Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Chủ đề: Tướng Nguyễn Cao Kỳ & Chính phủ VNCH
Tác giả: Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời Tác giả:
Bs Nghĩa thân mến,
BS gởi cho tôi bài viết của
TS Geofrey Shaw, chỉ trích Tướng Nguyễn Cao Kỳ và chính quyền
Nam VN trong hai năm 1964/1965. Ông ấy nêu lên nhiều
điểm chỉ trích sai. Tôi viết trả lời thơ ông hỏi tôi về bài viết
đó. Bài viết của tôi không trả lời thẳng những phần chỉ trích
của ông ấy mà tôi chỉ trình bày trung thực những dữ kiện lịch sử
liên quan đến nhũng điều mà TS Shaw thắc mắc, để ông đọc, suy gẫm
lại xem.
Dưới đây là ý kiến của tôi về bài viết này. Tuy
nhiên BS muốn sử dụng cách nào cũng được, muốn để như vậy, dịch
ra Anh ngữ hay bất cứ dùng về việc gì cần.
BS đọc cho hết,
thấy chỗ nào sai sót xin cho biết. Tôi sẽ hoàn tất trước ngày mổ
mắt cataract. Hay có phần nào cần giải thích thêm, tôi viết để
thêm vào.
Thân mến,
Văn Nguyên Dưỡng
Bài
viết của TS Geofrey Shaw khá dài về Tướng NCK như một sự bôi bác,
nêu lên những khía cạnh yếu kém của MIền Nam Việt Nam hơn là của
cá nhân NCK, hay của Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ, trong năm bản lề
1965. Trên thực tế, tất cả sự yếu kém của Miền Nam thời điểm đó
đều do những policy-makers ở White House tạo ra như:
Về Chính trị: đảo chính, giết TT Ngô
Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu mà không dự trù người thay thế
tạo nên khủng hoảng lãnh tụ, đảo chính liên miên, quân đội chia
bè phái, xã hội bất ổn. Đại sứ HK tại Sài Gòn là tay võ biền
thiếu kiến thức chính trị, Tướng Maxwell Taylor hống hách coi
thường các tướng lãnh VN hơn là kết hợp họ lại để nắm vững quân
đội. Điều này rất rõ ràng, rất nhiều sử gia và chính khách HK
viết ra, nhưng không thấy TS Shaw đề cập đến.
Về Quân sự: chính sách Trung Lập Lào
1962, bỏ ngỏ hành lang biên giới đông nam Lào, để mặc cho CSVN
đưa hơn sáu (6) sư đoàn chính quy xâm nhập vào Miền Nam, nhất là
vùng A Shau, A Lưới, QL-14 Cao Nguyên và miền tây bắc Sài Gòn,
nên đã diễn ra những trận đánh lớn mà Shaw đề cập đến và đổ lỗi
cho sự bất lực của Quân Đội Miền Nam. Trách nhiệm chính phải là
các tay làm chính trị bàn giấy ở White House hơn là do sự bất tài
của Ông Thiệu hay Ông Kỳ. Điều quan trong này sao không thấy TS
Shaw nói đến?
Về tổ chức Cảnh Sát và Nhân Dân Tự Vệ: ngay cả quân đội chính quy
đều do HK quyết định, kể cả tổ chức và ngân sách, các Tướng
Thiệu-Kỳ làm được gì mà quy trách cho.
Trở lại khúc quanh lịch sử này, cần
phải nêu lên các sự kiện hiển nhiên mà ai cũng biết:
1) Hoa Kỳ mua đứt Khối Phật
Giáo và một số Tướng lãnh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Hoa Kỳ mua đứt nhóm lãnh tụ Phật Giáo
để làm sức mạnh chính chống lại chính quyền NĐ Diệm. Người lãnh
tụ quan trọng nhất là Thích Trí Quang. Sau khi nhóm tướng lãnh
đảo chánh thành công, quân cờ này càng được HK coi trọng hơn nữa
trong việc xách động hàng ngũ các tướng lãnh đạo cuộc đảo chính.
Yêu sách đầu tiên là phải yêu cầu đón Đại tá Nguyễn Chánh Thi,
người được HK yểm trợ đảo chánh Ông Diệm năm 1961, thất bại và
lưu vong ở Nam Vang, về nước làm hậu thuẫn và để lập thế tiếp cận
với quân đội.
Ai cũng biết, ngoài Thích Trí Quang và một số lãnh tụ Phật Giáo
được HK mua chuộc, còn có hai sĩ quan cao cấp cũng được CIA nuôi
dưỡng và quý chuộng hết mức là Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Chánh
Thi.
Theo hồi
ký của Đại tá Phạm Bá Hoa, lúc đó là Chánh văn phòng của Tướng
TTK cho biết chính Tướng TTK mới là vai chủ chốt liên lạc với
phía HK trong việc tiến hành cuộc đảo chính ngày 1/11/1963. Sau
đó, cũng chính Tướng TTK âm mưu cùng Tướng Nguyễn Khánh lật đổ
Dương văn Minh, đưa Khánh lên thế.
Sau khi đã nắm chính quyền, để mua
chuộc quân đội, Khánh phong cấp tướng một sao cho một số Đại tá
trẻ và nới rộng việc thăng cấp trong quân đội.
Nếu tôi nhớ không lầm thì có đến hơn
mười Đại tá được phong tướng một sao. Đó là: Chung Tấn Cang, Tư
lệnh Hải Quân - Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh Không Quân - Lê Nguyên
Khang, Tư lênh Thủy Quân Lục Chiến - Nguyễn Chánh Thi - Vĩnh Lộc
- Ngô Du - Đặng văn Quang - Lữ Lan - Albert Nguyễn Cao (Thủ khoa
Khóa 4 Liên Quân Đà Lạt) - Nguyễn Đức Thắng và Nguyễn Bảo Trị.
Trong các vị được phong tướng khoảng từ
tháng 5 đến tháng 8/1964 này, có năm vị sau đó được bổ nhậm Tư
lệnh Quân Đoàn như Đặng văn Quang, Nguyễn Chánh Thi, Vĩnh Lộc,
Ngô Du, và Lê Nguyên Khang.
Nguyễn Chánh Thi là người mang cấp
Trung tướng 3 sao trước tiên, vào đầu năm 1965 và là Tư lệnh Quân
Đoàn I - Quân khu 1, trong khi Nguyễn Cao Kỳ và Chung Tấn Cang
chỉ thăng đến 2 sao.
Huế và Đà Nẵng là môi trường thích hợp
cho cặp bài trùng Thích Trí Quang và Nguyễn Chánh Thi, con cưng
của HK, cùng hợp tấu khúc chính trị và quân sự. Hẳn là TS Shaw
biết rõ điều này nhưng không nói ra. Vi điều ông ta nêu lên về
Thích Trí Quang mà ông hết lời tôn sùng là vì TTQ thao túng quyền
hành và phục vụ đắc lực cho HK, như dưới đây.
2) Hoa Kỳ chủ trương triệt hạ
nhóm Tướng lãnh kỳ cựu thân Pháp và đào tạo thế hệ Tướng Trẻ [The
Young Turks], chia rẽ Quân Đội để dễ thao túng.
Thích Trí Quang đã thu phục được
Nguyễn Chánh Thi để mặc cả thành công với Khánh, buộc Khánh phải
thông báo mọi quyết định chính trị, hành chánh và quân sự quan
trọng cho TTQ trước khi đem ra thi hành, để ngược lại Khánh sẽ
được khối Phật Giáo Ấn Quang của TTQ ủng hộ, có nghĩa là được HK
yểm trợ vì ai cũng biết HK coi TTQ như là cố vấn và là tay sai
đắc lực nhất của HK ở Miền Nam ở thời điểm đó, hơn bất cứ một
tướng lãnh hay nhà chính trị nào.
Cần phải nhắc lại: khi Nguyễn Chánh Thi
từ Nam Vang được rước về, nhóm tướng lãnh đảo chánh phục hồi cấp
bậc Đại tá và phong cho làm Tư lệnh phó của Nguyễn Khánh ở Quân
Đoàn I. Khi Nguyễn Khánh cùng với Trần Thiện Khiêm chỉnh lý Dương
Văn Minh để nắm chính quyền, có sự góp công của Nguyễn Chánh Thi,
Thi được phong Chuẩn tướng tháng 5/1964, được Khánh bổ nhậm Tư
lệnh SĐ1BB rồi Tư lệnh Quân Đoàn I. Thi ủng hộ Hiến Chương Vũng
Tàu, được Khánh phong cấp Thiếu Tướng, tháng 8/1964. Tình nghĩa
tưởng như đậm đà, nhưng sau đó Thi đã phản bội Khánh.
Khi nắm chính quyền, Tướng
Nguyễn Khánh bộc lộ hai sở đoản chính:
Một là tin dùng và nâng đỡ những cấp
tướng trẻ người Bắc (Kỳ, Khang, Trị, Thắng) và người Trung (Thi,
Lộc, Du, Lan) trong khi đó lại nghi ngờ các cấp tướng kỳ cựu như
Đôn, Kim, Đính, Xuân, Vỹ chủ trương trung lập, bắt và giam họ ở
Đà Lạt, đồng thời loại Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, một nhà cách mạng
kỳ cựu, chủ tịch Đảng Đại Việt, lúc đó là Phó Thủ tướng cho
Khánh ra khỏi nội các và bạc đãi các sĩ quan cao cấp của Đại Việt
phục vụ trong quân đội. Khánh cũng không trọng dụng các tướng
lãnh người Nam, trong khi Khánh là người Trà Vinh - trừ người duy
nhất là Tướng Albert Nguyễn Cao, Tham mưu trưởng biệt bộ của
Khánh.
Hai là,
tuy lên đến tột đỉnh quyền lực, nhưng không có tài, thiếu đầu óc
tổ chức và không gây dựng được thế lực hậu thuẫn trung thành, nên
Khánh cũng không giữ chính quyền được lâu. Và vì nghi kỵ không
tin dùng các tướng lãnh và bỏ lơ các Đại tá kỳ cựu người Nam,
nhất là khi bãi chức của BS Nguyễn Tôn Hoàn, xóa bỏ tam đầu chế,
buộc Dương văn Minh lưu vong và đưa Trần Thiện Khiêm đi làm Đại
sứ ở Hoa Kỳ nên cuộc đảo chánh lần thứ nhất diễn ra ngày
13/9/1964 do Trung Tướng Dương văn Đức và Đại tá Huỳnh văn Tồn,
Đảng Đại Việt, Tư lệnh SĐ7BB, kéo quân từ miền Tây lên Sài Gòn,
chiếm nhiều cơ sở trọng yếu và đưa một cánh quân định bắt Tướng
Khánh ở Cư Xá Bộ TTM, trong Trại Trần Hưng Đạo.
Khánh thoát được, giao cho Nguyễn Chánh
Thi chỉ huy các đơn vị bộ chiến, phối hợp với Không quân của
Nguyễn Cao Kỳ, chống quân đảo chánh. Tướng Đức và Đại tá Tồn rút
quân, bị buộc tội và cho giải ngũ. Thi và Kỳ bắt đầu tranh công
lao. Rối ren chính trị ở Sài Gòn nhiều hơn và hoạt động của CSBV
ở Cao Nguyên mạnh hơn, bộ đội Bắc Việt xâm nhập với mức độ cao
hơn.
Nguyễn
Khánh tuy thoát được cuộc đảo chánh, nhưng khối Phật giáo và sinh
viên tiếp tục biểu tình chống Khánh và đòi thành lập quốc hội lập
hiến, thành lập chính phủ dân sự, đả đảo Khánh.
Trước đó, từ cuối năm 1963, sau khi đảo
chánh TT Ngô Đình Diệm, khối Phật giáo tranh công, lãnh tụ Phật
giáo chia rẽ, chống đối nhau đến độ Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge
phải dàn xếp, lập Khối “Phật Giáo Thống Nhất”... Nhưng kỳ thực,
Phật giáo vẫn chia thành hai phái: Phái Ấn Quang do Thích Trí
Quang lãnh đạo và phái Vĩnh Nghiêm do Thích Thiện Minh, quản
nhiệm luôn Viện Hóa Đạo.
Dưới áp lực của nhiều phía, Phật Giáo,
các đảng Chính trị Quốc gia và kể cả một số tướng lãnh, Khánh
nhượng bộ, chịu thành lập chính phủ dân sự.
Tháng 10/1964, Khánh và Hội Đồng Tướng
Lãnh triệu tập thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia gồm 9 nhân sĩ
và mời Nhà Cách Mạng lão thành, kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch
Thượng Hội đồng giữ chức vụ Quốc Trưởng, đồng thời mời Giáo sư
Trần văn Hương giữ chức Thủ tướng Chính phủ.
Việc mời cụ Trần văn Hương không hạp ý
HK và Thích Trí Quang. HK định chọn Ông Trần Quốc Bửu, Tổng Liên
Đoàn Lao Động VN vào chức vụ Thủ tướng. Chỉ một tháng sau, Tướng
Khánh ra lệnh bắt giam Thủ tướng Hương đem giam lỏng ở Vũng Tàu
và bắt 4 nhân sĩ khác trong Thượng Hội Đồng đem giam ở Pleiku. Từ
đó tạo nên sự lục đục giữa Tướng Khánh và Đại sứ Maxwell Taylor.
Đó là sự kiện báo hiệu sự bất tín nhiệm của Hoa Kỳ đối với Tướng
Khánh.
Ngày
27/1/1965 Hội Đồng Tướng Lãnh họp, mời Bác Sĩ Phan Huy Quát thay
thế cụ Hương. HK chưa thỏa mãn và khối Phật Giáo vẫn chưa hài
lòng, vì có thể đã không thao túng được cụ Phan Khắc Sửu và Thủ
tướng Phan Huy Quát, mặc dù chính phủ của Ông không có thực
quyền.
3) Hoa Kỳ đem quân bộ chiến vào Nam Việt Nam và trực
tiếp lãnh đạo chiến cuộc.
Kể từ tháng 1/1964, TT Johnson đã phải
đối đầu với tình trạng bất ổn về chính trị và xã hội Mỹ sau khi
TT Kennedy bị ám sát ở Dallas ngày 22/11/1963, đồng thời Ông phải
có những quyết định dứt khoát về cuộc chiến chống sự bành trướng
của CS ở Đông Dương.
Cuộc chiến khép kín [tacit war] ở Lào
và cuộc chiến mở rộng [open war] ở Nam Việt Nam. Cả hai cuộc
chiến này đều do CSVN phát động. Gạch nối giữa hai cuộc chiến đó
là Đường Mòn Hồ Chí Minh, kết quả của Hiệp định Trung Lập Lào,
năm 1962, do sáng kiến nông cạn của Thứ trưởng Ngoại giao Averell
Harriman. Con đường mòn này là hành lang xâm nhập của hàng trăm
ngàn quân CSBV vào Nam trong các năm kế tiếp. Cuộc chiến trở nên
không thể tránh ở thời điểm sau đó. Điều sai lầm to lớn này sao
không thấy TS Shaw nói đến mà lại đổ cho sự bất lực của Quân Đội
Quốc Gia. Thêm nữa, TT Johnson đã quyết định nối tiếp kế hoạch
đưa quân bộ chiến [ground force] vào Miền Nam của Kennedy và trực
tiếp lãnh đạo cuộc chiến Việt Nam. Điều này quan trong nhất, TS
cũng không đề cập đến!
Thực vậy, tháng 3/1964 TT Johnson đưa
Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara sang duyệt xét tình hình chiến sự
ở Việt Nam. Khi trở về Washington trình TT là, về chính trị, cần
chận đứng ngay chủ trương Trung lập Miền Nam của Pháp; về quân
sự, Nam Viêt Nam cần phải tổng động viên, lập thêm đơn vị và
trang bị tối tân hơn. TT Johnson tức khắc triệu tập Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia. McNamara tuyên bố là Miền Nam có thể sụp đổ nếu
Hoa Hỳ không hành động. TT Johnson ra lệnh chuẩn bị kế hoạch
37-63 cho Không lực HK dội bom Bắc Việt và tái dội bom trên Đường
Mòn Hồ Chí Minh đã đình chỉ sau Hiệp ước Trung lập Lào từ năm
1962; dự trù đưa quân bộ chiến vào Nam Việt Nam đồng thời phác
họa kế sách hòa bình với Bắc Việt.
Tất nhiên, TT Johnson đã hiểu được
rằng, trước đó, TT Kennedy cho phép đảo chính và triệt hạ gia
đình họ Ngô là một sai lầm chiến lược quan trọng vì các tướng
lãnh kỳ cựu như Minh, Đôn, Kim, Xuân, Vỹ do Pháp đào tạo vẫn còn
mang tư tưởng thân Pháp trong lúc mà De Gaule đang chủ trương
trung lập Nam Việt Nam.
Hoa Kỳ, trước tình thế phải giữ quân
bài domino Nam Việt Nam, nhưng không thể tin tưởng được nhóm
“tướng đảo chính”, nên chọn Trần Thiện Khiêm làm con chủ bài
“chỉnh lý” đưa Nguyễn Khánh lên nắm quyền, vì Khánh trước đây đã
từng là người cứu nguy cho TT Diệm năm 1961 và thật ra Khánh có
tài cầm quân.
Hoa Kỳ thành công trong việc triệt hạ nhóm tướng tá kỳ cựu thân
Pháp và đào tạo được nhóm tướng lãnh trẻ thân Mỹ, như trình bày ở
trên qua tay của Khánh, để phù hợp với sách lược quân sự mới của
Hoa Kỳ ở Việt Nam. Chiến lược đó gồm hai phần: chiến tranh và hòa
bình.
Trước
tiên, HK nhờ Đại sứ Canada James Blair Seaborn, Ủy viên trong Ủy
ban Điều Hợp Hiệp Định Geneve 1954, ở Việt Nam, đến Hà Nội gặp
Phạm văn Đồng, Thủ tướng Bắc Việt, trao Thông điệp Hòa Bình với
nhiều điều kiện hữu ích cho Miền Bắc phát triển kinh tế, xã
hội, v.v. Đồng thẳng thừng từ chối các điều kiện hòa bình và yêu
cầu Seaborn chuyển đạt cho Hoa Kỳ là điều kiện ưu tiên Hoa Kỳ
phải rút khỏi Việt Nam, để cho Miền Nam trung lập và cho biết là
Hà Nội chấp nhận chiến tranh.
Tháng 8/1964, Seaborn trở lại Hà Nội.
Đồng vẫn giữ luận điệu cũ và nói rõ hơn quyết tâm đánh Mỹ đến
cùng. Seaborn trở lại Washington cho biết, CSBV ra lệnh cho quần
chúng đào hầm hố, giao thông hào chống bom và chuẩn bị chiến
tranh ở ngay các khu phố Hà Nội. White House biết là kể hoạch
“củ cà-rốt và chiếc roi” của mình chỉ có thể áp dụng vế chót mà
thôi. Nghĩa là phải tiến hành chiến tranh.
Sự kiện Khu Trục Hạm Maddox của Hoa Kỳ
bị các loại khinh tốc đỉnh của CSVN tấn công khi đi tuần duyên ở
ngoài khơi hải phận quốc tế, trong Vịnh Bắc Việt [Gulf of Tonkin]
ngày 2/8/1964 là lý do để Hoa Kỳ trực tiếp lâm chiến.
White House nhận tin này lúc nửa đêm.
TT Johnson ra lệnh cho chiếc Khu Trục Hạm USS C.Turney Joy vào
vùng bắt tay với USS Maddox. Hai ngày sau Washington nhận được
báo cáo là cả hai chiến hạm khi tiếp cận nhau lại bị khinh tốc
đinh CSBV tấn công lần nữa, đó là ngày 4/8/1964. Hội Đồng An Ninh
Quốc Gia đề nghị TT Johnson nên trả đũa ngay.
Ngày hôm sau 5/8/1964, kế hoạch 37-63
dội bom Bắc Việt được thi hành cấp tốc. Lúc 10:30 giờ khi TT
Johnson đang tuyên bố với quốc gia là CSBV gây chiến và tấn công
chiến hạm của HK ở Vịnh Bắc Việt, Hoa Kỳ cần phải trừng phạt, thì
lúc 11:00 giờ, 64 chiến đấu cơ từ Hạm Đội 7 đã cất cánh oanh tạc
và dội bom thành phố Vinh, thuộc lãnh thổ Bắc Việt. Tiếp đến,
ngày 7/8/1964 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt
[Gulf of Tonkin Resolution], với 416-0 ở Hạ Viện và 88-2 ở Thượng
Viện chấp thuận trao quyền cho tổng thống sử dụng mọi biện pháp
cần thiết chống lại bất cứ lực lượng võ trang nào tấn công quân
lực Hoa Kỳ ở Đông Nam Á và sử dụng quân đội để yểm trợ cho Khối
quân sự Hiệp Ước Đông Nam Á, SEATO [South-East Asia Treaty
Organization]. Đây là quyết nghị tuyên chiến với CSBV.
Kịch bản “Maddox” hẳn là do phe diều
hâu còn sót lại trong số các cận thần cũ của Chính phủ Kennedy mà
Johnson vẫn còn tin dùng dàn dựng để Hoa Kỳ thực hiện sách lược
mới ở Đông Nam Á và Việt Nam. Đại đa số giới chính trị bàn giấy
này luôn luôn muốn đem quân bộ chiến vào và sử dụng Việt Nam như
một vùng đất thử nghiệm cho sách lược chống chiến tranh bạo động
của CS - counterinsurgency strategy - do TT Kennedy chủ trương
trước đó. Kỳ thật, chiến tranh của CS là một cuộc chiến tranh
cách mang, “A Revolutionary War” toàn diện và trường kỳ, chia ra
làm nhiều giai đoạn, mà du kích và bạo động chỉ là giai đoạn đầu.
Khi mà Bắc Việt đưa các sư đoàn chính
quy vào Nam, nghĩa là chúng đang tiến hành giai đoạn “Chiến tranh
Vận Động Chiến.” Bộ Tham mưu Liên Quân Hoa Kỳ, và Đại tướng
Westmoreland, Tư lệnh MACV, nhận rõ tình hình này và báo cáo cho
White House biết sự thay đổi cục diện chiến tranh Việt Nam.
Quả thật, chiến trường đã sôi động suốt
dọc biên giới Cao Nguyên; các trại CIDG hay Dân Sự Chiến Đấu do
Sĩ quan và Hạ sĩ quan Lực lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thành lập và chỉ
huy ở đó bị tấn công, nhiều đồn trại bị tràn ngập hoặc rút bỏ;
một vài căn cứ cấp tiểu đoàn của Quân Đội Quốc Gia cũng bị tấn
công và thiệt hại như TS Shaw nói trong bài viết của ông. Nhiều
trận CSBV tấn công cấp trung đoàn.
Tuy nhiên có những trận tấn công và đột
kích lớn vào các căn cứ không quân do Hoa Kỳ trấn giữ đã diễn ra
gây thiệt lớn cho lực lượng Hoa Kỳ không thấy Shaw đề cập đến.
Ngày 1/11/1964, Căn cứ không Quân Biên Hòa bị pháo kích, 4 binh
sĩ HK chết và 5 oanh tạc cơ US-57 bị cháy.
Ngày 7/2/1965, CS đột kích vào một đơn
vị KQHK ở căn cứ Không Quân Pleiku gây cho 9 binh sĩ HK chết và
76 binh sĩ khác bị thương. Hai cuộc tấn công đột kích này tuy
thiệt hại còn ở mức hạn chế, nhưng đã buộc Chính phủ HK quyết
định quan trọng: mở Chiến Dịch Sấm Rền [Rolling Thunder] dội bom
lãnh thổ Bắc Việt. Ngày 2/3/1965, hàng trăm chiến đấu cơ, oanh
tạc cơ Hoa Kỳ và KQVN vượt vĩ tuyến 17, bỏ bom và bắn phá bến
cảng, trục giao thông, cầu đường hỏa xa ở Vinh, san bằng các
doanh trại đóng quân để chuyển vào Nam của bộ đội CSBV ở Đồng
Hới. Họ gọi là trạm trung chuyển.
Trong trận không tập Miền Bắc lần này,
người hùng Nguyễn Cao Kỳ, dẫn đầu các chiến đấu cơ KQVN cùng tham
gia với Không Lực Hoa Kỳ, xuất hiện lần đầu tiên trong bộ trang
phục phi hành màu đen, do Ông sáng chế, đội mũ thể thao màu đen,
mang hai sao bạc, cổ quấn khăn, tay áo dài, hai bên ngực trên hai
túi áo thêu các phù hiệu và cánh chim tượng trưng KQVN, và bằng
nhảy dù, lưng đeo một đai da mang khẩu súng lục - mà TS Shaw chỉ
trích trong bài viết Bác sĩ gởi cho tôi, đính kèm. Tướng tư lệnh
không quân của một quân đội mà tham gia một trận không tập, nghĩ
cũng hơi bất thường, nhưng hành động đó báo trước và chứng minh
lòng quả cảm và tính cương quyết của ông sau này khi ông giữ chức
vụ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp, hay Thủ tướng chính phủ. Tôi cam
đoan rằng những lời chỉ trích Tướng NCK của TS Shaw là sai. Tôi
sẽ lý giải sau.
4) Sách lược Quân Sự Hoa Kỳ ở
Nam Việt Nam: “Phòng Thủ Diện Địa Cao Độ” [HighProfile Defensive
Strategy] và “Tìm và Diệt Địch” [Search and Destroy Tactics].
Trở lại sách lược Hoa Kỳ ở Việt Nam,
sau hai lần đánh bom Miền Bắc, cả Bộ Tham Mưu Liên Quân [The
Joint Chiefs of Staff of The United States Armed Forces] lẫn Cơ
Quan Tình Báo Trung Ương [CIA], và Tướng Westmoreland đều cho
rằng kế hoạch Sấm Rền không thành công, chỉ làm cho Bắc Việt
quyết tâm chống Mỹ hơn.
Càng dội bom Miền Bắc, để tránh cho bộ
đội khỏi bị hủy diệt, CSBV càng đưa quân chính quy xâm nhập nhiều
hơn vào Lào và Miền Nam, chiến tranh sẽ dữ dội hơn. Vì vậy, cần
đưa quân bộ chiến HK vào Miền Nam. Đại sứ Taylor và Bộ trường QP
McNamara vẫn tiếp tục hỗ trương kế hoạch không quân. Cuối cùng
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia quyết định chấp thuận cả hai phương
lược: Tiếp tục kế hoạch Sấm Rền và đem quân bộ chiến [Ground
Force] vào Nam Việt Nam.
Trước tiên là hai Tiểu đoàn Thủy Quân
Lục Chiến đổ vào Đà Nẵng ngày 8/3/1965. Tiếp theo là 4 Tiểu đoàn
TQLC nữa. Theo Đại sứ Bùi Diễm của VNCH ở Washington lúc đó,
trong 6 tuần kế tiếp, HK đã đổ vào Miền Nam 82,000 quân; trong 4
tháng là 120,000; trong năm đầu (1965), 184,000; đến giữa năm
1966 lên đến 300,000; và đến đầu năm 1967 tổng số trên 500,000
quân. (*) Ngoài ra, Tướng Westmoreland còn tiếp nhận thêm gần
60,000 của các nước thành viên khối SEATO gồm quân của Úc, Tân
Tây Lan, Thái Lan, Đoàn Hòa Bình [Peace Corps] Phi Luật Tân và 2
Sư đoàn quân tác chiến của Nam Hàn. Quân Đội Quốc Gia [National
Army, hay Army of The Republic of Vietnam - ARVN] cũng được gây
dựng lên đến 550,000 quân.
Tướng Khánh, trước khi HK đánh bom Miền
Bắc, đã cho rằng không thể thắng cuộc chiến nếu không tiến quân
đánh ra Miền Bắc; ông đề nghị HK tăng cường cho Miền Nam 10,000
quân bộ chiến. Số quân ông yêu cầu quá ít. Tuy nhiên, không ai
có thể nghĩ rằng với đạo quân to lớn -hơn một triệu quân- như
vậy, mà HK không chủ trương tấn công ra Miền Bắc? Còn tệ hơn nữa,
là HK, suốt cuộc chiến Việt Nam, không hề có một kế hoạch để
chiến thắng. Nhất là trong thời kỳ HK thực sự dấn sâu vào chiến
cuộc dưới thời Chính phủ Johnson, với lực lượng hùng mạnh trang
bị tối tân.
Lực lượng to lớn này chỉ dùng để phòng thủ Miền Nam mà các sử gia
HK gọi là “High Profile Defensive Strategy”, tức là “Kế hoạch
Phòng thủ Diện địa ở Mức độ Cao”. Cao ở đây là cao về quân số tác
chiến. Lịch sử chứng minh rằng HK cố giữ vững Nam Việt Nam, vừa
làm tiền đồn cho Thế giới Tự do Đông Nam Á và như một tài sản
riêng quý giá ở Nam Thái Bình Dương vì có Vịnh Cam Ranh chiến
lược, quan trọng, nếu cần sẽ đem đổi chác với hai kẻ thù lớn là
Liên Xô và Trung Cộng.
Và, điều sau đã thực sự diễn ra năm
1973, để cứu vãn tình trạng nguy ngập về kinh tế sau khi khối dầu
hỏa OPEC cấm vận dầu khí để chống lại Do Thái. Vì muốn cứu Do
Thái và ổn định nền kinh tế, HK đã bắt tay với Liên Xô và Trung
Quốc, bán đứng Nam VN bằng Hiệp Định Paris (23/1/1973). Đó là
chuyện về sau, mà các sử gia giải thích vì sao HK không chủ
trương chiến thắng trong chiến tranh VN.
Trở lại Nam VN năm 1965, thời điểm
chính mà TS Shaw đề cập khi muốn bôi nhọ Miền Nam và chỉ trích
Tướng Nguyễn Cao Kỳ, thiển nghĩ nên xét lại cho kỹ về sách lược
“Phòng thủ Diện Địa” của HK ở Miền Nam.
Với đạo quân to lớn có trong tay, Tướng
Westmoreland chủ trương đưa chiến tranh sang Nam Lào hơn là đánh
nhau với CSBV ở nội địa Nam VN. Ông đề nghị tu sửa lại Liên Quốc
Lộ 9 (Đường # 9), từ Đông Hà, Tỉnh Quảng Trị, đến Khe Sanh rồi
đưa một Quân Đoàn sang Nam Lào tu sửa tiếp Đường # 9 và bảo vệ
con đường này lên Schepone kéo dài đến Savanakhet, bờ đông Sông
Mékong.
Như
vậy, HK sẽ sử dụng chừng 60,000 quân bộ chiến trấn giữ con đường
từ biên giới Nam VN ở Khe Sanh sang tận biên giới Lào-Thái Lan ở
Savanakhet. Có nghĩa là làm một hàng rào cắt ngang Đường Mòn Hồ
Chi Minh, là hành lang xâm nhập chính của bộ đội CSBV vào Nam VN
và Cao Miên.
Tất nhiên, chiến tranh sẽ diễn ra trên trục Đường # 9. Và, như
vậy là thế tất thắng sẽ thuộc về HK. Vì quân lực HK rất mạnh về
không quân. Hơn nữa, về chính trị Bắc Việt trở thành kẻ xâm lược
và sẽ mất chính danh “nhân dân Miền Nam đánh Mỹ cứu nước”.
Đại sứ Ellsworth Bunker, vừa thay thế
Tướng Taylor, yểm trợ kế hoạch này của Westmoreland, báo cáo về
White House. Tiếc thay, giới chính trị bàn giấy ở đó, thường gọi
là “Nhóm Quyền lực Ăn Trưa” [The Lunch Bunch Powers], hay là Bộ
Tham Mưu Chiến tranh của TT Johnson bác bỏ kế hoạch tất thắng
này. Không dùng quân bộ chiến tái thiết Đường # 9 ở Nam Lào để
cắt đứt Đường Mòn Hồ Chí Minh của CSBV, không tấn công ra Miền
Bắc, vì “Nhóm Thế Lực Ăn Trưa” ở White House viện cớ nếu mở rộng
chiến tranh ra Miền Bắc hay sang Lào, Bắc Kinh sẽ can thiệp, Quân
Đội Nhân Dân Trung Quốc [The People Liberation Army -PLA] sẽ đổ
vào Bắc Việt và Lào, Hoa Kỳ sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến
tranh quy mô hơn, như Chiến tranh Hàn Quốc trong các năm
1950-1953.
Họ
sợ đến đỗi trong chiến dịch Sấm Rền, Đô đốc Grant Sharp, Tư lệnh
Hạm Đội Thái Bình Dương trình một danh sách gồm 94 mục tiêu quan
trọng ở Miền Bắc cần phải đánh bom triệt hạ, trong đó có hệ thống
tiếp vận tàu hỏa với hai tuyến đường Nanning-Hanoi và
Kunming-Hanoi, đồng thời phong tỏa cảng Hải Phòng để triệt hạ
đường tiếp vận thiết bị chiến tranh, vũ khí, đạn dược từ Trung
Cộng và Liên Xô chuyển sang cho Bắc Việt, đều bị từ chối. Tướng
Westmoreland cuối cùng phải áp dụng Chiến thuật “Tìm và Diệt
Địch” bên trong biên giới Nam VN.
Như vậy nếu tiếp tục đánh nhau ở biên
giới và nội địa Nam VN sẽ không bao giờ thắng nếu không triệt hạ
được Đường Mòn Hồ Chí Minh và các hệ thống tiếp vận của khối Cộng
Sản Quốc Tế.
Tóm lại, ở thời điểm đó, với sách lược phòng thủ diện địa, HK đã
sử dụng nửa triệu quân vào cuộc chiến tiêu hao kéo dài và vô
vọng. Chỉ binh sĩ HK, Nam VN, và dân chúng Miền Nam chịu đựng
cuộc chiến phi lý này, do các nhà chính trị bàn giấy HK bày ra.
Dù sách lược “Tìm và Diệt” lúc đầu đạt được những thành công là
đuổi được các đơn vị chính quy của CSBV ra vùng biên giới. Tuy
nhiên từ đó chúng thiết lập các mật khu dọc suốt hành lang biên
giới từ Khe Sanh đến vùng Mỏ Vẹt ở Tây Ninh, để bất cứ lúc nào
cũng có thể xuất phát từ các căn cứ mật khu đó tấn công vào nội
địa Nam VN.
5) Quân bộ chiến Hoa Kỳ và Đồng Minh vào, xã hội Miền
Nam thay đổi sâu xa, chính phủ dân sự trung ương không đủ quyền
lực ổn định tình thế...
Còn tệ hại hơn chiến cuộc, sự việc Hoa
Kỳ đem hơn nửa triệu quân Mỹ và Đồng Minh vào Nam VN đã làm cho
xã hội Miền Nam thay đổi sâu xa: đạo đức xuống cấp, sa đọa lên
cao, phong tục tập quán bị coi thường. Giá trị đồng dollar đã
thay thế sức mạnh của lễ giáo và luật pháp. Có tiền mua tiên cũng
được. Người hám lợi tranh nhau đi làm tiền. Quán, bar, nhà gái,
chỗ trác táng mua vui cho hàng trăm ngàn lính Mỹ GI mọc lên khắp
nơi, buôn trôn, bán phấn ở đâu cũng có; hàng Mỹ sản phẩm PX bày
bán ngoài đường phố từ đô thành đến tỉnh lỵ, thị trấn. Ở đâu,
người lương thiện cũng nhìn thấy trật tự xã hội đã đổi thay.
Người ta ví von cái trật tự mới này bằng một câu đáng buồn và rất
mỉa mai: “nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng”. TS Shaw có nhìn
thấy thảm trạng Việt Nam do HK gây ra cho xã hội Việt Nam trong
thời điểm Mỹ đổ quân bộ chiến vào Nam VN hay không? Chắc là
không, nên ông đã viết những điều xúc phạm Miền Nam.
Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ Dân sự và
Hội Đồng Quân Lực không thể làm được gì tốt hơn. Bởi vì, bắt đầu
từ mùa thu 1964, mọi quyết định chính trị, quân sự, kể cả kinh tế
Nam Việt Nam hoàn toàn do Hoa Kỳ quyết định. Chính phủ Dân sự và
Quân Đội Quốc Gia Miền Nam hiện ra như những chiếc bóng mờ trong
toàn cảnh quy mô của chiến tranh đang diễn ra mãi cho đến khi nền
Đệ Nhị Cộng Hòa được thành lập. Cụ Phan Khắc Sửu Quốc trưởng, Thủ
tướng Phan Huy Phát chịu áp lực từ nhiều phía, không thể đưa ra
được những sáng kiến hay kế hoạch thiết thực để cải tổ công,
thương, nông nghiệp để cải tạo xã hội và an ninh ngay cả ở Thủ Đô
Sài Gòn. Tổng Tư Lệnh Quân Đội, tướng Khánh không có tầm nhìn
thấu suốt thời cuộc, nên vẫn lộng quyền, tự mình quyết định đại
sự quốc gia, coi thường Thượng Hội Đồng Quốc Gia và Chính phủ. Vì
vậy, bất mãn vẫn còn rất mạnh trong giới tướng tá miền Đồng bằng
sông Cửu Long.
Cuộc đảo chính thứ hai -chống Tướng
Khánh diễn ra ngày 19/2/1965 do Tướng Lâm văn Phát, Đại tá Phạm
Ngọc Thảo và Đại tá Bùi Dzinh phát động. Họ kéo quân và chiến xa
lên Sài Gòn, tiến vào Cư xá Sĩ quan Bộ TTM, tìm bắt Tướng Khánh.
Một lần nữa Khánh thoát được sang căn cứ Không Quân TSN, được
Tướng Kỳ đưa ra Vùng Tàu và lên Đà Lạt. Lại một lần nữa, hai
tướng Thi và Kỳ được chỉ định cầm quân chống nhóm đảo chánh.
Chính Tướng Nguyễn Cao Kỳ, trong quyển
hồi ký của ông “Buddha’s Child: My Struggle to Save Vietnam”, nói
rõ, ngay trong ngày đó, sau khi đưa Khánh ra Vũng Tàu để đáp
chuyến bay không lực khác lên Đà Lạt, Kỳ trở về căn cứ không quân
Biên Hòa và liên lạc được với Tướng Lâm văn Phát và Phạm Ngọc
Thảo, cho biết quyết định sẽ đánh bom quân đảo chánh, nếu không
rút quân trước 6 giờ sáng ngày hôm sau (20/2/1965). Đến 7 giờ
đêm 19/2, Kỳ nhận được điện thoại của Trung tướng Robert Rowland,
cố vấn HK cạnh Bộ Tư Lệnh KQVN, yêu cầu yểm trợ quân đảo chính.
Kỳ từ chối và lập lại quyết định sẽ đánh bom quân đảo chính nếu
họ không rút quân đúng hạn. Trong đêm đó Phát và Thảo rút quân.
Phát và các sĩ quan đảo chánh khác ra Tòa và kết án tùy theo tội
trạng, riêng Đại tá Phạm Ngọc Thảo trốn, nhưng bị bắt và chết
trong nhà giam Cục An Ninh Quân Đội. Tướng Nguyễn Chánh Thi,
không rõ đã nói gì về câu chuyện đảo chánh này trong hồi ký “Một
Trời Tâm Sự” của ông. Có người ghi nhận, sau cuộc đảo chánh,
Tướng Thi có yêu cầu Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu giải nhiệm Tướng
Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, Tướng Khánh không phải bị giải nhiệm bởi
Quốc trưởng, mà do yêu cầu và quyết nghị của các tướng trẻ trong
Hội Đồng Tướng Lãnh. Khánh chấp nhận lưu vong như một “đại sứ lưu
động”.
Ngày
25/2/1965 Đại tướng Nguyễn Khánh rời Việt Nam, mang theo một nắm
đất quê hương! Nếu đúng như Tướng Kỳ nói, Tướng Rowland, cố vấn
HK của BTL/KQVN có gọi điện thoại yêu cầu ông yểm trợ cho phe đảo
chánh thì rõ ràng là Washington muốn Tướng Khánh phải rời quyền
lực... Vậy Hội Đồng Tướng Lãnh không còn cách nào khác hơn là
buộc Khánh ra đi... Nguyễn Chánh Thi được phong Trung tướng, Tư
lệnh QĐ I & Vùng 1 Chiến Thuật kiêm nhiệm Đại Biểu Chính phủ
Trung Phần. Chức vụ quân sự và chính trị này đối với Ông nghĩ đã
đến tuyệt đỉnh, nhưng Thi chưa hài lòng.
Quyền lực quốc gia sau khi Khánh lưu
vong, trong thực tế, không nằm trong tay Quốc trưởng Phan Khắc
Sửu hay Thủ tướng Phan Huy Quát, mà nằm trong tay các tướng trẻ
[The Young Turks], đứng đầu là Trung tướng Nguyễn văn Thiệu, do
Hội Đồng Quân Lực bầu ra. Kỳ thật, hội đồng này gồm có 4 nhóm:
Nhóm của Trung tướng Nguyễn văn Thiệu ôn hòa, nhóm của Trung
tướng Nguyễn Hữu Có sáng tạo, nhóm của Trung tướng Nguyễn Chánh
Thi hiếu động, và nhóm của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ nhiệt tình.
Những tướng lãnh kỳ cựu thân Pháp đã biến khỏi chính trường là
kỳ công không đổ máu của Chính phủ Johnson sau cuộc đảo chánh đẫm
máu gia đình Cố TT Ngô Đình Diệm thời kỳ Chính phủ Kennedy.
Lịch sử không lặp lại, lịch sử đã đổi
khác, nhưng vai trò của các quân cờ của HK ở Việt Nam, như Thích
Trí Quang, Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Chánh Thi, ở thời điểm đó
vẫn chưa thay đổi. Tướng Trần Thiện Khiêm ít nói nhưng hành động
những mong mưu ích lợi cho quốc gia, nhưng thời thế diễn tiến
không như ông nghĩ. Nguyễn Chánh Thi muốn thao túng Hội Đồng Quân
Lực, trong khi đó Thích Trí Quang muốn thao túng Chính phủ Phan
Huy Quát, trong khi chiến sự gia tăng ở suốt dọc biên giới Cao
Nguyên Trung Phần mà CSVN gọi là Tây Nguyên. Tình trạng rối rắm
này thử hỏi do ai gây ra? TS Shaw hẳn là phải biết nguyên nhân
chính là do HK muốn như thế để có lý do đưa quân bộ chiến vào Nam
Việt Nam. Luận điệu vu khống của Shaw về sự bất lực của Quân Đội
Quốc Gia Việt Nam [The Army of the Republic of Vietnam - ARVN]
chẳng qua cũng chỉ để hỗ trợ cho chủ trương của HK đưa quân vào
Nam VN và trực tiếp chỉ đạo chiến tranh Việt Nam mà thôi! Và sự
thật là HK thực hiện được sách lược của White House như đã trình
bày ở phần trên. HK chỉ muốn Nam VN ổn định về chính trị, nhưng
cũng nhận thấy rằng một chính phủ dân sự sẽ bất lực.
Trong 4 nhóm tướng trẻ, Tướng Nguyễn
Chánh Thi, được Thích Trí Quang yểm trợ, kết bè, nên tỏ vẻ hiếu
động nhất, muốn khuynh đảo Chính phủ và nắm Hội Đồng Quân Lực. Ba
nhóm tướng khác họp nhau lại chống Nguyễn Chánh Thi.
6) Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp
quân phản loạn, dẹp yên bạo động Phật Giáo Miền Trung.
Ngày 12/6/1965 Quốc trưởng Phan Khắc
Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát đồng từ chức vì bất đồng chính
kiến, giao quyền lực quốc gia lại cho Hội Đồng Quân Lực [The
Armed Forces Council]. Thượng Hội Đồng Quốc Gia tự giải tán. Ngày
19/6/1965, Hội Đồng Quân Lực họp đại hội, quyết định thành lập
hai ủy ban điều hành quốc gia là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia -UBLĐQG
[The National Leadership Committee] và Ủy ban Hành Pháp Trung
Ương -UBHPTƯ [The Central Executive Committee]. Trung tướng
Nguyễn văn Thiệu được bầu làm Chủ tịch UBLĐQG, quyền hạn như Quốc
trưởng. Thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ được bầu giữ chức vụ
Chủ tịch UBHPTƯ, quyền hạn như Thủ tướng và có trách nhiệm thành
lập chính phủ chiến tranh. Hội Đồng Quân Lực chọn ngày 19/6/1965
làm ngày Quân Lực, đồng thời quyết định đổi danh Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa [The Republic of
Vietnam Armed Forces - RVNAF].
Có thể Tướng Nguyễn Chánh Thi rất muốn
vị trí của Tướng Kỳ, nhưng ông ta bị cô lập bởi ba nhóm tướng trẻ
khác trong Hội Đồng Tướng Lãnh. Trong chức vụ cũ, Tư lệnh Quân
Đoàn I & Vùng 1 Chiến Thuật, Tướng Thi trở về Đà Nẵng mang theo
nỗi bất mãn với Hội Đồng Tướng Lãnh và sự tị hiềm với Tướng Kỳ.
Thích Trí Quang cũng thất vọng và không còn hy vọng thao túng
được Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.
Từ khi nền Đệ I Cộng Hòa sụp đổ, Thích
Trí Quang đã tự coi là người nắm quyền lợi quốc gia ẩn mình phía
sau hậu trường dưới lớp áo ca-sa. Nay, Tướng Kỳ nắm chính quyền,
Thích Trí Quang coi như đã bị tước đoạt ngôi vị “quốc sư” của
ông.
Manh tâm
phiến động chống trung ương, đã có từ trước, của Khối Phật Giáo
Miền Trung có cơ hội bùng nổ mạnh trở lại như dưới thời Cố TT Ngô
Đình Diệm, mặc dù lúc đó khối Phật Giáo Vĩnh Nghiêm và Viện Hóa
Đạo của Thính Tâm Châu không hợp tác bạo động.
Thích Trí Quang chờ cơ hội, nhưng
Nguyễn Chánh Thi công khai chỉ trích chính quyền trung ương là
bất lực, độc đoán và tham nhũng trên các chương trinh phát thanh
ở Huế và Đà Nẵng và có hành động muốn ly khai khỏi quyền lực
trung ương. Đó là thời điểm mà TS Shaw chỉ trích sự bất lực của
Tướng Nguyễn Cao Kỳ, từ cuối tháng 6/1965 trở đi.
Trong khi đó, ở Thủ Đô Sài Gòn, Thủ
tướng Kỳ (xin gọi như vậy cho tiện), thường xuất hiện ở nhiều nơi
với bộ y phục phi hành màu đen, mũ thể thao đen thêu kim tuyến
các bông lúa trắng ở vành trước bên trên là hai sao kim loại óng
ánh --như lần ông lái khu trục đánh bom thành phố Vinh, Miền Bắc
-- ngay cả khi dự họp với Tướng Thiệu, với Hội Đồng Tướng Lãnh,
họp Nội Các, thanh tra các Tỉnh hay các Đơn vị Quân Đội, cả với
các tướng lãnh HK. Những phần tử ủng hộ Tướng Kỳ nhận xét Kỳ như
một chính khách và một tướng lãnh có nghị lực, giỏi, nhạy bén,
quyết đoán.
Những người không theo phe phái nào như tôi, cũng có nhận xét
như trên, chỉ thêm một chữ “unpredictable,” có nghĩa là ông Kỳ
có những hành động bất chợt, khó đoán trước được. Người bình dân
thường gọi là “bốc đồng”. Nhưng theo tôi, cái bốc đồng của ông là
phản ứng nhạy bén, thông minh và quyết đoán của một cấp chỉ huy
có tài.
Xin
thưa, tôi là người miền Nam, làm việc trong ngành Quân Báo,
không một lần nào được tiếp xúc với Tướng Kỳ, không thuộc bè cánh
của ông, không hề được hưởng một chút ân huệ nào của Ông Kỳ mà
chỉ nhận xét ông trên quan điểm khách quan qua suốt hơn nửa thế
kỷ quan sát hoạt động chính trị và binh nghiệp của ông.
Thiển nghĩ, nếu bỏ qua đời tư nhiều vợ,
nhiều con... của Tướng Kỳ, chỉ xét nghiệm trên hoạt động binh
nghiệp và chính trị phải công nhận ông là người có tài, thu phục
được cảm tình đa số thuộc cấp trong KQVN, hơn bất cứ vị tư lệnh
KQVN nào khác. Đừng nhìn vào tác phong phóng khoáng mà võ đoán
vào bản lĩnh lãnh đạo của Kỳ về quân sự và chính trị của ông.
Bằng chứng hiển nhiên như dưới
đây:
Trước tiên là lòng nhiệt thành của ông đối với nhiệm vụ và thượng
cấp, lúc đó là Nguyễn Khánh. Phải nói rằng con đường binh nghiệp
của Kỳ phát cao là do sự nâng đỡ của Tướng Khánh khi Kỳ chính
chức được bổ nhậm tư lệnh KQVN, rồi được phong cấp Chuẩn tướng,
rồi Thiếu tướng.
Tướng Kỳ hai lần cứu Khánh trong hai
cuộc đảo chánh của các tướng tá miền Tây. Đáng lưu ý là ông đã từ
chối lời yêu cầu cộng tác với phe đảo chánh Phát-Thảo của tướng
Rowland, Cố vấn trưởng HK ở BTL/KQVN. Sự từ chối này chứng tỏ
tính cương nghị và lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm của một
tướng lãnh trước tình thế nguy ngập được thượng cấp giao phó.
Suốt quá trình chấp hành quân kỷ trong
binh nghiệp, dù thuở thiếu thời ngang bướng, nhưng chưa bao giờ
Kỳ bị mang tiếng như một số tướng lãnh khác. Kỳ liêm khiết, không
đặt quyền lợi cá nhân trên tình đồng bạn và tình yêu tổ quốc. Kỳ
bộc trực và chân thành với thượng cấp và thuộc hạ, nhưng không
khoan nhượng khi phải đối đầu kẻ cần phải đối đầu.
Ông chấp hành pháp luật nghiêm minh và
cương quyết. Khi làm Chủ tịch Ủy Ban Hành pháp Trung Ương, ông đã
ra lệnh
xử bắn một tên gian thương Tạ Vinh đầu cơ tích trữ gạo, làm rối
loạn thị trường. Tệ nạn đầu cơ tích trữ giảm rõ rệt,
Miền Nam từ đó không còn cảnh thiếu gạo.
Tháng 3/1966, khi đi thanh lý Miền
Trung, nhận thấy thái độ của Tướng Nguyễn Chánh Thi muốn tách rời
ra khỏi quyền lực trung ương, khinh thường Hội Đồng Tướng Lãnh và
muốn tự lập một thể chế bất thành văn cho Miền Trung, ngày
10/3/1966, với tư cách Chủ tịch UBHPTƯ, Kỳ ra quyết định cách
chức Thi và bổ nhậm Chuẩn tướng Nguyễn văn Chuân thay thế. Nguyễn
Chánh Thi bị Tướng Nguyễn Hữu Có, phó Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp
Trung Ương bắt ở Đà Nẵng đưa về Sài Gòn.
Ngày 12/3/1966, Thích Trí Quang hành
động. Không biết bằng cách nào, Trí Quang thu phục được Tướng
Phan Xuân Nhuận và một số đơn vị quân đội, huy động Phật tử Huế,
Đà Nẵng, và một vài thành phố khác ở Miền Trung xuống đường,
chiếm các đài phát thanh, tuyên bố chống chính quyền trung ương,
biểu tình đông đảo hằng ngày, trương biểu ngữ, hô khẩu hiệu đòi
Trung Ương phải thả và phục hồi chức vụ cho Nguyễn Chánh Thi,
đòi bãi chức Nguyễn Cao Kỳ, đòi bầu cử quốc hội lập hiến và thành
lập chính phủ dân sự.
Trung Ương chỉ định Tướng Huỳnh văn
Cao, rồi Tôn Thất Đính, cả hai đều là người Huế lần lượt làm Tư
lệnh QĐI & V1CT. Nhưng cả hai ông này cũng bất lực trước một Trí
Quang thủ đoạn mua chuộc cả giới hành chánh và quân đội địa
phương và khối lớn dân chúng Phật tử. Vì vậy phong trào biểu tình
càng ngày càng dữ dội hơn. Nhiều nơi người biểu tình còn mang vũ
khí hay gậy gộc theo và bày hương án Phật ở các trục lộ giao
thông chính của thành phố Huế và Đà Nẵng.
Thấy phong trào bạo động miền Trung lên
cao, Tòa Đại sứ HK yêu cầu thả Nguyễn Chánh Thi. Ông này lại ra
Đà Nẵng. Trong khi đó, ở Sài Gòn, ngày 19/3/1966 Thượng tọa Thích
Tâm Châu, khối Phật Giáo Vĩnh Nghiêm và Viện Hóa Đạo tuyên bố ủng
hộ Chính quyền Trung Ương của Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ.
Tình hình tao loạn Miền Trung đã kéo dài trên hai tháng.
Ngày 14/5/1966, Tướng Kỳ triệu tập
Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng/Bộ TTM và Tướng Nguyễn
Ngọc Loan, Đặc Ủy Trương Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo & Tổng
Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, họp và chỉ thị cho hai vị này đem
4,000 Nhảy Dù, TQLC và Chiến xa ra Đà Nẵng và Huế
dẹp mối loạn
Miền Trung. Sau khi dẹp xong các cuộc biểu tình và bạo động ở Đà
Nẵng, bắt lại Tướng Nguyễn Chánh Thi và Thị Trưởng Đà Nẵng, Tướng
Viên mang quân ra Huế, ra lệnh thiết quân luật, phong tỏa các
đường giao thông và tiếp vận Thành phố Huế, án binh không tấn
công các đơn vị theo Thích Trí Quang và Tướng Tư lệnh SĐ1BB là
Phan Xuân Nhuận.
Hai ngày sau, Thích Trí Quang và Tướng
Nhuận xin đầu hàng. Cuộc bạo động ở Miền Trung đã được giải quyết
gọn, không đổ máu. Sự kiện này cho thấy bản lĩnh và sự cương
quyết, kể cả sự can đảm của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ông nhận lấy
trách nhiệm lớn lao giải quyết tình trạng nhiễu nhương đầy khó
khăn đó mà không một tướng lãnh nào khác dám nhận. Cũng cần phải
đề cao sự khôn khéo, thận trọng và tinh thần huynh đệ chi binh
của Tướng Cao Văn Viên, chỉ dùng uy và lược mà không dùng lực để
đàn áp đồng bào và đồng bạn, nên tránh được cảnh huynh đệ tương
tàn.
Thích Trí
Quang được đem về Sài Gòn giao cho bệnh viện của BS Nguyễn Duy
Tài chăm sóc. Các Tướng Thi, Đính, Cao, Chuân và Nhuận ra Tòa Án
Quân Sự. Hầu hết được quyết định cho giải ngũ. Riêng Trung tướng
Nguyễn Chánh Thi HK bảo lãnh, định cư ở Mỹ và được hưởng trợ cấp
hưu bổng như sĩ quan cấp Trung tướng ba sao của Hoa Kỳ, 600
dollars/tháng.
“Đứa con cầu tự,” the Buddha’s Child
Nguyễn Cao Kỳ đã làm cho các Thầy, các tôn trưởng Phật Giáo từng
bị mua chuộc lật đổ một chế độ, từng làm cho nhiều lớp tướng lãnh
và chính trị gia Miền Nam điêu đứng, đều “xếp-de”, co rúm lại từ
tháng 5/1966 đó mãi cho đến năm 1975.
Tôi có thể nói rằng, trong thời kỳ mười
năm đó, nếu còn có mặt Tướng Kỳ ở Miền Nam, dù là Thủ tướng, là
Phó Tổng thống, hay là phó thường dân đi nữa, thì các Thầy cũng
vẫn còn run, không dám biểu tình, xuống đường gì nữa... Vì đứa
con cầu tự đó, mặc dù sở đoản lớn nhất là phóng túng về đường
tình ái, nhưng cương trực và biết lẽ hưng vong của tổ quốc, không
mê muội về quyền lực.
Thực vậy, khi bị chính trị ngoảnh mặt,
người ta cứ hết lần này đến lần nọ đồn đãi là Tướng Kỳ “sẽ đảo
chánh” vì thấy Kỳ luôn luôn được KQVN ủng hộ. Nhưng không đâu,
không hề có chuyện đảo chánh xảy ra, “Ông Râu Kẽm” không ngu muội
mà làm chuyện nhiễu nhương.
7) Bình phục FULRO, một tổ chức
võ trang Khmer, Chàm và Thượng đòi thành lập một quốc gia độc lập.
Trong bài viết của TS Shaw, Bác sĩ gởi
cho tôi, có đoạn nói về FULRO. Không biết ông Shaw có biết rõ câu
chuyện dài của tổ chức này hay không mà đổ lỗi cho sự bất lực của
Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ khi tổ chức này khuấy động ở Cao Nguyên
Trung Phần trong ba năm 1964-1967. Tôi xin tóm lược.
Chuyện đầu tiên phải nói là chính bởi
các giới chức CIA và Lực lượng Đặc biệt HK biến tổ chức này thành
một tổ chức võ trang nguy hiểm. Trước tiên, tổ chức đầu tiên liên
kết các sắc dân Thượng ở Cao Nguyên Trung Phần, hay Tây Nguyên,
là tổ chức BAJARAKA, do các phần tử trí thức các sắc tộc Thượng
như Y Bham Ênoul, Y Dhon Adrong, Paul Nur, và một số cựu sĩ quan
trong Quân đội Pháp ở Đông Dương thành lập từ tháng 5/1958. Chữ
BAJARAKA là chữ viết tắt của 4 sắc tộc lớn ở Tây Nguyên: Bhanar,
Djarai, Rhadé và Kaho. Họ trang bị thô sơ và chưa có hoạt động
chống chính phủ Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Chỉ trừ Đại tá Y-Bloc,
người sắc tộc Hré, kéo một Trung Đoàn sắc tộc chừng 600 người tập
kết ra Miền Bắc theo CSBV năm 1955, trước khi BAJARAKA thành lập.
Đến năm 1961, khi TT Kennedy thành lập
Lực Lượng Đặc Biệt chuẩn bị cho chiến tranh Việt Nam, CIA ở Sài
Gòn thử xây dựng Buôn E-Nao ở Tỉnh Đạc-Lắc - gọi là “Buon Enao
Project” thành một làng dân sự chiến đấu của sắc tộc Thượng với
hệ thống phòng thủ được trang bị vũ khí, hệ thống máy vô tuyến
liên lạc và một đơn vị chiến đấu gọi là strike-force có thể phòng
thủ và tấn công, đột kích. Sau đó kế hoạch Enao phát triển rộng
lớn trên hai trăm “buôn chiến đấu” như vậy. Số Sĩ quan, Hạ Sĩ
quan và chuyên viên, kể cả không yểm HK và cán bộ CIA được điều
động lên Cao Nguyên, đến các buôn này để huấn luyện các sắc tộc
Thượng tự tổ chức chiến đấu tự vệ chống CSBV lên đến số lượng
hàng vài trăm người. Các đơn vị strike-force của 200 buôn Thượng,
quân số ít hay nhiều tùy theo dân số của mỗi buôn. Ước tính
chung HK thu phục được lối 150,000 người thuộc các sắc tộc Thượng
trong tổng số 700,000 sống trong rừng núi Tây Nguyên. Tổng số
nhân lực của các đơn vị strike-force trong hai trăm buôn ước tính
lên đến 10,600 người. Như vậy LLĐB HK trang bị cho các sắc tộc
Thượng bằng trang bị cho một sư đoàn bộ binh trừ trọng pháo của
Pháo binh.
Đầu
năm 1962, ông Cố vấn Ngô Đình Nhu được mời lên Buôn Enao, ông rất
phấn khởi và muốn áp dụng kế hoạch Enao trên toàn Tây Nguyên,
phong chức cho các lãnh tụ BAJARAKA, Y Bham Enoul làm Phó Tỉnh
trưởng Đạc-Lắc, Paul Nur Phó Tỉnh trưởng Kon-Tum.
Nhưng, khi Hiệp Ước Trung lập Lào do HK
chủ trương bỏ ngỏ đông nam Lào, Đường Mòn Hồ Chí Minh mở rộng,
biên giới Tây Nguyên trở thành mật khu của CSBV. Việc ưu tiên của
chúng là thu phục các sắc tộc Thượng. Năm 1962 Trung Đoàn 120
của Đại tá Y Bloc được CSBV đưa xâm nhập trở lại vùng Ba Biên
Giới, hoạt động xuống tận Đức Lập, Tỉnh Đạc-Lắc (Ban Mê Thuột).
Chúng đánh phá các buôn chiến đấu do HK gầy dựng. Một số buôn
chiến đấu khác sợ hãi, mang súng theo Y Bloc.
Tháng 8/1962, Ông Nhu ra lệnh đình chỉ
không tiếp tục xây dựng các buôn chiến đấu khác. Các đơn vị
strike-force Thượng được sát nhập vào Địa Phương Quân. Kế hoạch
Buôn Enao bị phá sản. Tuy nhiên tinh thần dân sự chiến đấu được
các giới chức CIA và LLĐB Hoa Kỳ đem áp dụng thành lập các đơn vị
“Dân Sự Chiến Đấu” [CIDGs - Civilian Indigenous Defense Groups,
có tài liệu ghi là Civilian Irregular Defense Groups] hay Mike
Force. Đơn vị nhỏ nhất làm A-Detachment hay cấp đại đội; 2 hay 3
A họp lại thành một B, cấp tiểu đoàn; cao hơn là C gồm nhiều B.
Chỉ huy một A-Detachment là một toán gồm 12 Sĩ quan và Hạ Sĩ Quan
Lực Lượng Đặc Biệt HK. Mỗi một A có từ 60 đến 230 chiến binh
người Thuộc các sắc tộc Thượng Tây Nguyên, trước đó thuộc các
strike-force của các buôn chiến đấu hoặc là thuộc Lực Lượng Đặc
Biệt Quân Đội Cộng Hòa mới thành lập, kể cả Sĩ quan và Hạ Sĩ quan
và Binh sĩ.
Đến cuối tháng 11/1962 HK đã thành lập được 26 A-Detachments, 3
B-Detachments và chỉ có 1 C-Detachment. Tất cả các A-Detachments
đóng trong các căn cứ kiên cố từ Dak-Pak, Dak-Suk, Dak-To, Võ
Định trên QL-14 phía bắc Kon-Tum, Đức Cơ trên QL-19 gần biên
giới, xuống Pleime, Buôn Brieng, Ban Don, Đức Lập ở Ban Mê Thuột
và nhiều căn cứ khác ở Tỉnh Quảng Đức, Phước Long và Bình Long
thuộc Vùng 3 Chiến Thuật. Sau tháng 11/1963, Đệ Nhất Cộng Hòa sụp
đổ, từ đầu năm 1964 nhiều Trại hay căn cứ CIDG suốt dọc biên giới
Tây Nguyên bị Bộ đội CSBV xâm nhập tấn công phải rút bỏ hay bị
tổn thất nặng.
Năm 1964, sau khi Nguyễn Khánh chỉnh lý
Dương văn Minh, Tây Nguyên bị áp lực nặng của CSBV. Y Bham Ênoul
không hợp tác với chính quyền. Được HK ủng hộ, Y Bham Ênoul và Y
Dhơn Adrong kết hợp với các phần tử mưu phục quốc Chàm hay
Champa, và Thủy Chân Lạp hay Kampuchia Krom, đổi tên tổ chức
BAJARAKA thành “Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên” [Le Front de
Liberation des Hauts Plateaux -FLHP]. Y Bham chủ trương hòa hoãn,
chờ gây dựng thế lực. Ngược lại Y Dhơn Adrong chủ trương bạo động
nhân dịp Miền Nam đang chưa ổn định về chính trị. Tháng 5/1964, Y
Dhơn Adrong thoát qua Miên, được Sihanouk cho trú đóng trong một
căn cứ của Pháp Camp Le Rolland, thuộc Tỉnh Mondulkiri, cách
biên giới và Đức Cơ 15km. Y Bham Eoul sau đó cũng đến căn cứ này.
Tại đây, dưới sự chủ tọa của Sihanouk, Mặt Trận Giải Phóng Cao
Nguyên kết hợp các nhân vật Chàm và Miên do Sihanouk bảo trợ,
thành một tổ chức mới gọi là FULRO [Le Front Uni pour la
Liberation des Races Opprimees hay The United Front for the
Liberation of Oppressed Races].
Danh từ FULRO từ cuộc họp với Ông Vua
Miên này mới có. Tổ chức FULRO sở dĩ được hình thành đều do
Sihanouk vẫn nuôi mộng đòi lại vùng Thủy Chân Lạp trước đây, đồng
thời xúi dục người Chàm, hay Champa, đòi lại các tỉnh miền Nam
Trung Việt và người Thượng đòi thành lập nước riêng ở Cao Nguyên
Trung Việt, hay Tây Nguyên. FULRO, do đó có các tổ chức nhỏ hơn.
Mỗi tổ chức phụ trách giải phóng từng vùng riêng biệt:
-Mặt Trận Chính, Bộ Chi Huy đóng tại
Camp le Rolland, phụ trách giải phóng trọn vùng Cao Nguyên vẫn
gọi tên cũ: Front de Liberation des Hauts Plateaux. Do Y Bham
Ênoul chỉ huy, thường gọi là FULRO THƯỢNG. Ông này cũng là chủ
tịch FULRO.
-Mặt Trận Champa, hay Ninh Thuận, có tên gọi là: Front de
Liberation du Champa, do Trung tá Nhảy Dù Les Kosem Quân Đội
Hoàng Gia Miên, gốc người Chàm, chỉ huy. Ông này sau được vua
Miên Sihanouk phong cấp Thiếu tướng.
-Mặt Trận Đồng bằng Sông Cửu Long, có
tên gọi là: Front de Liberation du Kampuchea Krom, do nhà sư Chau
Dara chỉ huy. Ông này người Miên, bỏ áo cà sa đi làm giải phóng.
-Mặt Trận Hạ Lào, có tên gọi là: Front
de Liberation du Kampuchea Nord, do Y Dhơn Adrong chỉ huy.
Đến ngày 20/9/1964, các trận đánh của
FULRO nổ lớn ở Cao Nguyên, đặc biệt quan trọng là Tinh Đạc-Lắc
(Darlac, hay Ban Mê Thuột), trong đó có sự phản loạn của hai Trại
CIDG do LLĐB Hoa kỳ huấn luyện và thành lập là Trại Buôn Sar Pa ở
Quận Đức Lập và Trại Bu Đang ở Quảng Đúc.
Nhóm dân sự chiến đấu người Thượng giết
hơn ba mươi quân nhân VN, bắt sống Quận trưởng Đức Lập và chiếm
đài phát thanh quận lỵ và tuyên bố Tây Nguyên độc lập. Cũng trong
đêm đó, một số Trại CIDG khác ở Đạc-Lắc cũng bị tấn công như ở
Buôn Mi Ga, Ban Don, Buôn Riêng. Trong các trận tấn công người
chỉ huy được nêu tên chính thức là Y Bham Ênoul nhưng kỳ thực do
hai sĩ quan Miên là Trung tá Les Kosem và Trung tá Y-Bun Sur.
Trung tướng Nguyễn Hữu Có, đem quân
SĐ23BB đến bao vây Trại CIDG Buôn Sar Pa. Đại tá John F. Freund
Cố vấn trưởng HK của Tướng Có khuyên nên điều đình. Chính Freund
đưa Y Bham Ênoul đến Buôn Enao gặp Tướng Có. Cuộc dàn xếp coi như
êm thắm.
Theo
nhận xét của tôi, thì FULRO thoát đi từ quan niệm muốn tự trị
của các sắc tộc người Thượng, nhưng phong trào lớn mạnh là do
chính quan niệm của HK muốn sử dụng họ chống CSBV, nên trang bị
và huấn luyện cho họ chiến đấu. Nhưng vì thiếu kiểm soát, hay
không hiểu biết nhiều về các sắc tộc Thượng luôn luôn tôn sùng
người Pháp, nên HK đã nuôi ong tay áo.
Rốt cuộc rồi phong trào của đồng bào
thiểu sồ Thượng bị các sĩ quan tình báo Pháp trong Quân Đội Hoàng
Gia Miên của Sihanouk mua chuộc, cho căn cứ ẩn trú trên đất Miên
nên khi thì đột nhập vào biên giới sách động binh lính Thượng
tạo phản, khi yếu thì thương lượng hợp tác với chính phủ VNCH,
khi mạnh thì tấn công phá rối Cao Nguyên, theo chủ trương của
Chính phủ Miên. Điều này CIA biết rõ, nhưng cũng đã muốn sử dụng
FULRO, khi cần, như giai đoạn thí nghiêm kế hoạch Buôn Enao, để
bảo vệ Tây Nguyên trong chiến lược phòng thủ diện địa sau đó.
Sau tháng 9/1964, Tướng Vĩnh Lộc thay
thế Tướng Có, cũng phải đối đầu với một vài Trại CIDG người
Thượng phản bội, và mỗi lần định tiêu diệt chúng là mỗi lần các
giới chức Tòa Đại sứ hay Cố Vấn Đoàn Đơn vị can thiệp yêu cầu
điều đình. Có lần, FULRO đem 500 Quân trang bị vũ khí về quy hàng
giao nạp súng (ngày 15/9/1965, ở Buôn Buoc, Ban Mê Thuột) Cũng có
lần Tướng Vĩnh Lộc cho một cánh quân do Trung tá Y Em tấn công
Camp le Rolland bắt Y Bham và Y Dhon đem về Ban Mê Thuột, họ
chịu ký thỏa hiệp rồi lại bỏ trốn sang Miên.
Lần cuối cùng Tướng Thiệu và Tướng Kỳ,
gặp mặt một số lãnh tụ FULRO trong Đại Hội Sắc Tộc tại Ban Mê
Thuột ngày 29/8/1967 và chấp nhận thành lập một Bộ Sắc Tộc trong
chính phủ. Ngày 11/12/1968, Chính phủ Nguyễn văn Thiệu chấp nhận
đề nghị bổ nhậm chức vụ tỉnh trưởng hay phó tỉnh trướng các tỉnh
có nhiều cư dân sắc tộc Thượng cho người Thượng, bổ nhậm các sĩ
quan sắc tộc chỉ huy các đơn vị có đa số binh sĩ sắc tộc.
Ngày 1/9/1969 ký kết thỏa thuận với thủ
lãnh sắc tộc Paul Nur và Y Dhon Adrong. Paul Nur được bổ nhậm
Tổng trưởng Bộ Sắc Tộc. Y Dhon không thấy nhắc đến, còn Y Bham
Ênoul ở lại bên Miên, sau bị Trung tá Les Kosem bắt cầm tù và khi
Miên bị CS chiếm, Y Bham bị Pol Pot hành quyết. Ở Nam VN từ sau
khi có Bộ trưởng sắc tộc, FULRO không còn nhiễu loạn nữa.
Phong trào FULRO sau khi Miền Nam sụp
đổ, còn kéo dài đến năm 1992. Từ năm 1976 đến năm đó, nhiều lần
họ tấn công vào Tây Nguyên cấp Trung đoàn, CSVN còn bị những đòn
tấn công mạnh hơn thời Đê II Cộng Hòa.
Tóm lại, những điều TS Shaw nói về sự
bất lực của Tướng Nguyễn Cao kỳ là không đúng và hình như ông ta
không hiểu biết nhiều về FULRO. Nói chung TS Geofrey Shaw viết
bài mà BS gởi cho tôi đọc là có thiên kiến, không trung thực.
Tôi chỉ viết về Tướng Nguyễn Cao Kỳ
trong giai đoạn mà TS Shaw nói đến. Cuộc đời và hành vi sau đó,
nhất là thời gian ông lưu vong sau 30/4/1975, xin để cho lịch sử
phán đoán.
Tôi
xin chấm dứt bức thư này ở đây. Thân mến chúc sức khỏe tốt.
Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by vnd chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 18, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang