Quốc Huy Đệ Nhất VNCH
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Lịch sử Nước VNCH
Chủ đề: Tham luận
Tác giả: Khiết-Châu Nguyễn-Huy Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời tác giả:
Kính chào Quý Vị và Quý Bạn,
Tháng 10 Dương lịch 61 năm về
trước tại miền Nam Vĩ tuyến 17, Nước VIỆT NAM CỘNG HÒA được ra đời,
Kính mời Quý Vị và Quý Bạn chia sẻ bài Tham luận dưới và trong
attchment và tùy nghi.
Chào kính mến,
NGUYỄN-HUY HÙNG
Sáu mốt năm rồi vẫn chửa quên,
Toàn Dân Nam Việt gặp thời hên.
Chiến tranh chấm dứt phục hưng nước,
Theo thể Cộng Hòa để tiến
lên.
Bình đẳng Nhân quyền là chủ yếu,
Tự do Tín ngưỡng cũng
ưu tiên.
Đổi nền Phong kiến sang Dân chủ,
Đại chúng chung
lo việc Chính quyền
(1).
KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG
(K1 Võ Bị Quốc Gia Việt
Nam)
Ghi chú (1): Chính quyền gồm 3 Ngành: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp độc lập để kiểm soát lẫn nhau. Không như thời Phong kiến Vua làm Chủ đất nước có toàn quyền quyết định mọi việc quốc gia theo ý mình.
Hàng
năm cứ đến khoảng cuối tháng 10 qua đầu tháng 11 Dương Lịch là
một số người đã từng hưởng nhiều ân huệ của cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, lại vận động tổ chức ngày tưởng niệm để ghi nhớ công
ơn ông đã thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HÒA tại miền Nam Việt Nam
sau khi hoàn tất việc thi hành Hiệp định đình chiến do Pháp và
Việt Minh ký tại Genève ngày 21-7-1954.
Nhiều Bạn Trẻ thắc mắc muốn biết hoàn
cảnh nào đã đưa đẩy khiến cho ông Ngô Đình Diệm có được cơ hội
thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế
của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và lên làm Tổng Thống tại miền Nam
Việt Nam, nhưng lại không có thì giờ ngồi sưu tập các tài liệu
ghi chép các sự kiện lịch sử đã xảy ra tại Việt Nam trong những
năm thuộc Thế kỷ 20, nên trăn trở chẳng biết phải làm sao.
Do đó, Tôi xin ghi lại dưới đây một số
những sự kiện trọng yếu đã xảy ra tại Việt Nam trong những năm
thuộc Thế kỷ 20, và hoàn cảnh nào đã giúp cho ông Ngô Đình Diệm
có thời cơ trở thành người Anh Hùng tạo dựng ra nước Việt Nam
Cộng Hòa vào năm 1956 tại miền Nam Việt Nam.
Nhưng vì tuổi tác đã cao gần 90, trí
nhớ cũng suy giảm do ảnh hưởng sau 13 năm chịu cảnh đọa đày trong
các trại tập trung cải tạo lao động khổ sai của chính phủ nước
Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30-4-1975,
toàn thể đất nước Việt Nam bị đặt dưới quyền thống trị độc tài
chuyên chính độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam, nên những ghi
nhận và suy luận được trình bày có thể là Chủ quan theo hiểu biết
nông cạn của Tôi, cũng có thể phiến diện hoặc thiếu sót, xin Quý
Vị còn minh mẫn vui lòng miễn chấp và bổ túc giúp cho, Tôi cám ơn
vô cùng.
1.
CHIẾN CUỘC TẠI ĐÔNG DƯƠNG XOAY CHIỀU, CHÍNH PHỦ PHÁP PHẢI RÚT
QUÂN RA KHỎI VIỆT NAM
Giữa năm 1949, Trung Cộng thắng thế ở
Trung Hoa Lục địa, do đó tình hình chiến trận tại Đông Dương giữa
Pháp và Việt Minh, đặc biệt là tại Bắc Việt trở nên rất sôi động.
Tháng 5 năm 1949, Chính phủ Pháp phải cử Tướng Revers sang thanh
sát tình hình và nghiên cứu trình Kế hoạch đối phó. Sau khi công
cán về nước, Tướng Revers đề nghị rút bỏ Cao Bằng (biên giới Việt
Nam-Trung Hoa) để:
1. Gom quân giữ Quốc lộ 4 từ Lạng Sơn
đến Tiên Yên;
2. Củng cố bình định vùng đồng bằng Bắc Việt;
3. Lấn chiếm cô lập khu Việt Bắc của
Chủ lực Việt Minh gồm các tỉnh Thái Nguyên, Lào Kay, Tuyên Quang,
và Yên Bái.
Chủ định thâm sâu của Pháp là tái lập Thuộc địa Đông Dương dưới
hình thức mới, nên không được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Do đó Pháp e
ngại Trung Cộng (chủ nhân ông mới của Trung Hoa Lục địa) xua quân
can thiệp hỗ trợ cho Việt Minh cộng sản, nên phải thun về thủ
vùng đồng bằng để bảo toàn lực lượng, và tìm phương kế mới.
Kế hoạch của Tướng Revers đề nghị, được
Chính phủ Pháp chấp thuận cho thi hành vào cuối năm 1949. Nhưng
vì tại Đông Dương lúc đó, đang có sự bất đồng ý kiến giữa Tướng
Carpentier (Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp) tại Sài Gòn và
Tướng Alexandri (Tư lệnh đoàn quân tại Bắc Việt), nên mãi tới
cuối tháng 8 năm 1950 mới thực hiện, mặc dù qua tin tức tình báo,
Chính phủ Pháp, Cao ủy Đông Dương Pignon, và Tướng Carpentier,
đều biết rằng Kế hoạch Revers đã bị tiết lộ.
Phía Việt Minh, không biết bằng cách
nào đã dò biết được Kế hoạch Revers, nên Tướng Võ Nguyên Giáp với
sự trợ giúp trang bị vũ khí đạn dược, huấn luyện quân sĩ, và cố
vấn hành quân của Trung Cộng, đã ráo riết chuẩn bị mở màn thử
thách khả năng chiến đấu của bộ đội Việt Minh.
Ngày 18-9-1950, các đơn vị Việt Minh
được sự yểm trợ của Pháo binh và súng cao xạ bắn máy bay, đã khởi
tấn công và chiếm được đồn Đông Khê, rồi bao vây cô lập Cao Bằng.
Sau đó thừa thế tiếp tục khai triển mặt trận Cao Bằng-Lạng Sơn,
kéo dài cho tới ngày 7-10-1950. Pháp thất bại nặng nề, phải rút
bỏ Cao Bằng, Thất Khê, Na Chầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, và Lao Kay.
Trận đánh này đã làm tăng uy thế cho
Việt Minh, rúng động tinh thần quân sĩ Pháp tại Đông Dương, cũng
như các giới Chính trị Pháp và Hoa Kỳ. Dân chúng Pháp bắt đầu gọi
cuộc chiến tại Đông Dương là “Chiến tranh sa lầy”, các Đảng phái
chính trị Pháp cấu kết với nhau làm áp lực chính trị, khiến các
Chính phủ Pháp thay phiên nhau sụp đổ liên tục, làm cho tình hình
tại cả bên chính quốc lẫn tại Đông Dương ngày một rối rắm thêm.
Để gỡ rối, Chính phủ Pháp cố gắng tìm một Tướng làm Tổng Tư lệnh
mới thay thế Tướng Carpentier tại Đông Dương. Các Tướng Juin và
Tướng Koenig được tham khảo, nhưng 2 ông này từ khước vì Chính
phủ Pháp không thể thỏa mãn được những điều kiện các ông ấy đòi
hỏi. Sau cùng, Tướng Jean Marie Gabriel De Lattre De Tassigny
được lựa chọn. Ông này nhận lời ngay với một điều kiện duy nhất
là phải cho ông ta rộng quyền chỉ huy.
Ngày 7-10-1950, Đại tướng De Lattre
được đề cử làm Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại
Đông Dương. Đúng 10 ngày sau, Tướng De Lattre lên đường nhậm
chức, mang theo cả một Bộ Tham Mưu hùng hậu để làm trụ cột giúp
ông ta hoàn thành sứ mạng lớn lao đã nhận lãnh. Trong suốt 9
tháng trời ròng rã tiếp theo, ông ta đã chứng tỏ tài lãnh đạo chỉ
huy và hành quân táo bạo của mình, qua các trận Vĩnh Yên giữa
tháng 1-1951 (chết mất người con trai duy nhất là Trung úy
Bernard), trận Mạo Khê cuối tháng 3-1951, trận “Bờ Sông Đáy” cuối
tháng 5-1951, và đặc biệt là kế hoạch xây dựng “Phòng tuyến Bê
tông De Lattre” để bảo vệ đồng bằng Bắc Việt trong Vùng Tam Giác:
Moncay, Việt Trì, Ninh Bình, và “Phòng Lũy Hải Phòng”. Tướng De
Lattre đã làm cho tinh thần Quân Sĩ được phục hồi, đồng thời tạo
được sự tin tưởng của Chính phủ Pháp và các Đồng minh Hoa Kỳ, Anh
Cát Lợi...
Giữa tháng 9-1951, Tướng De Lattre được Chính phủ Pháp cho đi
công cán sang Hoa Kỳ xin viện trợ. Có lẽ nhờ trận Việt Minh tấn
công quân Pháp tại vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, có sự hiện diện của
quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Việt Minh, y như trận Bắc Hàn
tấn công Nam Hàn mà Mỹ và Đồng minh phải can thiệp cũng có sự
hiện diện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Bắc Hàn, nên
Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với Pháp. Nhờ thế, Tướng De Lattre đã
xin được Mỹ viện trợ cho Pháp tiếp tục cuộc chiến tại Đông Dương,
dưới nhiệm vụ mới là “Ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế cộng
sản ở vùng Đông Nam Á Châu”, mà Việt Minh là tay sai tiền phương
của Liên Sô và Trung Cộng. Viện trợ chỉ được chấp thuận với một
điều kiện tiên quyết kèm theo là: “Pháp phải thành thực trao trả
quyền Độc Lập, Tự do, cho các Chính phủ Quốc gia không cộng sản
tại Đông Dương, và xúc tiến nhanh chóng việc thành lập, huấn
luyện, và trang bị quân sự cho các Quốc gia này có đủ khả năng tự
vệ, tiêu diệt cộng sản địa phương, bảo đảm an ninh cho dân chúng
phát triển kinh tế. Đặc biệt phải để cho các Quốc gia này có
quyền Tự do Giao thương trực tiếp với tất cả các nước tư bản,
ngoài khối Liên Hiệp Pháp, không phải qua trung gian của Pháp.”
Ngày 28-9-1951, hai ngày sau chuyến
công du của Tướng De Lattre chấm dứt, chiếc tầu biển Eartham Bay
của Hoa Kỳ đã từ Manilla chở tới Sài Gòn, rất nhiều vũ khí nhẹ và
đạn dược đủ loại. Đồng thời, một đoàn 30 Phóng pháo cơ B-26 do
phi công Hoa Kỳ lái từ Phi Luật Tân qua, đáp xuống phi trường Cát
Bi (Hải Phòng), trao cho Pháp trong âm thầm không kèn không
trống. Mười hai (12) chiếc trong số phi cơ này đã được Hoa Kỳ
biến cải thành loại máy bay soi sáng (Luciole), dùng để thả hỏa
châu soi sáng chiến trường ban đêm, trong thời gian liên tục 1
tiếng đồng hồ cho mỗi phi cơ.
Cũng nhờ thế nên ngày 1 tháng 10 năm
1951, ông Trần văn Hữu Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng
Chính phủ Quốc Gia Việt Nam mới chính thức công bố việc thành lập
Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) chống cộng sản (gồm 8 Sư đoàn
nhẹ trong 5 năm, riêng năm 1951 dự trù thành lập Sư đoàn 1 ở miền
Nam, Sư Đoàn 2 ở miền Trung, Sư đoàn 3 ở miền Bắc, và Sư đoàn 4 ở
vùng Cao Nguyên Trung phần Việt Nam). Ngày 16-10-1951 ban hành
Lệnh Tổng Động Viên khoảng 15,000 thanh niên có bằng cấp từ Trung
học trở lên vào học các khóa đào tạo Sĩ quan Trừ bị cấp tốc tại
Thủ Đức và Nam Định. Rồi lần lần sau đó, thành lập Bộ Tổng Tham
Mưu QĐQGVN, Trường Quân Y, và các Trường Võ bị Địa phương (Ecole
Militaire Régionale) đào tạo các Chuẩn úy Trung đội trưởng, ngoài
số Thiếu úy Hiện dịch do Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt đã và đang
đào tạo (Trường VBLQ Đà Lạt được thành lập từ năm 1948). Các
Trung tâm Huấn luyện Tân binh và Hạ sĩ quan cũng lần lượt được
thành lập, và hoạt động náo nhiệt để thành lập các đơn vị cấp
Tiểu đoàn, Trung đoàn Bộ Binh và các đơn vị Binh chủng, Nha, Sở
chuyên môn.
(Thời gian này, Tôi là Trung úy mới mãn khóa Sĩ quan Truyền Tin
tại Trường Truyền Tin Montargis bên Pháp về vào đầu tháng 7-1951,
được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Mật Mã thuộc văn phòng Đổng lý Bộ
Quốc Phòng do Thiếu tá Nguyễn văn Vận làm Đổng Lý. Sau này Thiếu
tá Vận rời Bộ Quốc Phòng ra Hà Nội được thăng cấp lần lần tới
Thiếu tướng Tư lệnh Quân Khu 3 vào năm 1954).
Được sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Quân đội
Viễn chinh Pháp ồ ạt xây dựng các doanh trại và cơ sở rất lớn
rộng cho các Cơ quan Chỉ huy và Đơn vị Hành chánh Tiếp vận Trung
ương tại các vùng Tân Sơn Nhứt, Gò Vấp, Bình Lợi, Cát Lái (Gia
Định), Khánh Hội (Sài Gòn), và Biên Hòa... Theo dự tính của Tướng
De Lattre, các Cơ sở này phải đủ tầm vóc có thể biến thành các Cơ
sở Chỉ huy và Tiếp vận cho các Lực lượng Liên Hiệp Quốc xử dụng
khi cần phải đến Việt Nam để điều khiển chiến tranh ngăn cản cộng
sản Quốc tế xâm lăng các nước thuộc Đông Nam Á Châu, như họ đã
đến tham gia cuộc chiến tại bán đảo Triều Tiên.
Vào tháng 12 năm 1951, Tướng De Lattre
qua đời, Tướng Raoul Salan được cử thay thế làm Tổng Tư lệnh, để
tiếp tục giải quyết cuộc “Chiến tranh sa lầy” không lối thoát của
Pháp tại Đông Dương. Nội tình nước Pháp tiếp tục lục đục, chính
phủ Queuille bị đổ vào tháng 2-1952. Tại Bắc Việt, Tướng Salan
rút bỏ Hòa Bình vào cuối tháng 3-1952. Thủ tướng mới của Chính
phủ Pháp là Pinay vẫn giữ chính sách cũ đối với Đông Dương. Ông
Letourneau được bổ nhiệm làm Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết,
kiêm nhiệm chức Cao Ủy Đông Dương kể từ tháng 4-1952, và Tướng
Salan được chỉ định làm Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại
Đông Dương. Bộ trưởng Letourneau phải thường xuyên hoạt động tại
chính quốc, làm gì có thời giờ chạy qua chạy lại giữa Pháp và
Đông Dương, nên Tướng Salan vô hình chung có được toàn quyền
quyết định y như cố Đại tướng De Lattre thuở còn sinh thời.
Sở dĩ Tướng Salan được lựa trám chỗ
trống của De Lattre, vì ông ta đã từng ở Việt Nam lâu năm, tham
dự nhiều trận chiến với Việt Minh từ hồi 1947, đã cộng tác mật
thiết với Tướng De Lattre trước khi ông này qua đời, nên thông
thạo lối đánh của Việt Minh. Ngoài ra, ông ta còn có được cái trí
khôn của người Á Đông vì lấy vợ người Việt Nam, hút thuốc phiện,
theo vợ đi lễ các Đền, Chùa, am tường các phong tục tập quán của
các Sắc dân Đông Dương. Chiến công của Tướng Salan từ sau ngày
thay thế De Lattre, chỉ là cuộc hành quân rút lui khỏi Hòa Bình
trong an toàn không bị sứt mẻ, và xây dựng “Pháo lũy Na Sản” giữ
được mặt trận vùng Bắc Thái (phía Tây, Bắc Việt) vững vàng trong
suốt 3 tháng (10, 11, và 12-1952). Còn tình hình toàn diện Đông
Dương chẳng có gì khả quan hơn.
Qua tháng 5-1953, Tướng Navarre được cử
thay thế Tướng Salan làm Tổng Tư lệnh Quân Liên Hiệp Pháp tại
Đông Dương. Ông này xào xáo lại các kế hoạch của các Tướng tiền
nhiệm, rút tiả các kinh nghiệm, để hệ thống hóa thành kế hoạch
chiến thuật mới của mình là:
1. Phòng thủ miền Bắc;
2. Bình định miền Nam;
3. Lập một Binh đoàn Chủ lực lưu động,
để có thể đánh ở bất cứ nơi nào có sự tập trung quân của Địch
(Việt Minh).
Kế hoạch được mở màn bằng cuộc hành quân “Castor” vào cuối tháng
11-1953, để hỗ trợ việc xây dựng “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ”
với mục đích:
a. Buộc Việt Minh phải chấp nhận một trận công kiên chiến, mà
Pháp tin rằng họ sẽ thắng vì có ưu thế hơn về Không quân và Tiếp
liệu.
b. Cầm
chân Chủ lực quân Việt Minh tại miền Bắc để chúng không thể tiếp
sức cho miền Nam, nhờ thế Pháp sẽ bình định Liên Khu V gồm các
Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, tại miền trung
tâm của Trung Việt Nam một cách dễ dàng.
c. Dùng Điện Biên Phủ làm “Căn cứ Bàn
đạp” đánh vào Hậu tuyến Việt Bắc, nếu Việt Minh di quân khỏi nơi
này để tấn công vùng đồng bằng sông Hồng.
Tiếc thay, Bộ tham mưu của Tướng
Navarre ước tính sai lệch quá nhiều. Việt Minh đã tập trung được
quanh Điện Biên Phủ, một lực lượng nhiều tới 100,000 quân. Với sự
yểm trợ của Trung Cộng, Việt Minh còn kéo được cả súng Đại pháo
qua đỉnh núi, đào hầm bố trí ngay trên sườn núi nhìn thẳng xuống
thung lũng Điện Biên Phủ. Thế mà Pháp cho rằng, Việt Minh chỉ có
thể tập trung quanh Điện Biên Phủ khoảng 20,000 quân là tối đa,
và lòng chảo Điện Biên Phủ không thể bị uy hiếp bằng Pháo binh,
vì các Đại pháo chỉ có thể bố trí phía bên kia các dãy núi quanh
lòng chảo, xa quá tầm tác xạ của súng.
Cuối tháng 11-1953, tình hình chiến sự
bỗng chuyển biến đột ngột. Bốn (4) Sư đoàn Việt Minh kéo lên áp
lực miền Bắc Thái (Tây Bắc, Bắc Việt). Qua tháng 12-1953, Tướng
Navarre phải cho lệnh rút quân bỏ Lai Châu và toàn vùng Bắc Thái,
để tập trung về Điện Biên Phủ, đồng thời mở nhiều cuộc hành quân
ở vùng thượng lưu sông Mê-kông để củng cố phòng thủ miền Bắc Lào
(nước Ai Lao).
Đầu năm 1954, tình hình lắng dịu tại
khắp các chiến trường phụ trên toàn cõi Đông Dương. Riêng tại
Điện Biên Phủ tình hình coi như đang có nhiều điều thuận lợi cho
quân Pháp. Nhưng, vào trung tuần tháng 2-1954, Hội nghị Bá Linh
(Berlin, Đức) được mở ra để thảo luận về việc thành lập một Hội
nghị chính thức tại Genève để tìm giải pháp cho vấn đề đình chiến
tại Đông Dương, đã khiến tình hình chiến sự trở nên bất lợi cho
quân Pháp, và làm cho Tướng Navarre bị ngỡ ngàng.
Đầu tháng 3-1954, Việt Minh rút Sư đoàn
308 đang uy hiếp Luang-Prabang (Lào), đem về tăng cường bao vây
Điện Biên Phủ. Đến ngày 13-3-1954, Việt Minh mở đầu các cuộc tấn
công trên khắp các mặt trận Đông Dương (kể cả Điện Biên Phủ),
nhằm mục đích phô trương khả năng quân sự mới để áp đảo tinh thần
quân Liên Hiệp Pháp và các Quốc gia Liên kết Đông Dương, đồng
thời tạo điều kiện thượng phong tại Hội nghị Genève. Quân Pháp bị
cầm chân tại tất cả mọi nơi, nên không còn quân số tiếp ứng cho
nhau, nhất là cho “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ”.
Đến cuối tháng 4-1954, Bộ Tư lệnh Pháp
cho mở cuộc hành quân “Atlante” đánh vào Quân khu V của Việt Minh
tại trung Việt, nhưng chẳng đem lại kết quả gì, nếu không muốn
nói là uổng công vô ích.
Ngày 7 tháng 5-1954, sau 55 ngày đêm tự
lực cầm cự, “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” đã phải xin đầu hàng
vô điều kiện. Dư luận Pháp rất hoang mang, chia rẽ, tranh cãi
trầm trọng, khiến Chính phủ Pháp phải đưa Tướng Paul Ely Tổng
Tham mưu trưởng Quân lực Pháp sang Đông Dương thay thế Tướng
Navarre, với quyền hạn rộng rãi là Cao Ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân
đội viễn chinh tại Đông Dương, như đã dành cho Tướng De Lattre
hồi trước. Nhưng, Tướng Ely cũng chẳng làm được gì hơn, là tiếp
tục nhận lãnh những thất bại chua cay, trong âm mưu tái lập thuộc
địa lỗi thời của Pháp tại Đông Dương sau Thế chiến II.
Mấy tuần lễ sau vụ Pháp thất trận Điện
Biên Phủ, chiến cuộc Đông Dương được giải quyết ngã ngũ, chấm dứt
bằng giải pháp chính trị tại Hội nghị Genève với một Hiệp Định
đình chiến, ký kết vào lúc 0100 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954 tại
Genève giữa Pháp và Việt Minh. Đại diện Hoa Kỳ và Đại diện Chính
phủ Quốc gia Việt Nam khước từ không ký vào bản Hiệp định. Theo
Hiệp định này, nước Việt Nam bị phân làm 2 phần Nam, Bắc. Vĩ
tuyến 17 và dòng sông Bến Hải được dùng làm ranh giới giữa 2
miền. Từ giữa lòng con sông trở lên phía Bắc thuộc quyền kiểm
soát cai trị của cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh cầm đầu. Phần
từ giữa lòng con sông trở xuống phía Nam thuộc trách nhiệm của
Chính quyền Pháp và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng
Bảo Đại lãnh đạo.
Thi hành Hiệp định Genève, Bộ Tư lệnh
quân Viễn chinh Pháp của Tướng Ely phối hợp cùng Chính phủ Quốc
gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, tổ chức một cuộc
di tản vĩ đại ngoạn mục trong vòng 300 ngày, cho hơn một triệu
Dân Quân Cán chính không thích sống dưới Chế độ cộng sản rời miền
Bắc vào Nam tái lập nghiệp, và hàng chục ngàn Cán Binh cộng sản
từ miền Nam buộc phải tập kết ra Bắc. Thời hạn triệt thoái quân
Pháp và quân Quốc gia ra khỏi Bắc Việt theo lối cuốn chiếu quy
định như sau: phải ra hết khỏi Hà Nội trong thời hạn 80 ngày kể
từ ngày ký Hiệp Định Genève, do đó ngày chót được ấn định cho Hà
Nội là ngày 11-10-1954; 100 ngày cho Hải Dương do đó ngày chót
được ấn định là ngày 1-11-1954; và 300 ngày cho Hải Phòng do đó
ngày chót được ấn định là ngày 19-5-1955.
2. THỜI CƠ GIÚP CHO QUỐC GIA VIỆT NAM
CHÍNH THỨC CÓ ĐƯỢC CHỦ QUYỀN ĐỘC LẬP TRONG MỌI LÃNH VỰC TỔ CHỨC
QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH, CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO ĐỐI NỘI ĐỐI NGOẠI, PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VÀ QUỐC PHÒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
Từ ngày Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lãnh sự
ủy nhiệm của các Đảng phái chính trị không theo cộng sản tại Việt
Nam, đứng ra thương thuyết và ký với Pháp Hiệp Ước sơ bộ tại Vịnh
Hạ Long để giành lại quyền độc lập cho nước Việt Nam thống nhất
cả 3 miền Bắc Trung Nam vào ngày 5-6-1948, rồi đến trưa ngày 8
tháng 3 năm 1949 tại Paris có thêm THOẢ ƯỚC ÉLYSÉE giữa Tổng
Thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Đại, Vào ngày này,
hai người trao đổi văn thư, theo đó “Pháp long trọng công nhận”
một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định
sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp Ước Hạ Long,
kèm theo một phụ bản các điều thoả thuận với PIGNON, cho đến ngày
ký Hiệp định Đình chiến tại Genève 21-7-1854, đã có tới 7 chính
phủ thay nhau điều hành Quốc gia Việt Nam:
1. Nguyễn văn Xuân, từ 2-6-1948 đến
30-6-1949,
2. Bảo Đại, từ 1-7-1949 đến
20-1-1950,
3. Nguyễn Phan Long, từ
21-1-1950 đến 5-5-1950,
4. Trần văn Hữu,
từ 6-5-1950 đến 25-5-1952,
5. Nguyễn văn
Tâm, từ 26-5-1952 đến 15-1-1954,
6. Bửu
Lộc, từ 16-1-1954 đến 6-7-1954,
7. Ngô
Đình Diệm từ 7-7-1954 tới 23-10-1955.
Thư ngày 8-3-1949 của Auriol gửi Bảo
Đại gồm 7 mục chính:
1. Việt Nam thống nhất (Unité du
Vietnam)
2.
Vấn đề Ngoại giao (Question diplomatique)
3. Vấn đề Quân sự (Question militaire)
Việt Nam sẽ có một Quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội
địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). Trong trường
hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ
(appuyé par les forces de l’Union francaise). Quân đội VN cũng
tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp.
4. Vấn đề chủ quyền trong nước
(Souveraineté interne)
5. Vấn đề tư pháp
6. Vấn đề văn hóa
7. Vấn đề kinh tế và tài chánh.
(Ghi chú: Đoạn văn chữ nghiêng nét đậm
trên đây là trích từ trang 119 trong cuốn VIỆT NAM NIÊN BIỂU
1939-1975 (Tập B:1947-1954) của Chính Đạo do nhà phát hành Văn
Hóa in năm 1997 tại Hoa Kỳ. Đặc biệt Tôi có thay một chữ trong
mục 3..., an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de
l’Empire)... Thay cho chữ... bảo vệ đế quốc (la defense de
l’Empire)... Như trong nguyên bản, vì Tôi nghĩ Việt Nam chưa bao
giờ là Đế quốc, thời trước 1945, Pháp gọi là L’Empire d’Annam tức
là Vương quốc Annam do Bảo Đại làm vua (Empereur). Còn trong hoàn
cảnh mới này, tên nước là Quốc Gia Việt Nam và ông cựu hoàng Bảo
Đại giữ chức vị Quốc Trưởng chứ không phải là Vua của Vương quốc
Annam nữa.
Đến
ngày 28-4-1956, Bộ Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương giải tán, tất
cả các Cơ sở và Căn cứ trước đây do Pháp xây dựng chiếm đóng, đều
trao hết cho Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam thừa hưởng.
Dinh Norodom tọa lạc tại trung tâm Thủ đô Sài Gòn trước kia dành
cho Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, nay là trụ sở của Chính phủ Quốc
gia Việt Nam đổi tên thành Dinh Độc Lập. Camp Chanson to lớn bên
cạnh phi trường Tân Sơn Nhất trước kia là nơi làm việc của Bộ Tư
lệnh quân viễn chinh pháp tại Đông Dương, nay thuộc quyền sử dụng
của Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN)
và đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo. Hospital Rocques rộng lớn của
đoàn quân Viễn chinh Pháp xây dựng tại Gò Vấp sát bên Bộ TTM và
phi trường Tân Sơn Nhất, nay thuộc quyền QĐQGVN và đổi tên là
Tổng Y Viện Cộng Hòa. (Không biết cái tên Roques Tôi nhớ có đúng
không, bạn nào biết là sai xin vui lòng chỉnh giùm, Tôi vô cùng
cám ơn). Còn rất nhiều Doanh trại, Căn cứ, và Cơ sở khác tại Sài
Gòn và tại các Tỉnh trên toàn lãnh thổ miền Nam Vĩ tuyến 17 được
Pháp trao lại cho Chính quyền Quốc gia miền Nam Việt Nam, nhưng
Tôi thấy không cần liệt kê hết ra đây.
Vào tháng 8-1956, Chính phủ Pháp loan
báo việc đề cử ông Henri Hoppenot làm Cao Ủy Đông Dương. Nhưng,
ông Ngô Đình Diệm đang lãnh đạo Chính quyền Quốc gia Việt Nam với
chức vị tự phong là Tổng Thống từ ngày 26-10-1955 thay thế Quốc
trưởng Bảo Đại bị truất phế từ ba ngày trước đó 23-10-1955, đã
dựa theo các điều khoản của Hiệp định Genève không chấp nhận, nên
Chính phủ Pháp phải đổi lại chức vụ là Đại sứ Pháp tại Việt Nam.
Đến ngày 26-10-1956, lễ ban hành Hiến
Pháp Việt Nam Cộng Hòa (theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ, do Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra vào ngày 4
tháng 3 năm 1956 biên soạn và biểu quyết chuẩn thuận) mới được tổ
chức rất trang trọng tại Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Buổi lễ
này cũng đồng thời là Lễ Tuyên Thệ chính thức nhậm chức Tổng
Thống nước Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên tại miền Nam Việt Nam của
ông Ngô Đình Diệm, trước toàn dân và Ngoại giao đoàn quốc tế đã
có mặt tại Sài Gòn từ thời Quốc gia Việt Nam còn thuộc quyền lãnh
đạo của Quốc trưởng Bảo Đại. (Quốc Hội Lập Hiến gồm 123 Dân Biểu
thuộc các thành phần sau: Phong trào Cách mạng Quốc gia 47 ghế,
độc lập không đảng phái nào 39 ghế, Tập đoàn Công dân 18 ghế,
Phong trào Tự do 11 ghế, và 5 đảng phái chia nhau 8 ghế.)
Sau khi quân Pháp rút ra khỏi miền Nam
Việt Nam, ảnh hưởng Pháp tan biến dần để thay thế bởi ảnh hưởng
Hoa Kỳ. Bởi vì, ngay từ khi mở Hội nghị Bá Linh bàn thảo việc
thành lập Hội nghị Genève giải quyết vấn đề chiến tranh Đông
Dương, Hoa Kỳ đã ngầm vận động thúc đẩy Quốc trưởng Bảo Đại mời
ông Ngô Đình Diệm (đang ở Mỹ) về làm Thủ Tướng, thay thế Thủ
tướng Bửu Lộc được coi là thân Pháp.
3. THỜI CUỘC BIẾN ĐỔI ĐÃ TẠO CƠ HỘI CHO
THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM GIÀNH ĐƯỢC QUYỀN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA VIỆT
NAM, THAY THẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI ĐÃ RỜI VIỆT NAM SANG PHÁP TỪ
NGÀY 10-4-1954 SỐNG TẠI BIỆT THỰ RIÊNG Ở CANNES, ĐỂ CHỮA BỆNH SÁN
GAN VÀ VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ GIÚP GIẢI QUYẾT CUỘC CHIẾN CHỐNG CỘNG SẢN
TẠI VIỆT NAM
Tại Sài Gòn trong khoảng những ngày cuối tháng 5 sang đầu tháng
6-1954, các hãng thông tấn quốc tế và quốc nội loan truyền tin
đồn đoán là ông Ngô Đình Diệm sẽ làm Thủ Tướng thay thế Thủ Tướng
Bửu Lộc. Nhưng mãi đến ngày 16-6-1954, Quốc Trưởng Bảo Đại, từ tư
dinh tại thành phố Cannes bên Pháp, mới chính thức công bố quyết
định cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng với toàn quyền hành động
(tức là mọi quyết định quan trọng liên quan đến quốc gia không
cần phải thỉnh ý Quốc Trưởng trước như các Thủ Tướng tiền nhiệm).
Ngày 25-6-1954 ông Ngô Đình Diệm từ
Pháp về tới phi trường Tân Sơn Nhất Sài Gòn, được sự tiếp đón
theo nghi lễ ngoại giao tại phòng Khách Danh Dự của phi trường,
gồm một số nhân viên đại diện các Bộ trong Chính phủ Bửu Lộc, một
số Sĩ quan cấp Tá Việt và Pháp thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ
TTM/QĐQGVN (trong đó có Tôi đang là Thiếu tá Chánh Sự vụ Sở Mật
Mã trực thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc đó Thiếu tướng
Nguyễn văn Hinh làm Tổng Tham Mưu Trưởng và Trung tá Trần văn
Minh làm Tham mưu trưởng), cùng một số thân quyến thuộc dòng họ
Ngô-Đình và Nhân sĩ thân hữu của gia đình ông Ngô Đình Diệm ở
trong nước.
Những ngày tiếp theo, ông Diệm tiếp xúc các nhân sĩ để thành lập
chính phủ, mãi tới ngày 7-7-1954 mới chính thức trình diện chính
phủ và bắt đầu tham chánh.
Thành phần chính phủ gồm có:
-Ngô Đình Diệm, Thủ Tướng kiêm Nội Vụ
và Quốc Phòng,
-Trần Văn Chương, Quốc Vụ
Khanh,
-Trần Văn Đỗ, Tổng Trưởng Ngoại
Giao,
-Trần Văn Của, Tổng Trưởng Tài
Chánh và Kinh Tế,
-Nguyễn Tăng Nguyên,
Tổng Trưởng Lao Động và Thanh Niên,
-Trần văn Bạch, Tổng Trưởng Công Chính,
-Phạm Hữu Chương, Tổng Trưởng Y Tế và Xã Hội,
-Phan Khắc Sửu, Tổng Trưởng Canh Nông,
-Nguyễn Dương Đôn, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục,
-Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng,
-Lê Quang Luật, Thông Tin,
-Phạm Duy
Khiêm, Công vụ Phủ Thủ Tướng,
-Nguyễn
Ngọc Thơ, Nội Vụ,
-Lê Ngọc Chấn, Quốc
Phòng,
-Hồ Thông Minh, Thứ Trưởng Quốc
Phòng,
-Bùi Văn Thinh, Tư Pháp,
-Nguyễn Văn Thoại, Kinh Tế,
-Trần Hữu
Phương, Tài Chánh.
Nhưng chỉ ít ngày sau, Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm bắt đầu gặp nhiều khó khăn về mọi mặt đối nội cũng như
đối ngoại. Chẳng hạn:
1. Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam
không ký trên Hiệp định Genève, nhưng vẫn phải chấp nhận và cộng
tác với Bộ Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương thi
hành, đặc biệt phải chấp nhận cho các cơ sở kiểm soát đình chiến
do Ấn Độ (Trung Lập) làm Chủ tịch, với các thành viên Ba Lan
(cộng sản) và Canada (thuộc Thế giới Tự Do tư bản) đặt cơ sở hoạt
động tại nhiều nơi trên lãnh thổ miền Nam, ngay cả tại giữa Thủ
đô Sài Gòn. Trong các cơ sở kiểm soát đình chiến này có cả sự
hiện diện của những người đại diện của Việt Cộng.
2. Phải vận động nhờ Chính quyền Pháp
tại Đông Dương và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ phương tiện và ngân
khoản để di tản cả triệu người (Dân, Quân, Cán chính) không thích
sống dưới sự cai trị của Chính quyền Việt Cộng tại miền Bắc Vĩ
tuyến 17, di cư vào miền Nam.
3. Tổ chức tiếp đón cứu trợ ban đầu,
tái định cư, và tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống cho những
người này. Vì họ đã phải bỏ tất cả của cải đất đai hương hỏa của
Tổ tiên Ông Cha tại miền Bắc, ra đi vào miền Nam với 2 bàn tay
trắng.
4. Hợp
nhất các Lực lượng Võ trang Giáo phái vào hàng ngũ Quân đội Quốc
gia Việt Nam, để tiêu hủy nạn “phe phái hùng cứ địa phương” do
Pháp tạo dựng lên trước đây, với mục đích Thực dân thâm độc “chia
để trị”.
5.
Điều chỉnh cải tiến hệ thống hành chánh, để chấm dứt tệ nạn “Xứ
Quân, Vua một cõi” thao túng áp bức quần chúng bằng quy luật
“Phép Vua thua Lệ Làng”, hậu quả dư âm Quan lại của thời Pháp còn
vương rớt lại, tại các tỉnh và ngay cả tại các Quận hành chánh
giữa Sài Gòn Chợ Lớn.
6. Loại bỏ các tổ chức reo rắc tệ đoan
xã hội (khu bài bạc, các ổ chứa gái mãi dâm công khai hoạt động
có nộp thuế) do các tay Chính trị hoạt đầu, Doanh gia bất chính,
lợi dụng nước đục thả câu, với sự bảo trợ khích lệ của Thực dân
Pháp đã tổ chức kinh doanh từ nhiều năm qua.
7. Đặc biệt là phải đề ra phong trào
chống Cộng, với một Chính sách dựa theo Chủ thuyết Nhân bản có
thể bẻ gẫy được Chủ thuyết cộng sản, để làm kim chỉ Nam hướng dẫn
quần chúng hăng say tham gia công cuộc tố cáo và loại trừ các
hoạt động của cán bộ cộng sản nằm vùng tại miền Nam. Để dân được
sống an toàn tại khắp mọi nơi, an tâm tham gia xây dựng phát
triển Kinh tế phồn vinh, và hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong
thanh bình.
Vì
thế mới có Chủ thuyết NHÂN VỊ, Đảng Cần Lao, và PHONG TRÀO CÁCH
MẠNG QUỐC GIA ra đời, hoạt động thường xuyên trong mọi tổ chức
hành chánh, quân đội, và các cơ sở xã hội khác trên đất liền cũng
như trên các hải đảo thuộc miền Nam Việt Nam từ Vĩ tuyến 17 trở
xuống.
Mọi
người sống tại miền Nam Việt Nam đều biết và cũng đã từng phải
tham gia, tùy theo vị trí hoàn cảnh riêng của mỗi cá nhân và gia
đình. (Thời gian đó, Tôi là Thiếu tá Trưởng Phòng Mật Mã Trung
ương thuộc Bộ Chỉ huy Viễn Thông tại Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN,
được tập thể chiến hữu thuộc các đơn vị Truyền Tin tại Sài Gòn
bầu làm Chủ tịch Phong trào Cách Mạng Quốc gia của Binh chủng
Truyền Tin).
Phong trào này nhằm mục đích đánh bóng lãnh tụ Ngô Đình Diệm, chỉ
trích tinh thần bạc nhược của Quốc trưởng Bảo Đại trong việc điều
hành Quốc gia, để tiến tới việc tổ chức cuộc “Trưng cầu Dân ý
truất phế Bảo Đại” vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, và ủy nhiệm cho
ông Ngô Đình Diệm thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HÒA theo khuôn mẫu
Tổng Thống Chế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào ngày 26-10-1956.
Suốt trong thời gian vận động tổ chức
cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý vào ngày 23-10-1955, trên các phương tiện
truyền thông của Chính phủ thường xuyên phổ biến bài hát thúc đẩy
mọi người tích cực tham gia đi bầu rất hay. Nhưng rất tiếc Tôi
chỉ còn nhớ một số câu tiêu biểu khó quên chứ không nhớ trọn bài:
“Hai ba tháng mười là ngày trưng cầu
dân ý,
Hai ba tháng mười là ngày phá tan
ngai vàng,
Đứng lên toàn quốc, viết
trang sử mới,
........(không nhớ......”
Và kể từ sau ngày VIỆT NAM CỘNG HÒA ra
đời 26-10-1956, nghi thức chào cờ chính thức được quy định là sau
khi hát bài Quốc Ca “Tiếng gọi công dân” thì phải hát bài SUY TÔN
NGÔ TỔNG THỐNG. Bài hát này do nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Bích sáng tác
(ông đã qua đời vào năm 2001) và đã tìm thấy trong các Website
sau đây:
http://vinhdanhquanlucvietnamconghoa.blogspot.com/2009/04/suy-ton-ngo-tong-thong.html
http://www.dutule.com/D_1-2_2-111_4-1912_5-4_6-6_17-34_14-2
[link không còn hoạt động]
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Dc_B%C3%ADch_(nh%E1%BA%A1c_s%C4%A9)
Suy tôn Ngô Tổng Thống
Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống cộng
Bài phong
kiến bốc lột
Diệt thực dân đang giắt reo
tàn phá
Bao
công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương
hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người
Thề đồng tâm say đắp cho ngày mai
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin Thượng đế ban phước lành cho người
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống
Chung đắp say nền thống nhất sơn hà.
KHIẾT CHÂU
NGUYỄN-HUY HÙNG
(K1 Trường Võ Bị Quốc
Gia Việt Nam)
Cựu Đại tá Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa,
Phụ tá Tổng cục trưởng
Chiến tranh Chính trị kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến,
Cựu tù nhân chính trị 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập
trung cải tạo của chính quyền Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
sau ngày Quốc hận 30-4-1975.
Các
tài liệu tham khảo:
1. (Quân sử 4) QUÂN LỰC
VIỆT NAM CỘNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH 1946-1955.
Do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu biên soạn và phát hành, sách được in
tại cơ sở xuất bản Đại Nam năm 1972 trụ sở Taiwan Republic of
China, và được ông Đỗ Kinh Lâm tự Đỗ Ngọc Tùng (cựu sinh viên sĩ
quan Khóa 4 Lý Thường Kiệt, Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam) Giám
đốc nhà xuất bản Đại Nam sao in lại và phát hành vào năm 1983 tại
thành phố Glendale California Hoa Kỳ.
2. THÀNH TÍCH SÁU NĂM HOẠT
ĐỘNG CỦA CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA ấn hành năm
1960 tại Sài Gòn, và được ông Hồ Đắc Huân (cựu sinh viên sĩ quan
Khóa 2 Hiện dịch Nha Trang) sao in lại tại Khu Little Saigon Nam
California Hoa Kỳ vào tháng 7-2007 để gửi tặng riêng các thân hữu
tùy nghi ủng hộ giải quyết tổn phí ấn loát chứ không in với mục
đích thương mại. Ai muốn có sách có thể liên lạc với ông Huân qua
điện thoại số (714)725-5136 hoặc địa chỉ gửi thư:
HỒ ĐẮC HUÂN
P.O. BOX 1711
Westminster, CA 92684
3. VIỆT NAM NIÊN BIỂU
1939-1975 (Tập B: 1947-1954) của Chánh Đạo do nhà
xuất bản Văn Hóa in và phát hành tại Hoa Kỳ năm 1997.
4. VIỆT NAM NIÊN BIỂU Tập
III NHÂN VẬT CHÍ (liệt kê gần 900 tác nhân lịch sử
cận đại, từ 1848 tới 1975) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hóa
in và phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1997.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
Bài liên Hệ
Hình Ảnh Huế 1961 Qua Ống Kính Của John Dominis
Ngày Quốc Khánh VNCH - 26 THÁNG 10 NĂM 1956
Victoria-Úc: Tổ chức Lễ giỗ Cố Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM lần thứ 53 -
2016
Tháng Mười là
Tháng Việt Nam Cộng Hòa
Năm năm vàng son 1955-60 của Việt Nam Cộng Hòa
Việt Nam Tưởng Niệm 53 năm ngày mất của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm
Sydney: Thánh lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
NGÔ ĐÌNH DIỆM: Trên nửa Thế kỷ Oan khiên
Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Người Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Tinh Thần NGÔ ĐÌNH DIỆM Bất diệt
Viết Về Bà Ngô Đình Nhu
Nền Đệ Nhất Cộng Hòa Sụp Đổ: Miền Nam Tự Do Sụp Đổ
Thánh Lễ Tưởng niệm 54 năm Chí Sĩ Ngô Đình Diệm và Bào Đệ tử nạn
Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa
Vài nét về Tổng thống Ngô Đình Diệm
Húy nhật Tổng thống Ngô Đình Diệm...
|
Hình nền: Di ảnh Chí sĩ NDD . Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by KC NHH chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
October 3, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang