay về Sài Gòn, lòng tôi
có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục vụ TĐ1ND trong 6
tháng kể từ ngày trình diện làm Y Sĩ trưởng TĐ 1 vào cuối tháng
7, 1974, đúng vào lúc TĐ1ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/
Thường Đức, tôi đã có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến
lừng danh hàng đầu của SĐND.
Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi
được đích thân người con trai của Cô ruột tôi là Đại úy Trần Văn
Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn bản
thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo
ta hay pháo địch, đào hố cá nhân nơi bất cứ dừng quân nào, đi
trên dấu giày của người đi trước để tránh đạp phải mìn, luôn đội
nón sắt và mang áo giáp, ngay cả khi sử dụng hố tiêu… Làm sao kể
cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên những sườn
đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau
từng điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau
từng ca cơm dưới những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.
Làm sao quên được những tiếng la hét,
ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy Tiểu Đoàn, Đại Đội và
Trung Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu, giữ
vững vị trí hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi
lại phản công, cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn
đồi, trước nhỏ nhưng về sau càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng
hay trong rừng rậm, tại từng con suối, bờ dốc. Trong đêm khuya,
hay giữa trưa. Vào sáng sớm hay cuối ngày. Trong mưa, trong nắng
hoặc trong sương mù. Vì làm gì có giới hạn thời gian trong trận
chiến. Vì làm gì có thời tiết thuận lợi khi xung phong. Và làm
gì có được sự công bằng khi địch nằm sẵn trong các công sự trên
đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải đánh để dành lại từng tất
đất, từng ngọn đồi, để đánh đuổi kẻ xâm lược và bảo vệ miền đất
tự do.
Qua
nhiều ngày với TĐ1ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được
tiếng pháo của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong
hầm với bộ chỉ huy, ngày ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nhìn lên
thấy từng làn chớp sáng của đạn địch chụp trên các ngọn cây lớn
kèm theo tiếng nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá văng tứ
phía. Đã bao lần tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá
nặng của thương binh đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn
đành đốt điếu thuốc lá đưa vào môi cho từng người để rồi đoán
chừng cái chết đến khi khói điếu thuốc thôi bay. Và cũng bao lần
tôi đã cúi đầu khóc thầm khi thấy những xác chết, cả quan lẫn
quân, được gói chặt trong poncho nằm từng hàng dài hai bên bãi
đáp chờ được bốc đi.
Nhớ và nhớ hình ảnh uy nghiêm đầy khí
phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non trẻ nhưng dạn dày
phong sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường,
nhưng họ vẫn giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết
được qua những lần trò chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay
qua những dừng quân ngắn trong khi cùng nhau vui đùa. Với họ,
tôi đã yêu những bản nhạc lính mà trước đây tôi từng chê là sến.
Với họ, tôi đã tìm thấy tình đồng đội qua thử thách trong máu
lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm luôn được gắn liền với 4
chữ “Nhảy Dù Cố Gắng”. Và với họ, tôi quên hẳn cái chết đằng sau
và nguy hiểm chờ đợi phía trước.
Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường
Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú, Tiểu Đoàn Phó của TĐ1ND, được đề
cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 15 ND tân lập và trước khi rời vùng,
Thiếu tá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi theo với Tiểu Đoàn tân
lập của ông. Thiếu tá Phú và tôi đã có những giao hữu tốt đẹp
trong thời gian ông trực tiếp chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ đánh
thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá đến cho Thiếu
tá Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh
đấm cũng như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi còn có cơ
duyên giúp cho Thiếu tá Phú về thăm vợ ở Sài Gòn đúng lúc, vì
nhờ lần thăm này mà vợ ông mới có thai lần đầu kể từ khi lấy
chồng vào cuối năm 1968.
Nếu được thuyên chuyển về Sài Gòn, tôi
chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều vui mừng vì không những
đây là hậu cứ của SĐND, xa hẳn nguy hiểm của chiến trường, mà
còn là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi.
Riêng với tôi, không những tôi được về gần nhà mình ở trong Cư
Xá Sĩ Quan Chí Hòa với Măng của tôi, mà đây còn là một cơ hội
quý báu để tôi có dịp gặp lại người tôi yêu và theo đuổi qua
suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở.
Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy cũng không ít gay go, so với
cuộc chiến tôi vừa trải qua ở mặt trận.
Tôi đến trình diện Thiếu tá Phú tại bộ
chỉ huy TĐ 15 ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn và bắt tay ngay
vào nhiệm vụ của mình trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân
trang, huấn luyện…Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ
chỉ huy TĐ như vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan
ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen với các y tá thuộc cấp trong Trung
Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách tiếp liệu y dược.
Vì Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ
Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân nhu cho TĐ tác chiến
nói chung và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần nào
được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đã có những buổi dạy về cấp
cứu căn bản ở chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa
phòng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho
riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sĩ của tiểu đoàn.
Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng chiến
100%, Thiếu tá Phú thường làm ngơ cho tôi vài ba giờ những khi
tôi ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi khi
tôi rời trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người
con gái tôi yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc tình 9 năm
trời lận đận dang dở và ước muốn hàn gắn nối lại mối tình đầu
đời của tôi. Người tôi yêu đang học năm cuối của khoa Chính Trị
Kinh Doanh tại Viện Đại Học Đà Lạt.
Với các bạn cùng khóa 16 Trưng Tập
Quân Y tình nguyện vào Nhảy Dù.
Hình We
Were Once Soldiers QYND1974, từ trái qua phải:
Các Trung úy Y Sĩ Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Cao
Đẳng,
Vĩnh Chánh, Nguyễn Thành Liêm,
YSĩ Thiếu tá Trần Quý Nhiếp, TĐ Phó TĐ Quân Y Nhảy Dù,
Lê Quang Tiến, Nguyễn Tấn Cương, Dược Sĩ Khánh.
Vào chiều Mồng Một Tết, hiên ngang
trong bộ đồ hoa dù và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn
dập đến với tôi khi tôi gặp lại nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa
cách. Sau đó tôi tiếp tục ráo riết chinh phục nàng qua những lá
thư đậm đà tình thương nhớ viết từ trại quân hay trong khi đi
hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng, trổ tài miệng
lưỡi chiếm được cảm tình của gia đình họ hàng. Mối tình của tôi
từ từ chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo của chiến
sự, càng ngày chúng tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.
Đó cũng là thời gian TĐ15ND bắt đầu
trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở vòng đai Biệt Khu Thủ
Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cộng nổi lên đây đó hậu
thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung
đã mất vào tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn
vị khác của những quân khu và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các
Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Liên Đoàn Biệt Động
Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ 2 ND lần lượt chịu những thiệt hại
lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có
của bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận,
những rã ngủ không chờ đợi, những triệt thoái vô nguyên lý,
những thành phố bỏ ngỏ, hay những trận đánh bất cân xứng, những
vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh đau thương trong giờ
thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của
cả quân và dân.
Ở Sài Gòn, tình hình chính trị lẫn
quân sự càng lúc càng đen tối dần. Sài Gòn với giới nghiêm sau
12 giơ đêm. Sài Gòn với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao
tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành
phố để lánh nạn, mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các
con đường di tản. Dòng đời chao đảo, đầy gian khó. Người đời
hoang mang vì mất lòng tin ở chính quyền. Có tin nhiều nhân vật
tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện
phải ra đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trử thức ăn
chuẩn bị cho một cuộc tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong
máu lửa. Ngoài đường người đông hẵn, ai nấy bước đi vội vả, ánh
mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đình ngồi triền miên
trước đài truyền hình hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn
chuyện to nhỏ.
Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở
giữa Tây Ninh và Sài Gòn, TĐ15 được lệnh về đóng quân tạm ở vùng
Hóc Môn Bà Điểm. Khi Thiếu tá Phú và tôi đi tìm gặp nói chuyện
với vị Giám Đốc của hãng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15ND
đóng bộ chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xảy ra
khi ông Giám Đốc buột miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh,
con rể ông Thạch không?” Tôi ngất ngây trả lời “dạ đúng” cùng
lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của Dì ruột nàng ở Thủ Đức mà tôi
có dịp gặp trước đây.
Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui
sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người em gái đến thăm tôi
ngay tại bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dã chiến,
nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và
đã e thẹn cười khi Thiếu tá Phú nói chọc “Bác Sĩ nhỏ con, người
yêu BS còn nhỏ con hơn, chắc hai người sẽ đẻ ra những thằn lằn
con nhỏ chút xíu!”
Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23
tháng 4, TĐ15ND được điều động đến bố trí ở cầu Bình Triệu, trên
trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xã Xuân Lộc vừa
mất. Một trận chiến kinh hồn đã diễn ra suốt 13 ngày đêm tại
đây. Quân đoàn 4 của CS Bắc Việt gồm các sư đoàn 5, 6, 7 và 34
với hàng trăm chiến xa đại bác dồn toàn lực tấn công. Sư Đoàn 18
Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo, với sự hỗ trợ của LĐ 1 ND, Liên
Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không quân lần đầu sử dụng những quả bom
lớn 5 tấn Daisy Cutter, đã chận đứng bước tiến của chúng, gây
thiệt hại rất nặng nề cho quân địch (*). Dù trễ, trận đánh đã
gây một tiếng vang lớn xa gần và khiến những chiến sĩ quanh tôi
và chính tôi lên tinh thần và tìm lại được khí thế hào hùng.
Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị
dồn vào chân tường nên đã quyết tâm anh dũng chiến đấu, chúng
tôi vẫn đang còn đây, cho đến giờ phút này, sẵn sàng chờ đến
lượt mình vào trận cuối cùng. Và cứ thế, TĐ15ND bám chốt với
lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính
cuối cùng.
Trong những ngày kế tiếp, từ sáng sớm cho đến chiều tối, tôi
chứng kiến hàng trăm hàng ngàn xe đủ loại, từ xe đạp cho đến các
xe Honda, Lambretta… xe quân đội lớn nhỏ, xe chở hàng cồng kềnh
đầy người và đồ vật, lính tráng thuộc đủ binh chủng và thường
dân, lũ lượt kéo nhau chạy trong hỗn độn từ hướng Biên Hòa về
Sài Gòn, ngang qua cầu Bình Triệu. Có lúc tôi tự hỏi làm sao
biết được trong đám người chạy loạn này, ai là bọn VC cố ý len
lỏi theo đám đông vào nội thành để hoạt động nội tuyến!?
TĐ15ND bung quân làm nhiều nút chặn ở
cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi nhận thấy TĐ có bố trí 2
xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe jeeps
khác với trang bị hỏa tiễn Tow. Đa số binh sĩ đều có mang trên
lưng loại rocket M 72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống
trả cản bước tiến của quân thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng Tiểu
Đoàn, tôi cố chuẩn bị trong khả năng của mình để cấp cứu và tản
thương theo hàng dọc.
Đêm 28 tháng 4, địch pháo kích dữ dội
vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Tiếng
nổ và những cột lửa bùng cháy trong đêm làm tôi thao thức tới
gần sáng. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế
sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này
cầu.
Sáng
ngày 29, tôi nhìn thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể
luôn cả cặp phi cơ phản lực bay vòng vòng như thể hộ tống. Xung
quanh tôi ai cũng mường tượng có một chuyện gì đang xảy ra ở Sài
Gòn, nhưng chẳng một ai biết đích thực. Không lẽ Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Nếu được như vậy, ít ra ta
cũng còn cơ hội củng cố lại, tình hình rồi sẽ tốt đẹp hơn…Tôi
ngây thơ mơ tưởng hay tự dối lòng?!
Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ
Fatima ở bên kia cầu Bình Triệu. Nhà thờ mở cửa nhưng không một
bóng người. Một mình, tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu nguyện,
xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đình
Măng tôi và gia đình nàng được bình an và nàng đừng rời nước để
chúng tôi còn gặp lại nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nhìn
thấychiếc máy điện thoại nằm trong góc và nẩy ra ý liên lạc với
nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay, từ cuốn
niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi tìm ra số điện thoại của
Cụ Mai Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với
nhà nàng. Sau khi Cụ An cho biết là gia đình nàng còn nguyên vẹn
đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn lại với ba của nàng là tôi, tự
nhận là con rể, bình yên và đang đóng quân ở cầu Bình Triệu. Rời
khuôn viên nhà thờ, lòng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự
trong tay Chúa an bài.
Đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội
vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Nhảy Dù. Tín
hiệu vô tuyến của Trung tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ 4 ND
hoàn toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TD15 ND với bộ
Tư Lệnh SĐND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 Tiểu Đoàn 12, 14 và
15 ND và Lữ Đoàn Phó vẫn còn giữ liên lạc với nhau.
Nàng đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy
Tiểu Đoàn
Trong cùng đêm, TĐ15ND có đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở
phía bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không ngủ, bên cạnh những
ly cà phê đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người ngồi
bất động, tư lự xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh
thoảng mới có một vài báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn
lên tiếng. Người nào trong đầu cũng đầy những câu hỏi mà chẳng
ai có thể trả lời.
Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư,
1975, tại bộ chỉ huy TĐ15ND, tôi đón nhận 4 người thương binh
của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản thương
gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết
tờ tản thương, Ban 3 TĐ cho biết không thể tản thương vì không
liên lạc được với bất cứ đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng
Y Viện Cọng Hòa. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với Thiếu tá
Phú ý định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn
Văn Học.
Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính
chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên “Xin đừng chuyển tôi đi
đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và trong tích tắc, anh lấy ngay
khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca, lên cò cái
rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên
nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động,
rồi tất cả đổ xô chạy chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ còn
kịp để thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng
ở mặt và đầu, máu văng tung tóe. Tôi cầm chặt bàn tay anh, người
y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dãn ra, đi vào cõi
chết.
Những
người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ
trong một khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã
làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế
anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi
cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong danh dự
với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy
cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh
biệt người lính.
Trong khi sự tự vận bất ngờ của người
thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn,
từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống
Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài
trên vô tuyến, Thiếu tá Phú quay về phía tôi và không một lời
giải thích, bảo tôi đi theo với ông. Tôi ngồi sau lưng Thiếu tá
Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin
và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính
khác. TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.
Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về
đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân toà Tỉnh Trưởng Gia Định.
Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong
sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. Thiếu
tá Phú đến bên tôi nói nhẹ “Bác sĩ đi đi!”, rồi ông quay lưng
lại tiến vào phía bên trong tòa tỉnh với toán binh sĩ của ông.
Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Thiếu tá Phú tại Việt Nam. Và
đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn Tiểu đoàn 15 Nhảy Dù. Tôi
cúi đầu, trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng,
trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc
nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghỉ
đến.
Đang
đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước
ngang bên cạnh tôi nói liền “ông cổi bỏ súng xuống và thay đồ
nhanh lên”. Như cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định
cổi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng có bộ áo quần dân sự
nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi
với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ áo quân đang
mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh.
Không một chút do dự anh ta thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nhìn
tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả
đôi dép nhật nữa…
Tôi cổi áo giáp, dây ba chạc có súng,
bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cổi đôi giày lính và bộ
quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo màu
xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía
đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Sài Gòn.
Nhà nàng.
Ba ngày sau 30 Tháng Tư 75:
lễ cưới được Cha Laroche
của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với
chúng tôi, đây là
“đám cưới chạy tang khi mất nước”,
diễn
ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới
Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường
vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón
sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn
đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, và có
những chiếc xe chở đầy người với mặt mày sắt máu, hô to khẩu
hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy
qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong
một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, lùng bùng trong tai
tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu;
lòng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ gì. Nhớ đến người thương
binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nhìn lên trời. Một màu
tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.
Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người
đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và
các em chạy nhanh xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu,
tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Thể tôi rã rời
và tinh thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu vì sao mình lại về
được đến nhà an toàn.
Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn
trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe
về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hòa cho bà cụ yên tâm, rồi
tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm
nơi đây, vì cư xá Sỹ Quan Chí Hòa quá nguy hiểm.
Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở
balcon nói chuyện với nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá
thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên con
đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt,
viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuổi ngày đen tối, đọa đày
và tôi e ngại tôi chẳng còn khả năng làm bóng mát cho em. Nàng
ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã
được quyết định tự lúc nào.
Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng
Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ
thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ
Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước,
lễ cưới được Cha Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với
chúng tôi, đây là “đám cươi chạy tang khi mất nước”, diễn ra
trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. Hình ảnh kỷ niệm chỉ có hai
tấm hình đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi
đi tù vượt biên, em đã cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho đến
khi chúng ta đến bến bờ tự do.
Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến
người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, bạn
đồng môn đồng khóa và đồng binh chủng Quân Y ND với tôi, người
được sinh ra vào ngày 30 tháng 4, năm 1946, cùng tan hàng rã ngũ
như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm 1975 và đã vĩnh viển ra đi cũng
vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD, USA.
Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn
1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đã chết trong bão tố khói lửa hay
còn sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở
trong nhà tù lớn tại Việt Nam, với những kỷ niệm chinh chiến
không thể quên.
“Cho
tôi xin lại ngọn đồi, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bờ rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lần chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Xin cho tôi được nằm gần, bên ngàn chiến hữu của tôi”.
Viết trong tháng Tư, 2013, tại
California.
Vĩnh Chánh
(*)Tài liệu tham khảo cho bài viết:
1. Chiến Sử Sư Đoàn Nhảy Dù
2. Battle of Xuan Loc, by
Phillip B. Davision
3. Fighting is an art, by George J.
Weight
4. Fighting to the end, by Brigadier General Trần Q.
Khôi
5. vietnamwar.net
6. http://sudoan18bobinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Huỳnh Lương Thọ, K4-71/SQTB/TĐ,BĐTCĐT/SĐND QLVNCH chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, July 4, 2018
Cập nhật ngày Thứ Tư, August 19, 2020 -
Sửa phần ghi chú hình 3
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang