Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Lịch sử Nước Nam
Chủ đề:
Quang Trung Đại Đế
Tác giả:
Vĩnh Trường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đất nước Phú Yên
Phú Yên nằm ở miền Trung Việt Nam, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định,
phía Nam giáp Khánh Hòa, phía Tây giáp Đak Lak và Gia Lai, phía
Đông giáp Biển Đông. Tỉnh lỵ là thành phố Tuy Hòa, cách Hà Nội
1,160km về phía Bắc và cách Sài Gòn 560km về phía Nam theo đường
Quốc lộ 1A. Diện tích 5,045km², chiều dài bờ biển: 189km.
Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc có
Đèo Cù Mông, phía Nam là Đèo Cả, phía Tây là mạn Đông của dãy
Trường Sơn, và phía Đông là biển Đông. Phú Yên có đồng bằng Tuy
Hòa, được xem là vựa lúa của miền Trung.
Năm 1578, Chúa Nguyễn Hoàng sai Tướng
Lương Văn Chánh tấn công vào thành
Hồ, thủ phủ của người Chăm tại
Ayaru, thành Hồ thất thủ. Từ đây, theo chính sách của chúa
Nguyễn, Lương Văn Chánh phụng mệnh đưa dân vùng Thanh Nghệ Thuận
Quảng vào khai hoang lập ấp và mở mang đất Phú Yên ngày nay. Giữa
năm 1611, Nguyễn Hoàng sáp nhập vùng Ayaru vào lãnh thổ Đàng
Trong với tên gọi Phú Yên và giao cho Văn Phong cai quản vùng đất
mới này. Văn Phong đã lập cơ quan hành chính và quân sự, lập ra
huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa thuộc phủ Trấn Biên. Tới năm 1629 Văn
Phong đã nổi lên làm phản, tiến đánh xuống phía Nam với ý đồ lập
vương quốc riêng. Tuy nhiên, ý định này không thành vì chúa
Nguyễn Phước Nguyên cử tướng Nguyễn Phúc Vinh xuống dẹp loạn. Sau
khi dẹp được loạn Văn Phong chúa Nguyễn thành lập dinh Trấn Biên
tại Phú Yên, giao cho Phúc Vinh cai quản.
Nhà Nguyễn đã đặt một trạm giao dịch
tại xã Thạch Thành, phía Tây huyện Tuy Hòa có trường giao dịch và
Thủ Sở ở đây. Sông Ba chảy qua phía Nam huyện lỵ đổ ra trấn Đà
Diễn, Thạch Bàn là cửa ngõ thông thương với Thủy Xá, Hỏa Xá và
cũng là nơi buôn bán các hàng hóa quý hiếm giữa miền xuôi và miền
ngược.
Phía
Tây Phú Yên có dãy La Hiên tiếp giáp với An Khê, là nơi Tây Sơn
dựng nghiệp, người dân ở đấy tham gia rất đông, nhất là người
Bana ở Thồ Lồ, Y Thông và Ma Khương người Ê–đê ở Hà Duy.
Tây Sơn khởi nghiệp:
Vào cuối Thế Kỷ 18, ở Đàng Trong, Chúa
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát lúc lớn tuổi ngày càng đam mê tửu sắc,
không còn quan tâm đến việc nước, giao hết mọi việc cho quyền
thần Trương Phúc Loan.
Năm 1765, Vũ Vương qua đời, Trương Phúc
Loan thao túng mọi việc triều chính, tự xưng là “Quốc phó”, giết
Nguyễn Phúc Luân (cha của Nguyễn Phúc Ánh) và lập Nguyễn Phúc
Thuần, lúc đó mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định Vương.
Trương Phúc Loan thâu tóm mọi quyền lực
về chính trị và kinh tế. Loan nổi tiếng là tham lam, thường vơ
vét của công để làm của riêng. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ
mọi chức vụ chủ chốt. Người bấy giờ gọi y là Trương Tần Cối.
Họ Trương ngày càng ra sức lộng hành:
bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt nhiễu nhương, thuế má
nặng nề, nhân dân cực khổ. Những người có tài đều bị Loan tìm
cách hãm hại. Tài chính vô cùng kiệt quệ. Cơ nghiệp Chúa Nguyễn
đến đây là suy vong, nhiều cuộc nổi dậy cuả dân chúng bắt đầu
diễn ra khắp nơi, lòng dân trở nên chán ghét chúa Nguyễn. Đó
chính là thời cơ để ba anh em Tây Sơn bắt đầu khởi nghĩa chống
lại triều đình.
Bằng những biện pháp rất khôn khéo, anh
em Tây Sơn đã tạo ra được sự đồng lòng
trong các cộng đồng dân
tộc ở vùng Tây Sơn Thượng, người thiểu số tin rằng Nhạc là vị vua
Trời. Từ đấy, ông ta đi đến đâu, họ theo đến đấy. Các Già làng
bảo nhau giúp ông ta voi ngựa. Trai tráng các buôn, bản sắm lao,
làm ná, mang gươm tới đầu quân, dựng cờ, đắp lũy, xây dựng chiến
khu, chuẩn bị về xuôi để sát cánh cùng quân của Nhạc chống lại
triều đình nhà Nguyễn.
Từ Tây Sơn, anh em Nguyễn Nhạc chiêu
tập anh hùng hào kiệt khắp nơi. Chỉ trong một thời gian rất ngắn
đã quy tụ được hàng ngàn người tham gia phong trào.
Để phân hóa kẻ thù, Nguyễn Nhạc đã đưa
ra chủ trương: “Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng
tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc
Khoát”. Và để tập hợp lực lượng, Ông đã nêu cao khẩu hiệu “lấy
của nhà giầu chia cho người nghèo”. Một giáo sĩ phương Tây có mặt
ở nước ta lúc bấy giờ là Diego de Jumilla đã gọi Tây Sơn là “giặc
nhân đức với người nghèo”.
Nếu khẩu hiệu phân hóa kẻ thù là sách
lược tạm thời, thì tập hợp lực lượng là khẩu hiệu chiến lược và
xuyên suốt quá trình phát triển của phong trào Tây Sơn. Nhờ sách
lược khôn khéo đó, nghĩa quân Tây Sơn đã thu hút sự ủng hộ và
hưởng ứng của nhiều tầng lớp dân chúng. Rất nhiều thổ hào trong
vùng như Huyền Khê, Nguyễn Thông... cũng đã tham gia phong trào,
bỏ tiền của ra chu cấp ủng hộ. Ấp Tây Sơn và miền núi rừng Qui
Nhơn nhanh chóng trở thành căn cứ của cuộc kháng chiến. Lá cờ mầu
đỏ tiêu biểu cho ý chí chiến đấu được chọn làm cờ khởi nghĩa.
Năm 1771, Nguyễn Nhạc đã phát lệnh khởi
nghĩa. Từ căn cứ Tây Sơn, nghĩa quân tỏa ra chiếm cứ các xã Kiên
Thành, Thạch Thành, Tuy Viễn, Bồng Sơn, Phù Ly, trừng trị bọn
tham quan, tịch thu các giấy tờ sổ sách đem đốt hết, tuyên bố bãi
bỏ mọi thứ thuế, giải phóng tù nhân... rồi chia quân cướp của bọn
cường hào ác bá, quan lại trong các huyện vừa chiếm được lấy thóc
gạo chia cho dân, nên người nghèo theo phục rất đông, chỉ trong
một năm quân số đã lên đến vạn người. Binh của huyện quan sở tại
không làm sao chống nổi, đành phải bỏ huyện lỵ chạy vào trong
thành Qui Nhơn.
Quân ngũ Tây Sơn lúc này phát triển rất
nhanh có khoảng 150,000 người được chia thành 12 đơn vị, trong đó
có 2 đơn vị là người Thượng. Đây là đội quân tiên phong, dũng
mãnh dưới sự huấn luyện và chỉ huy của Nguyễn Huệ (mới 19 tuổi).
Kỵ binh có hơn 2,000 chiến mã, tượng binh có hơn 100 thớt voi
trận.
Tháng 8
năm Quý Tỵ (1773), nghĩa quân Tây Sơn chiếm được phần lớn các
quận huyện quanh phủ Qui Nhơn... Nguyễn Nhạc lập đàn tế cáo Trời
Ðất, hợp thức hóa danh vị của chúa tôi rồi tự xưng là Đệ Nhất
Trại Chủ chỉ huy hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, cử Phạm Thung làm
Đệ Nhị Trại Chủ chỉ huy huyện Tuy Viễn và Huyền Khê làm Đệ Tam
Trại Chủ phụ trách quân lương. Đồng thời củng cố lực lượng, giao
cho Nguyễn Huệ huấn luyện quân ngũ.
Tháng 9 năm Quý Tỵ (1773), quân Tây Sơn
bao vây thành Qui Nhơn rồi dùng mưu đánh chiếm được thành. Tuần
phủ Nguyễn Khắc Tuyên và toàn bộ binh lính bỏ thành Qui Nhơn chạy
trốn. Thừa thắng Nguyễn Nhạc tiến quân lên phía Bắc đánh chiếm
các kho thóc ở Kiến Dương và Đạm Thủy. Đốc trưng Đằng chạy trốn
nhưng bị Nhạc đuổi theo giết được. Tiếp đó, nghĩa quân tiến ra
Quảng Ngãi, Quảng Nam. Đi đến đâu nghĩa quân Tây Sơn cũng được
dân chúng nhiệt liệt hưởng ứng. Lúc bấy giờ có hai thương nhân
người Hoa ở Quảng Nam là Tập Đình và Lý Tài tự lập ra các đội
“Trung nghĩa quân” và “Hòa nghĩa quân” rồi đem toàn bộ lực lượng
gia nhập Tây Sơn.
Chiếm xong mặt Bắc, quân Tây Sơn không
quên mặt Nam. Nhạc liền cử Ngô Văn Sở làm Chinh Nam Ðại Tướng
Quân, cùng Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm ba phủ Phú
Yên, Diên Khánh và Bình Thuận.
Mặt phía Tây được hai Vua Thủy Xá và
Hỏa Xá yểm trợ, Quân Tây Sơn cứ thẳng tiến vào Nam. Ði tới đâu
được hoan nghênh tới đó, và chiếm lấy ba thành dễ dàng. Ðại
thắng, Ngô Văn Sở kéo binh về, để Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Hưng ở
lại trấn giữ các nơi vừa chiếm được.
Quân Trịnh tham chiến
Tháng 5 năm 1774, chúa Trịnh Sâm, sau
100 năm giữ hòa bình với chúa Nguyễn, nay thấy tình thế Đàng
Trong rối loạn bèn sai Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc, một viên
tướng lão luyện, mang 4 vạn quân vào Nam vượt sông Gianh tấn công
thành Phú Xuân (Huế), cũng lấy danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc
Loan.
Tháng
12/1774, Quân Nguyễn không chống nổi, quân Trịnh chiếm được thành
Phú Xuân, buộc chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ chạy theo đường
biển về Quảng Nam và phong Hoàng tôn Dương làm Thái Tử trấn thủ
đất Quảng Nam.
Nhân lúc quân Nguyễn ở Thuận Hóa bị
quân Trịnh đánh bại dồn dập, Nguyễn Nhạc sai Tập Đình đem quân
theo đường biển vào cửa Đại Chiêm, còn Nguyễn Nhạc đem bộ binh từ
sông Thu Bồn đổ xuống tấn công ra Quảng Nam. Bị đánh cả hai mặt,
quân Nguyễn bại trận, chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng thuộc hạ vượt
biển trốn vào Gia Định (tức Sài Gòn).
Tháng 4/1775, Nguyễn Nhạc chia quân ba
đường tiến đánh quân Nguyễn, vây bắt được Hoàng tôn Dương đem về
Hội An.
Quân
Trịnh tiếp tục vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn ở
Quảng Nam. Quân Tây Sơn thua trận. Tập Ðình chạy về Tàu. Nguyễn
Nhạc cùng Lý Tài rút hết quân về Qui Nhơn, đem hoàng tôn Dương
theo, trong tình thế lưỡng đầu thọ địch.
Hoà với Chúa Trịnh.
Tháng 5 năm 1775, tại Gia Định Thành,
Chúa Nguyễn sai Lưu Thủ Long Hồ Dinh là Tống Phưóc Hiệp thống
lãnh tướng sĩ ba dinh Long Hồ, Phiên Trấn và Trấn Biên cả thảy
hai vạn quân quân chia làm hai đạo tiến đánh Bình Thuận và viết
hịch loan truyền khắp nơi, chiêu nạp thêm binh sĩ để chống lại
quân Tây Sơn.
Tống Phước Hiệp là người ở huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), phủ
Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Thủy tổ là Tống Phước Trị (từng làm
Trấn thủ Thuận Hóa, tước Luân Quận công). Nội ông là Tống Phước
Đạo (từng làm Nội tả Chưởng dinh, tước Quảng Tài hầu); và cha ông
là Tống Phước An (không rõ thân thế).
Không biết Tống Phước Hiệp gia nhập
quân đội của chúa Nguyễn khi nào, chỉ biết vào đời chúa Võ vương
Nguyễn Phúc Khoát (1714–1765), ông được cử làm Lưu thủ Long Hồ
Dinh (Vĩnh Long), và đã được tiếng là người tận tụy với chức vụ,
mưu lợi cho dân chúng, việc trị an được tốt đẹp.
Lúc ấy, Tống Phước Hiệp đã ngoài 60
tuổi được chúa Định Vương phong làm Tiết chế Bình Tây Đại Tướng
Quân, tước Kinh Quận Công thống lãnh 2 vạn dân quân cùng các con
Tống Phước Khương, Tống Phước Lương, Tống Viết Phước và Tống Viết
Nghĩa ào ạt xua quân ra Bình Thuận. Quân Nguyễn đi đến đâu, quân
Tây Sơn chỉ tháo lui mà không đánh. Nên trong vòng 2 tháng Tống
Phước Hiệp đã đánh lấy lại được ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh và
Bình Khang, rồi thừa thắng tiến binh ra đánh chiếm luôn đất Phú
Yên.
Quân
Nguyễn trải dài liên tiếp từ Bình Thuận đến Phú Yên. Tại Bình
Thuận, Hiệp để Nguyễn Khoa Toàn trấn giữ, còn Bình Khang giao cho
Bùi Công Kế và Diên Khánh giao cho Tống Văn Khôi. Tống Phước Hiệp
cho đóng đại bản doanh chỉ huy ở thành cổ Phú Yên gần Hội Phú,
bên bờ sông Cái, trên cửa biển Tiên Châu và hai cứ điểm phòng vệ
bên ngoài cách thành Phú Yên khoảng 4km: Cánh quân bộ đóng ở Xuân
Đài do Nguyễn Văn Hiền chỉ huy, cánh quân thuỷ đóng ở Vũng Lấm do
Nguyễn Khoa Kiên chỉ huy mỗi nơi độ một ngàn quân, dựa vào nhau
tạo thế ỷ dốc với ý đồ vượt đèo Cù Mông tấn công Qui Nhơn khi
tình thế cho phép. Một đồn nhỏ tiền tiêu đóng xa hơn tại La Hai,
án ngữ con đường từ Qui Nhơn vào và kiểm soát đường thuỷ sông Cái
đến Tiên Châu.
Nguyễn Nhạc mất Phú Yên, chỉ còn giữ
Qui Nhơn và Quảng Ngãi. Ở phía Bắc thì có quân Trịnh đóng ở Quảng
Nam. Trước tình thế “lưỡng đầu thọ địch” Nguyễn Nhạc liệu thế
chống không nổi, bèn sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa ra nói
với Hoàng Ngũ Phúc xin nộp đất Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên và
xin làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn ở Gia Định.
Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn dùng Nguyễn
Nhạc để đánh đất Gia Định, bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Nguyễn
Nhạc làm tiên phong tướng quân Tây Sơn Hiệu Trưởng.
Nguyễn Nhạc hòa với quân Trịnh, trên
danh nghĩa đầu hàng nhà Lê, xin làm tiên phong đi đánh chúa
Nguyễn ở phương Nam. Chúa Trịnh bằng lòng và phong chức Tây Sơn
Hiệu Trưởng hiệu Tráng Tiết Tướng Quân cho Nguyễn Nhạc.
Hoàng Ngũ Phúc đang đóng quân trong
thành Quảng
Nam ngày kia nhận được chiếu chỉ của Trịnh Sâm, bèn
hội các tướng nói:
– Ta vừa nhận được lệnh chúa phong
Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Hiệu Trưởng, trấn thủ Qui Nhơn, Quảng
Ngãi. Vậy ai có thể mang ấn kiếm vào Qui Nhơn? Trước là thừa lệnh
chúa phong quan cho Nguyễn Nhạc, sau là dò xét tình hình quân Tây
Sơn mạnh yếu thế nào?
Nguyễn Hữu Chỉnh đứng lên nói:
– Tôi xin lãnh mệnh vào Qui Nhơn làm sứ
giả!
Phúc cả
mừng nói:
–
Nguyễn Hữu Chỉnh thông kim bác cổ, ứng đối như lưu, lại có tài
dụng binh. Nay tướng quân lãnh trọng trách này, thật ta chẳng lo
gì nữa.
Nói
xong rót rượu tiễn Nguyễn Hữu Chỉnh.
* * *
Hôm ấy Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn nghe quân
vào bảo:
– Tâu
Chúa công, có sứ giả của chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh đến, mời
Chúa công ra tiếp chiếu. Nhạc cả mừng liền cùng các Tướng ra tiếp
kiến sứ giả và quỳ nghe chiếu, Chỉnh đọc: “Nước Đại Việt niên
hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi sáu. Tĩnh Đô Vương hạ chiếu:
Nay sắc phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây
Sơn Hiệu Trưởng trấn thủ hai phủ Qui Nhơn, Quảng Ngãi, lệnh cho
Tây Sơn hiệu trưởng đem quân hai phủ tiến đánh giặc Nguyễn ở
phương Nam, đem non sông gom về một mối. Tiếp được chiếu này lập
tức thi hành chớ phụ lòng mong đợi của quả nhân. Nay chiếu.”
Nhạc nghe xong lạy ba lạy nhận ấn kiếm
của Chỉnh trao cho, rồi truyền quân bày yến tiệc đãi Sứ. Chỉnh
nhập tiệc rồi hỏi:
– Đã nhận sắc phong rồi, vậy Hiệu
Trưởng định bao giờ xuất quân đánh Nguyễn?
Nguyễn Huệ liền đứng lên đỡ lời Nhạc:
– Xin ngài về thưa cùng chúa, đại huynh
tôi hẹn trong mười ngày sẽ đánh tan hai vạn quân của Tống Phước
Hiệp chiếm lấy Phú Yên.
Chỉnh thấy Huệ còn rất trẻ mới đắn đo
rằng:
– Hay
lắm! Nhưng việc quân thắng bại là lẽ thường, Tướng Quân sao đã
vội định ngày? Vả lại Tống Phước Hiệp là một lão tướng của Nguyễn
Định Vương, Tướng Quân đừng nên khinh địch mà chuốc lấy bại vong
đó.
Nói rồi
vòng tay cáo biệt ra về. Nhạc quở trách Huệ:
– Trước mặt Hữu Chỉnh em đã vội hứa
trong mười ngày phá xong địch chiếm Phú Yên. Ngộ nhỡ trong mười
ngày mà việc không xong hoá ra ta nói khoác với họ thì còn mặt
mũi nào?
Huệ
thưa:
– Xin
đại huynh chớ lo, trận này em xin lãnh binh phá địch, nếu trong
mười ngày không thắng xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
Huệ vừa nói xong bỗng có một người xồng
xộc bước vào nói lớn:
– Nguyễn Nhạc sao dám lừa dối ta. Ông
hứa đánh Trịnh chiếm lại Phú Xuân tôn phò ta lên ngôi chúa, mà
nay đi nhận sắc phong của họ Trịnh là nghĩa làm sao?
Mọi người nhìn lại hoá ra là Đông cung
Nguyễn Phúc Dương. Nguyễn Huệ thấy Đông cung Dương bước vào liền
khế ứng cơ mưu đáp rằng:
– Xin Đông cung Thế tử chớ khá hiểu
lầm. Đại huynh tôi buộc phải giả hoà với quân Trịnh để làm kế
hoãn binh, vì không thể đem hết toàn quân ra Quảng Nam đánh
Trịnh. Bởi ở Phú Yên Tống Phước Hiệp đã đem đại binh hai vạn lăm
le đánh chiếm Qui Nhơn, Đông cung Thế tử đã biết chưa?
Nguyễn Phúc Dương đáp:
– Việc này ta có biết.
Huệ lại nói:
– Giờ xin Thế tử hãy viết một bức thư
nói rõ ý tôn phò của đại huynh tôi cho Tống Phước Hiệp được biết,
yêu cầu ông ấy lui bình. Nếu Tống Phước Hiệp chỉ nghe lệnh Định
Vương Nguyễn Phúc Thuần mà không nghe lệnh Thế tử thì quân Tây
Sơn ta phải đánh Tống Phước Hiệp trước, sau đó sẽ dốc toàn lực
quay sang đánh Trịnh, mới có cơ thu phục được kinh thành đưa Thế
tử lên ngôi chúa. Chẳng hay ý Thế tử thế nào?
Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ tuổi thật
thà, nghe Huệ nói thế tỏ ý ăn năn đáp:
– Ta thật là hồ đồ, chút nữa đã hiểu
lầm tấm lòng trung nghĩa của các vị tướng quân. Để ta viết thư
cho Tống Phước Hiệp xem thử ý ông ấy thế nào?
Nguyễn Phúc Dương viết xong, Nhạc bèn
sai Nguyễn Thung đem thư sang Phú Yên cho Tống Phước Hiệp.
* * *
Khỏi phải dồn lực lượng để ứng chiến
với quân Trịnh ở mặt Bắc, Nhạc bắt đầu nghĩ đến kế hoạch đánh phủ
Phú Yên. Ông đích thân xuống Cù Mông thảo luận kế hoạch với
Nguyễn Huệ.
Nhạc phải kinh ngạc trước một đội quân ngũ hăng hái và trật tự.
Quá quen với đạo quân liều mạng hỗn độn của Tập Đình, Lý Tài,
Nhạc ngỡ ngàng khi thấy cách tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm
minh, phong thái tự tin và trầm tĩnh của hầu hết Tướng Sĩ dưới
quyền Huệ. Nhạc hỏi em đã giao vai trò mũi xung kích cho toán
quân nào? Huệ chỉ toán quân của Sở, lúc ấy đang tập sử dụng hỏa
hổ trước bản doanh. Nhạc thấy họ trẻ tuổi và hiền lành quá, lo
lắng hỏi:
–
Liệu có kham nổi không? Trước đây bao giờ anh cũng giao mũi này
cho quân hai ông Tập Đình, Lý Tài. Lần này nếu em cần, có thể
dùng số Hòa nghĩa quân còn lại trên phủ. Họ được rỗi lâu quá rồi,
suốt ngày chỉ uống rượu.
Huệ vội từ chối: Em không cần đến bọn
ấy. Em tin tưởng hoàn toàn vào toán xung kích của anh Sở. Kế
hoạch của em thế này, anh xem thử có được không?
Hai anh em bàn thật kỹ về từng điểm
nhỏ, với sự hăng hái có cơ sở, sự liều lĩnh có tính toán của Huệ
cuối cùng thuyết phục được Nhạc. Nhạc vỗ vai em bảo:
– Thôi, tùy ý chú. Nên nhớ trận này
cũng quan hệ đến chúng ta như trận Bích Khê. Nếu thua nữa, ta còn
mặt mũi nào mà nhìn tướng sĩ! Gần suốt một năm nay chỉ có thua!
Nói xong, Nhạc lên ngựa xuống đèo Cù
Mông trở về phủ Qui Nhơn, tất cả mọi việc chuẩn bị đánh phủ Phú
Yên đã hoàn tất.
Tại Phú Yên, sau khi bố trí trận địa
xong, Tống Phước Hiệp đích thân cưỡi ngựa đến ải Cù Mông xem xét.
Thấy núi non trùng điệp đá dựng hiểm trở, chỉ có một con đường
độc đạo lên đến đỉnh đèo, Hiệp nói với các con:
– Ải Cù Mông hình thế hiểm trở, quân
Tây Sơn lại đóng ở trên đỉnh đèo có lợi thế từ cao đánh xuống. Dù
ta có thiên binh vạn mã cũng khó có thể vượt qua ải này. Các con
hãy chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu, cho binh sĩ nghỉ ngơi
dưỡng sức rồi ta sẽ tính kế sau.
Người con nhỏ của Hiệp là Viết Nghĩa
hỏi:
– Thưa
cha ải này không cao và hiểm trở bằng ải Vân Phong (đèo Cả). Ải
Vân Phong ta còn lấy được dễ dàng thì ải Cù Mông này sao cha lại
ngại?
Tống
Phước Hiệp vuốt râu cười:
– Ải Vân Phong tuy rằng hiểm trở nhưng
giặc Tây Sơn chỉ lui mà không đánh nên ta mới chiếm được dễ dàng.
Còn ải Cù Mông này con hãy nhìn xem trên sườn núi dọc theo đường
đèo lều trại san sát, mỗi một khúc quanh, đá đều gom thành đống,
chứng tỏ chúng phòng bị rất kỹ càng, không thể nào đánh được.
Nói xong liền quay ngựa về doanh trại.
Vừa đến nơi có quân canh vào bảo:
– Thưa đại tướng quân, có sứ giả quân
Tây Sơn xin vào yết kiến.
Phước Hiệp cho vào. Đến trước án,
Nguyễn Thung thi lễ nói:
– Tôi là sứ giả của Tây Sơn xin được ra
mắt tướng quán.
Hiệp vênh mặt hỏi:
– Tây Sơn các người đánh nhau với ta
thua quá bỏ luôn ba dinh Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên mà chạy
về Qui Nhơn. Nay cùng đường Nguyễn Nhạc sai ngươi đến cầu hoà
phải chăng?
Thung ung dung đáp:
– Chủ tướng tôi bỏ ba dinh lui về Qui
Nhơn không phải vì thua quân, mà vì chủ tướng tôi với tướng quân
đều là tôi trong một nước nên không muốn chém giết lẫn nhau đó
thôi!
Hiệp vỗ
bàn quát:
–
Láo xược! Nguyễn Nhạc khởi loạn ở Tây Sơn kéo ra đánh Quảng Nam
đuổi chúa ta chạy vào Gia Định sao dám bảo ta với hắn là tôi
trong một nước? Nhà ngươi nói không ra lẽ, ta giết chết không
tha.
Không
chút sợ hãi, Thung đáp rằng:
– Chủ tướng tôi khởi binh ở Tây Sơn
đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền làm lắm điều tàn
bạo, tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương vốn dòng chính thống bị
Phúc Loan truất phế. Nay Đông cung sai chủ tướng tôi đem quân Bắc
tiến thu phục kinh thành Phú Xuân về chỗ chúa Nguyễn. Ấy chẳng
phải chủ tướng tôi là tôi của chúa Nguyễn rồi ư?
Hiệp suy nghĩ giây lát rồi bảo:
– Điều ngươi vừa nói nghe ra hợp lý,
nhưng việc Nguyễn Nhạc tôn phò Đông cung lấy gì để làm bằng?
Thung lấy thư trong ngực ra dâng Phước Hiệp rồi nói:
– Đây là thư của Đông cung gửi cho
tướng quân. Xin tướng quân xem lấy làm bằng.
Tống Phước Hiệp tiếp thư đọc xong nói:
– Trong thư Đông cung bảo ta phải lui
binh, để Nguyễn Nhạc tin tưởng dồn toàn lực ra Quảng Ngãi đánh
Trịnh. Nhưng nếu ta lui binh thì các người thừa cơ chiếm lại Phú
Yên thì làm sao?
Thung ngạc nhiên hỏi:
– Trong thư có dấu ấn của Đông cung,
tướng quân vẫn chưa tin ư?
Hiệp vuốt râu cười đáp:
– Ngộ nhỡ các ngươi dùng vũ lực ép Thế
tử viết thư để lừa ta, bảo ta tin sao được? Nếu thật lòng người
về thưa cùng Đông cung, chờ ta sai người ra Qui Nhơn diện kiến,
nếu đúng là ý của Đông cung ta lập tức lui binh.
Nguyễn Thung cáo biệt ra về. Ngày sứ
giả của Tống Phước Hiệp đến, Nguyễn Nhạc, mời Nguyễn Phúc Dương
ngồi giữa, Nhạc và các Tướng đứng hầu hai bên, rồi truyền cho sứ
giả vào. Sứ giả vào đến trông thấy Nguyễn Phúc Dương liền sụp lạy
tung hô:
–
Kính chúc Thế tử sức khoẻ an khang!
Nguyễn Phúc Dương ân cần nói:
– Tống Phước Hiệp không tin thư ấy là
của ta, nên mới sai người đến xem hư thực thế nào có phải vậy
chăng?
Sứ giả
đáp:
– Đúng là
như vậy, dám hỏi Thế tử sự thể thế nào?
Nguyễn Phúc Dương bảo:
– Tống tướng quân cẩn thận vậy là đúng!
Ngươi hãy về thưa cùng Tống tướng quân đem đại binh quay về Gia
Định truất phế Định Vương Nguyễn Phúc Thuần thì ta mới yên tâm
đem toàn quân ra Quảng Nam đánh Trịnh. Có như thế sau khi đuổi
Trịnh ra khỏi sông Linh Giang, thu phục kinh thành Phú Xuân, tất
cơ đồ nguyên vẹn như xưa, nghĩa cương thường gom về một mối, thì
công của Tống tướng quân rất lớn. Ta đã viết sẵn một phong thư,
ngươi hãy kíp mang về tâu lại cùng Tống tướng quân.
Sứ giả vâng lệnh quay về dâng thư của
Phúc Dương cho Tống Phước Hiệp. Hiệp xem thư xong cười rằng:
– Đông cung tuổi còn nhỏ chưa trải việc
đời, nên mới bị Nhạc dối gạt. Ta chưa có kế gì đánh chúng thì
chúng tự đem thân nộp mạng cho ta.
Mấy người con Tống Phước Hiệp cũng
thưa:
– Cha
nói vậy là nghĩa gì, chúng con không hiểu?
Hiệp đáp:
– Ta đã sai người dò xét tình hình quân
địch. Chờ cho thám mã về báo, các con khắc rõ.
Vừa nói xong quân thám mã về báo:
– Thưa đại tướng quân, giặc Tây Sơn
đang chuẩn bị binh sĩ mà định ngày tiến đánh quân ta.
Hiệp vuốt râu bảo:
– Đúng như điều ta dự đoán, Nguyễn Nhạc
mượn tiếng tôn phò Đông cung, giả danh đánh Trịnh để ta không đề
phòng rồi bất ngờ tiến đánh. Chúng tưởng ta cũng khờ khạo như
Đông cung sao?
Nói xong cười lớn. Tống Viết Nghĩa hỏi:
– Thưa cha vậy ta nên liệu tính thế
nào?
Hiệp đáp:
– Ta tương kế tựu kế đánh cho chúng một
trận không còn manh giáp.
Nói rồi liền viết thư sai một tên quân
đem sang ải Cù Mông báo cho quân Tây Sơn hẹn trong năm ngày sẽ
rút quân về. Hiệp bảo Viết Nghĩa rằng:
– Tống Viết Nghĩa và Tống Viết Phước
hai con lãnh một vạn tinh binh ra phía Bắc thành mai phục. quân
Tây Sơn từ ải Cù Mông tiến vào thì cứ để cho chúng đi qua, đợi
khi nào quân ta mở cổng thành giao chiến, hai con lập tức đánh
vào sau lưng giặc.
Tống Viết Phước và Tống Viết Nghĩa lãnh
lệnh lui ra. Tống Phước Hiệp xuống lệnh:
– Tống Phước Khương lãnh năm ngàn quân
ra canh phòng ở cửa bể đề phòng chúng đánh ta bằng thuỷ binh.
Tống Phước Lương ngày đêm cho quân canh phòng cẩn mật ở mặt Bắc
thành, chúng chỉ có thể đánh ta bằng hai con đường ấy mà thôi.
Chiến thắng đầu tiên của Nguyễn Huệ:
Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn nhận được thư
của Tống Phước Hiệp mở ra xem nói:
– Tống Phước Hiệp hẹn trong năm ngày sẽ
kéo quân về Gia Định truất phế Định Vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy
nhân lúc chúng không đề phòng ta bất ngờ tiến đánh ắt là toàn
thắng.
Nguyễn
Huệ can rằng:
– Xin đại huynh hãy khoan. Nếu ta đem quân qua ải Cù Mông theo
đường đại lộ đánh Phú Yên nhất định sẽ gặp quân mai phục của Tống
Phước Hiệp.
Huệ vừa dứt lời quân thám mã về báo:
– Tâu Chúa công, Tống Phước Hiệp sai
con là Tống Viết Nghĩa đem một vạn quân mai phục ở phía Bắc thành
Phú Yên chờ quân ta đến thì đổ ra đánh. Tống Phước Khương đem năm
ngàn quân canh phòng mặt bể.
Nghe xong Nhạc giật mình hỏi Huệ:
– Sao em biết rằng Tống Phước Hiệp nhất
định cho quân mai phục?
Huệ đáp:
– Tống Phước Hiệp là một lão tướng đa
mưu túc trí. Hắn biết ta giả hoà để bất ngờ tiến đánh, nên tương
kế tựu kế cho quân mai phục chờ ta tiến đánh rồi hai mặt giáp
công.
Lý Tài
bước ra cười hỏi:
– Nếu Tướng quân đã biết, thế thì sao
còn giả kế giảng hoà, để quân Nguyễn càng cẩn mật đề phòng thì
quân ta càng khó bề thủ thắng?
Huệ cũng cười bảo:
– Nhưng Tống Phước Hiệp chỉ đề phòng
phía trước mặt mà không che chắn ở sau lưng. Tôi làm thế để chia
quân của địch ra mai phục ở mặt Bắc ta thừa cơ đem binh tiến đánh
phía sau lưng.
Nhạc ngạc nhiên hỏi:
– Em làm cách nào mà đánh được ở sau
lưng quân Nguyễn?
– Thưa đại huynh, ở phía Nam thành Qui
Nhơn có một con đường mòn trên núi của các bộ tộc người Thượng
thông thương với nhau. Con đường này đi vòng qua phía Tây ải Cù
Mông vào đến thành Phú Yên. Nay ta bí mật theo đường này đánh lấy
Phú Yên, chặn đường rút của một vạn quân Tống Viết Nghĩa mai
phục. Khi ấy không những chiếm được Phú Yên mà con tiêu diệt được
2 vạn quân Nguyễn đang uy hiếp ta ở mặt Nam. Ấy là kế giương Đông
kích Tây, xin đại huynh xuống lệnh xuất quân.
Lý Tài cười hỏi:
– Nếu là giương Đông kích Tây, thì ta
làm kế nghi bình ở ải Cù Mông, rồi theo đường này mà đánh việc gì
phải mất công cho Đông cung làm kế giả hoà?
Huệ ung dung đáp:
– Lúc Tống Phước Hiệp đánh lấy Bình
Thuận, Diên Khánh và Phú Yên của ta, hắn cho thuỷ binh làm kế
nghi binh nói phao rằng sẽ đem thuỷ binh đánh vào các cửa bể,
khiến ta sợ quân mình lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch nên phải lui
quân về giữ ải Cù Mông, bỏ ba dinh cho quân Nguyễn, chứng tỏ Tống
Phước Hiệp không phải là kẻ vô mưu. Nếu chỉ dùng kế nghi binh
thường tình như Lý tướng quân nói làm sao lừa được Tống Phước
Hiệp.
Lý Tài
lại cãi:
– Nếu
chỉ dùng kế nghi binh như tôi vừa nói, mà hắn không biết có con
đường núi kia thì ắt chẳng đề phòng. Còn bây giờ dù có cho Đông
cung Thế tử làm kẻ giả hoà mà hắn biết có con đường núi ấy tất
hắn lại càng đề phòng hơn nữa!
Nguyễn Huệ cười lớn đáp:
– Ta làm kế giả hoà để cho hắn đề
phòng. Nay hắn đem một vạn quân mai phục ở mặt Bắc, để 5 ngàn
quân phòng thủ ở mặt Đông, trong thành còn lại 5 ngàn quân. Chứng
tỏ hắn không biết rằng ở phía Tây có con đường núi bí mật này. Ấy
chẳng phải là biết người biết ta trăm trận trăm thắng đó sao?
Lý Tài nghe xong không còn bắt bẻ vào
đâu nữa. Nguyễn Thung bước ra nói:
– Mưu của Nguyễn Huệ thật là diệu kế
thập toàn. Xin Chúa công đề cử Nguyễn Huệ điều binh khiển tướng
đánh trận này mới mong đập tan lực lượng của địch quân.
Nguyễn Nhạc y lời nói:
– Nay trước đông đủ các Tướng, ta phong
Nguyễn Huệ làm Chánh Tướng điều binh khiển tướng. Có ai không
phục chăng? Các tướng vui vẻ đồng thanh nói:
– Chúng tôi đều phục!
Chỉ có Lý Tài là chẳng nói gì. Nguyễn
Huệ dõng dạc bước lên nhận gươm lệnh của Nhạc trao cho rồi quay
lại lấy trong mình một phong thư gọi một tên quân đến bảo:
– Ngươi lập tức đến ải Cù Mông trao cho
Nguyễn Lữ, cứ y như trong thư ta dặn mà làm.
Tên quân lãnh lệnh đi ngay.
Kế hoạch điều quân:
Chỉ huy quân Tây Sơn trong trận chiến
Phú Yên đối đầu với một tướng lãnh lão luyện đã được giao cho
Nguyễn Huệ, lúc đó mới 23 tuổi. Dĩ nhiên nhờ là em ruột của trại
chủ, lại am tường tình hình chiến trường phía Nam, nhất là nhờ
ánh mắt lạc quan tự tin nổi bật trong giai đoạn xáo trộn u ám vừa
qua, Huệ được mọi người mặc nhiên công nhận như một vị chỉ huy
trẻ tuổi bản lãnh.
Từ Cù Mông đến thành Phú Yên chỉ cách
nửa ngày đường. Cho nên Huệ cho toán xung kích giả dạng làm người
bán củi, hoặc người buôn quế xuống Sông Cầu trước, hẹn nhau sẽ
tập trung lại ở một điểm tập kích gần dinh.
Huệ chủ trương đánh thật mau thật mạnh
để chiếm dinh Phú Yên, và khi thành phủ đã mất, các đồn trại của
địch còn lại đang hoang mang, thì mới cho quân tỏa ra để thanh
toán nốt. Huệ thấy trận Cẩm Sa vừa rồi ở Quảng Nam sở dĩ Quân Tây
Sơn bị thua là vì Nhạc đã cho dàn lực lượng đối mặt với quân
Trịnh, lại kéo dài chiến trận quá lâu, nên quân địch tận dụng
được sở trường về ưu thế vũ khí và chiến thuật của một quân đội
chính qui, trong khi nghĩa quân bỏ mất sở trường là lối yểm kích.
Những điều này Huệ có đem ra thảo luận với anh, và Nhạc phải nhận
em nghĩ đúng.
Để tạo yếu
tố bất ngờ và chiến thắng nhanh, Nguyễn Huệ đã làm cho Tống Phước
Hiệp chủ quan, sơ hở với con bài Đông Cung Dương. Cuộc thương
lượng còn đang tiếp diễn, Nguyễn Huệ cũng đã bí mật đưa hai ngàn
quân từ Qui Nhơn vào Phú Yên do Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng
hướng dẫn theo đường núi đến đóng ở Ma Thiên động, miền núi La
Hiên là một căn cứ bí mật của Tây Sơn ở Phú Yên. Nghĩa quân tại
chỗ được gọi là lực lượng Tây Sơn hữu đạo mà Nguyễn Văn Lộc,
Nguyễn Công Lang, Võ Văn Cao... đã mất nhiều công sức xây dựng.
Ở căn cứ La Hiên lúc này có đội kỵ binh
do Nguyễn Quang Sáng và Lương Văn Trực chỉ huy cùng với lực lượng
thuỷ quân do Trần Văn Nhâm và Lưu Quốc Hưng điều khiển. Ngoài ra
Bà Thị Hoà, nữ chúa người Chăm ở Thạch Thành (tây nam Phú Yên)
cũng hỗ trợ một đội Tượng Binh gồm hơn hai mươi thớt voi trận.
Hơn hai ngàn quân tinh nhuệ từ Qui Nhơn
vào hợp cùng với lực lượng hùng hậu tại La Hiên và một lực lượng
ứng chiến đồn trú tại ải Cù Mông do Nguyễn Lữ chỉ huy nâng tổng
số quân Tây Sơn tham chiến lên đến 5,000 người dưới sự chỉ huy
của Nguyễn Huệ đã lập nên chiến công xuất sắc.
Đạo quân Tây Sơn gồm cả bộ binh, kỵ
binh và tượng binh từ núi La Hiên, ngựa cất lạt người ngậm tăm,
lặng lẽ theo đường núi tiến vào Phú Yên. Cả cánh quân đều không
dàn trận theo hàng ngang, mà dồn hết lực lượng làm một mũi chủ
công, khi có lệnh thì đánh thẳng đến mục tiêu, bỏ qua những đồn
trại quân Nguyễn ở hai bên sườn. Trên đường tiến quân nhanh chóng
diệt gọn đồn tiền tiêu của quân Nguyễn ở La Hai do Đội Lăng chỉ
huy. Một số tàn quân sống sót định chạy về bản doanh ở Hội Phú
nhưng khi đến vùng An Thổ thì bị phục binh của Tây Sơn chặn đường
ở Mỹ Dự, Mỹ Lương, Gò Tượng tiêu diệt sạch nên quân Nguyễn ở Hội
Phú, Xuân Đài và Vũng Lấm không hay biết gì.
Chờ đến nửa đêm Nguyễn Huệ cho quân áp
sát thành, quân Nguyễn vẫn không hề hay biết. Bố trận xong, Huệ
hạ lệnh tấn công. Quân Tây Sơn đặt đại bác nhằm cổng thành phía
Tây mà bắn. Cổng thành vỡ, Huệ cho bộ binh tràn vào tung hoả hổ
đốt phá trại địch trong thành.
* * *
Tống Phước Lương đang chia quân canh
phòng cổng Bắc, bỗng nghe phía Tây thành đại bác nổ ầm ầm, rồi
thì lửa cháy rực trời, quân hò reo vang dậy, trống trận dập dồn.
Lương thất kinh hồn vía chạy vào thủ phủ tìm cha. Đến nơi thấy
Tống Phước Hiệp vừa mặc giáp xong đang cầm thương lên ngựa. Hiệp
lo âu hỏi:
–
Giặc từ đâu đến thế?
Lương hớt hải đáp:
– Phía Bắc thành không nghe động tĩnh.
Con vừa nghe súng nổ ở phía Tây thành vội chạy đến tìm cha ngay.
Hiệp liền bảo:
– Mau về phía ấy xem sao!
Nói rồi ra roi thúc ngựa về phía Tây
thành. Đến nơi thấy quân Tây Sơn đã tràn vào như thác lũ, còn
quân mình bàng hoàng vừa tỉnh cơn mê, không biết đường nào chống
đỡ hỗn loạn mà chạy, bị quân Tây Sơn chém giết rất nhiều.
Cha con Tống Phước Hiệp liệu bề không
chống lại nổi bèn quay ngựa nhắm cổng Nam thành mà chạy.
Nữ Tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân đầu
vấn khăn lụa, mình mặc áo bà ba, ngồi trên lưng voi một ngà trông
thấy hét lớn: Tống Phước Hiệp chạy đâu cho thoát!
Hét xong giương cung lắp tên bắn một
phát trúng tay trái Tống Phước Hiệp. Hiệp nghiến răng nhổ tên,
nằm mọp trên lưng ngựa chạy dài.
Trần Quang Diệu thúc ngựa xua quân đuổi
theo. Hai tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Khoa Kiên vừa
chạy tới trợ chiến, khua đao chận đánh Trần Quang Diệu để cho
Tống Phước Lương phò tá Hiệp chạy trước.
Nguyễn Văn Hiền bị Trần Quang Diệu vung
đại đao chém một phát, đầu Hiền rơi xuống đất, Nguyễn Huệ lướt
trận trờ tới bắt sống Nguyễn Khoa Kiên.
Ra khỏi thành chỉ chừng trăm tên quân
theo cha con Tống Phước Hiệp chạy về gần đến ải Vân Phong bỗng
thấy một đạo quân từ trong đường hẻm kéo ra, Tống Phước Lương
giật mình nhìn lại, thì ra anh mình là Tống Phước Khương. Khương
chạy đến ôm Hiệp khóc, quỳ tạ tội rằng:
– Cha bị nguy con không cứu kịp, đến
nơi cha bị trọng thương, tội con đáng chết!
Nói rồi hai anh em đỡ cha xuống ngựa
nằm nghỉ dưới gốc cây vệ đường. Hiệp hỏi Khương:
– Sao con về được đến đây?
Khương đáp:
– Con thấy lửa cháy ngút trời lại nghe
súng nổ ầm ầm ở thành Phú Yên, biết có biến vội kéo quân về tiếp
viện. Mới đến nửa đường gặp tàn quân của ta chạy đến nói Cha đã
bỏ thành chạy về ải Vân Phong nên con bèn đi đường tắt đến đây.
Chẳng hay Viết Phúc và Viết Nghĩa đâu không thấy?
Lương đỡ lời cha đáp:
– Thưa đại ca, hai em ta đã đem một vạn
quân mai phục ở phía Bắc thành. Nay quân Tây Sơn đã chiếm mất
thành, tất hai em ta không còn đường lui, nếu giặc từ ải Cù Mông
đánh ra e rằng hai em ta nguy mất!
Tống Phước Khương liền nói với Tống
Phước Lương:
–
Nhị đệ mau dìu cha về cố thủ ải Vân Phong, để ta đem năm ngàn
quân đánh cứu hai em.
Tống Phước Hiệp lúc ấy tuổi đã già lại
đang bị trọng thương máu ra nhiều sức đã kiệt, gắng gượng hỏi:
– Tướng Tây Sơn điều khiển đánh trận
này là ai?
Khương đáp:
–
Thưa cha, nghe nói là Nguyễn Huệ em của Nguyễn Nhạc mời vừa hai
mươi hai tuổi.
Hiệp nghe xong bảo:
– Hai con hãy mau cho vài mươi người
thân tín ở đường bể lẻn ra Qui Nhơn phao tin lên rằng quân Trịnh
sắp đem quân vào đánh Quảng Ngãi. Nguyễn Nhạc tất gọi Nguyễn Huệ
đem quân về đề phòng mặt Bắc.
Tống Phước Khương y lời gọi quân đến
dặn dò. Quân đi xong, Khương nói:
– Xin cha cho con đem quân giải cứu hai
em!
Hiệp bảo:
– Sau khi cha chết đi hai con lập tức
đem tàn quân về giữ ải Vân Phong, không được liều lĩnh đánh nhau
cùng Nguyễn Huệ. Các con không phải là đối thủ của nó. Còn hai em
con sống chết đành phó thác cho trời không còn cách nào khác đâu!
Nói rồi Hiệp than:
– Ta đã hơn ba mươi năm làm tướng, nay
đã quá tuổi lục tuần mà phải thua mưu của một thằng con nít miệng
con hơi sữa, để đến nỗi bị một đứa con gái đuổi theo bắn trọng
thương. Nhục nhã thay!
Than xong lại khóc:
– Hai con ơi! Biết con đang nguy khốn
mà đành bó tay không cứu được, lòng cha đau xót lắm thay!
Nói rồi vừa đau thương vừa uất ức, Tống
Phước Hiệp thổ huyết mà chết.
Tống Phước Khương, Tống Phước Lương
khóc rống một hồi, rồi đưa thi hài Tống Phước Hiệp và lui quân về
ải Văn Phong.
Trong lúc Nguyễn Huệ đem quân theo đường núi chuẩn bị đánh thành
Phú Yên, thì Tống Viết Nghĩa và Tống Viết Phước mai phục ở phía
Bắc thành, bỗng thấy quân Tây Sơn ở trên ải Cù Mông đánh trống
dập dồn, đốt đuốc sáng rực. Tống Viết Nghĩa nói với Tống Viết
Phước:
– Cha
của ta thật là thần cơ diệu toán, quân Tây Sơn quả nhiên trúng
kế...
Nói chưa
dứt lời, bỗng nghe ở phía thành Phú Yên súng nổ ầm ầm rung chuyển
trời đất. Ngoảnh lại nhìn thấy lửa cháy sáng rực mây trời. Tống
Viết Phước la lên:
– Nguy rồi, ta đã trúng kế giương đông
kích tây của giặc rồi. Anh em ta mau kéo binh về cứu cha.
Viết Nghĩa nói:
– Em đem năm ngàn quân đi trước, anh
đem năm ngàn quân đi sau đoạn hậu đề phòng giặc ở Cù Mông đánh
ra.
Nói rồi
liền quay ngựa hối hả dẫn quân quay lại thành Phú Yên. Trời vừa
hừng sáng, Viết Nghĩa đến nơi thì cửa thành đã mở toang, trong
thành một đạo quân áo đỏ xông ra, đi đầu là ba viên dũng tướng,
một viên tướng tuổi còn rất trẻ diện mạo khôi ngô quát lớn:
– Có ta là Đại tướng Đặng Văn Long ở
đây, sao các ngươi còn chưa xuống ngựa quy hàng?
Tống Viết Nghĩa thất kinh than:
– Thành đã mất về tay giặc rồi. Chẳng
biết cha và anh ta sống chết ra sao! Chúng đánh bằng cách nào mà
nhanh thế!
Nói
xong liều chết vung đao hò quân giáp chiến. Đặng Văn Long lướt
ngựa khua kích rượt đánh. Quân Tây Sơn càng đánh càng hăng. Quân
Nguyễn lòng đã hoang mang không còn tinh thần chiến đấu bị Tây
Sơn giết chết vô số. Tống Viết Nghĩa đánh được mươi hiệp bị Đặng
Văn Long vung kích đâm chết. Quân Nguyễn vỡ tan bỏ chạy, tiếng
khóc la vang trời dậy đất. Đặng Xuân Bảo và Đặng Xuân Phong thừa
thắng xua quân đuổi theo. Văn Long ngăn lại nói:
– Hai em đừng nên truy sát làm chi, để
chúng chạy ra sẽ gặp nhị sư huynh Nguyễn Lữ từ Cù Mông kéo đến.
Chúng cùng đường ắt phải xin đầu hàng.
Nói rồi lệnh cho ba quân: địch chạy đến
đâu đuổi theo đến đấy, không được giết hại.
Tống Viết Phước đi sau đoạn hậu, bỗng
thấy tiền quân mình rối loạn, có một tên quân hớt hải chạy đến
bảo:
– Thưa
tướng quân, tướng quân Tống Viết Nghĩa đã tử trận. Hiện giặc đang
đuổi theo truy sát.
Phước thất kinh hồn vía bảo quân sĩ:
– Phía Bắc có một vùng núi non hiểm
trở, chạy đến đấy mau!
Phước dẫn quân chạy đến chân núi đã
thấy quân Tây Sơn chặn đường. Tướng Tây Sơn là Nguyễn Lữ thét to:
– Các ngươi không còn đường thoát thân,
sao ngoan cố chưa chịu quy hàng.
Tống Viết Phước hét lên rằng:
– Ta dù bại binh cũng quyết sống mái
một trận đời nào lại đi hàng lũ giặc các ngươi.
Phan Văn Lân đang ở sau lưng Nguyễn Lữ
nghe Phước gọi quân mình là giặc nổi giận vung thương thúc ngựa
xông ra đánh nhau với Tống Viết Phước. Đánh mới vài hiệp Tống
Viết Phước vã mồ hôi hột. Thêm mặt Nam Tướng Đặng Văn Long đem
quân đuổi đến dồn quân Nguyễn vào giữa vòng vậy.
Trong cơn nguy khốn bỗng thấy từ trong
núi một đạo binh trương cờ đề bốn chữ “Lương Sơn tá quốc”, cầm
đầu là bốn viên dũng tướng hùng hổ đánh vào sau lưng quân Tây
Sơn. Vòng vây được mở, Tống Viết Phước liền thúc ngựa chạy về
phía ấy. Phan Văn Lân thúc ngựa đuổi theo. Một viên tướng trong
đạo quân Lương Sơn xông ra hét lớn:
– Giặc Tây Sơn kia chớ giết hại binh
triều, có ta là Châu Đoan Hãn đến đây!
Hét xong hắn vung đao đón đánh Phan Văn
Lân. Nhờ vậy Tống Viết Phước và vài trăm quân chạy thoát được về
phía quân Lương Sơn. Châu Văn Tiếp bảo:
– Phạm Văn Sĩ mau đưa Tống tướng quân
lui về doanh trại, anh em ta ở lại chặn đánh giặc Tây Sơn.
Nói vừa dứt lời ngoảnh lại đã thấy Châu
Đoan Hãn bị Phan Văn Lân đâm một thương ngã nhào xuống ngựa. Châu
Văn Tiếp hét lên một tiếng cùng em là Châu Đoan Chân lướt ngựa
đến vây đánh Phan Văn Lân. Nguyễn Lữ trông thấy liền sai Ngô Văn
Sở vác đại đao xông ra trợ chiến. Quân Tây Sơn ồ ạt tiến lên.
Châu Văn Tiếp liệu bề không chống nổi đành rút quân về sào huyệt
trong núi Trà Lang. Quân Tây Sơn toàn thắng bắt được hàng binh và
vũ khí rất nhiều.
Sau khi chiếm thành Phú Yên, Nguyễn Huệ
liền xua quân đánh sau lưng quân phòng ngự của Tống Phước Hiệp.
Huệ sai hai Tướng Lê Văn Hưng và Nguyễn Văn Lộc chia hai ngã tiến
đánh hai đạo Thủy quân ở Vũng Lắm cách Phú Yên khoảng 10km, Quân
bộ ở Xuân Đài cách Vũng Lắm 4km. Bị đánh úp bất ngờ, lực lượng
phòng ngự cả thủy lẫn bộ đều bị tiêu diệt.
Được tin Tống Phước Hiệp bại trận,
thành Phú Yên thất thủ, trấn thủ Bình Khang là Bùi Công Kế liền
đem quân theo đường núi ra tiếp cứu. Huệ cho quân Tây Sơn mai
phục sẵn, đánh bất ngờ phải tháo chạy tan tác. Bùi Công Kế bị bắt
sống.
Sau đó
Tống Văn Khôi lại đem quân từ Diên Khánh ra cứu viện. bị quân của
Nguyễn Huệ phục kích đánh tan ở Ba Ngòi gần đèo Cả, Tống Văn Khôi
tử trận. Trong vòng không đầy mười ngày, Huệ đã chiếm lại toàn
phủ Phú Yên. Chiến công lẫy lừng đó lần đầu tiên làm chấn động
trong Nam ngoài Bắc, xác nhận tài năng của một viên tướng Tây Sơn
trẻ tuổi vừa mới hai mươi ba. Những viên tướng Tây Sơn từng vào
sinh ra tử ở mặt trận phía Bắc như Tập Đình, Lý Tài, Nguyễn
Thung, Phong, Hãn chỉ còn là những bóng mờ. Ngôi sao Nguyễn Huệ
bắt đầu chói sáng suốt chiều dài lịch sử từ năm Ất Mùi cho đến
lúc băng hà.
Nguyễn Huệ chiếm được Phú Yên bèn hạ lệnh chiêu an bá tánh kêu
gọi quân Nguyễn còn đang lẩn trốn ra đầu thú, giao việc phòng thủ
Phú Yên cho Lê Văn Hưng và Nguyễn Văn Lộc rồi kéo binh về Qui
Nhơn.
Chiến thắng Phú Yên năm 1775 của Nguyễn
Huệ có ý nghĩa hết sức to lớn và có tác dụng rất quan trọng, làm
thay đổi hẳn cục diện tình hình, hoàn toàn có lợi cho phong trào
Tây Sơn; làm cho nghĩa quân thoát khỏi thế bị kẹp trong hai gọng
kềm nguy hiểm của hai thế lực Trịnh – Nguyễn, vĩnh viễn ngăn chặn
bước tiến vào Nam của quân Trịnh, làm suy yếu hẳn lực lượng của
quân Nguyễn, mở rộng vùng căn cứ địa và mở đường cho sự phát
triển rộng lớn ra toàn quốc của Tây Sơn. Từ đây, Nguyễn Huệ một
vị Tướng tài giỏi trở thành linh hồn của phong trào Tây Sơn.
Tham Khảo:
1. Tỉnh Phú Yên Bách khoa toàn thư
2. Nhà Tây Sơn – Quách Tấn Quách Giao
3.
Tây Sơn Bi Hùng Truyện – Lê Đình Danh
4.
Sông Côn Mùa Lũ – Nguyễn Mộng Giác
5.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia văn phái
Trích từ Tuyển Tập Đất Phật Trà Vang
của Vĩnh Trường
Tiểu Sử:
Vĩnh Trường tên thật là Võ Trung Tín.
Sinh ngày 30 tháng 4 năm 1943 tại Hòa Thuận, Trà Vinh. Theo học
tại các Trường Trung Học Trần Trung Tiên (Trà Vinh 1957–1961),
Tống Phước Hiệp (Vĩnh Long 1962) Tân Dân (Kiến Hòa 1963) và Hoàng
Diệu (Ba Xuyên 1964).
Tháng 10 năm 1965, tình nguyện nhập ngũ
khóa 21 Trường Bộ Binh Thủ Đức, giai đoạn 2 theo học tại Trường
Truyền Tin QLVNCH tại Vũng Tàu. Mãn khóa vào tháng 7 năm 1966 về
phục vụ tại Phòng Truyền Tin Sư Đoàn 2 Bộ Binh tại Quảng Ngãi.
Tháng 8 năm 1968, tình nguyện về Tiểu
Đoàn Truyền Tin Sư Đoàn Nhảy Dù, đảm nhận các chức vụ: Sĩ Quan
Truyền Tin Trung [tâm] Hành Quân Sư Đoàn, Sĩ Quan Khai Thác Phòng
Truyền Tin Sư Đoàn, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Truyền Tin và Đại
Đội Trưởng Đại Đội Khai Thác Hành Quân/Tiểu Đoàn Truyền Tin.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi CS xâm
lăng VNCH, di tản và tỵ nạn tại Hương Cảng đến ngày 27/10/1975
vào được Hoa Kỳ đến tạm cư tại Kansas City Missouri và theo học
tại Học viện Electronics Institute.
Tháng 7 năm 1977 ra trường và di chuyển
về định cư tại Orange County, Nam California cho đến ngày nay.
Vĩnh Trường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Vĩnh Trường chuyển
Đăng ngày Thứ Năm,
May 27, 2021
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang