Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch
Sử
Chủ đề:
người việt chống ngoại
xâm
Tác giả:
người kể sử
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mục Lục
chiến trận BẠCH ĐẰNG GIANG Phần I – 938
chiến trận BẠCH ĐẰNG GIANG Phần II – 981
chiến trận BẠCH ĐẰNG GIANG Phần III – 1288
Phần I – 938
Chiến trận BẠCH ĐẰNG GIANG
Phần I – 938
Tham chiến:
Quân Tầu:
Lưu Hoằng Tháo ; Chỉ huy: Lưu Cung
Quân Việt:
Ngô Quyền (Tĩnh Hải Quân)
Trận
Bạch Đằng năm 938 là một trận đánh giữa quân dân Việt Nam – thời
đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu chính thức – do Ngô
Quyền lãnh đạo đánh với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết
quả, quân dân Việt Nam giành thắng lợi, nhờ có kế cắm cọc ở sông
Bạch Đằng của Ngô Quyền. Trước sự chiến đấu dũng mãnh của quân
dân Việt Nam, quá nửa quân Nam Hán bị chết đuối và Hoàng tử Nam
Hán là Lưu Hoằng Tháo cũng bị Ngô Quyền giết chết. Đây là một
trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó đánh dấu cho việc
chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam, nối lại quốc thống
cho dân tộc.
Sau chiến thắng này, Ngô Quyền lên ngôi vua, tái lập đất nước.
Ông được xem là một vị “vua của các vua” trong lịch sử Việt Nam.
Đại thắng trên sông Bạch Đằng đã khắc họa mưu lược và khả năng
đánh trận của ông.
Hoàn cảnh
Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân
Nam Hán – một trong 10 nước thời Ngũ đại Thập quốc nằm liền kề
với Tĩnh Hải quân – giành lại quyền tự chủ cho người Việt ở Tĩnh
Hải quân, tự xưng là Tiết độ sứ.
Năm 937, Đình Nghệ bị nha tướng Kiều
Công Tiễn giết hại để cướp ngôi Tiết độ sứ. Con rể và là một
tướng khác của Đình Nghệ là Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng ra
đánh Công Tiễn để trị tội phản chủ.
Kiều Công Tiễn sợ hãi, bèn sai người
sang cầu cứu Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm nhân cơ hội đó
bèn quyết định đánh Tĩnh Hải quân lần thứ hai.
Lưu Nghiễm cho rằng Dương Đình Nghệ qua
đời thì Tĩnh Hải quân không còn tướng giỏi, bèn phong con trai
thứ chín là Lưu Hoằng Tháo làm “Bình Hải tướng quân” và “Giao Chỉ
vương”, thống lĩnh thủy quân.
Diễn biến
Ngô Quyền bao vây và giết
chết Kiều Công Tiễn
Năm 938, sau khi tập hợp các hào kiệt
trong nước đứng về phía mình, Ngô Quyền mang quân từ Ái châu ra
bắc đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn bị cô lập không chống
nổi, trông chờ viện binh của Nam Hán.
Trong khi vua Nam Hán đang điều quân
thì Ngô Quyền đã tiến ra thành Đại La. Kiều Công Tiễn bị cô thế
không đủ sức chống lại nên thành nhanh chóng bị hạ, Kiều Công
Tiễn bị giết chết. Lúc đó quân Nam Hán vẫn chưa tiến vào tới biên
giới.
Kế hoạch của quân Nam Hán
Vua Nam Hán cho con trai là Hoằng Tháo
làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem 2
vạn quân
[20000 hay 2 sư đoàn]
sang với danh nghĩa là cứu Công
Tiễn. Lưu Nghiễm hỏi kế ở Sùng Văn hầu là Tiêu Ích. Ích nói:
– ”Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển
thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể
khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng
nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến.” – Sùng Văn Hầu Tiêu
Ích.
Vua Nam
Hán đang muốn hành quân nhanh để đánh chiếm lại Tĩnh Hải quân,
nên không nghe theo kế của Tiêu Ích, sai Hoằng Tháo đem chiến
thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào. Lưu Nghiễm tự mình làm tướng,
đóng ở Hải Môn để làm thanh viện.
Kế hoạch của Ngô Quyền
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp
đến, ông bảo với các tướng rằng:
“Hoằng
Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi
mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã
mất viá trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi
mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta
không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai
người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa
biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc
thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.”
– Ngô Quyền.
Ngô Quyền cho quân sĩ đóng cọc có bịt
sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi thuỷ triều lên, bãi cọc
không bị lộ. Ngô Quyền dự định nhử quân địch vào khu vực này khi
thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc
cạn mới giao chiến.
Thủy chiến trên sông Bạch Đằng
Vào một ngày cuối đông năm 938, trên
sông Bạch Đằng, vùng cửa biển và hạ lưu, cả một đoàn binh thuyền
do Hoằng Tháo chỉ huy vừa vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng.
Quân Nam Hán thấy quân của Ngô Quyền
chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có thể ăn tươi, nuốt sống liền
hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền ra lệnh cho quân bỏ chạy lên thượng
lưu. Đợi đến khi thủy triều xuống, ông mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ
ra đánh. Thuyền chiến lớn của Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị
cọc đâm thủng gần hết. Lúc đó Ngô Quyền mới tung quân ra tấn công
dữ dội. Quân Nam Hán thua chạy, còn Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng với
hơn một nửa quân sĩ.
Kết quả
Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng
ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử
trận, Nghiễm kinh hoàng, đành “thương khóc thu nhặt quân còn lại
mà rút lui” (Đại Việt sử ký toàn thư). Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn
mộng xâm lăng Tĩnh Hải quân. Lưu Cung cũng than rằng cái tên
“Cung” của ông là xấu.
Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng
là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội
ngày nay).
Di sản
Năm 1288, quân Đại Việt do Trần Thánh
Tông, Trần Nhân Tông, và Trần Hưng Đạo lãnh đạo giao chiến với
quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Trước đó, Trần Hưng Đạo đã cho
đóng cọc và phủ cỏ lên trên rồi cho quân khiêu chiến, giả vờ bỏ
chạy. Quân Nguyên đuổi theo, quân Đại Việt cố sức đánh lại. Nước
triều rút xuống, thuyền quân Nguyên vướng cọc và nghiêng đắm gần
hết. Trận này quân Nguyên đại bại, bắt được tướng Nguyên là Ô Mã
Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, và 400 chiến thuyền.
Nguyên nhân chiến thắng
Chiến thuật quân sự của Ngô Quyền rất
độc đáo và đúng như nhận định của Lê Văn Hưu: “Mưu giỏi mà đánh
cũng giỏi” hoặc “mưu tài đánh giỏi” như trong Đại Việt Sử ký Toàn
thư. Tuy nhiên, theo các nhà quân sự, việc áp dụng chiến thuật
lấy cọc nhọn đâm thuyền địch muốn thành công cần có sự kết hợp
chặt chẽ với một số mưu mẹo khác.
Thứ nhất, phải dụ địch đến đúng bãi cọc
đã đóng giăng bẫy khi thuỷ triều còn cao, bãi cọc chưa bị lộ.
Thứ hai, phải nắm rất vững quy luật
thuỷ triều theo từng giờ và tính toán thời điểm để khi thuyền
quân địch tới bãi cọc rồi, thuỷ triều mới rút, có như vậy thuyền
địch mới bị mắc cạn và bị cọc đâm.
Chỉ khi có đủ hai điều kiện trên, mưu
kế mới có tác dụng. Nếu nước triều rút quá sớm so với dự định,
bãi cọc sớm bị lộ, thuyền địch sẽ biết và tránh xa cảnh giác,
như vậy mưu sự hỏng. Không những thế, rất có thể chính các thuyền
phía quân mình sẽ bị vướng cọc, thành “gậy ông đập lưng ông”.
Nếu nước triều rút quá muộn so với dự
định, chiến thuyền của địch cứ thế vượt qua, không gặp trở ngại
gì, coi như bãi cọc đóng xuống vô tác dụng. Đây chính là trường
hợp mà các nhà quân sự Việt Nam đã ghi lại của trận Bạch Đằng,
981, quân Tống đã vượt qua bãi cọc để vào được đất liền mà không
bị trở ngại (tuy nhiên sau đó vẫn bị mắc mưu Lê Hoàn và đại bại).
Vì vậy, để mưu sự thành công, ngoài
việc chuẩn bị cọc nhọn một cách bí mật và hoàn thành sớm, việc dụ
địch đi theo đúng lộ trình mình muốn và đến vào thời điểm mình
muốn mang ý nghĩa quyết định. Mưu sự thành công có thể quyết định
toàn bộ cuộc chiến chỉ trong 1 buổi và Ngô Quyền đã thành công
bởi mưu kế độc đáo và tính toán, vận dụng chính xác quy luật của
thiên nhiên.
Người vận dụng lại mưu kế này là Trần Hưng Đạo trong trận Bạch
Đằng, 1288 cũng biết cách kết hợp áp dụng chính xác như vậy nên
lại lặp đại công phá quân Nguyên. Đời sau nghe chuyện dùng cọc
đâm thuyền địch có vẻ dễ dàng, nhưng khi áp dụng cụ thể mới thấy
không hoàn toàn dễ dàng để có thắng lợi như sử sách đã ghi. Không
phải ngẫu nhiên mà cả Ngô Quyền và Trần Hưng Đạo đều được xem là
danh tướng trong lịch sử Việt Nam.
Ý nghĩa
“Lưu
Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa
lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức
như Mạnh Tử nói: ‘Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu’ vậy
chăng?”
– Ngô Sĩ Liên: “Tiền
Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan
được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm
cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một
lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy
chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính
thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.”
– Ngô Sĩ Liên [1]
“Ngô
Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì
phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung
nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam
ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho
Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.”
– Việt Nam sử lược, soạn giả Trần Trọng Kim
Trận thắng lớn ở sông Bạch Đằng năm 938
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam, nó đã
giúp chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam, mở ra
một thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng có thể coi là
trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường đấu
tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, đấu tranh giành lại độc
lập dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh Bắc thuộc kéo dài sau 1117
năm (179 TCN – 938) mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của nó.
Hơn thế nữa, trong hơn 1000 năm Bắc
thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là một đế quốc lớn mạnh bậc
nhất ở phương Đông với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang lúc
phát triển cao độ, nhất là dưới thời Hán, Đường. Tiếp tục công
cuộc bành trướng của Tần Thủy Hoàng, nhà Hán đã chinh phục miền
Bắc xứ Triều Tiên chiếm đất đai các bộ lạc dụ mục phía Bắc, mở
rộng lãnh thổ về phía Trung Á, xâm lăng các nước Hạ Lang, Điền ở
Tây Nam. Đầu thế kỷ thứ 7, nhà Tùy bành trướng mạnh về phía Đông,
chinh phục Triều Tiên, Lưu Cầu (Đài Loan), Giao Châu, Lâm Ấp, Tây
Đồ Quốc..., nhà Đường mở rộng bành trướng về mọi phía, lập thành
một đế chế bao la như Đường Thái Tông đã từng tuyên bố: “Ta đã
chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp yên bốn bề, bọn Di Man ở
cõi xa cũng lần lượt về quy phục” (theo Đường thư).
Từ đầu công nguyên, dân số của đế chế
Hán đã lên đến 57 triệu người. Thời gian đó, dân số của Việt Nam
chỉ độ một triệu. Sau khi chiếm được Việt Nam, mưu đồ của nhà Hán
không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia, bóc
lột nhân dân, vơ vét của cải, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn
dân tộc Việt, sáp nhập đất đai vào Trung Hoa. Chính sách đồng hóa
là một đặc tính nổi bật của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã
được thực hiện từ thời Hán và đẩy mạnh tới nhà Đường. Trong toàn
bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ
vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo.
Ngô Quyền – Người anh hùng của chiến
thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 – trở thành vị vua có
“công tái tạo, vua của các vua” theo như nhận định của Đại Việt
Sử ký Toàn thư. Ông xứng đáng với danh hiệu là “vị tổ trung hưng”
của dân tộc như nhà yêu nước Phan Bội Châu lần đầu tiên đã nêu
lên trong Việt Nam quốc sử khảo.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam
bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ
nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa Thăng Long, kỷ nguyên
phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của các
nhà Lý, Trần, Lê.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá: “Trận
thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống.
Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy
danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng vũ công cao cả, vang dội
đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi
đâu.” – Việt sử tiêu án – Ngô Thì Sĩ
Còn theo vua Dực Tông nhà Nguyễn: “Ngô
Quyền gặp được ngụy triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là
thằng hèn kém, nên mới có được trận thắng trên sông Bạch Đằng. Đó
là một việc may, có gì đáng khen. Nếu gặp phải tay Trần Bá Tiên,
mà bảo rằng Ngô Quyền không phải theo gót Lý Nam Đế, Triệu Việt
Vương, thì ít có lắm!” – Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục –
Quốc sử quán triều Nguyễn.
Truyền kỳ
Sách Việt điện u linh, chương Bố Cái
Đại Vương đã thuật lại chuyện Phùng Hưng hiển linh để trợ giúp
Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán:
“Thời
Ngô Tiên chúa kiến quốc, Bắc binh nhập khấu, Tiên chúa đã lo, nửa
đêm hốt nhiên mộng thấy một ông già đầu bạc, y quan nghiêm nhã,
tay cầm quạt lông, chống gậy trúc, tự xưng tính danh rằng: Ta
lãnh thần binh vạn đội, sẵn sàng mai phục các chỗ yếu hại, chúa
công tức tốc tiến binh chống cự, đã có âm trợ, chớ lo phiền chi
cả.
Đến khi
tiến binh trên Bạch Đằng, quả thấy trên không có tiếng xe ngựa,
trận ấy quả được đại tiệp; tiên chúa lấy làm lạ, chiếu kiến lập
miếu điện, trang nghiêm có từng hơn xưa, lại sắm thêm quạt lông,
cờ hoàng đạo, chiêng đồng, trống đại, rồi làm lễ thái lao, con
hát đến làm lễ tạ; lịch triều theo đó dần dần thành ra cổ lễ.”
Tham khảo
An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giả: Ủy ban phiên dịch sử
liệu Việt Nam; Nhà xuất bản: Viện Đại học Huế 1961
Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê
Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất
bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sĩ,
Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn hóa Á Châu; Nhà
xuất bản: Văn Sử 1991.
Lịch triều hiến chương loại chí, soạn
giả Phan Huy Chú, dịch giả Viện sử học Việt Nam, Nhà xuất bản
giáo dục, 2006.
Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng
Kim, Trung tâm học liệu xuất bản, bản điện tử.
hết phần I...
nguồn: blog người kể sử
Phần II
– 981
Chiến trận BẠCH ĐẰNG GIANG
Phần II – 981
Thời
gian: Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981
Địa
điểm: Miền bắc Việt Nam
Kết quả: Đại Cồ
Việt chiến thắng
Tham chiến
Đại Cồ Việt
Chỉ huy: Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng (Lượng)
Đại Tống
Hầu
Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trương Tuyền, Thôi Lượng.
Lực lượng
Đại Cồ Việt: 10 vạn [~ 100000]
Đại Tống
4 vạn cấm quân,
Hàng vạn dân phu vận
chuyển.
Chiến
tranh Tống–Việt năm 981 là một cuộc chiến tranh giữa Đại Tống
thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ
tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh thổ Đại Cồ Việt. Kết quả,
quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh bại quân đội Đại Tống. Sau cuộc
chiến này, năm 986, hoàng đế Đại Tống chấp nhận nhà Tiền Lê và
ban chế phong cho Lê Đại Hành.
Bối cảnh
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và thế tử
Đinh Liễn bị ám sát. Tháng 5 năm 980 (dương lịch), sứ nhà Tống ở
Đại Cồ Việt là Lư Tập về nước báo cáo; triều đình nhà Tống biết
được tình hình rối ren ở Đại Cồ Việt. Tháng 8 năm 980, Hầu Nhân
Bảo, quan trấn thủ châu Ung của Đại Tống dâng thư lên hoàng đế
Đại Tống báo cáo việc Đại Cồ Việt có nội loạn và là thời cơ để
đánh chiếm và xin được về kinh đô để trình bày rõ hơn. Hoàng đế
Đại Tống theo lời khuyên của Lư Đa Tốn không triệu Hầu Nhân Bảo
về kinh đô để giữ bí mật việc chinh phạt Đại Cồ Việt. Thay vào
đó, Hữu Tráng là quan cai quản lộ Quảng Nam Tây (thuộc vùng Quảng
Đông và Quảng Tây ngày nay) được gọi về kinh đô báo cáo tình hình
Đại Cồ Việt. Hữu Tráng tâu rằng: “ở Giao Châu thì vua cuối họ
Đinh là Đinh Toàn còn nhỏ dại, bị giặc hãm hại, nước loạn mãi
chưa yên, dân không biết dựa vào ai làm chủ. Ta nên kíp sai quân
sang, nói là đến cứu...”.
Nắm được tình hình Đại Cồ Việt rồi,
Tống Thái Tông phong Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lộ thủy lục kế độ
chuyển vận sứ, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực
giữ chức Binh mã đô bộ thự lập tức chuẩn bị chiến tranh với Đại
Cồ Việt. Đồng thời ban chiếu chinh phạt Đại Cồ Việt.
Nội dung như sau:
“Thanh giáo và oai linh của nước nhà
vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất Diên–Chỉ, chưa sáp nhập vào địa
đồ Trung Hoa, chúng ở một phương, gần nơi Ngũ Lĩnh. Từ cuối đời
Đường rối loạn, chia xẻ đất đai, rồi chúng làm ra một nước tiếm
ngụy, ở xa thanh giáo thành ra phong tục như đứa mù đứa điếc. Kịp
khi Phiên–Ngung đã bình định, mới ban cho Chính–Sóc mà tuân hành,
tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ tu luyện binh
lính, có ý quật cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế?
Vậy ta bất đắc dĩ phải trị tội gian ngụy để cứu dân, phải cử
binh qua đánh để khai hoá xứ mọi rợ; nay cho bọn Tôn Toàn Hưng
xuất quân qua đánh.”
Lời chiếu cho thấy việc vua Đinh và thế
tử bị ám sát thực tế không liên quan đến việc Đại Tống muốn chinh
phạt Đại Cồ Việt.
Mùa thu năm 980, quan trấn thủ châu
Lạng (Lạng Sơn) báo tin cho triều đình việc quân Tống chuẩn bị
đánh xuống Đại Cồ Việt. Lê Hoàn liền lên ngôi vua và gấp rút
chuẩn bị kháng chiến.
Mùa Đông năm 980, Tống đế gửi thư tuyên
chiến. Trong thư có đoạn: “Hiện nay ta đã sửa sang binh xa và bộ
tốt, hiệu lệnh chiêng trống rất nghiêm minh; nếu vâng theo giáo
hóa thì được tha; nếu chống lại mệnh lệnh thì sẽ bị trị tội.”
Lê Đại Hành một mặt chuẩn bị kháng
chiến, một mặt vẫn sai sứ mang thư sang triều đình Đại Tống báo
cáo việc đã lập Đinh Toàn nối ngôi Đinh Tiên Hoàng. Nhà Tống
không đồng ý. Tống Thái Tông sai Lư Đa Tốn viết thư trả lời Lê
Hoàn. Thư có đoạn:
“Nay chín châu bốn biển đã yên, chỉ còn
Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời... Ngươi định về theo ta, hay
muốn chuộc lấy tội. Ta đang chuẩn bị xe ngựa, binh lính, cờ lệnh,
chiêng trống... nếu ngươi quy hàng ta tha, nếu trái mệnh thì ta
đánh. Theo hay không, lành hay dữ, ngươi tự nghĩ lấy...”
Chuẩn bị và lực lượng
Đại Tống
Triều đình nhà Tống cho lập Giao Chỉ
hành doanh là bộ chỉ huy lực lượng viễn chinh Giao Chỉ. Trong bộ
chỉ huy này:
–
Hầu Nhân Bảo là tổng tư lệnh, được phong làm Giao Chỉ lộ Thủy lục
kế độ Chuyển vận sứ; có nghĩa chỉ huy cả thủy lục quân và sau khi
chinh phạt được Đại Cồ Việt (nhà Tống chỉ gọi là Giao Chỉ) thì sẽ
biến xứ này thành một lộ của Đại Tống và giao cho Hầu Nhân Bảo
làm chuyển vận sứ.
– Các tướng lĩnh cao cấp khác (hàng
chánh tướng và phó tướng) gồm có: Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả
Thực, Vương Soạn, và Trần Khâm Tộ.
– Tôn Toàn Hưng được giao chức phó tổng
tư lệnh, được phong làm Ung Châu lục lộ binh mã Đô bộ thư.
– Hứa Trọng Tuyên là phó tổng tư lệnh
đóng tại hậu cứ ở bên đất Tống.
– Lưu Trừng là chỉ huy lực lượng thủy
quân.
–
Hứa
Sương Duệ chỉ huy lực lượng thông tin liên lạc.
Ngoài ra còn nhiều sĩ quan hàng tùy
tướng, lại thuộc, v.v. Theo Tống sử, nhà Tống chia quân làm 2
đạo. Đạo quân bộ do Lan Châu Đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng, Bát tác
sứ Trương Tuyền, và Tả giám môn vệ tướng quân Thôi Lượng chỉ huy
từ Ung Châu tiến vào. Đạo quân thủy do Thứ sử Ninh Châu Lưu
Trừng, Quân khí khố Phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan Các môn chi
hậu Vương Soạn chỉ huy, từ Quảng Châu tiến vào.
Quân Tống huy động chủ yếu là lực lượng
tại các địa phương phía Nam dưới quyền của Hầu Nhân Bảo và Hứa
Trọng Tuyên. Ngoài ra, còn có từ 1–2 vạn quân được huy động từ
Kinh Hồ (vùng Trung Nguyên) đặt dưới quyền của Lưu Trừng và Trần
Khâm Tộ. Trong lực lượng chinh phạt này, thành phần cấm quân là
thành phần chủ yếu. Cấm quân là lực lượng chủ lực và cơ động của
quân đội Tống.
Toàn bộ quân số khoảng 3–4 vạn người.
Đại Cồ Việt
Về phía Đại Cồ Việt, giúp việc cho Lê
Đại Hành trong việc chỉ huy quân và dân cả nước đánh trả là:
– Phạm Cự Lạng (Lượng) giữ chức Thái
úy,
– Hồng Hiến giữ chức Thái sư.
Thiền Uyển tập anh cho biết “Thời Lê
Đại Hành chống Tống, vua thường mời sư Pháp Thuận và đại sư Ngô
Chân Lưu cùng dự bàn mưu kế. Đến khi thái bình, vua ban khen, các
sư đều không nhận thưởng”.
– Lê Đại Hành thân chinh dẫn đại quân
từ kinh thành Hoa Lư theo đường thủy, ngược sông Đáy, sông Nhuệ
mà vào sông Hồng, rồi từ đó tiến lên miền địa đầu Đông–Bắc đất
nước.
– Lữ
Lang được cử đưa đạo quân Uy Dũng từ Hoa Lư lên giữ phòng tuyến
bờ Bắc sông Lục Giang (địa phận Thái Bình ngày nay).
– Trần Công Tích lên trấn thủ ở Nghĩa
Đô gần thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
– Lê Long Kính trấn thủ ở bờ Bắc sông
Hải Triều (tức sông Luộc).
Các tướng lĩnh khác bên phía Đại Cồ
Việt gồm có: Phùng Phường, Đào Trực, Hoàng Vĩnh Chu, Đào Công Mỹ,
Phạm Quảng, Đào Thành, Phạm Minh, Nguyễn Triệt, Vũ Uy, Đặng Xuân,
và 4 em trai: Vương Minh, Vương Xuân, Vương Hồng, và 2 em gái, và
Dũng Mạnh (hộ vệ Lê Đại Hành).
Tổng số quân Đại Cồ Việt theo ước tính
của Trần Bá Chí (2003) vào khoảng 10 vạn người.
Đại Cồ Việt đã khẩn trương xây dựng các
phòng tuyến. Đáng chú ý nhất trong số này là chiến lũy Bình Lỗ.
Hiện chưa có khẳng định cuối cùng là Bình Lỗ ở đâu. Tuy nhiên,
vai trò của Bình Lỗ đã được Trần Quốc Tuấn sau này nhắc đến, đó
là nhà Tiền Lê nhờ xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Bên
cạnh đó, Lê Đại Hành cho cắm các cọc nhọn trên sông Bạch Đằng và
một số sông khác để đối phó với thủy quân Tống.
Diễn biến
Các hướng tấn công của quân Tống
Việc quân Tống tấn công Đại Cồ Việt
theo những hướng nào, đến nay có nhiều quan điểm.
Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt
sử thông giám cương mục, Việt Nam sử lược, và một số sách lịch sử
khác chép rằng quân Tống có một đạo lục quân do Hầu Nhân Bảo và
Tôn Toàn Hưng chỉ huy tiến vào Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn, và
một đạo thủy quân do Lưu Trừng chỉ huy tiến vào qua cửa sông Bạch
Đằng.
Tuy
nhiên, một số nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại gần đây trong đó có
các nghiên cứu của tác giả từ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam cho
rằng thủy quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy và đi qua Lạng Sơn
(nay là đảo Hai Núi hoặc cù lao Hai Núi ở toạ độ trung bình 2141’
vĩ bắc, 10736’ kinh đông, ngoài khơi Quảng Ninh. vào sông Bạch
Đằng. Lục quân do Tôn Toàn Hưng đi theo con đường qua Tiên Yên,
Đông Triều. Trần Bá Chí (2003) cho rằng tuyến đường bộ vào các ải
Nam Quan, Quyết Lý, Chi Lăng, Cần Trạm qua Thị Cầu vào Thăng Long
do Lý Công Uẩn mới mở làm sứ lộ, chỉ hoàn thành vào năm 1020.
Trận Chi Lăng
Theo một số sử liệu cũ đã nhắc ở trên,
thì Hầu Nhân Bảo tiến quân vào Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn.
Đến Chi Lăng, Hầu Nhân Bảo bị quân Đại Cồ Việt mai phục tập kích
và tử trận tại đây. Mất chủ tướng, quân Tống vỡ trận và bị tiêu
diệt quá nửa. Đây là trận đánh quyết định của cuộc chiến tranh,
vì như các sách sử cổ này chép thì cánh quân của Lưu Trừng nhận
được tin cánh quân của Hầu Nhân Bảo thì liền tháo chạy. Chiến
tranh kết thúc. Đại Việt sử ký toàn thư không hề nhắc đến các
trận đánh nào khác trong cuộc chiến tranh này. Còn Khâm định Việt
sử thông giám cương mục và Việt Nam sử lược có nhắc đến một trận
ở sông Bạch Đằng, một trận ở Tây Kết.
Riêng về địa danh Chi Lăng, các sách
cho rằng quân Tống đi qua đường Lạng Sơn cũng không thống nhất
với nhau. Đại Việt sử ký toàn thư và Việt Nam sử lược nói là ải
Chi Lăng. Khâm định Việt sử thông giám cương mục nói là sông Chi
Lăng và cho biết đây là con sông chảy qua xã Chi Lăng (Lạng Sơn).
Đại cương lịch sử Việt Nam tập I của Nhà xuất bản Giáo dục do
Trương Hữu Quýnh chủ biên thì cũng viết là sông Chi Lăng, nhưng
lại nói đó chính là sông Thương.
Những ý kiến gần đây cho rằng có sự lầm
lẫn về địa danh trong sử sách. Nguyễn Minh Tường trong sách “Bối
cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn” dẫn ý kiến các
nhà nghiên cứu Trần Bá Trí, Hà Văn Tấn cho rằng: Chỉ vì bản dịch
Việt sử lược hiện có đã dịch nhầm chữ Lãng (Lãng Sơn) thành Ngân
(Ngân Sơn), mà nhiều nhà sử học đã loay hoay tìm con đường tiến
của quân Tống từ Lạng Sơn qua Bắc Thái (tức Bắc Kạn). Thực ra,
Lãng Sơn là tên gọi một hòn núi gần Vạn Ninh của Quảng Ninh. Hầu
Nhân Bảo đã đi qua Lãng Sơn ở Quảng Ninh để tiến vào sông Bạch
Đằng.
Trận
Bạch Đằng thứ nhất
Khâm định Việt sử thông giám cương mục
và Việt Nam sử lược có chép về một trận Bạch Đằng. Tại đó, quân
Đại Cồ Việt chịu thất bại vì quân Tống đông quá. Đại cương lịch
sử Việt Nam tập I thì lại chép rằng ngay trận đầu này, quân Đại
Cồ Việt đã thắng, đạo thủy quân của Tống bị đánh tan.
Theo các nghiên cứu lịch sử hiện đại,
thì ngày 24 tháng 1 năm 981 cánh quân thủy do Hầu Nhân Bảo chỉ
huy ồ ạt tiến vào cửa Bạch Đằng. Trong trận Bạch Đằng đầu tiên
này, quân Đại Cồ Việt đã thất bại, không những không ngăn được
quân Tống mà còn bị thương vong nhiều. Quân Tống lấy được 200
thuyền, tiêu diệt hơn 1000 quân lính Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành
phải rút về vùng Xạ Sơn (huyện Kinh Môn), An Lạc (huyện Chí Linh,
Hải Dương) củng cố lại thế trận, đồng thời gửi thư trá hàng.
Lục quân Tống tấn công
Sau khi thủy quân Tống đánh trận Bạch
Đằng khoảng 5 ngày, tức là vào 30 tháng 1 năm 981, lục quân Tống
dưới sự chỉ huy của Tôn Toàn Hưng mới tới Hoa Bộ. Về địa danh Hoa
Bộ, Trần Bá Chí (2003) cho biết Hoa Bộ là địa danh do nhà Tống
gọi có nghĩa là nơi có nhiều người Hoa sinh sống và nghiên cứu
này còn cho biết có nhiều quan điểm khác nhau về vị trí của địa
danh Hoa Bộ. Có quan điểm cho rằng Hoa Bộ ở vùng Kép, tức là gần
sông Thương. Có quan điểm cho đó là gần sông Cầu. Các quan điểm
này thống nhất với quan điểm cho rằng lục quân Tống tiến vào Đại
Cồ Việt qua đường Lạng Sơn. Bản thân Trần Bá Chí (2003) dẫn các
nghiên cứu về khảo cổ và quan điểm quân sự cho rằng Hoa Bộ gần
sông Bạch Đằng, ở khoảng huyện Thủy Nguyên ngày nay. Quan điểm
cho rằng Hoa Bộ ở gần sông Bạch Đằng thống nhất với quan điểm cho
rằng lục quân Tống tiến vào Đại Cồ Việt qua đường ven biển Đông
Bắc. Đại cương lịch sử Việt Nam tập I lại cho rằng Hoa Bộ là địa
danh ở Nam Quảng Đông (Trung Hoa) và Tôn Toàn Hưng đóng quân lỳ ở
đó không chịu tiến vào Đại Cồ Việt.
Tại Hoa Bộ, lục quân Tống đã gặp và
giao tranh với quân Đại Cồ Việt. Tục tư trị thông giám trường
biên của Lý Đào chép rằng quân Tống đã đánh bại “hơn vạn quân
Giao Chỉ, chém được 2345 đầu giặc”. Tuy nhiên, lục quân Tống đã
không thể tiến tiếp để gặp thủy quân.
Quân Tống lập Giao Châu hành doanh tại
Đại Cồ Việt
Hầu Nhân Bảo chiếm được sông Bạch Đằng và các làng mạc xung
quanh, đặt Giao Châu hành doanh tại đó để phối hợp quân thủy bộ,
bước tiến sâu vào nội địa Đại Cồ Việt. Tuy nhiên, hai đạo thủy
lục quân của Tống không thể liên lạc được. Tôn Toàn Hưng viện cớ
chờ Lưu Trừng đưa viện binh (thủy quân) sang cùng tiến quân một
thể. Đến tháng 3 năm 981, sau hơn 2 tháng chiếm Bạch Đằng – Hoa
Bộ, cả hai cánh quân Tống vẫn giậm chân tại chỗ. Quân Tống liên
tục bị quân chủ lực và dân binh các làng xã tập kích quấy rối,
làm cho lực lượng bị tiêu hao, tinh thần binh lính suy giảm. Khi
Lưu Trưng đưa quân tới nơi, Tôn Toàn Hưng cùng Lưu Trừng tiến
quân, nhưng không gặp đối phương lại quay về Hoa Bộ.
Trận sông Lục Đầu
Sau khi phát hiện quân Đại Cồ Việt có
chiến lũy Bình Lỗ kiên cố, quân Tống chủ trương đánh chiếm Đại La
để làm bàn đạp tiến đánh Hoa Lư. Ngày Tất niên năm Canh Thìn (tức
7 tháng 2 năm 981), Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng chỉ huy thủy
lục quân tiến theo sông Kinh Thầy vào sông Lục Đầu. Phía Đại Cồ
Việt trinh sát được sự di chuyển của quân Tống, liền kéo một bộ
phận lớn về giữ sông Lục Đầu dưới sự chỉ huy của đích thân Lê Đại
Hành cùng các tướng Trần Công Tích, Trần Bảo Trung, Trần Minh
Khiết. Quân Đại Cồ Việt bố trí dọc tuyến sông từ Đại La tới sông
Lục Đầu để ngăn cản đối phương vào Đại La. Tại sông Lục Đầu, quân
Đại Cồ Việt có một căn cứ là Phù Lan. Trên sông có nhiều bãi cọc
để ngăn thuyền bè của Tống.
Thủy quân Tống dàn quân chiếm sông Lục
Đầu. Lục quân được vận chuyển bằng thuyền rồi đổ bộ lên bờ lập
trại. Hai bên Tống–Việt giao chiến ác liệt. Quân Tống nhiều lần
tìm cách chọc thủng phòng tuyến của quân Đại Cồ Việt để tiến về
Đại La nhưng đều thất bại. Quân Tống bị thua to ở sông Lục Đầu,
quân số hao hụt; vũ khí, chiến thuyền hư hỏng, mất mát nhiều,
lương thực khó khăn thêm. Cuối cùng, quân Tống đành phải rút về
vùng xung quanh sông Bạch Đằng Sông Lục Đầu vì thế còn được gọi
là sông Đồ Lỗ. “Đồ” nghĩa là giết, “Lỗ” chỉ quân Tống.
Sau trận Lục Đầu, tinh thần của quân
Tống bị sa sút. Tôn Toàn Hưng sau khi quay về Hoa Bộ thì đóng lỳ
ở đó bất chấp sự thúc giục của Hầu Nhân Bảo, lấy cớ chờ quân
tăng viện sang mới tiến được.
Quân Tống được tăng viện
Mãi đến ngày 11 tháng 4 năm 981, thủy
quân tăng viện của Tống do Lưu Trừng chỉ huy mới tới sông Bạch
Đằng và sát cánh với lực lượng của Hầu Nhân Bảo. Tiếp đó, lục
quân tăng viện của Tống do Trần Khâm Tộ chỉ huy cũng tới nơi. Tôn
Toàn Hưng cử Trần Khâm Tộ tiến công và viên tướng này đã thành
công trong việc chọc thủng phòng tuyến của quân Đại Cồ Việt, tiến
đến Tây Kết (bên sông Hồng, thuộc địa phận huyện Khoái Châu tỉnh
Hưng Yên ngày nay).
Trận Bình Lỗ
Bình Lỗ là tên một thành cổ được ghi
nhận trong lịch sử Việt Nam, nhờ có thành này mà năm 981 Lê Đại
Hành đã đánh tan được quân Tống. Đến nay có 2 giả thuyết về vị
trí của thành Bình Lỗ. Giả thuyết thứ nhất cho rằng thành này nằm
trong đoạn sông Hồng từ ngã ba Lềnh (Yên Lệnh, Hà Nam) đến ngã ba
Vàng (Giao Thuỷ, Nam Định). Tác giả đã dựa vào giả định quân Tống
muốn đánh Hoa Lư trước, nhưng không vượt được phòng tuyến Bình Lỗ
và phải quay về sông Bạch Đằng. Chính vì giả thuyết này mà xuất
hiện thêm một trận Bạch Đằng thứ hai nhưng không thấy có trong
các sử liệu cũ.
Giả thuyết thứ hai thì cho rằng Bình Lỗ
nằm ở hương Bình Lỗ, ngay bên bờ sông Cà Lồ. Thuyết này dựa vào
bài viết về Đại sư Khuông Việt trong sách Thiền Uyển Tập Anh,
trong đó cho biết Khuông Việt đã được vua cử đi trước đến Bình Lỗ
để chuẩn bị trận địa mai phục đánh Tống. Chú thích của Lê Mạnh
Thát trong bài này đã ghi rõ sông Bình Lỗ chính là sông Cà Lồ
ngày nay. Người thứ hai ủng hộ thuyết này là Nguyễn Vinh Phúc,
ông cho rằng quân Tống muốn đánh chiếm Đại La trước vì thành này
quan trọng hơn, sau đó mới tiến xuống đánh Hoa Lư. Hương Bình Lỗ
xưa kéo dài từ núi Sóc đến sông Cà Lồ. Một căn cứ nữa nghiêng về
giả thuyết thứ hai được ghi ngay trong mục 2.2 của bài này là
hướng hành quân của vua Lê Đại Hành “theo đường thủy, ngược sông
Đáy, sông Nhuệ mà vào sông Hồng, rồi từ đó tiến lên miền địa đầu
Đông–Bắc đất nước”. Trên đường hành quân ông dừng ở làng Tó, xã
Tả Thanh Oai (nằm dọc sông Nhuệ), huyện Thường Tín ngày nay, rồi
vượt sông Hồng và xuôi dòng sông Cà Lồ để đến Bình Lỗ. Chuyện
“Hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt”, trong đó đã mô tả diễn
biến của trận đánh. Nơi này nằm trên sông Cà Lồ, thuộc địa phận
làng Tiên Tảo (căn cứ kháng chiến cũ của hai vị anh hùng Trương
Hống, Trương hát), gần với ngã ba Xà (cửa sông Cà Lồ). Tại đây
quân Đại Cồ Việt đã thắng lớn, được sách Thiền Uyển Tập Anh ghi
khá rõ:
“Quân
giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu Ninh, lại thấy sóng gió nổi
lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn tan vỡ.” Sách Đại Việt sử lược
thì ghi như sau: “Vua tự làm tướng đem quân ra chống cự. Vua cho
cắm cọc cứng dưới sông. Quân Tống rút về giữ mặt Ninh Giang. Vua
sai người sang trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo. Quân Tống thua trận,
Hầu Nhân Bảo bị bắt và bị chém. Bọn Trần Khâm Tộ nghe tin thất
trận phải rút lui”.
Sông Hữu Ninh có thể là một nhánh của
sông Cà Lồ nối từ thành Bình Lỗ ra đến bờ sông Cầu, nay đã bị vùi
lấp. Trận Bình Lỗ gồm cả trận đánh trên sông Hữu Ninh. Sông Hữu
Ninh chính là nhánh sông bên phải của sông Ninh (tức sông Cầu).
Ngày nay dọc con sông nhỏ hẹp này còn để lại nhiều dấu tích với
những cái tên như Ngòi Ác, cầu Cửa Ma, Đầm Lâu, và một nấm mồ
chung chạy dài có tên là Bờ Xác. Các dẫn chứng đều nghiêng về giả
thuyết thứ hai là thành Bình Lỗ nằm bên bờ sông Cà Lồ.
Trận Bạch Đằng thứ hai
Các chính sử cũ của Việt Nam và cả một
số nghiên cứu lịch sử hiện đại không hề nhắc đến trận này, tuy
nhiên các nghiên cứu lịch sử mới hơn lại khẳng định có và còn cho
rằng đây là trận đánh quyết định tiêu diệt chủ tướng và bộ phận
lớn quân Tống.
Sau thất bại ở phòng tuyến Bình Lỗ, trở
lại sông Bạch Đằng, đạo thủy binh Hầu Nhân Bảo rơi vào tình thế
tiến thoái lưỡng nan. Tuy viện binh Tống do Lưu Trừng chỉ huy đã
kéo sang từ tháng 4 năm 981, nhưng “Giao Châu hành doanh” vẫn
không sao thực hiện được kế hoạch hợp điểm, hội sư để cùng tiến
chiếm Hoa Lư. Liên quân Lưu Trừng – Tôn Toàn Hưng tiến quân đến
thôn Đa Ngư nhưng không gặp chủ quân Đại Cồ Việt để giao chiến,
lại vội vã rút quân về Hoa Bộ. Cánh quân bộ do Trần Khâm Tộ chỉ
huy tiến xuống Tây Kết cũng trở thành đạo quân bị cô lập, ở vào
tình thế dễ bị đối phương truy kích tiêu diệt. Cánh quân thủy của
Hầu Nhân Bảo từ sau trận Lục Giang vốn đã bị tiêu hao sinh lực,
phương tiện chiến đấu, lại bị chia cắt khỏi thế trận liên kết
chung. Ý đồ tiêu diệt quân chủ lực của Đại Cồ Việt hoàn toàn thất
bại.
Trong khi
đó, Lê Đại Hành bí mật tăng cường lực lượng chuẩn bị 1 trận quyết
chiến giáng đòn quyết định. Ông chọn 1 khúc sông hiểm yếu rồi bố
trí quân mai phục chờ sẵn.
Ngày 28 tháng 4 năm 981, trận quyết
chiến Bạch Đằng diễn ra
Có nghiên cứu cho rằng Lê Đại Hành đã
cho 1 cánh quân ra khiêu chiến với quân Hầu Nhân Bảo. Chiến sự
đang diễn ra quyết liệt thì quân Đại Cồ Việt “thua chạy”, quân
Tống “thừa thắng” đuổi theo. Khi chiến thuyền của Hầu Nhân Bảo
lọt vào trận địa mai phục, Lê Đại Hành tung quân ra đánh ráo
riết. Các chiến binh Đại Cồ Việt từ khắp các trận địa mai phục và
từ các nẻo đường đổ về sông Bạch Đằng vây đánh quân Tống quyết
liệt. Hầu Nhân Bảo bị giết chết trong đám loạn quân. Lưu Trừng
vội vã dẫn đám tàn quân tháo lui ra biển.
Tuy nhiên, Trần Bá Chí (2003) dẫn một
số sử liệu của Trung Hoa và Việt Nam cho rằng Lê Đại Hành đã gửi
thư trá hàng và lập đài tuyên thệ. Hầu Nhân Bảo tưởng thật, đi
thuyền tới đài tuyên thệ thì bất ngờ bị thủy quân Đại Cồ Việt
chia cắt khỏi lực lượng bảo vệ và bị lính tinh nhuệ của Đại Cồ
Việt giết chết. Những người có công giết Hầu Nhân Bảo có thể là
các tướng Đào Công Mỹ, người làng Dịch Sứ (Hà Bắc), và Phạm Công
Quang, người trang Hoa Chương huyện Thủy Đường (Thủy Nguyên, Hải
Phòng). Các mũi quân Đại Cồ Việt cũng đồng thời tấn công thủy
quân Tống và tiêu diệt một bộ phận lớn.
Truy kích quân Tống
Nghe tin Hầu Nhân Bảo bị giết trên sông
Bạch Đằng, Tôn Toàn Hưng hoảng hốt dẫn quân bỏ chạy, đạo quân
Trần Khâm Tộ ở Tây Kết lo sợ rút lui, bị quân Đại Cồ Việt truy
kích tiêu diệt quá nửa. Tướng Tống là Triệu Phụng Huân bị bắt
sống tại trận. Một số sử liệu cũ của Việt Nam chép rằng viên
tướng Quách Quân Biện cũng bị bắt trong trận Tây Kết. Tuy nhiên,
Trần Bá Chí (2003) dựa vào kết quả nghiên cứu điền dã mà cho rằng
Quách Quân Biện đã thoát trận Tây Kết và tìm cách rút về qua
đường Sóc Sơn, Phổ Yên hướng về Vũ Nhai. Quân Đại Cồ Việt truy
kích đến tận Vũ Nhai thì bắt được Quách Quân Biện.
Kết quả
Các sử liệu của Trung Hoa chép về các
chiến thắng của quân Tống giai đoạn đầu khá rõ ràng, nhưng khi
chép về các thất bại rất sơ lược. Tục tư trị thông giám trường
biên của Lý Đào chép việc các tướng lĩnh chinh phạt Đại Cồ Việt
thất bại bị trị tội. Theo đó Lưu Trừng cùng Giả Thực đều bị giết
bêu đầu ở chợ Ung Châu. Tôn Toàn Hưng bị hạ ngục rồi bị tội chết.
Trần Khâm Tộ, Hác Thủ Tuấn, Thôi Lượng đều bị trách phạt, giáng
chức. Các tướng lĩnh Tống cao cấp bị chết hay bị bắt tại trận gồm
tổng tư lệnh Hầu Nhân Bảo, Chu Vị, Quách Quân Biện, Triệu Phụng
Huân.
Sau cuộc
chiến này, Đại Tống chấp nhận xuống nước, đến năm 986 chính thức
thừa nhận Lê Hoàn là người cai trị Đại Cồ Việt. Hai bên giao hảo,
cứ 2 năm một lần Đại Cồ Việt triều cống Đại Tống còn Đại Tống ban
sắc phong cho Lê Hoàn. Sau này, vào năm 995, quân Đại Cồ Việt đã
có hành động tiến quân sang đất Tống, như ở trấn Như Hồng thuộc
địa phận châu Khâm. Nhà Tống gửi thư trách, nhưng Lê Hoàn đã trả
lời khá “ngạo mạn”:
“Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc
biển ở cõi ngoài, hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao
Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên
Nhung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà
thôi?”
Huyền
thoại Nam Quốc Sơn Hà
Có một số nghiên cứu cho rằng bài “thơ
thần” Nam quốc sơn hà đã được đọc trong trận tại sông Lục Đầu,
nghĩa là trước cả cuộc Chiến tranh Tống–Việt năm 1075–1077. Bài
thơ thần này được cho là gắn với thần Trương Hống và Trương Hát
mà dân gian cho là cư ngụ ở vùng sông Thương, sông Cầu. Tương
truyền, quân Tống nghe thấy thần đọc thơ và thấy hai đạo âm binh
xông vào đánh mình thì sợ quá mà tan vỡ.
Nghệ thuật quân sự
Diễn biến của trận đánh cho thấy trình
độ nghệ thuật quân sự của dân tộc Đại Cồ Việt lúc này đã có sự
phát triển mới, từ nghệ thuật quân sự của chiến tranh giải phóng
sang chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, thể hiện qua các mặt sau: Nghệ
thuật chủ động bố trí thế trận; Khéo lợi dụng địa hình, địa thế;
Chọn đúng đối tượng tác chiến; Biết dùng mưu kế và sự phối hợp
tác chiến giữa quân chủ lực và dân binh ở các địa phương.
Quân dân Đại Cồ Việt đã vận dụng tài
giỏi nghệ thuật quân sự phù hợp với điều kiện một nước nhỏ chống
lại cuộc xâm lăng của một đế chế phong kiến lớn mạnh.
Chủ động bố trí thế trận
Biết trước âm mưu của nhà Tống sang xâm
lăng, và mục tiêu là cố chiếm cho kỳ được thành Hoa Lư, Lê Hoàn
đã nhanh chóng xác định đúng phương hướng chống phá, không bị
động ngồi chờ đánh giặc. Từ tháng 11 năm 980, nhà vua trực tiếp
dẫn đại quân ra miền địa đầu đất nước bố phòng, sẵn sàng đón đánh
các đạo quân giặc ngay khi chúng vừa xâm phạm lãnh thổ nhằm “lấy
quân nhàn đợi quân mệt”, phá vỡ ý đồ hợp điểm, hội sư của địch,
không cho chúng phối hợp thủy bộ tạo thành mũi dùi nguy hiểm thọc
sâu vào vùng đồng bằng đông dân, giàu của, và kinh đô Hoa Lư.
Thực tế cho thấy, các trận đánh ở Bạch Đằng (24 tháng 1 năm 981),
Hoa Bộ (30 tháng 1 năm 981), Đồ Lỗ (7 tháng 2 năm 981), Lục Giang
(tháng 3 năm 981) là những trận đánh có tính chất kiềm chế, ngăn
chặn những mũi tiến công theo 2 hương thủy bộ của địch. Kết quả
là cánh quân bộ binh của Tôn Toàn Hưng giậm chân ở Hoa Bộ 70
ngày. Và cả hai đạo quân thủy bộ sau hơn 2 tháng tiến vào Đại Cồ
Việt, bị nhiều tổn thất, khó khăn mà vẫn chỉ quẩn quanh ở vùng
Bạch Đằng, Hoa Bộ. Dẫu cánh quân của Trần Khâm Tộ đến được Tây
Kết (tháng 4 năm 981) thì cũng hiển nhiên rơi vào thế bị cô lập.
Chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của quân Tống bị phá sản.
Chính lúc đó Lê Hoàn chủ động mở cuộc phản công chiến lược, đánh
trận quyết chiến Bạch Đằng và giành được thắng lợi.
Lợi dụng địa hình, địa thế
Phát huy thế mạnh đánh giặc ngay trên
quê hương mình và biết rõ âm mưu của quân Tống, Lê Hoàn đã dựa
vào hình sông thế núi hiểm trở của đất nước mà bố phòng các đồn
lũy, đắp xây thành Bình Lỗ, đặc biệt là đóng cọc ngăn sông Bạch
Đằng. Với vị trí hiểm yếu thiên nhiên của sông Bạch Đằng, binh
lực của Đại Cồ Việt ở đây bố trí không cần quá nhiều mà vẫn có
thể cầm giữ, ngăn cản bước tiến quân địch.
Chọn đúng đối tượng tác chiến
Để nhanh chóng làm suy sụp tinh thần
của đội quân xâm lăng Tống, quân và dân Đại Cồ Việt đã biết chọn
đúng đối tượng để giáng đòn phản công quyết định. Đối tượng tác
chiến trong trận Bạch Đằng xuân 981 là toàn bộ đội binh thuyền
của Hầu Nhân Bảo. Đó là viên Tổng chỉ huy “Giao Châu hành doanh”,
mang nhiều tham vọng nhất, liều lĩnh, và hiếu chiến nhất. Hầu
Nhân Bảo cũng là viên tướng tỏ ra có kỷ luật nhất, có quyết tâm
thực hiện chiến lược của Tống triều, và đã nhiều lần thúc giục
Tôn Toàn Hưng cùng xuất quân đánh chiếm Hoa Lư.
Do đó, việc Lê Hoàn chủ động đánh đạo
thủy binh Tống và giết chết chủ tướng bên địch đã có tác động đến
toàn cục của chiến tranh. Quân nhà Tiền Lê đánh đòn quyết định
đối với đạo thủy binh Hầu Nhân Bảo vào lúc đạo quân này đã bị
chia tách khỏi thế trận liên kết của toàn quân Tống. Tôn Toàn
Hưng và Lưu Trừng đang co cụm chiến lược ở vùng Hoa Bộ để tránh
bị quân Lê tiêu diệt. Trần Khâm Tộ và đạo quân bộ lẻ loi còn đang
sa lầy trên cánh đồng Tây Kết. Chính vì thế khi Lê Hoàn tổ chức
phản công, Hầu Nhân Bảo không có quân ứng cứu, bị quân Đại Cồ
Việt giết chết tại trận.
Dùng mưu kế đánh địch
Diễn biến chiến sự cho thấy giết Hầu
Nhân Bảo không mấy dễ dàng. Bởi vậy Lê Hoàn mưu tính dùng kế trá
hàng hy vọng giết đúng tên chủ tướng theo cách:
Bên trong bí mật củng cố lực lượng, bài
binh bố trận, phòng bị cẩn mật
Bên ngoài thì giấu binh, nới vây hãm,
giảm canh phòng
Đồng thời thư từ sang Tống tỏ vẻ run
sợ, dùng lời lẽ nhún nhường, ngỏ lời cầu xin quy phục để bảo toàn
tính mạng.
Tống sử Trung Hoa chép: “Lê Hoàn giả vờ xin hàng, mà Hầu Nhân Bảo
và Tôn Toàn Hưng cứ tưởng là thật...” Điều này chứng tỏ Hầu Nhân
Bảo và Tôn Toàn Hưng mắc lừa mưu kế của Lê Hoàn mà lơ là không
phòng bị. Do đó khi bị quân Đại Cồ Việt tập kích, Hầu Nhân Bảo
hoàn toàn bất ngờ, không kịp chống đỡ và bị giết chết.
Phối hợp tác chiến giữa quân và dân
Việc Lê Hoàn truyền hịch cầu tài, xuống
chiếu tuyển quân, thu lương ở khắp mọi miền đất nước đã thực sự
phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu chống giặc ngoại xâm của
quân dân Đại Cồ Việt. Những trận đánh lớn, ngoài quân chủ lực của
triều đình còn có sự tham gia rất tích cực của các đội dân binh
địa phương. Dân binh các làng xã còn thường xuyên tập kích, quấy
rối những lúc quân địch đang giậm chân tại chỗ, chưa tiến được
khiến cho quân Tống bị tiêu hao lực lượng, tinh thần hoang mang.
Tham khảo
^ Trần Bá Chí (2003), Cuộc kháng chiến
chống Tống lần thứ nhất, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
(bản điện tử)
^ Theo Trần Bá Chí (2003), Lư Đa Tốn là Đồng bình chương sự, tức
tể tướng, của triều Tống Thái Tông.
^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, chính biên quyển I.
^ Trần Bá Chí (2003) dẫn An Nam chí
nguyện của Cao Hùng Trưng.
^ Dẫn lại từ Lê Tắc (1335), An Nam chí
lược, bản dịch của Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại
học Huế, năm 1961.
^ Trương Hữu Quýnh (2007), “Chương V:
Thế kỷ X: Bước đầu xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập, thống
nhất thời Khúc – Ngô – Đinh – Tiền Lê” trong Trương Hữu Quýnh chủ
biên, Đại cương lịch sử Việt Nam tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội, trang 116.
^ Ngô Sĩ Liên chủ biên, Đại Việt sử ký
toàn thư, bản kỷ, quyển I, kỷ Nhà Lê.
^ Lai lịch các tướng lĩnh Tống này được
Trần Bá Chí (2003) giới thiệu.
^ Tống sử quyển 488 Liệt truyện đệ 247
ngoại quốc 4: Giao Chỉ
^ Trần Bá Chí (2003) ước lượng quân
Tống từ 3 vạn đến 4 vạn.
^ Nguyễn Quang Ngọc (2005) cho rằng
quân Tống có 3 vạn (xem Nguyễn Quang Ngọc (2005), “Lê Hoàn và
chiến thắng Bạch Đằng năm 981”, trong Bối cảnh định đô Thăng Long
và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nhà xuất bản Hà Nội).
^ Lịch sử quân sự Việt Nam tập 3 do
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên soạn cho rằng quân Tống có 4
vạn, gồm 1 vạn thủy quân do Hầu Nhân Bảo và 1 vạn lục quân do Tôn
Toàn Hưng dẫn sang đợt đầu, 1–2 vạn thủy lục quân do Lưu Trừng và
Trần Khâm Tộ dẫn sang đợt 2.
^ Trần Bá Chí (2003) cho rằng thành
Bình Lỗ này phải nằm trên đường dẫn tới kinh đô Hoa Lư, và xác
định đây là chiến lũy theo kiểu tuyến dài khoảng 30km dọc sông
Hồng, từ Yên Lệnh (Thường Tín, Hà Nội) tới Bình Lục (Hà Nam). Còn
Nguyễn Vĩnh Phúc (2005) thì dẫn nghiên cứu của Lê Văn Lan cho
rằng phòng tuyến này ở phía Bắc thành Đại La, dọc sông Cà Lồ (xem
Nguyễn Vĩnh Phúc (2005), “Lê Đại Hành và Sóc Thiên Vương” trong
Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nhà xuất
bản Hà Nội.
^
Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển IV, kỷ Nhà Trần.
^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược.
^ Trương Hữu Quýnh chủ biên (2007), Đại
cương lịch sử Việt Nam – tập I, Nhà xuất bản Giáo dục.
^ Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003),
Lịch sử Quân sự Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
^ Nguyễn Minh Tường (2005), “Đại bản
doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981”, trong
Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nhà xuất
bản Hà Nội.
^
Lê Đình Sỹ (2005), “Có một trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng
năm 981”, trong Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê
Hoàn, Nhà xuất bản Hà Nội.
^ Sách đã dẫn
^ Sách đã dẫn, trang 116.
^ Nguyễn Quang Ngọc (2005) dẫn lại từ
Lý Đào trong Tục tư trị thông giám trường biên.
^ Nguyễn Quang Ngọc (2005), “Lê Hoàn và
chiến thắng Bạch Đằng năm 981” trong Bối cảnh định đô Thăng Long
và sự nghiệp của Lê Hoàn của Nhà xuất bản Hà Nội.
^ Sách đã dẫn.
^ Sách đã dẫn, trang 117.
^ Nguyễn Hữu Tâm (2005), “Đại thắng mùa
xuân năm 981 trên sông Bạch Đằng của quân dân Đại Cồ Việt qua một
số thư tịch của Trung Quốc”, trong Bối cảnh định đô Thăng Long và
sự nghiệp của Lê Hoàn, Nhà xuất bản Hà Nội.
^ Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển
VI, Kỷ Nhà Trần, mục Anh Tông Hoàng Đế, Nhà xuất bản Khoa Học Xã
Hội (Hà Nội) ấn hành (1993)
^ Trần Bá Chí: Lê Đại Hành phá Tống giữ
vững độc lập. Số 25. Khoa sử. Đại học quốc gia Hà Nội
^ Đại sư Khuông Việt (933–1011) Thiền
uyển tập anh
^
Nguyễn Vinh Phúc: Lê Đại Hành và Sóc thiên vương. Bối cảnh định
đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn
^ Trần Bá Chí: Bản ngọc phả về bà vợ Lê
Đại Hành đánh giặc Tống. Tạp chí hán nôm số 2 (51), năm 2002
^ Trần Đình Hoành. Lĩnh Nam Chích Quái.
Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt
^ Tướng quân Trương Hống, Trương Hát.
Báo Bắc Ninh ngày 15/6/2007, mục xưa và nay
^ Đại Việt Sử Lược Quyển I. Vua Lê Đại
Hành
^ 20 trận
đánh trong lịch sử dân tộc. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hà
Nội, 2003. tr. 40.
^ An Nam chí lược – Quyển Đệ nhị.
^ Xem Bùi Duy Tân (2005), “Nam quốc sơn
hà và Quốc tổ, hai kiệt tác mở đầu lịch sử văn học ngang qua
triều đại Lê Hoàn”, trong Bối cảnh định đô Thăng Long và sự
nghiệp của Lê Hoàn, Nhà xuất bản Hà Nội có nhắc đến các nghiên
cứu này.
^ Các
Trận Đánh Trong Lịch sử Quân sự Việt Nam
hết phần II...
nguồn:
blog người kể sử
Phần III
– 1288
Chiến trận BẠCH ĐẰNG GIANG
Phần III – 1288
Thời gian: 1288
Địa điểm: Sông Bạch
Đằng, Đại Việt
Kết quả:
Quân đội Đại Việt đại thắng, nền độc lập của Đại Việt được bảo
toàn.
Tham chiến
Nhà Trần (Đại Việt):
Chỉ huy: Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, và Trần Hưng Đạo.
Nhà Nguyên: Ô
Mã Nhi , Phàn Tiếp , và Trương Văn Hổ.
Lực lượng
Nhà Trần: hơn
50000
Nhà Nguyên: hơn 80000
Tổn thất
Nhà Trần:
4000–4500 người chết
Nhà Nguyên:
80000 chết và bị thương, Hàng trăm tàu chiến bị chìm, hơn 400
tàu chiến bị bắt giữ; các tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp bị bắt
sống.
Trận Bạch Đằng năm 1288 xảy
ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, là một trận đánh quan
trọng trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên–Mông trong lịch sử
Việt Nam.
Đây
là chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt do Quốc công Tiết chế
Trần Hưng Đạo cùng với Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua
Trần Nhân Tông chỉ huy trước quân xâm lăng Nguyên–Mông. Quân
Nguyên bị thiệt hại vô cùng nặng (với khoảng hơn 4 vạn quân sĩ bị
loại khỏi vòng chiến), và nhiều tướng Nguyên trong đó có cả Ô Mã
Nhi, Phạm Nhàn, và Phàn Tiếp cũng bị bắt sống và dâng lên Thượng
hoàng Thánh Tông. Ngoài ra, có những 400 chiến thuyền của quân
Nguyên rơi vào tay quân Trần thắng lớn. Đại thắng trên sông Bạch
Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam,
và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng
chiến chống quân xâm lăng Nguyên–Mông.
Đại thắng này là một chiến quả của kế
cắm cọc trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo Vương, mở đầu với việc
quân sĩ của ông lừa được địch vào trận địa cọc nhân triều rút.
Quân Nguyên vấp phải sự chiến đấu mãnh liệt của quân Thánh Dực
dưới quyền Nguyễn Khoái (Bình chương Áo Lỗ Xích của Nguyên–Mông
bị bắt trong trận này), tiếp theo đó các vua Trần đem binh tới ác
chiến, đập tan nát quân Nguyên. Tiếp theo đó, quân Trần mai phục
hai bên cũng dũng vũ xông ra, tiếp tục diệt tan quân địch. Khi
nước triều rút, quân Nguyên hoàn toàn lâm vào thảm họa. Với sự
hoàn tất sứ mệnh phá hủy đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, toàn
thắng này dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của Đại Việt trong cuộc
Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt lần 3 và hoàn toàn phá tan âm
mưu xâm chiếm Đại Việt của nhà Nguyên. Chiến tích vẻ vang này của
Trần Hưng Đạo cùng với hai vị minh quân triều Trần đã lưu danh
trong lịch sử Việt Nam, và là đề tài cho nhiều tác phẩm văn học
Việt Nam thời Trung đại, dưới ngòi bút của các danh sĩ Trương Hán
Siêu, Nguyễn Trãi... Trương Hán Siêu đã thuật lại diễn biến cuộc
chiến này trong bài “Phú sông Bạch Đằng”
như sau:
“Thuyền
bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới
Hùng hổ
sáu quân, giáo gươm sáng chói
[...]
Trận đánh được thua chửa phân
Chiến lũy bắc nam chống đối
[...]
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối
Những tưởng gieo roi một lần
Quét sạch
Nam bang bốn cõi
[...]
Trời cũng chiều người
Hung đồ hết lối!”
Kế hoạch rút quân của quân
Nguyên
Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc
xâm lăng Đại Việt lần thứ ba, nhưng chỉ chiếm được kinh thành
Thăng Long không một bóng người, và thủy quân Đại Việt do Phó
tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chỉ huy đã đánh tan nát đoàn
thuyền lương của Trương Văn Hổ trong trận Vân Đồn. Trước tình
hình bất lợi, quân Nguyên định tổ chức rút về Trung Hoa theo
nhiều hướng khác nhau. Ngày 3 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), Hữu
thừa Trình Bằng Phi, Thiên tỉnh Đạt Mộc thống lĩnh kỵ binh đi
đón các cánh quân di chuyển bằng đường thủy (đoàn thuyền của
Trương Văn Hổ). Tuy nhiên khi qua chợ Đông–Hồ thì bị dòng sông
chắn ngang, phải quay lại, nhưng cầu cống đã bị quân nhà Trần bám
theo sau phá hủy. Quân Nguyên rơi vào thế nguy, trước mặt thì bị
quân Trần chặn đường, sau lưng là chướng ngại thiên nhiên. Tuy
nhiên quân Nguyên do tra hỏi những tù binh nên đã tìm được đường
thoát, nửa đêm hôm đó cánh quân này đột phá vòng vây chạy trốn
theo con đường khác, phối hợp với một cánh quân Nguyên đang rút
lui để cùng nhau ra khỏi ải Nội Bàng. Tuy bị bất ngờ bởi sự thay
đổi lộ trình của quân Nguyên, quân đội nhà Trần đuổi theo đánh
rất sát vào cánh quân đoạn hậu. Tướng Nguyên là Vạn hộ Đáp Thứ
Xích và Lưu Thế Anh phải dẫn quân quay trở lại phía sau đối phó
với quân Trần, sau một trận giao chiến bắt được và giết các tướng
Trần chỉ huy toán quân tập kích là các tướng Phạm Trù và Nguyễn
Kị.
Ngày 7
tháng 3 năm Mậu Tý (8 tháng 4 năm 1288), cánh quân Mông Cổ rút
bằng đường thủy đi tới Trúc Động, tại đây họ bị quân nhà Trần
chận đánh, nhưng tướng Nguyên là Lư Khuê chỉ huy [đoàn] quân
này đánh lui quân nhà Trần và chiếm được 20 chiến thuyền.
Ngày 8 tháng 3 (9 tháng 4 năm 1288), Ô
Mã Nhi không cho quân rút về bằng đường biển mà đi theo sông Bạch
Đằng, vì tính rằng đường biển đã bị thủy quân nhà Trần vây chặt
thì phòng bị đường sông có thể sơ hở, hơn nữa sông Bạch Đằng nối
liền với nội địa Trung Hoa bằng thủy lộ, thuận lợi cho việc rút
lui.
Năm 1288,
sau khi rút lui khỏi kinh đô Thăng Long, Trần Hưng Đạo đã quyết
định đánh một trận lớn chống quân Mông Cổ xâm lăng đi vào Đại
Việt thông qua sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng trước đó cũng là
một địa danh lịch sử khi Ngô Quyền đã từng đánh thắng quân Nam
Hán trong năm 938, kết thúc gần 1000 năm Bắc thuộc. Trần Hưng Đạo
đã nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của con sông này để
vạch ra thế trận cọc để mai phục quân Nguyên–Mông.
Trần Hưng Ðạo chỉ huy quân dân Đại Việt
chuẩn bị một trận địa mai phục lớn trên sông Bạch Ðằng, là nơi
đoàn thuyền của quân Nguyên sẽ phải đi qua trên đường rút chạy.
Các loại gỗ lim, gỗ táu đã được đốn ngã trên rừng kéo về bờ sông
và được đẽo nhọn cắm xuống lòng sông ở các cửa dẫn ra biển như
sông Rút, sông Chanh, sông Kênh làm thành những bãi chông ngầm
lớn, kín đáo dưới mặt nước. Ghềnh Cốc là một dải đá ngầm nằm bắt
ngang qua sông Bạch Ðằng nhưng phía dưới sông Chanh, đầu sông
Kênh, có thể sử dụng làm nơi mai phục quân lính phối hợp với bãi
chông ngầm nhằm ngăn chận thuyền địch khi nước rút xuống thấp.
Thủy quân Đại Việt bí mật mai phục phía sau Ghềnh Cốc, Ðồng Cốc,
Phong Cốc, sông Khoai, sông Thái, sông Gia Ðước, Ðiền Công, còn
bộ binh bố trí ở Quảng Yên, dọc theo bờ bên trái sông Bạch Ðằng,
Tràng Kênh ở bờ bên phải sông Bạch Ðằng, núi Ðá Vôi... ngoại trừ
sông Ðá Bạc là để trống cho quân Nguyên kéo vào. Ðại quân của hai
vua đóng quân ở Hiệp Môn (Kinh Môn, Hải Dương) trong tư thế sẵn
sàng lâm trận cho chiến trường quyết liệt sắp xảy ra.
Diễn biến trận đánh
Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào
sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao
chiến, rồi giả thua chạy vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế
khích tướng nên thúc quân ra nghênh chiến, các tướng Phàn Tham
Chính, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi thuyền quân Nguyên đã
vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tướng Nguyễn Khoái dẫn các quân
Thánh Dực ra khiêu chiến và nhử quân Nguyên tiến sâu vào khúc
sông đã đóng cọc, trong khi quân Trần đợi cho thủy triều xuống
mới quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Bình chương
Áo Lỗ Xích của Nguyên–Mông đã bị bắt sống trong cuộc chiến đấu
quyết liệt của quân Thánh Dực.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông–Vân Trà
từ các phía Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng
tiến ra sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính
các lộ dàn ra trên sông và dựa vào Ghềnh Cốc thành một dải thuyền
chặn đầu thuyền địch ngang trên sông. Trong lúc thủy chiến đang
diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai vua Trần đóng ở vùng
Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Giáp (sông Kinh Thầy,
vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh cầm chừng và cản bước
tiến của địch, cũng tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên càng
lúng túng và tổn thất rất nặng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,
“nước sông do vậy đỏ ngầu cả”. Bị bất lợi hoàn toàn, rất nhiều
chiến thuyền của quân Nguyên bị cháy rụi. Bị tấn công tới tấp
trên sông, một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông bên
trái của Yên Hưng để tìm đường trốn thoát, nhưng vừa lên tới bờ
họ lại rơi vào ổ phục kích của quân Trần, bị chận đánh kịch
liệt. Trời về chiều khi giao tranh sắp kết thúc, Ô Mã Nhi cùng
với binh lính dưới quyền chống cự tuyệt vọng trước sự tấn công
của quân Trần, vì quân Nguyên của Thoát Hoan không tới cứu viện,
nên đạo quân này hoàn toàn bị quân Trần tiêu diệt. Theo Nguyên
sử, truyện của Phàn Tiếp chép rằng kịch chiến xảy ra từ giờ mão
đến giờ dậu, tức là từ sáng kéo dài đến chiều tối mới kết thúc.
Nguyên Sử có chép về tướng Nguyên Phàn Tiếp:
“Tiếp
cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chận.
[Thủy]
triều sông Bạch Đằng xuống, thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn
về nhiều, tên bắn như mưa. Tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ
dậu. Tiếp bị thương, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng thuốc
độc giết”.
Bia Lý Thiên Hựu cũng chép: “Tháng
ba, đến cảng Bạch Đằng, người Giao chắn chiến hạm ngang sông để
chống cự quân ta, đến lúc nước triều rút, thuyền không tiến được,
quân tan vỡ...”. Lý
Thiên Hựu là 1 viên tướng Nguyên cũng tham gia trận Bạch Đằng.
Kết cục
Quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn
400 chiến thuyền, tướng Đỗ Hành bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ
Cơ và Ô Mã Nhi dâng lên Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng
hoàng đã vui vẻ hậu đãi những viên bại tướng này. Khoảng hơn 4
vạn tướng sĩ Nguyên–Mông đã bị loại ra khỏi vòng chiến. Tướng
Nguyên là Phàn Tiếp bị bắt sống, rồi bị bệnh chết, trong khi một
bại tướng khác là Phạm Nhan thì đã bị Trần Quốc Tuấn cho trảm
quyết. Cánh thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt.
Chiến thắng vinh quang của quân Đại Việt trong trận sông Bạch
Đằng năm 1288 được xem là một trận đánh hủy diệt và thủy chiến
lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam, và cũng
được xem là thắng lợi tiêu biểu nhất của quân Đại Việt trong ba
cuộc kháng chiến chống quân xâm lăng Nguyên–Mông, dẫn đến chấm
dứt thắng lợi cho Đại Việt trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông–Đại
Việt lần thứ ba.
Mặc dầu về sau này, “Giao Chỉ” hãy còn
“ngứa ngáy trong tim Hốt Tất Liệt”, đại thắng của Quân đội Đại
Việt trong trận sông Bạch Đằng không chỉ hoàn tất mục đích đập vỡ
đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, mà còn hoàn toàn phá vỡ âm mưu xâm
lăng Đại Việt, và qua đó Đế quốc Mông Cổ không thể nào làm chủ cả
Đông Nam Á.
Ý kiến khác về Ghềnh Cốc
Hiện nay, nhiều ý kiến nhấn mạnh đến
vai trò của Ghềnh Cốc trong chiến thắng Bạch Đằng, cho rằng ghềnh
này đã được tận dụng như là một chiến lũy thiên nhiên tuyệt vời
để góp phần quan trọng cho trận thắng.
Tuy nhiên, tất cả các tài liệu sử
Nguyên, sử Việt được biết đều chẳng nhắc gì đến Ghềnh Cốc. Chỉ
vào nửa sau Thế kỷ XX, Ghềnh Cốc mới được nói đến và được đánh
giá với vai trò quan trọng như vậy. Điều này có thể đúng, nếu hơn
7 thế kỷ qua, dòng sông Bạch Đằng bất biến về vị trí, hình thái,
và kích thước. Nhưng trong thiên nhiên, sự bất biến như vậy gần
như không có trên thực tế.
Phân tích tài liệu hình thái, có thể
thấy sông Bạch Đằng đã và đang có xu thế
[xê] dịch trục lòng về
phía bờ đông, tương ứng với xói lở bờ phía Hà Nam và bồi tụ phía
Thủy Nguyên.
Trục lòng sông Bạch Đằng vào khoảng năm 1288 có thể nằm lệch về
phía tây một vài trăm mét hoặc nhiều hơn nữa so với bây giờ,
Ghềnh Cốc khi ấy có thể còn nằm chìm dưới bề mặt vùng bãi triều
phía tả ngạn dòng sông và mới lộ ra ở đáy sông sau này, khi lòng
sông Bạch Đằng dịch chuyển về phía đông.
Vậy, nếu không có Ghềnh Cốc, quân Đại
Việt dựa vào đâu để cản được chiến thuyền Nguyên–Mông rút chạy ra
biển theo dòng chính Bạch Đằng? Chính là trận địa cọc trên dòng
chủ lưu Bạch Đằng đã cản đường rút quân ra biển của chiến thuyền
Nguyên–Mông.
Đâu là bãi cọc chính của trận Bạch Đằng 1288?
Sông Bạch Đằng bây giờ sâu và rất rộng,
nên khó nghĩ rằng trận địa cọc chính lại có thể cắm ngang dòng
chủ chủ lưu. Nhưng khoảng 5–7 trăm năm trước, đây là một bộ phận
của châu thổ sông Hồng. Vì thế, lòng chính sông Bạch Đằng khi ấy
có thể nông hơn và hẹp hơn ngày nay. Mô tả của Nguyễn Trãi trong
Dư địa chí phù hợp với nhận định này:
“Sông
Vân Cừ rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước”.
Chỉ mới khoảng 5–7 trăm năm qua, vùng cửa sông Bạch Đằng mới
chuyển hóa thành cấu trúc vùng cửa sông hình phễu với các lòng
lạch bị xâm thực sâu và rộng.
Vì vậy, việc tồn tại một trận địa cọc
chính cắm ngang qua dòng chủ lưu sông Bạch Đằng là hoàn toàn có
thể. Có điều, bãi cọc chính ấy, sau chiến tranh người ta buộc
phải thu dọn, nhổ đi để cho thuyền bè buôn bán, vận tải, và đánh
cá xuôi ngược. Những bãi cọc tìm thấy hiện nay ở sông Chanh, Vạn
Muối, sông Rút chỉ là các bãi phụ trợ, nhằm chận đường rút của
chiến thuyền Nguyên–Mông sang Vịnh Hạ Long. Phân tích kỹ chiều
dài thân cọc, đoạn chặt vát, vị trí cọc nguyên vị trong bãi bồi
sông Chanh và thay đổi của thủy triều khu vực, chẳng khó khăn
để nhận thấy các bãi cọc tìm thấy chỉ là phần cắm trên bãi triều
thấp ven lòng, chưa phải phần chính của bãi cọc ngang qua sông
Chanh (chắc cũng phải nhổ đi sau chiến tranh cho thuyền bè qua
lại).
Một nhận
định nữa về sự tồn tại của trận địa cọc chính trên dòng chủ lưu
sông Bạch Đằng: Vào thời gian trong năm xảy ra trận đánh, ở vùng
này gần như hoàn toàn không có gió hướng tây. Vì vậy, khi dòng
chảy triều xuống, các bè lửa thả từ phía thượng nguồn không thể
dạt về cửa nhánh sông Chanh, hay Vạn Muối để thiêu đốt thuyền
Nguyên–Mông tụ lại ở đấy. Các bè lửa sẽ theo dòng chảy trôi về
phía cửa biển Nam Triệu, khi ấy, nếu áp sát vào Ghềnh Cốc để cản
thuyền Nguyên–Mông, thì thuyền Đại Việt cũng bị bè lửa thiêu.
Vậy, chính trận địa cọc dày đặc ngang sông, chứ không phải ghềnh
đá, đã cản thuyền quân Nguyên–Mông ra cửa biển Nam Triệu.
Giả thuyết khác về bãi cọc
Có ý kiến cho rằng, ngay từ khi nhận
chức Tiết chế ở Bình Than, Trần Quốc Tuấn đã theo kế của Ngô
Quyền, muốn ngăn quân địch tiến vào bằng cọc nhọn ở Bạch Đằng. Số
cọc nhọn làm năm 1288 chỉ là số bổ sung thêm.
Ngay từ năm 1284, Trần Quốc Tuấn đã
giăng bẫy ở đây và muốn dồn địch vào trận địa cọc, nhưng quân
Trần yếu thế không thực hiện được ý định. Kết quả quân Nguyên
vượt qua an toàn.
Năm 1287, khi Ô Mã Nhi tiến vào cũng
mang quân đông và mạnh khiến quân Trần không thể dồn quân Nguyên
tới bãi cọc vào thời điểm triều rút, do đó việc bố trí cọc cũng
vô hiệu.
Theo
ý kiến của Trần Xuân Sinh, các tướng Nguyên không thể không biết
về bài học trận Bạch Đằng, 938 của Nam Hán; nhưng do hai lần đã
đi qua dễ dàng, quân Nguyên chủ quan không đề phòng cạm bẫy ở
sông Bạch Đằng năm 1288. Chính vì vậy khi rút lui đã bị sa vào
trận địa và bị diệt hoàn toàn.
Trong thi ca
Chiến công trên sông Bạch Đằng vào năm
1288 của các vua Trần và Trần Quốc Tuấn, cùng với đại thắng của
Ngô Quyền trong trận đánh tại đây thuở xưa, đã khiến cho dòng
sông này trở nên gắn bó sâu sắc với lịch sử dân tộc Việt Nam. Có
thể kể đến bài “Phú sông Bạch Đằng” của một môn khách của Hưng
Đạo Đại Vương là Trương Hán Siêu được coi là một bản hùng văn
trong lịch sử văn học Việt Nam. Qua tác phẩm này, Trương Hán Siêu
đã ca ngợi công đức của hai vị minh quân Trần Thánh Tông cùng với
Trần Nhân Tông (“Nhị Thánh hề tịnh minh, tựu thử giang hề tẩy
giáp binh” – dịch là: “Hai vua thật anh minh, đến sông này dẹp
đạo binh”.), và đề cao Hưng Đạo Đại Vương (“Duy thử giang nhi đại
tiệp, do Đại Vương chi tặc nhàn”, dịch nghĩa: “Nghĩ có đại thắng
trên sông này, do bởi Đại Vương
[biết thế] giặc nhàn”). Tác giả
cũng nêu cao khí phách của Vương triều nhà Trần – “hào khí Đông
A” – đại thắng hiển hách trong trận Bạch Đằng.
Vua Trần Minh Tông về sau cũng viết bài
thơ “Bạch Đằng Giang”, trong đó có
đoạn:
“Non
sông này xưa nay đã hai lần mở mắt,
Cuộc
hơn thua giữa Hồ và Việt thoáng qua như một lúc dựa vào lan can.
Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời cuối ngày đỏ ối,
Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.”
Nguyễn Trãi – vị anh hùng dân tộc của
Đại Việt dưới triều Hậu Lê, cũng có bài thơ “Bạch
Đằng Hải Khẩu”,
trong đó có đoạn:
“Ngạc
đoạn kình khoa sơn khúc khúc;
Qua trầm
kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách
nhị do thiên thiết;
Hào kiệt công danh
thử địa tằn”.
Dịch nghĩa:
“Như
cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một;
Như mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chồng.
Quan hà hiểm hai người chống trăm người do trời xếp đặt;
Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi.”
Tham khảo
Hà
Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), Cuộc kháng chiến chống xâm lăng
Nguyên–Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, bản in
lại năm 2003.
Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng.
Đại Việt Sử ký Toàn Thư (nhiều tác giả)
Almanach Những nền văn minh thế giới –
Nhà xuất bản văn hóa thông tin, tái bản lần 1 năm 2007.
hết phần III...
nguồn:
blog người kể sử
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật March 2, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang