Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời
sự Biên Cương nước Đại Việt
Chủ đề:
Hoàng–Trường Sa
Tác giả:
GS Nguyễn Văn
Canh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời mở đầu: Trước hết, tôi cần nói về chữ công hàm. Trong
lãnh vực ngoại giao, người ta dùng chữ Công Hàm thay vì dùng chữ
văn thư hành chánh của một Thủ tướng gửi cho một Thủ tướng của
một nước khác. Trường hợp này, Thủ tướng Phạm văn Đồng của Việt
Cộng gửi văn thư, được gọi là công hàm cho Thủ tướng Chu ân Lai
của Trung Cộng.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam là trọng tâm của ‘vấn đề Công Hàm Phạm văn Đồng’. Vì
thế, chúng ta cần nói sơ qua về 2 quần đảo này để các anh chị
thanh niên, giới trẻ biết dễ hiểu hơn để khi bàn tới vấn đề này.
Hội Nghị Genève, Thụy sĩ, năm 1954 về
chấm dứt chiến tranh Đông Dương và Việt nam bị chia ra làm 2 ở vĩ
tuyến 17. Phần về phía Bắc dành cho Cộng sản, gọi là Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa hay Việt cộng (VC) và Phạm văn Đồng là Thủ tướng của
VNDCCH. Phần phía Nam, cho Quốc gia, gọi là Việt Nam Cộng Hoà
(VNCH).
Hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở dưới vĩ tuyến 17, nghĩa là
tài sản của VNCH.
Có 2 văn kiện cần được bàn tới trong
bài nói chuyện này: Bản Tuyên Bố của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa
(TC) về lãnh hải và Công Hàm Phạm văn Đồng gửi cho Chu ân Lai.
Nội dung hai văn kiện:
1. Bản tuyên bố của Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa được Thường Vụ Quốc Hội Nhân Dân Trung Hoa thông qua
nhân kỳ họp thứ 100 vào ngày 4 tháng 9, năm 1958.
Sau đây là điểm chính trong bản Tuyên
Bố để phân tích trong buổi nói chuyện hôm nay.
“Lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý.
Ðiều khoản này bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các
hải đảo ngoài khơi... và các đảo phụ cận.... quần đảo Tây Sa và
Nam Sa.
Tây Sa
là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa của Việt Nam.”
2. Thư của Phạm văn Đồng đề ngày 14
tháng 9, 1958.
Phạm văn Đồng gửi cho Chu ân Lai Văn
thư về Bản Tuyên bố của Quốc Hội TC với nội dung như sau:
“Thủ tuớng Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà
Thưa Đồng
chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958,
của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải
phận của Trung quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà
nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung
hoa trên mặt bể...
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý
lời chào rất trân trọng./.
Hà nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Phạm văn Đồng
Thủ tướng Chính Phủ
Nước VNDCCH.”
–––––––––
PHÂN TÍCH VĂN KIỆN
Nhìn vào 2 bản văn trên, ta thấy có 2
vấn đề được nêu ra:
Vấn đề 1. CHNDTH (TC) phổ biến bản
tuyên bố để loan báo cho toàn thế giới (không gửi riêng cho VC)
biết về lãnh hải 12 hải lý của Trung Cộng, bao gồm cả đất liền,
các hải đảo ngoài khơi, và các đảo phụ cận.... Bản tuyên bố có
nói tên các đảo, ngoài khơi, phụ cận, như Hoàng Sa và Trường Sa.
Điều này có nghĩa là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của TC
(mặc dù là tài sản của VNCH).
Để đáp ứng loan báo của TC, Phạm văn
Đồng tự nguyện gửi thư trên xác nhận và tán thành quyết định của
TC. Văn thư ấy nói thêm rằng “sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý.” của TC.
Tuy nhiên, văn thư của Phạm văn Đồng bỏ
ngỏ vấn đề TC đơn phương tự nhận có chủ quyền trên Hoàng Sa và
Hoàng Sa của Việt Nam, dù lúc đó là của VNCH. Trước mắt quần
chúng, thì sự im lặng trước một vấn đề rõ rệt như vậy (có điều gì
khuất tất bên trong, có gì mờ ám), vì lẽ im lặng là thú nhận, là
đồng ý, là chấp thuận. Phạm văn Đồng không dám công khai nói rõ ý
định của VC, nhưng mập mờ này có vẻ làm cho TC hài lòng.
Đây là một điều rất bất thường.
Vấn đề 2: Văn thư của Phạm văn Đồng
công nhận 2 quần đảo của Việt nam có giá trị trong việc chuyển
nhượng tài sản hay không?
***
Đó là Giá trị pháp lý của Công Hàm.
Vấn đề 1: Mờ ám trong việc chuyển
nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho TC.
Những gì được thoả thuận giữa 2 bên đều
được giữ kín.
Cho đến khi Miền Nam bị Công sản Bắc Việt thôn tính vào năm 1975,
hai quần đảo này là của Miền Nam Việt Nam. Nay, chúng trở thành
lãnh thổ của chính quyền mới. Và lúc này, TC đòi VC chuyển giao
hai quần đảo này. VC không chấp thuận.
TC viện các lý do sau đây để chứng minh
chúng là chủ của 2 quần đảo ấy:
1. Bằng chứng quan trọng nhất mà TC dựa
vào đó để biện minh rằng chúng có chủ quyền là văn thư của Phạm
Văn Đồng (nói trên) đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về
TC.
2. Tuyên
bố của Ung văn Khiêm:
Các tài liệu sau đây còn ghi thêm một
chi tiết mà TC viện dẫn để biện minh chủ quyền trên Biển Đông. Đó
là lời nói của thứ trưởng Ngoại giao của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa Ung văn Khiêm với Đại lý sự vụ của Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa Li Zhimin vào ngày 15 tháng 6 năm 1956 rằng “Hoàng Sa
và Trường Sa về phương diện lịch sử thuộc về Trung Hoa.” Lời
tuyên bố này được phát biểu ở văn phòng Bộ Ngoại Giao Bắc Việt,
có sự chứng kiến của một viên chức Bộ Ngoại Giao VC là Lê Đốc.
3. Sách Giáo Khoa về Địa Lý của Hà Nội
trước năm 1974: Bài học về Địa lý dạy học sinh nói rằng: Hoàng Sa
và Trường Sa lập thành vòng đai bảo vệ Trung Quốc. Từ đó, người
ta hiểu rằng nếu Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Hoa, thì các
quần đảo ấy được sử dụng để bảo vệ Trung Hoa.
– Để phản bác lại quan điểm của TC, Bộ
Ngoại Giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào ngày 7
tháng 8 năm 1979 biện minh:
“Ngày 30 tháng 7 năm 1979 tại Bắc Kinh,
phía Trung quốc đã cho công bố một vài tài liệu với ý định để
minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại Giao nước
CHXHCN Việt Nam tuyên bố:
***
Sự diễn giải của Trung quốc về bản công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản công hàm chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc”.
***
Sau đó, lãnh đạo VC thú nhận có nhượng
2 quần đảo ấy cho TC dù đã phản bác:
1. Thú Nhận của Phạm văn Đồng và nêu lý
do tại sao “bán” 2 quần đảo này:
“Phó thủ tướng Lý tiên Niệm của TC nói
rằng vào năm 1958, Thủ tướng Phạm văn Đồng tán thành bản Tuyên Bố
của CHNDTH nhận có chủ quyền trên 2 quần đảo này, nhưng từ năm
1975, Việt Nam kiểm soát được một phần nhóm Hoàng Sa. Năm 1977,
Đồng đổi giọng: ‘lúc đó là thời gian chiến tranh và tôi phải nói
như vậy’” Far Eastern Economic Review (FEER), 16 tháng 3, 1979.
Biện minh của Đồng lại gây thêm thắc
mắc, vì lẽ trong khu vực này vào thời kỳ ấy, không có một cuộc
chiến tranh nào xảy ra.
Rồi phải tới năm 1992, trước sức ép của
công luận về hành vi này, Nguyễn mạnh Cầm, với tư cách Bộ trưởng
Ngọai Giao của Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà khai triển thêm lời phát
biểu về “cuộc chiến tranh” mà Đồng nói, trong cuộc họp báo vào
ngày 2 tháng 12 năm 1992 kể trên.
2. Thú nhận của Bộ trưởng Ngoại Giao
Nguyễn mạnh Cầm.
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có
tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần
sau: Lúc đó, theo Hiệp định Genève 1954 về Đông Dương, các lãnh
thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam.
Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng cho mục
tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh xâm lăng của Mỹ, nhằm
bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ
của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Trung
Việt rất thân thiết và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Đối với Việt
Nam, Trung Quốc đã là một sự ủng hộ rất vĩ đại và trợ giúp vô
giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi nêu trên,
tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi ‘ủng hộ Trung Quốc
trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa’ là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho sự đấu tranh
bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc. Đặc biệt thêm nữa là cái
tuyên bố đó đã nhắm vào sự đòi hỏi cần thiết lúc bấy giờ nhằm
ngăn ngừa bọn đế quốc Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng
tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý
trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. ‘....Trung Hoa đã thuận cung cấp cho Việt Nam một yểm trợ đồ
sộ và viện trợ vô giá’. Trong bối cảnh đó và bắt nguồn từ nhu cầu
cấp bách kể trên, việc lãnh đạo của chúng tôi công nhận chủ quyền
trên Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Hoa đòi hỏi là điều cần thiết
để ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng các hải đảo tấn công chúng tôi, vì
nó phục vụ trực tiếp cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập và tự do của
tổ quốc.”
(Họp
báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã
Việt Nam ngày 3/12/1992.)
Như vậy, Nguyễn mạnh Cầm đã khai triển
rõ hơn về cuộc “chiến tranh” mà Phạm văn Đồng nêu ra. Đó là cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ. Nhằm vào cái mà gọi là bảo vệ độc
lập quốc gia, Hồ đã phải nhượng bộ theo đòi hỏi của Mao, cho Phạm
văn Đồng chuyển nhượng 2 quần đảo ấy cho Mao với danh nghĩa là
ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng hai quần đảo ấy tấn công Việt nam.
Thực sự, Đồng và Cầm nói về vấn đề
chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra lại là vấn đề Nói Dối. Viện trợ
mà TC thoả thuận cho VC là để VC đánh chiếm Miền Nam Việt Nam.
Tóm lại, tuyên bố của Nguyễn mạnh Cầm
về việc Mao đòi Hồ công nhận hai quần đảo trên của Việt nam để
đổi lấy viện trợ to lớn của TC là hành vi bán nước.
Nhận xét của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông:
Tập San Kinh Tế Viễn Đông (FEER) số ra
ngày 16 tháng 3 năm 1979 kể trên nhận xét về vấn đề này: “Những
gì xảy ra ngày nay có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ là những hậu quả
của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong quá khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự
bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng:
cái công hàm ngoại giao và sự công nhận của Cộng sản Việt Nam (2
quần đảo này là của TC) không thể nào xoá bỏ được bởi một nước
nhỏ như Việt Nam, kẻ đã dùng một ‘tiểu xảo’ để lừa dối Trung
Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào thoát được khỏi
bàn tay của Trung Quốc, trong khi họ lại phải theo cách ‘đổi mới’
của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.”
“Do sự hồ hởi muốn tạo ra một cuộc
chiến thê thảm cho cả hai miền Bắc và Nam, và góp phần vào phong
trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự
trọng, nhượng một phần đất ‘tương lai sẽ có’ để cho Trung Quốc,
dù biết không chắc gì có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.”
“Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt
Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền
Nam Việt Nam, ngay cả việc bán đất? Bán đất trong thời chiến và
khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó
bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh”.
– Frank Ching trong Tạp Chí này trong
số ra ngày 10, thàng 3, 1994 kết luận:
“Rõ ràng là Hồ chí Minh qua tay của
Phạm văn Đồng đã dâng hiến cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa một
cái ‘bánh ngọt to lớn’ (món quà quá hậu hĩ) vì lúc đó họ Hồ đang
chuẩn bị xâm lăng Miền Nam. Hồ cần viện trợ to lớn và đã nhắm mắt
chấp nhận mọi điều kiện Bắc Kinh đưa ra. Thật là rất dễ cho Hồ
chỉ bán trên giấy hai quần đảo ấy vì vào lúc đó thuộc Miền Nam.”
Tóm lại, riêng nói về hai quần đảo này,
thì một tay đại gian hùng như Hồ chí Minh, dù rất khôn ngoan,
thành thạo dùng tiểu xảo trong mọi trường hợp, nay gặp phải Trung
cộng là bậc Thày thâm độc lừa lại vì lẽ TC biết rằng Hồ đâu có
làm chủ 2 quần đảo ấy vào lúc đó. Hơn nữa, Trung Cộng theo truyền
thống bành trướng của của Hán Tộc nên có thể “mai phục trường kỳ”
dù mất 100 năm chờ cơ hội thuận tiện đánh chiếm “vật” ấy. Vì trí
đoản, Hồ chỉ biết và quen dùng mưu thuật nhằm đạt chiến thắng
nhất thời, như chỉ tìm kiếm ít lợi lộc trước mắt, nên đã bị mắc
kẹt trong vụ này. Về sau, việc biện hộ rằng vì bị chiến tranh, vì
cần phải bảo vệ tổ quốc chống đế quốc Mỹ xâm lăng, nên đã “tôn
trọng quyết định” ấy của Mao là một sự chạy tội, phản ảnh trạng
thái trí tuệ u mê của họ Hồ. Không có bóng ma chiến tranh nào,
cũng chẳng có đế quốc Mỹ nào hiện diện, hay rình rập để thực hiện
âm mưu xâm lăng vào lúc đó. Ngoài ra, đổ tội cho Đế quốc Mỹ rình
rập đánh phá là bịa đặt trắng trợn để che dấu mưu đồ đen tối là
cần tiền đẻ xâm chiến Miền Nam.
Tuy nhiên, với “yểm trợ đồ sộ và viện
trợ vô giá” cho Hồ, Mao đã đạt được cả 2 mục tiêu:
a) Thụ đắc được 2 quần đảo này một cách
hoà bình. Mao không mất một giọt máu để được làm chủ. Ngược lại,
Hồ và đồng bọn tỏ ra rất hồ hởi vì hưởng được món viện trợ lớn,
mà không thấy mất mát gì.
b) Đánh chiếm Miền Nam, Việt Nam. Thay
vì phải tự mang quân xuống đánh chiếm Nam Việt Nam, Mao không làm
nổi và đã dùng Hồ và đồng bọ làm lính tiền phong cho công tác
này.
Thực vậy,
những lời giải thích của Phạm văn Đồng và Nguyễn mạnh Cầm cho
thấy điều đó. Sau khi chiếm được Miền Bắc vào năm 1954, Hồ đã lập
một dự án bành trướng thế lực cộng sản trên bán đảo Đông Dương
trước khi tiến xa hơn. Hồ chia vùng này làm 4 chiến trường: A,
Bắc Việt; B, Nam Việt; C, Miên Lào; và D, Thái Lan và Hồ lãnh
nhiệm vụ tiền phong thực hiện cuộc chiến tranh này. Đây là một
“nghĩa vụ cao cả” của người Cộng sản quốc tế.
Trong kế hoạch này, B là Nam Việt nam,
là mục tiêu đâu tiên. Hồ cần Mao gấp rút “yểm trợ đồ sộ (cần hậu
thuẫn của các bạn bè khắp thế giới) và viện trợ vô giá (tiền bạc,
súng ống và các quân dụng khác...), vì đó là ‘nhu cầu cấp bách’.”
Mao biết rằng Nam Việt Nam là bàn đạp
để Mao tiến xa hơn trong chủ nghĩa bá quyền. Các lực lượng dân
tộc Việt, đối kháng với bá quyền Bắc Kinh còn lại, nằm ở Nam Việt
nam. Mao biết rằng kẻ ngoại xâm như Mao không làm nổi. Hơn 1000
[năm] Bắc thuộc đã là những bài học tủi nhục. Cách hay nhất là
dùng người bản xứ làm công việc này. Mao đã quá khôn ngoan biến
Hồ và các thế hệ tay em trở thành lính đánh thuê, mà các kẻ này
không ý thức được vai trò của chúng. Chính những kẻ này gây ra
cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp giúp Mao tận diệt các thế
lực dân tộc Việt thù địch ấy. Trong cuộc chiến này, Hồ và đồng
bọn đã không nương tay chém giết tàn bạo đồng bào của họ, tiêu
huỷ các giá trị nền tảng của chủ nghĩa dân tộc và các sức mạnh
khác chống lại Mao để bảo vệ độc lập và tự chủ của dân tộc. Nếu
xét về mọi phương diện như văn hoá, xã hội, lãnh thổ, kinh tế,
chính trị... những gì đã và đang xảy ra trên tòan cõi Việt nam từ
thập niên 1950 đến nay, ta có thể thấy âm mưu thực hiện mục tiêu
này đã lộ rõ.
Hồ và đàn em chiếm được Nam Việt nam vào tháng 4, 1975 và cho đến
nay chúng vẫn còn đang nỗ lực làm tròn sứ mạng hoặc đặt ách thống
trị trên lãnh thổ như xưa kia hay biến Việt Nam thành một phần
lãnh thổ của Hoa Lục. Liệu những kẻ nội thù này có đạt được mục
tiêu này hay không?
***
Tóm lại, Hồ chí Minh và Đảng CSVN đã
phơi bày rõ ý định và đã thực hiện xong các hành vi chuyển nhượng
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng, đổi lại lấy
được sự yểm trợ “đồ sộ” của TC để có phương tiện đánh và chiếm
Miền Nam.
Viện
trợ mà Nguyễn mạnh Cầm gọi là đồ sộ và vô giá là bao nhiêu? Đặng
tiểu Bình nói là 20 tỷ MK.
Hồ chí Minh và đồng bọn đã thực sự phạm
tội bán nước.
***
Vấn đề
2. Dựa vào Công hàm của Phạm văn Đồng, TC công khai nói rằng đây
là bằng chứng VC đã công nhận 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
của TC.
Vậy ta
hãy xét Giá Trị Pháp Lý của Công hàm ấy về sự công nhận 2 quần
đảo này là của TC.
1. Việc chuyển giao một phần lãnh thổ
hay lãnh hải của một dân tộc là do quyết định của toàn dân. Ý
định của toàn dân về vấn đề ấy phải được phát biểu công khai và
tự do. Nếu là trực tiếp, thì đó là trưng cầu dân ý. Nếu là gián
tiếp, thì Quốc hội có trọng trách thể hiện ý định này của quốc
dân. Thường thì việc chuyển nhượng được thực hiện bằng một hiệp
ước do 2 bên ký kết có sự phê chuẩn của quốc hội, và phải được
ban hành hợp lệ.
Lưu ý: nếu thủ dục ban hành không theo
đúng các qui định, văn kiện không có giá trị (due process).
Như vậy đây là thẩm quyền của Lập Pháp.
Hành pháp là một bộ phận công quyền của
quốc gia với nhiệm vụ thi hành quyết định ấy của quốc dân. Hành
pháp không có quyền quyết định tối hậu về việc này. Và một văn
thư hành chánh của Hành pháp, như công hàm này, không hội đủ điều
kiện để có giá trị trong việc chuyển nhượng lãnh thổ hay lãnh hải
của quốc gia.
Nhìn vào sự việc, ta thấy Phạm văn Đồng với tư cách thủ tướng của
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) trong công hàm đề ngày 14
tháng 9, 1958 công nhận lãnh hải của Trung hoa trong bản tuyên bố
10 ngày trước đó đã vượt ra ngoài quyền hạn của Hành Pháp. Phạm
văn Đồng đã làm một việc mà ông ta không có quyền và không được
phép làm. Hành vi ấy như vậy là bất hợp pháp, nó không có giá trị
gì về phương diện pháp lý.
2. Tuyên bố của Chu ân Lai về 12 hải lý
gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa là một hành vi xâm lăng vì lẽ hai
quần đảo này chưa bao giờ thuộc quyền sở hữu của Trung Hoa và Chu
ân Lai đã tự coi là đất của Trung Hoa trong bản tuyên bố đó. Đây
là hành vi vi phạm luật pháp.
Hành vi của Phạm văn Đồng vốn dĩ đã là
một sự lạm quyền (bất hợp pháp rồi), nay lại có mục đích công
nhận hành vi bất hợp pháp của Chu ân Lai, thì hành vi đó không có
một giá trị gì.
3. Nội dung của công hàm tuyệt nhiên
không nói gì đến chuyển nhượng 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam cho Trung Cộng. Công hàm chỉ đề cập đến công nhận
lãnh hải của TC 12 hải lý. Sự công nhận này không thể được giải
thích hay có nghĩa là một sự chuyển giao quyền sở hữu chủ một tài
sản cho một chủ thể khác.
4. Không ai có thể chuyển nhượng cho
một đệ tam nhân cái gì mà mình không có.
Khi thừa nhận hai vùng quần đảo này là
của Trung Cộng, Phạm văn Đồng được hiểu là thay mặt VNDCCH với tư
cách là “chủ nhân ông” hai vùng quần đảo ấy. Thực sự thì hai quần
đảo này lúc ấy thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Như vậy Phạm văn Đồng đã mạo nhận, có ý định chuyển giao một cái
mà mình không có, với âm mưu lừa gạt Trung cộng. Lời hứa ấy tự
bản chất là không có giá trị.
5. Lãnh thổ hay lãnh hải là đối tượng
chuyển nhượng phải được mô tả với chi tiết cụ thể, rõ rệt và đầy
đủ, hay nói khác đi là phải có mô tả pháp lý rõ rệt với các toạ
độ như kinh tuyến và vĩ tuyến của từng đảo một, với các cột mốc
tham chiếu thiên nhiên hay nhân tạo... Không thể nói mơ hồ hay
khơi khơi là “các đảo ngoài khơi hay ở vùng phụ cận... và gồm
Hoàng Sa, Trường Sa” như trong Tuyên Bố của CHNDTH kể trên.
6. Động cơ thúc đẩy 2 bên sang nhượng
lãnh hải phải được trong sáng hay nói rõ ra là chính đáng. Thí dụ
như có liên quan đến các tội phạm như buôn người, tổ chức cướp
biển, buôn bán ma tuý... không được luật pháp cho phép. Trong
trường hợp này, VC cần viện trợ đồ sộ của TC để thực hiện xâm
lăng hay gây chiến, không được chấp thuận.
Tóm lại, công hàm của Phatm văn Đồng về
mọi mặt không có giá trị pháp lý về chuyển nhượng lãnh hải./.
GS Nguyễn Văn Canh
Tham chiếu & Trích
dẫn: Nguyễn văn Canh, “Hồ sở HS & TS và
Chủ Quyền Dân Tộc” ấn bản 8, UBBVSVTLT, 2017, các trang 197–227;
383–399
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Lac Viet chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, April 27,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang