Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch
Sử VN Cận đại
Chủ đề:
Tài liệu Lịch sử
Tác giả:
Trần Trọng Kim
Tài liệu Lịch sử Đặc biệt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Kính chuyển quý Thân hữu đọc (hoặc lưu trữ & nghiên cứu): Một tài liệu lịch sử đặc biệt, mới tìm ra: Đó là Bức thư của Cụ Trần Trọng Kim viết năm 1947, gửi Cụ Hoàng Xuân Hãn. Trong thư có nhận định về Việt Minh vào thời gian tổng nổi dậy (gọi là Cách mạng Tháng 8/1947). –TQB
Lời ngỏ của ông Nguyễn
Đức Toàn (Viện Nghiên cứu Hán–Nôm),
người phát hiện ra tài liệu lịch sử trên đây
[bkt ghi chú:
xem
hình ở phần Phụ lục cuối bài này]
–––––o0o–––––
Trần Trọng Kim (1883–1953)
là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học
có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại
nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam Sử
Lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước
nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam Quốc Địa dư chí, tôi phát
hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ
dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm
tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán–Nôm
có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn.
Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín
vào tờ bìa của cuốn Nam Quốc Địa dư chí, mà sau này được hiến
tặng lại cho thư viện. Đối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi
của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận
định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần – Trần
Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những
gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự
kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với
ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập
hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung
bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học
giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học
cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ.
Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước
ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng
và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán–Nôm của
chúng ta hiện nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt (tức 4
trang). (đánh máy lại theo nguyên bản – các số thứ tự và phần ghi
chú do ông Nguyễn Đức Toàn
viết) – Nội dung như sau:
Sài
Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 1947
[1]
Ông Hãn
[2]
Hôm ông Phan văn Giáo
[3] đưa cái thư
của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông,
nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã
phiên dịch ra quốc–ngữ, gửi sang để Ngài
[4] xem.
Gần đây tôi lại được thư khác của ông,
do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái
tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên
trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài: Trừ khi có bằng–chứng
chắc–chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi
tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc
là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy
[5],
hoang–mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau
[6]
do ông D’argenlieu [7]
sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái–độ để cầu
hoà–bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp
có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu
làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố
làm cho trọn nghĩa–vụ của mình, nếu không thì lương–tâm ta cũng
yên, vì đã cố hết sức mà không làm được
[8].
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây
[9],
không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho
người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người
có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử–tế lắm và đồng
ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là
những việc mưu–mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp
ông, ông Hiền [10] và Khiêm
[11], họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng
mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý
[tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy
gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái–độ khảng khái không
chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu–nhược và đa nghi
không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến
nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi
không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng: Tôi về
đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng
sứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả
[trở] ra để
bảo cho Ngài biết. Họ nói: Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy
thong–thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho
tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài
[12].
Dù sao,
tôi cũng không ân–hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biết rõ
sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như
khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời
cục yên–ổn thì tôi về ngoài Bắc, nếu không thì xoay xở ở tạm
trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi
thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng–nhăng chẳng đâu
vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái–quốc, nhưng cái lòng ái–quốc
của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa–vị và
quyền–lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi–kỵ nhau rồi lăng–mã lẫn
nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo
[13], Hoè
[14]
và Sâm [15].
Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể
đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song
một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình–lình xuất
hiện ra Mặt trận quốc gia
[16], mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay
mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi
biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng: Việc ông làm đó, là việc nên làm,
nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu–đáo, phải có đủ các cơ–quan
tuyên truyền và bênh–vực việc làm của mình. Nhất là phải
giao–thông với Mặt trận kháng chiến
[17], họ
[tr2] có đồng ý, thì
việc ông làm hoạ may mới có hiệu–quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì
cả mà ông đã vội–vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành
được. Hắn nói: Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn
quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ
giữ cái dịa vị bàng–quan mà thôi, thật là:
身 在 南 蕃 無 所 預
心 懐 百 憂 復 千 慮
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài
bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc
chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng
lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có
V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ–nghĩa
cọng–sản quá. Họ chỉ có một mục–đích là thi hành chủ nghĩa của
họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ.
Sự hành–động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên
Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ
không cần quốc–gia, không cần đạo–đức, nhưng có nhiều người tin ở
nghĩa quốc–gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc–gia để đạt cái
chủ–nghĩa của họ. Lừa dối xảo–quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ
mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa–vị chống Pháp, tất là có cái thanh–thế
rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái–độ hung tàn bạo ngược đi, và
tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối,
không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được,
nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù
sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng 功 之 首 罪 之 魁
(Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu).
Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không
biết.
Khi tôi
ở Hương–cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh
[18] bị
Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt–cú gửi về,
nhờ ông đem điếu ông ấy:
Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ–màng những thở–than,
Mảng
tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ
lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã
tím gan.
Ông
Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật
là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ
gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muốn nhờ ông một tí việc, khi tôi
đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân
[19] gửi ông
Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không.
Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy
năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua
chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu
[20], xem có
ai coi giữ cái nhà đã bị đốt
[21] đó
không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem
những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho
tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có
thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại ít nhiều rồi cho
người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về
được, mong còn có chỗ che sương che nắng. (Việc này không cần
nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)
[22]
Ông có biết tin ông Bùi Kỷ
[23] bây giờ
ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng
cả.
Nhà tôi và
Chương [24] đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời
thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra
Hà–Nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây
giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để
chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn.
Không nên gửi người không được chắc chắn.
Nay kính thư
Trần Trọng Kim
[tr4]
Phần Chú thích:
1. 8/5/1947: ngày viết thư. Một cơn gió
bụi có ghi việc Cao ủy Pháp là Bollaert ra Bắc: “ngày 8/5 mấy hôm
trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp
tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên
Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim
trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà
Nội.
3. Phan
văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản
nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8,
sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để
khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.
4. Ngài: Chỉ vua Bảo Đại – Vĩnh Thụy,
lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công
cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần
Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5. Bên ấy: Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra
thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng
Tại Lại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu
năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo
Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946,
quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo
một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc
với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.
6. Cousseau: Quan cai trị, từng làm
Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo
Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người
Pháp. (Phạm Khắc Hoè. Sđd)
7. D’argenlieu: Cao ủy Pháp tại Đông
Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay.
(sđd)
8. Trần
Trọng Kim, sđd, tr166, 167…
9. hôm 6 tháng 2 tây: ngày Trần Trọng
Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi: “ngày 5 đến Sài Gòn,
nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”
10. Ông Hiền: Luật sư Vũ Văn Hiền, từng
tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ
trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc
kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân
Hãn, Nguyễn Xuân Chữ… sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)
11. Khiêm: Có thể là Phạm Duy Khiêm,
người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn
phạm”.
12.
Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách
ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ
thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.
13. Thảo: Luật sư Trịnh Đình Thảo
(1901–1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất
có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động
cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim,
giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính
phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành
lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi
nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Ủy viên
trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.
14. Hoè: Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng
chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo
kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở
lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông
tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký
“Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có
nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt
Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm
Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15. Sâm: Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội
ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành
động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim,
Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ
Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện
thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt
trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc
dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang
Thắng, sđd)
16. Mặt trận quốc gia: Ngày 17/2/1947, Nguyễn Hải Thần, ông
Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và
đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại
Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc
Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn
có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại
cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự “khó tính” của
Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo
Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của
đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần “Nam kỳ quốc” và
bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính
đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm
chắc cũng tham gia trong mặt trận này.
17. Mặt trận kháng chiến: Chỉ Mặt trận
kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18. ông Oánh: Tức Nguyễn Quang Oánh
(1888–1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh
tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của
chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ
biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn
quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày
22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ: Chỉ tên hiệu
của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19. Vũ trụ đại quan: Một trong các công
trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)
20. Nhà Rượu: Trần Trọng Kim có nhà ở
khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn
nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh
Sơn, S., 1969)
21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu
cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi,
có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá
ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc
là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy
tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”.
Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú
sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.
23. Bùi Kỷ: Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ
(1887–1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền
Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm:
Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn
hoá kháng chiến liên khu 3, ủy viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ
tịch hội hữu nghị Việt–Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24.
Chương: Luật sư Trần Văn Chương,
từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ
trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd).
24.
Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ
tra cứu được một người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương,
từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ
trưởng bộ Ngoại giao. Đến hôm 9/2/2014, bài viết nhận được phản
hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, một Việt kiều Mỹ cung cấp thông tin
sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức bà
“Trần Thị Diệu Chương”, vì trong thư Cụ Kim thường kêu các Cụ
ngang tuổi là Ông… mà không nói tên trống không như thế này, vả
lại Cụ viết “nhà tôi [tức là vợ của Cụ] và Chương đều có lời chúc
ông bà…” thì chắc chắn phải là người trong gia đình Cụ. Con gái
độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn còn sống ở Pháp,
năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi một chút (ngang tuổi ông Bùi Diễm
là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần Diệu
Chương, vì Cụ Bùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim). “Sở dĩ tôi
dám quả quyết như thế này là vì tôi là người trong họ của Cụ bà
Trần Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân
Hãn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong họ thì
mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho anh ở trên.” (trích thư
phản hồi của bà Phạm). Tôi xin sửa lại chú thích này theo ý kiến
phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà.
Thư mục tham khảo
1. Lệ thần – Trần Trọng
Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến
chiến khu Việt Bắc, H,. 1986
3.
Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam. S,. 1982
4. Trần
Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán–Nôm II. H.,
1987
5. La Sơn Yên Hồ –
Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H., 1998 (2t)
Nguồn:
Blog Yêu Hán–Nôm
Phụ lục
[Bức
thư nguyên thủy của cụ Trần Trọng Kim gửi cụ Hoàng Xuân Hãn năm
1947]
Trang 1/4
Trang 2/4
Trang 3/4
Trang 4/4
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trần Quốc Bảo chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
May 27, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang