Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Chủ đề: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Tác giả: Bùi Anh Trinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Xin chuyển quý độc giả một đoạn dịch 6 trang trong quyển Years of Upheaval by Henry Kissenger (1981) nói về TT Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng Thống tài năng và tâm quyết với đất nước và rất đáng kính của Việt Nam Cộng Hòa.. --VND
“Cho đến hôm nay, tôi
kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám
chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông.”
(Kissinger)
Trích sách “Giải Mã Những
Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh.
Sự
tức giận của Tổng thống Thiệu là có lý. Nguyễn Văn Thiệu là một
con người tự ái rất lớn. Sự thực, ông không phải là người có
nhiều tham vọng theo như tiêu chuẩn đánh giá của CIA (Người
được CIA hỗ trợ bắt buộc phải là người có tham vọng);
ông cũng không phải là tay cơ hội chủ nghĩa như Nguyễn Khánh hay
Nguyễn Cao Kỳ, cũng không phải là cục bột để người ta đặt đâu
ngồi đấy như Dương Văn Minh. Hồi ký của Westmoreland cho thấy
Thiệu không hề có ý định ra tranh cử chức Tổng thống vào năm
1967, khiến cho Westmoreland đã hết lời khuyên ông với lý do nếu
để chức Tổng thống rơi vào tay Kỳ thì mọi sự hỏng hết... Và rồi
sau khi nhận chức Tổng thống thì ông Thiệu đương nhiên mang lấy
trách nhiệm tối hậu về sinh mạng của binh lính và về lợi ích của
dân tộc.
Giờ
đây ông không cho phép ông buông tay, bởi vì hễ cộng sản chiến
thắng thì một cuộc tắm máu sẽ đổ ra mà ông phải là người chịu hết
trách nhiệm. Tài liệu của cựu Đại sứ Bunker do Giáo sư Stephen
Young phổ biến cho biết Trần Thiện Khiêm đã gởi tới Tòa đại sứ
một cuộn băng ghi âm (lén) cuộc nói chuyện riêng giữa Tướng Thiệu
và Tướng Khiêm, trong đó cóđoạn Thiệu nói với Khiêm rằng nếu đại
cuộc thất bại ông sẽ chọn cách giải quyết như Phan Thanh Giản,
nghĩa là tự xử lấy bản thân mình một khi trách nhiệm không hoàn
thành (Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng,
trang 509).
Vì
tự cho rằng mình phải mang trên vai một gánh trách nhiệm quá lớn
cho nên Tổng thống Thiệu không cho phép ai khinh thường ông.
Không may là Kissinger lại rơi vào trường hợp đó. Hành động đánh
lừa Thiệu trong suốt thời gian mật đàm là một bằng chứng cho thấy
Kissinger coi thường ông. Rồi thái độ thiếu thành thật của
Kissinger trước mặt ông và chính phủ của ôngđã khiến cho ông
quyết định phải cho Kissinger biết tay cho dù không cần biết
Kissinger phải hay quấy, đúng hay sai. Vì thế mà ông bác tất cả
những biện bạch của Kissinger với những lý do rất có lý ở ngoài
mặt nhưng xét cho cùng thì cái lý của ông không đủ sức thuyết
phục. Nghĩa là ông thừa biết Kissinger đã đem lại điều lợi cho
ông, và đúng như Kissinger đã nói, nếu ông ta muốn bán đứng VNCH
thì không thiếu gì cách hay hơn nhiều.
Kissinger nể phục Tổng thống
Thiệu. Năm 1981, Kissinger ghi lại trong hồi ký nhận xét
của ông về cá nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong thời gian
ông Thiệu viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1973:
“...
Cái ông ta cần là tiếp tục chiến đấu cho đến khi kẻ xâm lăng cuối
cùng ra khỏi lãnh thổ. Đây không phải là điều sai của ông nhưng
công luận Hoa Kỳ thì lại không chấp nhận... Chúng ta biết rằng
Băc Việt sẽ gia tăng sức ép, nhưng chúng ta đã không gia tăng lực
lượng chống trả và quốc hội chúng ta sẽ bỏ phiếu bắt buộc chúng
ta bước ra khỏi cuộc chiến này vô điều kiện nếu chúng ta vượt quá
giới hạn...
Ông Thiệu luôn nhìn vào chuyện trước mắt là quan trọng nhất. Cái
gần nhất với ông không phải là hòa bình sau cùng mà là địch quân
trước mắt... Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên
kia bán cầu, còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp
tục hy sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông
Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm
tham vọng của Hà Nội. Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ quan ngại vào
những điều mong manh về sau này...
Ông Thiệu càng lúc càng ghét cay ghét
đắng tôi vì vai trò kiến trúc sư của tôi về thỏa ước hòa bình
này. Trong lúc này tôi chỉ biết thông cảm sâu xa về nỗi bực tức
của ông, nhưng chúng ta không có chọn lựa nào khác. Hoa Kỳ không
thể phủ quyết khi Hà nội đã chấp thuận, những điều khoản rất hòa
bình chúng ta đã đề ra với sự chấp thuận của ông Thiệu cho thời
hạn ba năm.
Cho đến hôm nay, tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào
hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một
kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân
ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng
ta...
Rõ ràng
hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh
xa vùng đất CS chiếm đóng tức đã bầu cho ông ta rồi. Thói thường
hay đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn
một điều là đó là phản ứng đối với tính bạo tàn của chế độ CS.
... Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại
chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo
chiều ngược lại. Thế mà vẫn còn những thói khinh mạng, xúc phạm
cùng đối xử bất xứng để dành cho bạn bè Tây phương chúng ta như
trường hợp ông Thiệu năm 1973...
Như là một phép lạ phát xuất từ lòng
dũng cảm, ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn
cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an
tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ước
1973 trong đó Hà Nội phải từ bỏ những đòi hỏi về chính trị từ bao
lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn còn tốt hơn chúng ta
mong đợi, tuy còn bấp bênh theo kỳ vọng của ông... Về riêng tư
duy, tôi dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông
vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm
(nguyên văn: terrible loneliness) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ.
Ông chấp nhận những cảm tình và thông
hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông
hao mòn đi... Thực sự, chẳng còn gì nhiều để bàn thảo thêm nữa.
Ông chẳng hề kêu van về công chuyện
chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả cái dã tâm từ phía Hà Nội.
Nhưng ông đưa ra một sự kiện thưc tế trước mắt chúng ta là vi
phạm từ phía Bắc Việt. Về riêng tư, TT Nixon có bảo đảm với ông,
cũng như TT đã từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác,
rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu
thấy cần thiết. Cùng một lúc TT (tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa
dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của
hiệp định đề ra...
Khi máy bay của ông cất cánh khỏi
California, ông đã khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài lòng cùng
khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon. Dù tánh ông
hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần –
gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của
Hà Nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam, thế mà lòng tin
của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ
cho miền Nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là niềm tin từng
được các đồng minh khác của Hoa kỳ ấp ủ xưa nay, lòng trung thành
từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa Kỳ chúng
ta đối với thế giới; thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó
vuột mất...”
(Kissinger, Henry. Years of Upheaval. 1st ed. Boston: Little
Brown, 1981. Từ trang 309 đến trang 315. Bản dịch của Xuân Khê).
http://vietnamchinhluan.blogspot.com.au/2013/01/xuan-khe-vai-trang-nhat-ky-cua.html.
[link không còn hoạt động]
Sau này, vào năm 1979, Cựu Ngoại trưởng
HK Kissinger viết cuốn hồi ký đầu tiên nhan đề là The White House
Years, trong đó ông ta quy trách cho Tổng thống Thiệu nhiều điều
không đúng với sự thực. Buộc lòng cựu Tổng thống Thiệu đã thu xếp
một cuộc trả lời phỏng vấn với tờ báo Đức Der Spiegel, trong đó
ông có giải thích vì sao ông từ chối bản dự thảo Hiệp định
(1).
Bản dự thảo Hiệp định chỉ có bản tiếng
Anh, chứng tỏ nó “không được sửa soạn bởi VNCH và Hoa Kỳ, mà bởi
Bắc Việt và Hoa Kỳ. Trong khi đó “Chúng tôi cần một bản hiệp ước
định đoạt số phận của dân tộc chúng tôi bằng ngôn ngữ của chúng
tôi.” (2)
Sau đó, Kissinger đã đưa ra bản tiếng
Việt, Tổng thống Thiệu hỏi ai viết bản tiếng Việt, Kissinger cho
biết đó là một người Mỹ rất giỏi ngôn ngữ tiếng Việt cùng viết
với Bắc Việt.
Cựu Tổng thống Thiệu nhận xét:
“Không có một người Mỹ nào hiểu
biết và viết tiếng Việt giỏi hơn người Việt Nam... Không có một
người Mỹ nào có thể đối phó với những người cộng sản Việt Nam
bằng ngôn ngữ Việt Nam tốt hơn chính chúng tôi.”
(3)
Cựu Tổng thống Thiệu cũng giải thích về
việc ông đòi hỏi Hiệp định phải quy định Bắc Việt phải rút hết
quân tại Miền Nam: “Nếu họ thực sự mong muốn tìm kiếm hòa bình
thì tại sao họ lại cứ khăng khăng đòi lưu quân ở lại Miền Nam?”
(4)
Nhận xét về giá trị của bản dự
thảo Hiệp định:
“Chúng
tôi có quyền đòi hỏi một bản Hiệp ước đưa tới hòa bình thực sự và
lâu dài chứ không phải là hòa bình trong hai ba tháng rồi lại
tiếp tục chiến tranh.”
(5)
Về việc Kissinger cáo buộc Tổng
thống Thiệu từ chối bản dự thảo là cản trở hòa bình:
“Cái hiệp ước đó có mang lại hòa
bình không? Hậu quả của hòa bình tại Việt Nam như thế nào đã
chứng minh cho sự từ chối của tôi.”
Tựu chung, Tổng Thống Thiệu từ chối vì
các câu chữ trong văn bản chứ không phải là vì những quy định
trong văn bản. Trước sau, ông không thấy ra thành tâm thiện ý của
Kissinger. Ông đòi hỏi phải có một nền hòa bình thực sự và lâu
dài, nhưng đòi hỏi này đồng nghĩa với đòi hỏi để cho ông chiến
thắng. Làm sao mà ông có thể chiến thắng được trong khi tất cả
mọi người Mỹ đều cầu mong cho ông chiến bại?
Bùi Anh Trinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by vnd chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 18, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang