Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
LÍNH
Tác giả:
Ngũ Lang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Thời Tam Quốc, Khổng Minh dùng “Không
thành kế” chận đứng được cuộc tiến 15 vạn quân vũ bão của Tư Mã Ý.
Mưu lược này truyền trong lịch sử Trung Hoa, uy danh Khổng Minh lưu
lại Sử xanh: “Thất thủ Nhai Đình, Khổng Minh dùng ‘không thành kế’”.
Năm 1972, cuộc chiến Quốc cộng tại Huế,
Đại tá Nghĩa, dùng mưu lược “dương Đông kích Tây” đã lừa được Tướng
cs Bắc Việt Chu Huy Mân, chuyển quân về Đông Hà, Cửa Việt, khiến cho
cuộc tái chiếm tỉnh lỵ Quảng Trị của Quân Lực VNCH thành công mà đỡ
tốn nhiều xương máu.
“Dồn quân Đông Hà, Cửa Việt,
Tướng cộng sản Chu Mân mắc mưu, thua trí!
Quân ta chiếm Cổ Thành, Chiến thắng vinh quang...”
Chiến tích này không được nhắc đến, vì là
“tối Mật”, cho đến bây giờ Đại tá Nghĩa mới “bật mí” và được Ngũ
Lang viết lại.
Kế
hoạch hành quân lừa địch quá hay, vô cùng tinh vi, lừa được cs là
khó, mà lừa được Tướng cs lại càng khó hơn, vì địch là thằng chuyên
môn lừa đảo, ăn gian nói dối. Trong môn lừa đảo phải nhìn nhận cs là
bậc sư. Nó đã lường gạt toàn thể dân tộc Việt Nam và cả thế giới để
từ con số không mà tạo ra cơ nghiệp ngày nay.
Lừa gạt CS khác gì mình đi gạ một thằng
chuyên tráo bài ba lá đánh bạc với mình để mình ăn gian nó! Vì vậy
khiến nhiều người nghi ngờ kế hoạch này là chuyện Hư Cấu.
Tiếc thay, người biết rõ việc này là Trung
tướng Ngô Quang Trưởng... thì đã mất rồi! Vậy Phụ Bản G –Kế hoạch
Thanh Tuyền– này: – có hay không? – Làm sao chứng minh được?
Đại tá Nghĩa khi tiết lộ chuyện nay đã
minh định:
Tôi
bật mí chuyện bí mật này không là để thanh minh thanh nga. Chúng
mình thua trận, mất tất cả, nhưng có một cái chưa hề mất từ ngày dân
ta lập quốc là HÃNH DIỆN DÂN TỘC.
Tôi chỉ muốn cho thế hệ trẻ Việt Nam ở
trong nước cũng như ngoài nước, những người sẽ nắm vận mạng Việt Nam
trong tương lai biết rằng thế hệ cha anh của họ đã chiến đấu thế nào
cho tự do của dân tộc. Họ chiến đấu không phải vì những danh từ trừu
tượng đao to búa lớn như “tổ quốc”, “yêu nước”, “độc lập”, “tự do”,
“hạnh phúc”, “dân chủ đa nguyên”, v.v. Họ chiến đấu cho những gì
thiết thực hơn, thấy được trước mắt. Đó là làm sao cho con người
Việt Nam được sống xứng đáng với thân phận con người chớ không phải
kiếp sống con thú nhốt trong chuồng, dầu chuồng bằng vàng ròng, mất
hết tự do. Đó là làm sao trên đất nước Việt Nam thân yêu không còn
cảnh thằng mạnh hiếp thằng yếu, thằng giầu hiếp thằng nghèo, thằng
làm hộc máu mồm mà không đủ cơm ăn no, làm sao không còn cảnh một
con người quảy đôi gióng gánh trên vai với đôi mắt tuyệt vọng đi
thất thểu không biết về đâu dẫn theo những đứa trẻ, đôi mắt nai vàng
ngơ ngác, không hiểu tại sao người lớn lại hung dữ quá, ác quá như
thế này!
May mắn thay, khi kể lại “Phụ Bản
G –kế hoạch Thanh Tuyền–”, Đại tá Nghĩa có nêu danh những nhân vật
đã cùng Ông thực thi kế hoạch và một số nhân vật nêu trên vẫn còn
tại thế, cư ngụ ở Mỹ.
Đặc biệt là 2 vị sĩ quan: Đại úy Vệ và
Trung úy Trúc, là 2 vị đã tự tay đánh máy, viết Phụ Bản G, trong
lệnh hành quân Lam Sơn 72. Hai vị có thể biết rất rõ và chứng minh
được có hay không (?) phụ bản này.
Thi hành kế hoạch
– Giai đoạn 1: đưa đến tay tướng CS Chu
Huy Mân cuốn mật mã
Y Sĩ Trung tá Phát, người cung cấp xác
chết, hiện đang định cư ở Connecticut. Và người đã tự tay đẩy xác
chết xuống khu vực địch, Trung tá Phan Trọng Sinh không biết trôi
dạt về đâu. Ông này là em ruột Trung tướng Phan Trọng Chinh.
– Giai đoạn 2: tiết lộ địa danh đổ bộ:
Đông Hà, Cửa Việt
Hai vai chánh đều chết cả. Đại tá Dương
Quang Tiếp chết trong một trại cải tạo ở BV. Đại úy Trung bị bắn
chết trong một cuộc vượt ngục.
– Giai Đoạn 3: hành quân nhảy dù giả xuống
Đông Hà, “cò mồi” nội bộ tung tin chiến trận.
Đại tá Bảo
[Tham mưu trưởng SĐND] đã chết
vì trực thăng rớt tại mặt trận Quảng Trị. Vị sĩ quan Đại đội trưởng
Dù không biết sống chết.
– Giai đoạn 4: Đổ bộ giả, diễn binh giả
Mượn truyền thông ngoại quốc chuyển tin
miễn phí đến tướng Chu Huy Mân, tư lệnh lực lượng phía bên kia.
– Có sự phối hợp với Hải quân và Không
quân Hoa Kỳ, và trong diễn biến cuộc đổ bộ giả, có sự hiện diện của
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại hiện đang định cư ở một tiểu bang miền
Đông nước Mỹ. Đại tá Xuân định cư tại Nam Cali.
Ngoài ra trong văn khố của Đệ Thất Hạm Đội
thế nào cũng có lệnh hành quân vào Cửa Việt ngày hôm đó.
Tướng Mỹ cố vấn QĐ1, trước khi về hưu đã
xin bản sao phụ bản lệnh hành quân Thanh Tuyền, chắc còn sống hưu
trí ở tiểu bang nào đó tại Mỹ.
– Trên chiến trường:
Hai ngày sau khi thi hành giai đoạn 1, các
toán quan sát của ta báo cáo thấy địch di chuyển từ Khe Sanh về Đông
Hà. Ngày kế tiếp, hai công điện khác báo cáo quan sát địch di chuyển
trên quốc lộ 1 từ Vĩnh Linh về Đông Hà.
Ngày N–2, trong buổi thuyết trình tình
hình địch trong 24 giờ qua của Phòng 2 BTL/TP, Đại tá Nghĩa hình như
nghe mang máng một câu: “Không ảnh và không thám cho thấy địch rút
bớt lực lượng ở tiền tuyến Quảng Trị, lực lượng rút đi ước lượng một
sư đoàn.”
–
Cá đã
cắn câu, địch đã mắc mưu, rút bớt quân giữ thành Quảng Trị, chuyển
qua Đông Hà, Cửa Việt; theo Kế hoạch “dương Đông, kích Tây” của
Tướng Trưởng giao cho Đại tá Nghĩa thực hiện, khi ban hành Lệnh Hành
Quân Lam Sơn 72:
– Trong cuộc tấn công này sự bảo mật tuyệt đối là một điều tối cần
thiết, một trong những yếu tố thành công. Để phụ vào sự bảo mật mà
các đơn vị trưởng áp dụng trong phạm vi đơn vị cơ hữu, cần phải làm
cho địch hiểu lầm về ý định hành quân của ta, nghĩa là phải đánh đòn
“Dương Đông Kích Tây”. Trong ý định đó, Đại tá Nghĩa được chỉ định
mở cuộc hành quân lừa địch này. Kế hoạch hành quân lừa địch được gọi
là Phụ bản G của lệnh hành quân Lam Sơn 72 không phổ biến cho bất kỳ
giới chức nào. Đại tá Nghĩa sẽ trình bày riêng cho tôi lệnh hành
quân của ông ta càng sớm càng tốt. Khi cần yểm trợ của các đơn vị,
Đại tá Nghĩa sẽ trình bày miệng với đơn vị trưởng.
Để chu toàn nhiệm vụ, cuối cùng Đại tá
Nghĩa nghĩ: làm sao cho địch tin rằng bên mình sẽ đánh như thế và họ
sẽ đưa đại quân về phòng thủ tuyến Đông Hà, Cửa Việt, giảm bớt lực
lượng ở khu vực tỉnh lỵ Quảng Trị tức là giảm bớt gánh nặng cho hai
Sư đoàn Dù và TQLC những ngày đầu tấn công.
Nếu mình thành công thì đỡ tốn xương máu
cho anh em Dù và TQLC. Nếu địch biết bị lừa trở lại mặt trận Quảng
Trị thì họ sẽ mất một thời gian quý báu và chịu thiệt hại nặng nề vì
hải pháo và không quân bạn đập vào các trục lộ di chuyển.
Chiến dịch tuy hoạt động trong âm thầm,
nhưng kết quả của nó đã giúp cho việc tái chiếm tỉnh lỵ Quảng Trị
giảm thiểu không biết bao nhiêu sinh mạng của các chiến sĩ hào hùng
QLVNCH, cho nên khi xong trận chiến, ngày 15/9/1972, Đại tá được
tuyên dương công trạng trước Quân Đoàn. Bản tuyên dương có câu:
“... Sĩ quan cấp tá ưu hạng, giầu kinh
nghiệm chuyên môn và chiến trường. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 72
tại Quảng Trị với chức vụ phụ tá đặc biệt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
1/Tiền Phương, Đại tá Nghĩa luôn luôn biểu dương tinh thần phục vụ
cao để khắc phục mọi gian lao để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó
một cách tốt đẹp.”
Ngũ Lang cũng xác nhận: đã được Đại tá
Nghĩa đưa xem bản tuyên dương công trạng vài ngày sau đó. Sau bao
nhiêu biến cố, không hiểu làm sao ông ta giữ được những giấy tờ này.
Thêm một bản điện báo của một thông tín
viên chiến trường Tây Phương, đánh đi sau khi quân ta tái chiếm
Quảng Trị: “Đây là lần đầu tiên một viên tướng Việt Nam (chỉ Trung
tướng Trưởng) biết sử dụng đòn C&D (COVER AND DECEPTION OPERATION)
trong cuộc chiến tại Việt Nam và đòn đó tỏ ra có hiệu quả.”
Vậy đây là HƯ CẤU hay chuyện có thật?
Một chiến tích tuyệt vời, dùng TRÍ thắng
địch, thêm vào Quân Sử oai hùng của QLVNCH. Kính phục và ghi ơn Đại
tá Nghĩa.
Kính
mong “Quý Vị trong cuộc”, biết chiến dịch này, lên tiếng, để vinh
danh QLVNCH, có người dùng TRÍ thắng địch, hiển hách, lưu danh quân
sử.
Lưu–Vĩnh–Lữ
Nguyên văn bài của Ngũ Lang:
Vì lý do riêng, một số tên nhân vật, một vài sự kiện nhỏ được thay đổi, nhưng những thay đổi trong chi tiết đó không làm mất đi tánh chất xác thực của câu chuyện. –Ngũ lang.
***
Mùa hè năm 1972
Báo
chí, các đài phát thanh trong nước Việt Nam và ngoại quốc loan
tin cuộc đại tấn công mùa hè của quân đội nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà gọi tắt là Bắc Việt (BV) vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà
gọi tắt là Miền Nam (MN). Qua cuộc tấn công này có lẽ các lãnh tụ
BV muốn trắc nghiệm hiệu quả của chánh sách VN hoá của Tổng Thống
Nixon. BV còn nhằm mục tiêu khác là tìm lợi thế trên chiến trường
để thâu lợi tối đa trên bàn hội nghị mà BV và Mỹ đã mật đàm từ
1968.
Quân BV
tấn công bằng ba mũi dùi hướng vào ba Quân khu 1, 2, 3 của MN.
Đây là một trận tấn công đại qui mô bởi quân đội chính quy của
một nước ngoài vào lãnh thổ MN với tất cả vũ khí tấn công hiện
đại như thiết giáp, pháo binh tầm xa, chỉ thiếu có không quân.
Lực lượng tấn công lớn hơn nhiều so với lực lượng tấn công Tết
Mậu Thân. Trận tấn công này đã được trông đợi từ lâu bởi tình báo
MN cũng như các quan sát viên quốc tế từ khi Mỹ tỏ ý định dứt
khoát rút lui khỏi cuộc chiến với mỹ từ “Việt Nam hoá chiến
tranh”. Đến năm 1972, quân lực Mỹ không còn tham dự các trận đánh
bằng bộ binh. Chỉ có Không quân và Hải quân Mỹ còn tác chiến trên
qui mô nhỏ.
Đây là chiến trường Quân Khu 1.
Chiến trường gần giống như một hình chữ
nhật bề dài độ 300 cây số, từ Quảng Trị phía Bắc đến Quảng Ngãi
phía Nam. Bề ngang trung bình 40 cây số từ rặng Trường Sơn đến
biển Đông. Đường tiếp tế chính là Quốc Lộ 1.
Miền Nam từ khởi đầu cuộc chiến năm
1960 đến khi Mỹ trực tiếp tham dự năm 1965 kéo dài cho đến năm
1972, lúc nào cũng bị đặt trong thế thủ với mục tiêu giữ đất, giữ
dân toàn vẹn không cho BV và công cụ của họ là MTGPMN lấn đất,
giành dân.
Để
thi hành nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ Quân Khu 1, quân đội MN có Quân
Đoàn I gồm ba Sư Đoàn bộ binh đánh số 1, 2, 3 và một số Chiến
Đoàn Biệt Động Quân (BĐQ), một Lữ Đoàn thiết giáp cơ hữu của Quân
Đoàn. Khi sự hăm dọa đại tấn công của BV ngày càng rõ rệt, Trung
Ương đã tăng phái thêm Sư Đoàn Tổng Trừ Bị Thủy Quân Lục Chiến
(TQLC) cho Quân Đoàn.
Lực lượng đó được bố trí như
sau:
Mạn Bắc, khu vực bị hăm doạ nặng nhất có Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn
TQLC tăng phái thêm BĐQ và thiết giáp loại M41.
Sư
Đoàn 3 tân lập do Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy trấn đóng các tiền
đồn do quân đội Mỹ chuyển lại để bảo vệ tỉnh Quảng Trị và Bắc
Quân Khu. Sư Đoàn này gồm đa số là tân binh quân dịch, thêm một
số đào binh, quân phạm được ân xá từ Trung Ương đưa ra cho đủ
quân số. Đây là Sư Đoàn yếu nhất của Quân Lực VNCH, chưa có kinh
nghiệm tác chiến, nhưng lại được giao cho nhiệm vụ tại một khu
vực có thể nóng bỏng nhất trên chiến trường MN nếu quân BV mở tấn
công đại qui mô để xâm lăng MN từ lãnh thổ BV. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
đặt tại Ái Tử cạnh thị xã Quảng Trị.
Tại sườn Tây của Quân Khu và của Huế,
có Sư Đoàn 1 trấn đóng với nhiệm vụ bảo vệ Huế chống lại lực
lượng BV xuất phát từ thung lũng AShau phía Tây đánh vào. Sư Đoàn
1 được xem là Sư Đoàn thiện chiến nhất trong các Sư Đoàn Bộ Binh.
Tư Lệnh Sư Đoàn là Tướng Phú người thế cho Thiếu tướng (sau thăng
trung tướng) Ngô Quang Trưởng được điều về Nam làm Tư Lệnh QK4.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Dạ Lê phía Nam Huế.
Ở mạn Nam QK có Sư Đoàn 2 Bộ Binh với
nhiệm vụ bảo vệ hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Sư Đoàn này có
giá trị tác chiến trung bình do Chuẩn tướng Phan Hòa HIệp làm Tư
Lệnh đặt bộ chỉ huy tại Chu Lai.
Cuộc chiến mùa Hè năm 1972 là một cuộc
chiến tranh với hình thức cổ điển do quân đội chánh quy của một
nước láng giềng chủ động tấn công vào lãnh thổ MN chớ không còn
là cuộc chiến tranh du kích kéo dài hàng chục năm trước.
Lực lượng tấn công hơn một Quân
Đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Chu Huy Mân.
Đến năm 1972, quân đội BV được Liên Sô
và Trung Cộng viện trợ cho đủ loại vũ khí bộ binh tối tân. Họ chỉ
kém Quân Lực VNCH về Không Quân và Hải Quân. Về Lục Quân, BV có
hai loại vũ khí vượt trội hơn MN là đại bác 122ly của Liên Sô và
đại bác 130ly của Trung Cộng và chiến xa T54 của Liên Sô. Tầm bắn
tối đa của đại bác BV là 28 cây số so với đại bác bắn xa nhất của
bộ binh MN là pháo 155ly bắn tối đa là 15 cây số. Chiến xa T54
mạnh hơn chiến xa M41 được Mỹ trang bị cho các thiết đoàn chiến
xa MN. Tuy nhiên về mặt tác chiến phối hợp giữa bộ binh, chiến xa
và pháo binh các sĩ quan BV tỏ ra vụng về vì chưa hề có kinh
nghiệm trong hình thức chiến đấu hiện đại này.
Lực lượng tấn công chia làm hai
mũi dùi, điểm và diện:
– Điểm nhắm mục tiêu tuyến phòng thủ
Bắc Quảng Trị do hai Sư Đoàn BB 304, 308 và 6 Trung Đoàn của mặt
trận B5 gồm một Trung Đoàn đặc công, ba Trung Đoàn BB, hai Trung
Đoàn pháo và tất cả chiến xa độ 200 chiếc tấn công.
– Diện nhắm mục tiêu tuyến phòng thủ
sườn Tây Huế do một Sư Đoàn BB tấn công, Sư Đoàn 324 cộng thêm
hai Trung Đoàn BB 5 và 6.
Đây là lần xuất trận đầu tiên của chiến
xa BV. Tuy các sĩ quan BV còn lúng túng bỡ ngỡ khi điều động tác
chiến một số lớn chiến xa như vậy, nhưng sự xuất hiện chiến xa
trước mắt các tân binh của Sư Đoàn 3 đã gây kinh hoàng cho những
chàng bạch diện thư sinh tân binh. Quân BV đã chọc thủng tương
đối dễ dàng tuyến phòng thủ của Sư Đoàn. Đơn vị này bị tràn ngập
về hỏa lực và quân số. Một số đơn vị đã rã ngũ, bỏ chạy tán loạn
làm cho Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn gần như không còn chỉ huy được nữa.
Sau khi mặt trận tan vỡ, quân BV tiến
chiếm tỉnh lỵ Quảng Trị với khí thế của một cơn bão táp. Quân
lính MN rã ngũ bỏ chạy về Huế bằng mọi phương tiện: đôi chân, xe
Honda, quân xa kể luôn thiết vận xa M113. Lẫn trong đám tàn quân
hỗn loạn là thường dân, giầu nghèo, sang hèn chạy theo. Trên quốc
lộ 1 phía Nam Quảng Trị, trên quãng đường sau này được thế giới
biết đến với cái tên rùng rợn “Đại Lộ Kinh Hoàng” một cuộc tàn
sát tập thể xảy ra do pháo binh và súng cộng đồng của quân BV rót
vào đám quân dân hỗn độn chen chúc nhau trên đường. Thật là một
kỳ công về giết chóc!
Tình thế QK1 như ngàn cân treo sợi tóc.
Cũng may là trong bầu không khí thua trận hỗn loạn đó, hai đơn vị
của Quân Đội VNCH đã cắn răng chiến đấu không để cho quân BV thừa
thắng xông lên chiếm Huế. Sư Đoàn TQLC bên cạnh Sư Đoàn 3 vẫn giữ
vững hàng ngũ mặc dầu bị áp lực nặng nề của kẻ địch quá đông được
chiến xa yểm trợ. Đơn vị ưu tú này vừa đánh vừa lùi về hướng Nam.
Đến sông Mỹ Chánh ở giữa Quảng Trị và Huế, Sư Đoàn đã trụ lại
được không để cho quân BV tiến thêm.
Ở sườn Tây của Huế, Sư Đoàn 1 sau khi
mất một vài tiền đồn quan trọng cũng trụ lại được và ngăn quân BV
tràn xuống Huế. Đây là đại lược tình hình QK1.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh
QK4 được Tổng thống Thiệu gọi về Sài Gòn sáng sớm một ngày thượng
tuần tháng 5, hình như hai ngày sau khi thất thủ Quảng Trị. Sau
khi trở về Bộ Tư Lệnh, ông cho biết được lịnh ra Vùng 1 cấp tốc
ngay buổi chiều hôm đó. Giờ khởi hành là 4 giờ chiều, phương tiện
chuyên chở là một chiếc vận tải cơ phản lực nhỏ của quân đội Mỹ
cho mượn. Người thay thế chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn QK4 là Thiếu
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Không có lễ bàn
giao giữa hai Tư Lệnh QK, một chuyện hết sức bất bình thường vì
thời gian quá cấp bách.
Trung tướng Trưởng đem theo một
bộ tham mưu nhỏ gồm có:
– Chuẩn tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư
Lệnh phó Quân Khu;
– Đại tá Lê Văn Thân, Tư Lệnh phó
Sư Đoàn 7;
– Đại tá Nghĩa phụ tá đặc biệt Tư
Lệnh QK phụ trách phối hợp tình báo, an ninh và chiến dịch Phụng
Hoàng.
Phi cơ đáp xuống sân bay Phú Bài, Huế sau gần hai giờ bay. Một
chiếc trực thăng đã bốc tất cả sĩ quan về Bộ Tư Lệnh Tiền Phương
(BTL/TP) Quân Đoàn I trong Thành Nội.
Đến 8 giờ tối, một lễ đơn sơ bàn giao
chức vụ Tư Lệnh QK1 và Quân Đoàn I diễn ra tại phòng Hành Quân Bộ
Tư Lệnh trước sự hiện diện của các sĩ quan cao cấp Quân Khu, viên
tướng Mỹ cố vấn Quân Đoàn và bộ tham mưu nhỏ của Tướng Trưởng,
tất cả độ 10 người. Một sĩ quan tổng quản trị đọc công điện của
Tổng thống chỉ định Trung tướng Ngô Quang Trưởng thay thế Trung
tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư Lệnh Quân Khu, Quân Đoàn I. Hai vị
tân cựu Tư Lệnh nói vài câu vắn tắt. Thế là xong lễ bàn giao.
Tối đêm đó, sau bữa cơm, Trung tướng
Trưởng cho lệnh miệng Chuẩn Tướng Hinh là Tham Mưu Trưởng Bộ Tư
Lệnh Tiền Phương thế cho Đại tá Hoàng Mạnh Đán trở về chức vụ
Tham Mưu Trưởng Quân Khu ở Đà Nẵng. Đại tá Thân làm phụ tá hành
quân, Đại tá Nghĩa là phụ tá đặc biệt, Trung tá Đức làm Chánh Văn
Phòng tại QK4 nay cũng đi theo và giữ chức vụ Chánh Văn Phòng như
cũ.
Đại tá
Nghĩa với tư cách phụ tá đặc biệt, phụ trách phối hợp hoạt động
tất cả cơ quan tình báo và an ninh quân sự cũng như dân sự tại
QK1. Lần này Đại tá Nghĩa không phụ trách chiến dịch Phụng Hoàng
như ở QK4 mà lãnh một nhiệm vụ mới: chiến tranh ngoại lệ gồm một
lô những chuyện lẩm cẩm như tổ chức đánh du kích sau hậu tuyến
địch, chiến tranh tâm lý và các đòn lừa địch mà trong binh thư Mỹ
gọi là COVER AND DECEPTION OPERATION gọi tắt là C&D Operation.
Đại tá Nghĩa nghe lệnh mà lầm thầm
trong bụng, đây đúng là chiến tranh của người nghệ sĩ. Không có
tiếng kèn xung phong chứng kiến hàng hàng lớp lớp chiến xa, phi
cơ rót cái chết vào đầu địch. Ngược lai đó là chiến tranh chất
xám, vũ khí là bộ óc sáng tạo, đấu trí với địch trong bóng tối.
Mình giỏi thì nó chết, ngược lại dở hơn nó thì chết mà không có
được một bằng tưởng lục. Khó quá nhỉ, mà cũng thú nhỉ!
Sau một đêm ngủ mê vì quá mệt mỏi, Đại
tá Nghĩa thức sớm, mượn một chiếc xe Jeep của Tổng Hành Dinh ra
phố để “thăm dân cho biết sự tình”. Nhiệm vụ trước mắt đòi hỏi
phải báo cáo ngay cho vị tân Tư Lệnh biết tinh thần binh sĩ, tinh
thần dân chúng, tình hình tại Huế ra thế nào.
Xe ra khỏi Thành Nội, nơi đóng Bộ Tư
Lệnh/TP, chạy ra phố chánh chạy dọc sông Hương là đường Trần Hưng
Đạo. Trước mặt, đây là phố buôn bán sầm uất nhất của Huế với khu
nhộn nhịp là chợ Đông Ba. Trước đây, Đại tá Nghĩa có dịp thăm
viếng Huế nhiều lần. Hôm nay, ông ta cảm thấy mình đang chạy xe
trong một thành phố xa lạ. Huế đẹp và Huế thơ thuở nào đã biến
mất. Tiếng đại bác thỉnh thoảng vang lên ở xa là âm thanh sống
động, còn nơi đây, có vẻ là đất chết. Lần lần Đại tá Nghĩa ý thức
được thực tế phũ phàng. Thành phố mến yêu này đang trong cảnh hấp
hối. Thực là đáng buồn và đáng sợ làm sao khi đi trong một thành
phố như thế. Nhà nhà đóng cửa có lẽ với tỷ lệ 98% từ Thành Nội
đến ngoại thành. Dân chúng Huế đã quá kinh sợ những kỷ niệm đẫm
máu của trận Mậu Thân. Họ sợ, quá sợ là khác. Có thể trong nhà
đóng cửa đó còn có một người ở lại coi chừng hay là chủ nhà chưa
kịp chạy đi Đà Nẵng vì sợ tai nạn trước mắt do một số lính thất
trận từ Quảng Trị chạy về biến thành cướp. Ngoài đường thỉnh
thoảng một người hoặc một tốp vài người xuất hiện, không hẳn là
lính vì quân phục không còn vẻ quân phục nhưng cũng không phải là
dân. Họ trông mệt mỏi với bộ mặt thiểu não, râu không cạo, quần
áo đầy bùn đất. Trong người họ chỉ còn chút sống động là đôi mắt.
Phần đông đôi mắt lờ đờ của những con chim bị đạn, có đôi mắt hắt
lên sự căm hờn không biết căm hờn thua trận hay căm hờn cấp chỉ
huy, có đôi mắt rực lên ánh lửa giết người của bọn cướp. Mà đúng
là cướp thật. Đại tá Nghĩa nghe kể chuyện vừa mới hôm qua, một
Đại úy bị một chú BĐQ chĩa súng vào bụng trấn lột đồng hồ ngay
trên Cầu Mới bắc qua sông Hương. Cảnh đó đang diễn ra dài dài
trong thành phố Huế. Không còn quan, không còn lính, không còn
nhà nước. Chỉ còn lại sự hỗn loạn, vô trật tự, vô kỷ luật của một
thành phố sắp nếm mùi chiến tranh, cái mùi mà dân Huế đã kinh tởn
tột cùng bốn năm trước khi được quân BV “giải phóng” trong Tết
Mậu Thân. Thỉnh thoảng lại gặp một gia đình thường dân nghèo chạy
loạn với đôi gióng gánh đựng đủ thứ đồ thập cẩm, quần áo, mền
gối, nồi niêu xoong chảo. Điểm trên bức tranh quái đản đó là lửa
và khói từ chợ Đông Ba cuộn lên nền trời xanh. Hiện chợ Đông Ba
đang cháy mà không một ai buồn chữa lửa vì đêm trước một đám lính
vào cướp các cửa hàng trong chợ và cao hứng đốt luôn chợ cho hả
giận, không biết họ giận gì.
Chiến tranh là một trò đời. Khi bên
mình thắng thì không biết bao nhiêu cảnh vui vẻ từ vòng hoa của
một thiếu nữ e thẹn choàng lên cổ một anh chiến sĩ kiêu hùng đến
cảnh quân dân ta ôm hôn nhau thắm thiết, hoa giấy, hoa thiên
nhiên tung bay, rồi tiếng xích thiết giáp hoà lẫn với tiếng rít
của phi cơ, tiếng reo hò hân hoan của hàng vạn cổ họng. Thật là
vui. Nhưng khi phe mình thua, bỏ chạy, địch sắp kéo tới thì kinh
hoàng làm sao, nhất là kẻ địch là những bậc anh hùng có thành
tích giải phóng Huế năm 1968 và mới vài hôm trước đây, trên quốc
lộ 1, cảnh tàn sát lại tái diễn với qui mô lớn hơn giữa những
người Việt có súng và người Việt chạy loạn. Dân Huế lo chạy để
tìm cái sống, đúng là người người chạy, nhà nhà chạy. Người ta
chen nhau, đạp nhau chạy đến đỗi một số xe đã lọt xuống hố tại
đèo Hải Vân. Một nỗi sợ không biết từ đâu phát ra xâm chiếm mọi
tâm hồn. Ai cũng sợ vì không biết ngày mai số phận của mình ra
thế nào, nhà còn không, vợ con còn không, bản thân còn nguyên vẹn
hay là mất tay, mất chân và nhiều cái nữa. Sự sợ hãi, sự hỗn loạn
là một bệnh dịch lây lan nhanh chóng trong một thành phố hấp hối
và làm tê liệt ý chí chiến đấu của những tay gan lì nhất.
Trong bầu không khí đó, chỉ cần một
tiểu đoàn người gầy nhom, đội nón cối, đi dép râu xuất hiện tại
Huế, có lẽ số phận của QK1 đã được định đoạt kéo theo sự sụp đổ
của VNCH và sụp đổ toan tính của cặp bài trùng Nixon–Kissinger
tìm một giải pháp rút lui danh dự cho Mỹ để giữ cái ghế Tổng
thống cho ông Nixon thêm một nhiệm kỳ nữa.
Đại tá Nghĩa cảm thấy có cái gì nguy
hiểm cho bản thân mặc dù ông ta đang đi trong một thành phố mà
quân mình còn làm chủ. Một cái gì rờn rợn có lẽ là sợ đang lần
lần xâm chiếm ông ta, khiến ông ta vô tình đặt tay lên bá súng
của khẩu Colt. May quá tại góc đường Phan Bội Châu còn một chị
bán thuốc thơm. Ông ta bảo tài xế dừng xe lại bảo chị bán thuốc
bán cho một gói thuốc thơm. Chị bán thuốc vừa thối tiền vừa xuýt
xoa: “Ơ kìa, sao ông Đại tá còn ở đây. Cháu thấy mấy ông tá chạy
về Đà Nẵng hết rồi!”
Lần này, Đại tá Nghĩa cảm thấy bị một
cú đập mạnh vào đầu. Cổ họng ông ta khô lại. Tuy nhiên, phản ứng
tự nhiên của một quân nhân từng gặp nguy hiểm nhiều lần giúp cho
ông ta giữ được bộ mặt bình tĩnh trong lúc tim đập mạnh. Với
giọng nói, cố giữ bình tĩnh, nên gần như giả tạo, Đại tá Nghĩa
lớn giọng nói với chị bán thuốc:
– Này chị nói ai vậy?
– Cháu nghe nói mà còn chính mắt thấy
mấy ông lớn chạy về Đà Nẵng. Nghe nói Việt Cộng gần tới rồi. Cháu
bán sáng nay rồi chiều nay về Đà Nẵng bằng thuyền của bà con.
Đại tá Nghĩa chỉ cho chị bán thuốc huy
hiệu QK IV đeo trên tay áo bên trái, nói thêm:
– Tôi cho chị biết, tôi là toán quân
tiền phong từ QK4 ra đây tiếp viện. Quân ta nhiều lắm, đông như
kiến, sẽ ra đến Huế vài hôm nữa. Cho chị biết thêm là trong đoàn
quân tiếp viện có nguyên một Sư Đoàn Nhảy Dù, cả mấy chục ngàn
người. Để rồi chị coi, tụi tui làm cỏ VC, đuổi tụi nó về Bắc, lấy
lại Quảng Trị chớ làm gì VC đụng tới Huế được. Đừng chạy tốn tiền
vô ích!
Mới
ngày đầu, Đại tá Nghĩa đã không mất công sức đi một đường chiến
tranh tâm lý! Sau đó ngồi trên xe chạy đi, ông ta nghĩ ngay lúc
này chỉ có cái đòn tuyên truyền xám, hay là nói láo có vẻ như
thật, mới làm cho Huế lấy lại tinh thần, bỏ tâm lý chạy, từ đó
tái lập được trật tự mới mong đánh đấm được. Bằng không thì chỉ
biết giao số phận cho Đấng Tối Cao.
Ông ta lái xe ra vườn hoa ở bờ sông
Hương, giao xe cho tài xế coi chừng, một mình xuống bậc thạch
ngồi nhìn phong cảnh như một người nhàn hạ. Sự thực Đại tá Nghĩa
không ngắm cảnh đâu. Ông ta đến đây để cho những tư tưởng đối
nghịch đang làm cho đầu ông ta nóng lên dịu mát bớt. Lời chị bán
thuốc đã làm cho ông ta sợ. Đây là lần thứ nhì trong đời quân
nhân, Đại tá Nghĩa bị cái sợ dằn vặt. Lần đầu tiên biết sợ là khi
còn là một thiếu úy mới ra trường, lần đầu đụng chạm với thực tế
chiến trường. Dần dần cái sợ cũng quen đi rồi biến mất lúc nào
không biết. Lần này, có lẽ ngoại cảnh hỗn loạn, tuyệt vọng lớn
quá. Ông ta tự nói:
“Bọn nhát chạy hết. Hay là tụi nó
khôn hơn mình. Tại sao mình ở lại đây để hứng đạn. Mình ở lại đây
hy sinh liệu có thay đổi được tình hình không? Nếu bọn VC tiến
tới nữa thì mình chạy đâu? Mình là dân Sài Gòn không quen địa
hình địa vật ở đây. Nếu mình chết vợ con mình ra thế nào?”
Đại tá Nghĩa đã phì phà hết điếu thuốc
thứ nhì hồi nào không hay. Ông ta đã chứng kiến cảnh mua quan bán
chức ở hậu phương, muốn làm tỉnh trưởng chung bao nhiêu triệu,
trưởng ty cảnh sát bao nhiêu triệu, trưởng ty quan thuế bao nhiêu
triệu và nhiều chuyện nôn mửa khác như báo chí gọi một ông tướng
là Quế tướng công. Đại tá Nghĩa chiến đấu không phải để bảo vệ
những thứ bẩn thỉu đó mà ông ta đã phỉ nhổ không tiếc lời với bạn
thân. Nhưng cái gì làm cho ông ta đánh nhau chết thôi, đó là cảnh
dân MN không chấp nhận sống cuộc đời nô lệ dưới ách cộng sản, hay
nói cách khác chiến đấu để con người Việt Nam được quyền sống như
con người tự do, cái quyền mà ông ta cho là thiêng liêng nhất
trong tất cả loại nhân quyền. Đại tá Nghĩa còn một cái yếu là ông
ta thương người nghèo, nhất là người buôn gánh bán bưng. Ông ta
cũng không hiểu tại sao thương những người này. Ông ta chiến đấu
để hy vọng sau này hết chiến tranh cuộc đời bất hạnh của người
nghèo bớt bất hạnh hơn.
Những tư tưởng thoáng qua trong đầu Đại
tá Nghĩa nói lên cái yếu trong con người của mọi quân nhân. Ai
cũng biết sợ trước nguy hiểm, ai cũng còn ích kỷ để mạng sống của
vợ con lên bàn cân để cân với số phận của toàn thể một dân tộc.
Đại tá Nghĩa tính đến chuyện có thể đào
ngũ như bao nhiêu người yếu tinh thần khác và ông ta có cái cớ là
không thể bảo vệ sự thối nát lâu hơn nữa.
Quẹt diêm đốt điếu thuốc thứ ba, rít
một hơi dài, bỗng ông chợt thấy trên đường, một người đàn ông, có
lẽ dân Quảng Trị chạy loạn với đôi gióng gánh đựng bao nhiêu thứ
tạp nhạp, với đôi mắt tuyệt vọng thế nào trên một gương mặt mệt
mỏi, cùng hai đứa bé đi theo. Không thấy mẹ chúng nó đâu, có lẽ
đã chết đâu đây trên đường chạy loạn. Bóng người đàn ông thất
thểu trên đường như lời nguyền rủa của Thượng Đế trước cái tâm ác
độc của con người. Ánh mắt tuyệt vọng này đã ám ảnh Đại tá Nghĩa
trong bao nhiêu năm dài, có lẽ sẽ đeo đuổi ông ta mãi đến trọn
đời. Cũng đôi mắt tuyệt vọng này khiến cho một luồng điện ở đâu
đó không biết xẹt qua óc ông ta.
Ba chữ TỔ QUỐC, DANH DỰ, TRÁCH NHIỆM in
trên mũ Đại tá của ông ta nhập vào tiềm thức ông ta từ ngày ra
quân trường mà ông ta không ngờ. Lần này không biết là khói thuốc
hay là dáng đi thất thểu của người chạy loạn làm cho những chữ đó
từ bộ nhớ trong tiềm thức vọt lên. Ông ta bỗng nhiên tự thấy xấu
hổ với chính mình khi có những tư tưởng hèn yếu tội lỗi vừa rồi.
Đại tá Nghĩa vất thuốc đứng dậy lẩm bẩm: “Đ.M. (đây là quân nhân
MN chính cống) đánh đến chết thôi! Hoặc tao chết hoặc mày chết”.
Đại tá Nghĩa về Bộ Tư Lệnh trình bày
tình hình với Trung tướng Ngô Quang Trưởng và đề nghị một số biện
pháp khẩn cấp để giữ trật tự cho Huế và giữ tinh thần cho quân
nhân.
Đài phát
thanh, truyền hình những lời quân nhân và dân chúng chuyền tai
với nhau: “Ông Tướng Trưởng là một người nghiêm khắc nhất về mặt
kỷ luật. Đừng giỡn mặt với ông ta. Đã có một số quân nhân đào
binh, vô kỷ luật, cướp bóc bị bắt và bắn tại chỗ hay đưa về toà
án quân sự mặt trận và đưa ra bắn liền sau khi tòa kêu án. Những
quân nhân bỏ trốn về Đà Nẵng cũng có một số bị bắn. Đã có nhiều
đơn vị ở Trung Ương ra Huế tiếp viện trong đó có quân Dù. Quân ta
bắt đầu phản công.”
Sự thật là những ngày đầu khi Tướng
Trưởng đặt chân lên Huế, khi hỗn loạn và cướp bóc hoành hành dữ
dội, chưa có một đào binh nào bị bắn và hình như suốt cuộc chiến
cho đến khi lấy lại Quảng Trị chưa có một quân nhân nào bị bắt và
bắn liền. Quân tiếp viện thì chỉ có một Sư Đoàn Dù nhưng cả tháng
sau mới ra tới QK1. Tuy nhiên có những tay tỏ vẻ thông thạo tin
tức đã quả quyết thấy lính Dù có mặt ở Gia Hội, ở Kim Long, v.v.
Suốt mấy tuần đầu, Đại tá Nghĩa đã tung
ra đòn đánh giặc bằng mồm trong sự lo âu hồi hộp không biết mặt
trận tan vỡ lúc nào, sự xuất hiện của những chiếc nón cối trên
cầu Trường Tiền không biết lúc nào.
May mắn cho tất cả mọi quân nhân trong
Bộ Tư Lệnh tiền phương, cái xấu không xảy ra. Sư Đoàn 1 và Sư
Đoàn TQLC đã gan lì chịu đựng thêm được sự yểm trợ tối đa của
Không Quân và Hải Quân Mỹ và Tổng thống Nixon nhất định không
thương thuyết trên thế yếu. Sự yểm trợ của Không Quân và Hải Quân
VN, các đòn tuyên truyền xám trong chiến tranh tâm lý bắt đầu có
tác dụng. Tâm lý sợ, ý muốn đào thoát về Đà Nẵng đã bớt đi. Kỷ
luật quân đội, một thời xem thường, đã được mọi quân nhân tôn
trọng. Binh sĩ rã ngũ từ mặt trận Quảng Trị chạy về đã bằng lòng
theo Quân Cảnh lên xe về trung tâm huấn luyện Văn Thánh, nơi ông
Tướng Trưởng làm chỗ tập trung tàn binh của đủ mọi thứ binh
chủng, tái huấn luyện và ghép vào đơn vị tân lập. Triệu chứng rõ
nét nhất của sự ổn định tình hình tại một thành phố sát tiền
tuyến là một số nhà đã bắt đầu mở cửa. Số đó càng ngày càng tăng
thêm. Mỗi ngày Đại tá Nghĩa phấn khởi báo cáo với vị Tư Lệnh: hôm
nay ước lượng 10% nhà mở cửa so với 8% hôm qua, v.v.
o O o
Đến khi
Sư Đoàn Dù ra Huế đầy đủ, cuộc sinh hoạt tại đây gần như trở lại
bình thường.
Sau này khi thấy những “nhà ái quốc” hải
ngoại hăng tiết vịt đấu võ mồm với nhau, Đại tá Nghĩa không ngăn
được chửi thề: “Mẹ kiếp! Phải các bố đem võ mồm về VN đấu với CS
thì hay biết chừng nào! Đã ra thân ăn nhờ ở đậu nước ngoài vì mất
nước mất nhà mà vẫn chưa biết nhục; vẫn hãnh diện với cái tật
chia rẽ, tay nào cũng vỗ ngực chỉ có ta đây chống Cộng, ta đây ái
quốc, tất cả những thằng khác đều là cò mồi. Rồi lăn vào nhau đấu
võ mồm làm trò cười cho cộng sản và làm cho người bản xứ lẩm bẩm:
đám này đều xưng chống Cộng nhưng đánh nhau quá hăng thảo nào mà
không mất nước!”
Đại tá Nghĩa lần lượt thăm các “thân chủ”
là những đơn vị trưởng mà ông ta có nhiệm vụ phối hợp công tác và
nhờ sự giúp đỡ của họ vì ông ta thực sự chỉ có hai bàn tay không
và khẩu súng Colt bên hông. Ông ta đi thăm:
– Đại tá Chu
Văn Sáng, Chánh sở 1 ANQĐ;
– Đại tá Dương Quang Tiếp, Giám
Đốc Cảnh Sát QK1, trưởng đoàn công tác của đơn vị Tình Báo chiến
trường 101 tại QK1;
– Đại tá Lê Văn Hai, Chỉ huy trưởng
đoàn công tác của Nha Nghiên Cứu tại QK1;
– Đại tá Phó trưởng
phòng II Bộ Tư Lệnh/TP;
– Đại tá Phan Phiên, Tham mưu phó
Chiến Tranh Chính Trị,
– Đại tá (sau lên phó đề đốc) Hồ Văn Kỳ
Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I;
– Đại tá (sau lên chuẩn tướng)
Nguyễn Đức Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn I Không Quân.
Mặt trận
ổn định đã dần dần đưa đến sự thay đổi tương quan lực lượng khi
vị Tư Lệnh chiến trường có thêm Sư Đoàn Dù đầy đủ tại Huế, cộng
thêm một Liên Đoàn BĐQ, một Thiết Đoàn Chiến Xa M48 tối tân hơn
M41, nhiều Tiểu Đoàn pháo tự hành 175ly có tầm bắn xa tương đương
với pháo 122ly và 130ly của địch.
Trên mặt trận phía Tây,
các đơn vị Sư Đoàn 1 lần lượt tái chiếm các vị trí đã mất trước
kia sau nhiều trận giao tranh đẫm máu. Nổi bật nhất là trận tái
chiếm căn cứ Bastogne. Nhờ chiếm lại các vị trí này mà Bộ Tự
Lệnh/TP mới hết bị pháo kích. Ở mặt trận Bắc, quân BV đã trở lại
thế thủ và không ảnh cho thấy họ tổ chức các công sự phòng thủ
vững chắc tại vị trí họ chiếm đóng từ sông Thạch Hãn (Bắc Quảng
Trị) đến sông Mỹ Chánh (Nam Quảng Trị). Lực lượng phòng thủ ước
lượng trên một quân đoàn, chia làm hai bộ phận. Bộ phận tiền
tuyến cỡ hai sư đoàn. Sau một thời gian bị hao hụt trong tác
chiến, bộ phận tiền tuyến lui về tuyến sau để cho hai sư đoàn
khoẻ lên thay.
Trên mặt trận chỉ có giao tranh lẻ tẻ của
bộ binh hai bên làm nhiệm vụ thám sát. Trận chiến chính yếu diễn
ra giữa pháo binh đôi bên. Theo sự ước tính của P2 Bộ Tư Lệnh/TP,
số đạn pháo hai bên rót vào trận địa của nhau như sau: bên MN
60,000 quả trung bình mỗi ngày gồm đủ loại pháo trên bờ và dưới
biển chưa kể bom của Không Quân chiến thuật và phi vụ B52. Phía
BV, mỗi ngày bắn khoảng 10,000 quả. Trên một trận địa nhỏ hẹp như
khu vực Quảng Trị, hoả lực pháo binh của đôi bên sử dụng thật là
khủng khiếp và không kém một mặt trận nào trong Đệ Nhị Thế Chiến.
Về Đại tá Nghĩa, ông ta bận rộn với cuộc chiến tranh phi quy
ước bên lề cuộc chiến quy ước. Ông ta nhờ Đại tá Phan Bá Hoà,
tỉnh trưởng Quảng Trị giới thiệu để tuyển mộ một số dân vệ tỉnh
Quảng Trị chạy thoát được về Huế. Những chiến sĩ tình nguyện này
được huấn luyện đánh du kích, võ trang nhẹ nhàng, sau đó thâm
nhập trở lại Quảng Trị đang bị quân BV chiếm đóng để khuấy rối
hậu phương địch. Đại tá Nghĩa còn vươn cánh tay chiến tranh ngoại
lệ ra xa trên đường mòn Hồ Chí Minh, phía sườn Tây của chiến
trường với các toán Biệt Kích Dù của Đại tá Hai. Người ngoài cuộc
không rành tổ chức chiến đấu bí mật này gọi chung một danh từ là
“biệt kích dù”. Đây là những con người can trường được huấn luyện
đặc biệt, trang bị đặc biệt. Họ hoạt động từng toán 4 đến 5 người
do một sĩ quan cấp úy chỉ huy. Họ được đưa vào hậu tuyến địch
bằng cách nhảy dù hay được xâm nhập bằng trực thăng khi địa hình
cho phép. Nhiệm vụ các toán này là quan sát các đơn vị, cơ sở
địch và báo cáo về bộ chỉ huy để nơi này liên lạc với Trung Tâm
Hành Quân Quân Đoàn cho phi cơ oanh kích. Nơi nào nằm trong tầm
pháo binh thì dùng pháo tiêu diệt. Họ còn có nhiệm vụ phá hoại
các cơ sở chỉ huy, các kho tiếp tế, đạn dược của địch cũng như
khi cần thì đặt mìn trên các trục giao thông của địch. Sự thiết
kế để mở một cuộc hành quân biệt kích như vậy rất phức tạp, từ
nghiên cứu không ảnh, nghiên cứu địa hình, bãi đáp, cách thức xâm
nhập, hệ thống liên lạc, xuất thoát. Về phần kỹ thuật thiết kế
hành quân do Bộ Tham Mưu của Đại tá Hai đảm nhiệm. Những khu vực
hoạt động, nhiệm vụ riêng biệt, phối hợp hoạt động do Đại tá
Nghĩa ấn định với Đại tá Hai theo nhu cầu chiến trường của Trung
tướng Trưởng. Ngoài những toán đang hoạt động thực sự, Đại tá
Nghĩa còn có 5 toán giả để chơi trò hư thực với địch. Những toán
giả này cũng liên lạc với bộ chỉ huy và thỉnh thoảng nhận lệnh từ
bộ chỉ huy như các toán thực. Đại tá Nghĩa được tình báo bạn cho
biết là phía BV có một toán tình báo kỹ thuật do Tiệp Khắc yểm
trợ để yểm trợ cho chiến trường Trị–Thiên. Nhiệm vụ của toán này
là tìm vị trí các đài phát thanh vô tuyến và giải mã các công
điện mật. Họ đúng là đồng nghiệp của P7 Bộ TTM Quân Lực VNCH.
Dọc bờ biển của địch, Đại tá Nghĩa đã tung các toán người
Nhái biệt kích của Liên Đoàn Người Nhái Hải Quân để thu thập tin
tức và phá hoại. Công tác của các toán người Nhái này được Trung
tướng Trưởng đánh giá cao.
Về phương tiện hoạt động, Đại
tá Nghĩa có một bộ tham mưu nhỏ gồm hai sĩ quan do Sở 1 An Ninh
Quân Đội (ANQĐ) biệt phái là Thiếu úy (sau lên trung úy) Trúc và
Đại úy và bốn Hạ sĩ quan do Phòng ANQĐ của Bộ Tư Lệnh/TP lựa lọc
và thanh thoả an ninh. Thật may cho Đại tá Nghĩa, hai sĩ quan
biệt phái tuy mới lần đầu làm việc với ông ta, tỏ ra là những
cộng sự viên đắc lực, tận tâm với công việc giao phó, làm việc
hết mình nhất là trong bầu không khí chiến tranh, việc làm không
giờ giấc, có việc là phải làm. Bộ tham mưu chiến tranh ngoại lệ
này ít người đến mức không ai ngờ lại là công cụ hết sức hữu hiệu
giúp cho Đại tá Nghĩa điều hành những mặt trận khác nhau của trận
chiến tranh kỳ cục này.
Giờ giấc làm việc của Đại tá Nghĩa
cũng kỳ cục như công việc của ông ta. Buổi sáng, sau khi nghe
thuyết trình về tình hình địch bạn trong 24 giờ qua, ông ta đi
làm việc với các “thân chủ” khác nhau ở nhiều địa điểm khác nhau
trong thành phố. Người ngoài cuộc có lẽ lấy làm lạ, sao có một
viên đại tá của Bộ Tư Lệnh/TP không có việc làm, chạy rong chơi
ngoài đường như thế này. Buổi chiều, ông ta ngồi ở bàn giấy kế
bên bàn của Chánh Văn Phòng trong phòng lớn dùng làm văn phòng Tư
Lệnh vừa là phòng chờ đợi. Khách đến thăm Trung tướng Trưởng đủ
hạng người, đa số là chỉ huy trưởng đơn vị. Ngoài ra còn phóng
viên báo chí, truyền thanh, truyền hình quốc tế và trong nước.
Thỉnh thoảng có những nhân vật cao cấp của chính phủ Trung Ương,
các nhân vật chính trị, các đoàn thể nhân dân ủy lạo binh sĩ. Khi
ngồi chờ đợi được vị Tư Lệnh chiến trường tiếp, có lẽ họ ngạc
nhiên thấy trong phòng đó có một viên đại tá hình như rỗi việc
nhất tại Bộ Tư Lệnh, nơi mà mọi người làm việc tất bật. Viên sĩ
quan này, trước mặt là một chồng báo, ngồi đọc báo một cách an
nhiên tự tại, thỉnh thoảng ngừng phì phà vài hơi thuốc. Ít có ai
đến tiếp xúc chuyện vãn với ông ta. Trông ông ta giống như mấy
người ăn không ngồi rồi, vào công viên, ngồi trên băng đọc báo,
thưởng hoa.
Người nào có làm việc trong Bộ Tư Lệnh dưới
quyền Trung tướng Trưởng mới biết ông ta nghiêm khắc thế nào đối
với thuộc cấp trong giờ làm việc. Đừng nói chi ngồi đọc báo, chỉ
tụm lại đấu láo vài câu cho đầu óc thư thả khi làm việc quá nhiều
cũng ít có sĩ quan tham mưu nào dám làm trong bầu không khí “làm
việc hết mình” tại Bộ Tư Lệnh/TP.
Ở đâu mà có một nhân vật
nhàn hạ, một con chim lạ lạc vào không khí chiến tranh này! Đúng
là chiến tranh thật vì thỉnh thoảng pháo tầm xa BV từ phía Tây
Huế nã đạn vào Bộ Tư Lệnh. Trận pháo kích này kéo dài cả tháng
trước khi các vị trí pháo binh địch bị Sư Đoàn 1 chiếm cứ. Nhờ
phước lành của Ơn Trên, sĩ quan pháo binh BV có lẽ là chính gốc
bần cố nông chưa biết tính toán nên bắn hoài mà không trúng toà
nhà lầu cao và lớn nhất trong khu vực làm trụ sở cho Bộ Tư
Lệnh/TP.
Nhân vật nhàn hạ này là Đại tá Nghĩa được Trung
tướng Trưởng giao thêm cho một nhiệm vụ. Buổi chiều ông ta phải
đọc một núi báo và tin tức các hãng thông tấn quốc tế, các đài
phát thanh kể luôn bản kiểm thính đài Hà Nội và đài Giải Phóng để
làm một bản tổng kết tình hình chiến lược và thuyết trình cho vị
Tư Lệnh khi hết khách.
Trong chiến tranh, khi yếu ta phòng
thủ, khi mạnh ta tấn công. Quân Đoàn 1 hiện đang ở thế mạnh đối
với quân BV. Nhu cầu chính trị của Tổng thống Thiệu là phải tái
chiếm Quảng Trị trùng hợp với mục tiêu của Tổng thống Nixon về
vấn đề Việt Nam trong cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc nhiệm kỳ 2.
Lấy lại Quảng Trị tất nhiên phải đổ nhiều máu, có thể rất nhiều
máu của quân sĩ Bắc cũng như Nam. Phía Mỹ đã yểm trợ mạnh mẽ
Không Quân và Hải Pháo để cho các đơn vị VNCH củng cố lại mặt
trận sau khi Sư Đoàn 3 tan rã và một phần tỉnh Quảng Trị bị
chiếm. Quân BV bây giờ đang xây dựng các hệ thống phòng thủ mạnh
mẽ chứng tỏ họ có ý định ở lại Quảng Trị vĩnh viễn.
Chuyện
tái chiếm lại Quảng Trị cũng là nỗi ám ảnh của quân nhân các cấp
ở Quân Đoàn 1 vì quân nhân ở bất kỳ nơi đâu và thời đại nào cũng
có chung một tâm trạng: không chấp nhận thua và rủi bị thua là
phải phục thù nếu có cơ hội. Cơ hội đây là ý muốn của cấp lãnh
đạo chính trị, nhất là về phía Mỹ họ sẽ yểm trợ tối đa về Không
Quân, Hải Quân và Tiếp Vận. Cơ hội cũng là tình trạng tương quan
lực lượng có lợi cho miền Nam.
Sự tái chiếm Quảng
Trị đã được quyết định.
Một ngày tháng 7, một
phiên họp tối cao và tối mật diễn ra tại Bộ Tư Lệnh/TP dưới sự
chủ toạ của Trung tướng Trưởng. Tham dự có Trung tướng Lâm Quang
Thi – Tư Lệnh phó, Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc – tân Tham Mưu
trưởng thay thế Tướng Nguyễn Duy Hinh được chỉ định làm Tư Lệnh
Sư Đoàn 3 tân lập hiện đang được tái huấn luyện và trang bị tại
một căn cứ cạnh Đà Nẵng. Về đơn vị trưởng có mặt các tướng Lê
Quang Lưỡng – Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, Bùi Thế Lân – Tư Lệnh Sư Đoàn
TQLC, Tư Lệnh Sư Đoàn 1, Tư Lệnh Lữ Đoàn Thiết Giáp, Tư Lệnh BĐQ,
Tư Lệnh Không Quân, Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1. Sĩ quan Bộ Tư Lệnh
có Đại tá Nghĩa – phụ tá đặc biệt, Đại tá Thân – phụ tá Hành
Quân, các trưởng phòng 1, 2, 3, 4 và Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy
Tiếp Vận Vùng 1.
Sau khi
Trưởng phòng 2 trình bày tình hình địch, Trưởng phòng 1 tình hình
quân số, Trưởng phòng 4 tình hình tiếp vận, Trung tướng Trưởng
cho biết ông ta quyết định tấn công lấy lại Quảng Trị và khu vực
lãnh thổ Quảng Trị chạy dài đến sông Thạch Hãn, giới hạn của cuộc
tấn công. Ý định điều quân của Tư Lệnh: sử dụng hai Sư Đoàn Dù và
TQLC được tăng phái Thiết Giáp, Pháo Binh và BĐQ bố trí thành hai
cột tiến song song từ Nam lên Bắc. TQLC cột phải, Dù cột trái.
Mục tiêu là tỉnh lỵ Quảng Trị. Giới hạn tấn công ở sông Thạch
Hãn. Tuyến xuất phát từ sông Mỹ Chánh. Ngày N tấn công sẽ cho
biết sau trong lệnh hành quân. Hành quân được đặt cho mật danh
Lam Sơn 72.
Tướng Trưởng ngừng lại một chút rồi tiếp tục:
– Trong cuộc tấn công này sự bảo mật tuyệt đối là một điều
tối cần thiết, một trong những yếu tố thành công. Để phụ vào sự
bảo mật mà các đơn vị trưởng áp dụng trong phạm vi đơn vị cơ hữu,
cần phải làm cho địch hiểu lầm về ý định hành quân của ta, nghĩa
là phải đánh đòn “Dương Đông Kích Tây”. Trong ý định đó, Đại tá
Nghĩa được chỉ định mở cuộc hành quân lừa địch này. Kế hoạch hành
quân lừa địch được gọi là Phụ bản G của lệnh hành quân Lam Sơn 72
không phổ biến cho bất kỳ giới chức nào. Đại tá Nghĩa sẽ trình
bày riêng cho tôi lệnh hành quân của ông ta càng sớm càng tốt.
Khi cần yểm trợ của các đơn vị, Đại tá Nghĩa sẽ trình bày miệng
với đơn vị trưởng.
Lệnh hành quân của QLVNCH làm theo mẫu
của Quân Lực Mỹ mà các sĩ quan đi học các khoá Chỉ Huy và Tham
Mưu trung và cao cấp được huấn luyện kỹ để viết ra. Thông thường
lệnh hành quân ở cấp nào cũng có ba phụ bản: Phụ bản 1 là tình
hình địch do phòng 2 cung cấp; Phụ bản 2 là kế hoạch tiếp vận do
phòng 4 cung cấp, Phụ bản 3 là đặc lệnh truyền tin. Lần này và
lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến tranh trên chiến trường Việt
Nam, lệnh hành quân lại có thêm một phụ bản gọi là Phụ bản G
không phổ biến. Đây là kế hoạch hành quân lừa địch.
Sau
buổi họp, Đại tá Nghĩa ngồi thừ lại ở phòng họp trong đầu nghĩ
vẩn vơ: “Lừa địch, C&D, Dương Đông Kích Tây! Quái, ngày xưa Tôn
Võ Tử, ngày nay các lý thuyết gia quân sự, tại sao các ngài lại
bày trò chơi chữ cho khổ thân con thế này! Lừa địch, nguyên tắc
nghe hay lắm nhưng lừa cách nào bây giờ? Mà địch là thằng chuyên
môn lừa đảo, ăn gian nói dối. Trong môn lừa đảo phải nhìn nhận nó
là bậc sư. Nó đã lường gạt toàn thể dân tộc Việt Nam và cả thế
giới để từ con số không mà tạo ra cơ nghiệp ngày nay. Lừa gạt CS
khác gì mình đi gạ một thằng chuyên tráo bài ba lá đánh bạc với
mình để mình ăn gian nó! Mẹ kiếp! Đúng là số con rệp, lúc nào
cũng được giao những nhiệm vụ kỳ cục nhất trong cuộc chiến này.
Mình cũng đã trổ tài lừa đảo khi mới đầu cuộc chiến để trấn an
dân chúng và giữ vững tinh thần binh sĩ. Nhưng ngón tuyên truyền
đó nhắm vào phe ta, làm gì gạt được thằng Cộng trong trận tấn
công này. Khổ thật!”
Đại tá Nghĩa rời phòng họp ra thẳng
nhà Thủy Tạ bên sông Hương kêu một tách cà–phê. Nhà Thủy Ta này
là Câu Lạc Bộ Club Nautique khi trước. Sau khi tạm đóng cửa trong
những ngày hỗn loạn tại Huế, Câu Lạc Bộ mở cửa lại. Nếu là du
khách hay người rỗi rảnh công việc, buổi sáng đẹp trời ra balcon
nhà Thủy Tạ nhâm nhi một tách cà–phê nhìn sông Hương lững lờ
trước mắt, xa xa những rặng núi xanh chen chúc in hình lên nền
trời xanh phía Tây Huế, thì thật là thú vị cho những người biết
thưởng thức thiên nhiên.
Hôm nay cũng dòng sông lững lờ
đó, những rặng núi xanh đó mà Đại tá Nghĩa hình như không ý thức
được sự hiện diện. Đầu óc ông ta quay cuồng với hai chữ “làm
sao?”. Ông ta nghĩ phải chi hồi nãy Trung tướng Trưởng nói thêm
một câu như thế này phải dễ dàng cho mình biết bao nhiêu: “Nhiệm
vụ của Đại tá Nghĩa thật đặc biệt mà cũng thật khó khăn. Tôi mong
toàn thể đơn vị trưởng, vì lợi ích chung, triệt để giúp đỡ Đại tá
Nghĩa khi ông ta cần.”
Ông ta ao ước phải chi người ta
giao cho mình một trung đoàn thiện chiến để đánh nhau thì thú
biết mấy vì không phải nhức óc như hiện tại. Nếu mình thành công
thì đỡ tốn xương máu cho anh em Dù và TQLC. Nhưng dễ gì thành
công trong hoàn cảnh chiến trường như vầy với phương tiện cơ hữu
mình có trong tay như bây giờ. Bao nhiêu “cái phải chi” diễn qua
óc, cuối cùng cái chất nghệ sĩ đã giúp Đại tá Nghĩa tìm thấy ánh
sáng mặc dù còn lờ mờ.
Trong khi học Chỉ Huy Tham Mưu cao
cấp nơi người ta dạy về Chiến Thuật và Cao Đẳng Quốc Phòng nơi
dạy về Chiến Lược, Đại tá Nghĩa thường tranh luận với đồng bạn về
quan niệm tiến bộ kỹ thuật nhất là môn điện tử ảnh hưởng đến
chiến lược và chiến thuật thế nào. Đa số cho rằng tiến bộ kỹ
thuật sẽ đảo lộn các nguyên tắc chiến tranh. Có người cực đoan
hơn cho rằng chiến lược, chiến thuật là những quan niệm cổ lỗ sĩ
trong chiến tranh cổ điển. Họ nghĩ rằng với sự tiến bộ của môn
điện tử áp dụng vào các hệ thống phóng hoả lực vào mục tiêu địch,
không cần chiến thuật, chiến lược. Thằng ngu nào cũng có thể chỉ
huy, chỉ cần dám thò tay nhấn nút là đủ. Đại tá Nghĩa thì nghĩ
khác. Các tiến bộ của môn điện tử trong các loại vũ khí và quân
dụng giúp cho người cầm quân biết vị trí của địch rõ hơn, có hoả
lực bắn chính xác hơn. Những tiến bộ này chỉ ảnh hưởng đến chiến
thuật tức là sự đụng độ trên chiến trường giữa hai lực lượng thù
địch. Tiến bộ đó rút ngắn thời gian tác chiến, tiết kiệm xương
máu, rút ngắn thời gian nếu biết khai thác về chiến lược. Riêng
về chiến lược và những nguyên tắc chiến tranh là những yếu tố ít
bị ảnh hưởng của tiến bộ kỹ thuật. Cứ nhìn quân đội Mỹ đánh nhau
với CSBV. Trên thế giới này chưa có quân đội nào trang bị những
máy móc tối tân bằng quân đội Mỹ trong việc dò tìm địch, sự chính
xác của pháo binh trên bờ, dưới biển và sự chính xác của trái bom
Không Quân. Thế mà Mỹ có thắng được BV đâu. Mỹ không thắng là do
lỗi lầm chiến lược chớ về kỹ thuật điện tử trong dụng cụ chiến
tranh, có nước nào bằng Mỹ nổi. Như thế phải trở về vấn đề chiến
lược.
Chiến lược trước hết là một nghệ thuật, nghệ thuật
làm sao mạnh hơn địch khi địch đánh ta hoặc ta tấn công địch mặc
dầu lực lượng ta yếu hơn địch như danh tướng Napoléon đã nói. Mà
đã nói nghệ thuật thì phải nói đến người nghệ sĩ dầu đó là “nghệ
thuật đánh nhau”. Khi nói đến nghệ sĩ là nói đến sư sáng tạo của
chất xám. Lúc ở trong phòng họp Đại tá Nghĩa có ý nghĩ trách
Trung tướng Trưởng giao nhiệm vụ mà không nói đến phương tiện.
Bây giờ ông vỡ lẽ ra ông đã trách lầm vị chỉ huy của mình. Trong
trận đánh Dương Đông Kích Tây, phương tiện ở trong đầu mình. Tất
cả do mình biết vận dụng phương cách đó hay không. Mà vận dụng
phương tiện trong đầu là sáng tạo, không ngớt sáng tạo chớ còn gì
nữa.
Đại tá Nghĩa khoan khoái rời nhà Thủy Tạ và đến gặp
Đại tá Tiếp Cảnh Sát. Hôm qua ông ta báo cáo cho Đại tá Nghĩa
biết một nhân viên đặc biệt của ông ta mới phát giác một ổ tình
báo của BV tại Huế dưới ngụy tích là một con đò trên sông Hương
chở khách đi tìm hoa. Dưới đò có một cô gái độ 30 tuổi người
Quảng Trị, với sắc đẹp khêu gợi, là nhân viên nòng cốt của tổ
chức tình báo này. Đã có vài khách tìm hoa là sĩ quan hào hoa
trong những màn ái ân nảy lửa trên sông Hưong đã vô tình tiết lộ
cho người đẹp nhiều tin tức quý giá.
Đại tá Tiếp xưa là
đàn em của Đại tá Nghĩa nên lối nói chuyện với thượng cấp cũ rất
thân mật. Sau khi kể cho Đại tá Nghĩa trường hợp nào nhân viên
đặc biệt của ông ta phát giác được tổ quỷ này, Đại tá Tiếp đặt
câu hỏi: “Sao anh Năm, chừng nào anh cho lịnh hốt ổ đây?”
Đại tá Nghĩa nhìn thẳng vào mặt Đại tá Tiếp hỏi lại:
– Chú
thấy bắt nó lợi hay nuôi nó lợi hơn?
Ngừng một chút, ông
ta tiếp:
– Tôi đang có liều thuốc độc muốn chuyển đến cha
con nó. Tôi tin nội công của chú trong nghề này cũng thâm hậu lắm
rồi nên mới giao cho chú làm chuyện khó khăn này. Chú nhớ công
tác tối mật nhé. Đây là những việc chú phải làm:
Thứ nhất
cho canh chừng thường trực mục tiêu. Nhớ lựa nhân viên canh chừng
cho kỹ. Không cho bất kỳ cơ quan an ninh nào, Cảnh Sát Đặc Biệt,
An Ninh Quân Đội bắt nếu họ phát giác. Nói là có lịnh của tôi bảo
nuôi.
Thứ nhì, tìm một sĩ quan người Nam bảnh trai, đặc
biệt là nhậu không say, đóng vai một Đại úy Nhảy Dù hào hoa để
bắt bồ với người đẹp. Đưa viên sĩ quan này đến gặp tôi liền nếu
chú tìm được và thanh thoả an ninh.
Từ giã Đại tá Tiếp,
Đại tá Nghĩa vào văn phòng nói với Trung tá Đức, Chánh Văn Phòng,
trình lại ông Tướng là ông sẽ đi công tác một tuần lễ, không có
mặt tại Bộ Tư Lệnh.
Luôn ba ngày sau, sáng nào Đại tá
Nghĩa cũng ra nhà Thủy Tạ uống cà–phê. Ông ta ngồi lại rất lâu có
khi đến trưa rồi kêu lên một dĩa cơm ăn luôn tại đó. Bình thường
ông ta hút thuốc rất điều độ, ba điếu một ngày sau mỗi bữa ăn.
Nhưng những lúc bắt bộ óc làm việc với tốc độ cao, ông hút hết
điếu này qua điếu khác. Có khi vừa châm một điếu, chỉ rít một hơi
rồi suy nghĩ làm ông ta quên, thảy điếu thuốc mới đốt. Ông ta
cười các bác sĩ nghiên cứu tác hại của thuốc lá, khuyên bỏ thuốc
vì nói hại đủ chuyện đến sức khoẻ. Điểm đó đồng ý nhưng các vị
này quên khía cạnh lợi của nó đối với các nghệ sĩ. Các vị đó hãy
nghe bài thơ Chiều của thi sĩ nào đó hình như là Hồ Dzếnh được
phổ nhạc tuyệt vời trong đó có khói thuốc. Với người khác thì
không biết nhưng đối với con người nửa lính nửa nghệ sĩ như cá
nhân ông, khói thuốc là chất kích thích cho hoạt động trí não. Có
lẽ nhờ nó mà bao nhiêu cảm hứng, ý kiến hay ho từ chất xám quyện
lại với khói thuốc để sau cùng biến thành tư tưởng có mạch lạc,
có hệ thống. Tuy nhiên, lần này hình như khói thuốc mất công
dụng. Luôn ba ngày đã đốt không biết bao nhiêu điếu thuốc nhưng
những câu hỏi hóc búa làm ông ta nhức đầu vẫn chưa tìm ra câu trả
lời thoả đáng.
Câu hỏi đầu tiên: “Địch
biết ý định tấn công của ta không?” Câu trả lời là tình báo CS
chỉ cần đọc các điện báo (télégramme de presse) hàng ngày của
thông tín viên quốc tế tại Việt Nam, các lời tuyên bố của các
giới chức cao cấp Mỹ–Việt thì ý định đó rõ như ban ngày. Kết luận
không thể giấu được.
Câu hỏi thứ nhì: “Mục tiêu tấn
công”. Tại QK1, trong tình thế hiện tại, không có mục tiêu tấn
công nào có giá trị chiến lược hơn Quảng Trị nghĩa là tác động
đến tình hình chính trị. Với cách bố quân hiện tại thì một anh sĩ
quan tham mưu bạch diện thư sinh nào cũng thấy mục tiêu hợp lý
nhất nằm trong hai chữ “Quảng Trị”. Không thể nào gạt được địch
về mục tiêu tấn công ví dụ làm cho họ tin rằng tấn công sẽ hướng
mũi về sườn Tây, tuyến của Sư Đoàn 1 hoặc về phía Nam, tuyến của
Sư Đoàn 2.
Trong điểm này, Đại tá Nghĩa thấy các bạn đồng
nghiệp phụ trách C&D trong quân đội Đồng Minh hồi Thế Chiến II đã
may mắn hơn ông nhiều. Họ có nhiều điểm làm cho quân Đức phân vân
không biết Đồng Minh đổ bộ ở đâu để giải phóng Âu Châu trên bờ
biển Pháp đối diện với đảo quốc Anh? Nếu quân Đức tin là phía Bắc
thì họ còn phân vân giữa bờ biển Normandie hay Pas de Calais gần
trung tâm Bá Linh hơn? Những người phụ trách chiến dịch Dương
Đông Kích Tây trong cuộc đổ bộ Normandie có rộng không gian điều
động hơn Đại tá Nghĩa nhiều. Hành quân Pôle Nord đã thành công
gạt được Hitler tin rằng điểm đổ bộ chính là Pas de Calais.
Normandie chỉ là hư chiêu. Tuy nhiên hành quân này đã phải hy
sinh một số kháng chiến quân Hoà Lan để cho địch tin.
Suy
nghĩ nát nước, Đại tá Nghĩa đành phải chấp nhận là không thể che
dấu được mục tiêu tấn công.
Câu hỏi thứ ba:
“Lực lượng tấn công”. Ở điểm này chỉ cần đọc báo cũng biết tại
QK1 chỉ có hai đơn vị có khả năng tấn công và cũng là hai đơn vị
thiện chiến nhất của MN: Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC cộng thêm BĐQ
không hơn một Lữ Đoàn và một Thiết Đoàn Chiến Xa mới M48. Các sư
đoàn cơ hữu của QĐ1 hiện đang kẹt cứng. Sư Đoàn 2 kẹt với mặt
trận Quảng Ngãi, Sư Đoàn 1 kẹt ở sườn Tây Huế, Sư Đoàn 3 chưa
hoàn tất tái thành lập ở Đà Nẵng.
Kết luận là không thể
giấu được tầm vóc của đám tấn công.
Câu hỏi thứ tư:
“Thời gian tấn công” hay là ngày N của hành quân Lam Sơn 72. Hiện
giờ chưa ấn định dứt khoát nhưng có thể che giấu được nếu áp dụng
triệt để quy luật an ninh tài liệu và an ninh công tác cộng thêm
với công tác lừa địch.
Sau khi suy nghĩ nát nước về tất cả
vấn đề đặt ra trong hành quân lừa địch này, Đại tá Nghĩa ngao
ngán đành tạm kết luận: “Đứng về phía địch nhận xét, ý định tấn
công, mục tiêu tấn công, lực lượng rõ như ban ngày không thể nào
lừa được ở những điểm này. Về thời gian tấn công, nếu bảo mật
giỏi thì cũng giấu được ngày N là ngày nào, còn khoảng thời gian
nào thì không giấu được vì công việc chuẩn bị một cuộc tấn công
lớn không thể nào che giấu được tai mắt của địch ở chung quanh
các đơn vị lớn của phe ta.”
Sau ngày đầu thoáng thấy ánh sáng ở cuối đường
hầm, Đại tá Nghĩa lại thấy mình lâm vào một mê hồn trận không lối
thoát. Đúng là bài toán không có đáp số hay là mình còn ngu muội
không thấy đáp số. Đại tá Nghĩa lẩm bẩm một mình sau khi rời khỏi
nhà Thủy Tạ với dáng điệu khổ não của một anh chàng thua bạc.
Qua ngày thứ tư, Đại tá Nghĩa không ra nhà Thủy Tạ uống
cà–phê nữa. Ông bảo tài xế lái xe lên chùa Thiên Mụ. Con người
thất vọng cuộc đời đen bạc này định quy y chăng? Nếu thế thì khá
tiếc vì tuồng hát mới kéo màn sơ đoạn đầu đã sớm hạ màn với chữ
Vãn tòn ten trên màn nhung. Khán giả đã mua vé rồi đời nào chịu
như vậy! Đại tá Nghĩa là bầu gánh cũng đâu chịu như vậy!
Không, Đại tá Nghĩa không phải là người dễ dàng bỏ cuộc. Sở dĩ
hôm nay lên đây là ông ta hy vọng đắm mình trong khung cảnh thoát
tục của chùa, quên hết những gì suy nghĩ trong mấy ngày qua, đầu
óc sẽ minh mẫn hơn, may ra có những tia sáng huyền diệu nào từ vô
thức dấy lên. Có thể là trực giác một đôi khi bén nhạy của ông ta
hướng dẫn hành động có vẻ lẩn thẩn như vậy.
Đến chùa, Đại
tá Nghĩa xin phép vị trụ trì cho vào lễ Phật. Ông ta dâng hương,
quỳ lậy với tất cả lòng thành khẩn trước tượng Đức Quan Thế Âm Bồ
Tát, xin Người từ bi tha thứ cho kẻ trần tục mê muội đã phạm bao
nhiêu lỗi lầm trong cõi trần tục lụy này, nay biết ăn năn hối ngộ
đến vọng bái Người để xin tình thương bao la của Người. Sau đó,
ông ta ra vườn hoa ngắm cảnh. Không khí hoà bình, thanh tịnh nơi
đây giúp cho Đại tá Nghĩa thấy dễ chịu hơn. Đâu đây tiếng líu lo
của những con chim quyên làm cho ông ta cảm thấy cất đi được quả
tạ to lớn đã đè lên óc từ mấy ngày qua. Từ vườn hoa, ông ta xem
bảo tháp, nhìn tượng hai ông Thiện–Ác trước cửa rồi ra trước chùa
ngồi xem sông Hương êm đềm dưới chân đồi. Ông ta ngồi đó không
biết bao lâu trong cảnh thân tâm an lạc. Không có thời gian,
không có luôn thế gian với chiến tranh, tội ác. Không có lo nghĩ
gì hết. Đúng là thoát tục.
Cảnh thiên thai trong tâm kéo
dài không biết bao lâu. Bỗng nhiên nhiều tiếng đại bác phía Lăng
Gia Long lôi Đại tá Nghĩa về thực tại. Lần này tự nhiên ông ta
nhìn thấy một giải pháp cho những vấn nạn đã hành hạ tâm thức ông
mấy ngày qua. Không biết giải pháp đúng hay sai, hay hoặc dở
nhưng ít ra đó cũng là giải pháp.
Lần này với cái đầu thư
thả, ông ta nghĩ mình không thể lừa nó về mục tiêu tấn công, lực
lượng tấn công, tại sao không lừa về ý định điều quân tấn công.
Bên mình tấn công trực diện với hai Sư đoàn làm hai mũi dùi tiến
song song từ Nam lên Bắc. Ý định hành quân này quá cổ điển, quá
giản dị, thiếu sự sáng tạo. Nhưng phải tấn công như vậy vì phương
tiện tấn công quá eo hẹp, chỉ có hai Sư đoàn. Nếu có bốn Sư đoàn
thì Đại tá Nghĩa đã đề nghị với Trung tướng Trưởng một đòn tấn
công khác mà ông cho rằng lợi hại hơn vì đặt địch vào thế bị tấn
công gọng kềm. Ý định hành quân là tấn công với hai Sư đoàn Bộ
Binh đi làm hai cột song song đánh từ Nam lên Bắc, mục tiêu tỉnh
lỵ Quảng Trị như kế hoạch của Trung tướng Trưởng. Tuy nhiên mũi
tấn công này là diện hay nỗ lực phụ. Điểm hay nỗ lực chính là mũi
tấn công từ Bắc xuống Nam ép lực lượng phòng thủ BV ở giữa hai
gọng kềm từ Bắc xuống và từ Nam lên. Mũi tấn công chính này do Sư
Đoàn Dù nhảy xuống khu vực Đông Hà chiếm ngã ba chiến lược này để
ngăn quân tiếp viện và tiếp liệu từ lãnh thổ BV xuống mặt trận
Quảng Trị. Sư Đoàn Dù sẽ phối hợp với Sư Đoàn TQLC đổ bộ lên Cửa
Việt, một hải cảng nhỏ nằm ngang với Đông Hà trên bờ biển. Hai Sư
Đoàn Dù và TQLC có giá trị chiến đấu ngang với bốn sư đoàn BV.
Mũi dùi này phối hợp với cách quân Nam khép quân phòng thủ BV ước
lượng trên một quân đoàn vào một cái rọ, đường tiếp tế và chuyển
quân tiếp viện bị cắt đứt. Khi đó hải pháo, không quân kể luôn
B52 sẽ có mục tiêu để tiêu diệt, điều mà suốt 7 năm chiến tranh
các phương tiện hoả lực này chưa bao giờ có dịp.
Tiếc rằng
điều quân như trên chỉ nằm trong tưởng tượng như kế hoạch hành
quân lừa địch của mình. Đại tá Nghĩa suy luận, sẽ cố làm sao cho
địch tin rằng bên mình sẽ đánh như thế và họ sẽ đưa đại quân về
phòng thủ tuyến Đông Hà–Cửa Việt, giảm bớt lực lượng ở khu vực
tỉnh lỵ Quảng Trị tức là giảm bớt gánh nặng cho hai Sư đoàn Dù và
TQLC những ngày đầu tấn công. Nếu địch biết bị lừa trở lại mặt
trận Quảng Trị thì họ sẽ mất một thời gian quý báu và chịu thiệt
hại nặng nề vì hải pháo và không quân bạn dập vào các trục lộ di
chuyển.
Đại tá Nghĩa rất bằng lòng về ý định hành quân lừa
địch đó. Ông ta về nhà, lên giường ngủ một giấc dài.
Ý
định hành quân có rồi, bây giờ đến giai đoạn biến ý định thành
hiện thực. Giai đoạn này hết sức gay go đòi hỏi sự sáng suốt hoàn
toàn mà trong binh thư không hề dạy vì mỗi hành quân lừa địch là
một trường hợp cá biệt với biết bao nhiêu biến số. Đại tá Nghĩa
đã mất hai ngày để nghĩ ra một cuộc hành quân gồm bốn giai đoạn
khác nhau nhắm vào mục đích làm cho địch dồn quân vào hai điểm
Đông Hà và Cửa Việt. Ông ta sẽ đặt tên hành quân hay là kịch bản
lừa địch với tên Thanh Tuyền. Sở dĩ có tên nữ ca sĩ có giọng ca
ngọt ngào và truyền cảm lọt vào trò chém giết này vì ông ta rất
ái mộ giọng ca Thanh Tuyền. Với lối đánh giặc theo lối nghệ sĩ
này, ông ta nghĩ, tại sao không đem tên nữ nghệ sĩ này vào để lưu
danh hậu thế nếu cuộc hành quân thành công.
Đến đây một
khó khăn bất ngờ hiện ra.
Có tư tưởng hành quân rồi, nhưng
viết lệnh hành quân thế nào? Khi học trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao
Cấp, Đại tá Nghĩa được huấn luyện viên dạy làm một lệnh hành quân
theo mẫu của Mỹ, có lẽ là mẫu hay nhất vì người Mỹ đã tổng hợp
nghệ thuật chiến tranh với kỹ thuật quản lý. Trong thời cận đại
lệnh hành quân là một sáng tạo tuyệt vời của bao nhiêu thế hệ lý
thuyết của quân sự ở tất cả các nước có truyền thống đánh nhau
trên thế giới. Lệnh hành quân là một kịch bản ngắn gọn nhưng có
công dụng kỳ diệu điều động phối hợp tất cả đơn vị từ lớn đến nhỏ
tham gia một cuộc tấn công theo ý định hành quân của người chỉ
huy toàn diện trận chiến. Mỗi đơn vị tham gia hành quân, giống
như một kịch sĩ biết rõ vai trò của mình trong màn hát chung,
biết mục tiêu tấn công, đường tiến quân, bạn ở hai bên sườn, đánh
cách nào, tấn công trực diện hay bọc sườn, yểm trợ hoả lực thế
nào, liên lạc với vị chỉ huy hành quân thế nào, khi hết đạn, hết
xăng, hết thức ăn lấy ở đâu, quân nhân bị thương chở về đâu, v.v.
Tuy nhiên, đây là hành quân bình thường, còn hành quân lừa địch,
các C&D operation này không trường chỉ huy tham mưu nào trên thế
giới đưa ra mẫu lệnh hành quân. Tất cả phải sáng tạo hay nói theo
danh từ sân khấu là phải cương tất cả.
Sau thời gian vài
ngày, Đại tá Nghĩa một lần nữa lại sáng tạo một lệnh hành quân
lừa địch mang tên Thanh Tuyền gồm bốn giai đoạn gọi là Thanh
Tuyền 1, 2, 3, 4 và trình lên Trung tướng Trưởng vào một buổi
chiều vắng khách. Trung tướng Trưởng ngồi nghe với vẻ mặt bình
thản thường lệ. Đại tá Nghĩa trình bày trên một tiếng đồng hồ
diễn tiến hành quân mà không hỏi một câu nào. Cuối cùng ông ta
gật đầu. Thế là hành quân Thanh Tuyền trở thành phụ bản G của
lệnh hành quân Lam Sơn 72.
o O o
Bây giờ
sang giai đoạn thực hiện.
Như đã nói ở đoạn
trên, lệnh hành quân lừa địch đúng là một kịch bản. Đại tá Nghĩa
đóng vai ông bầu một gánh hát, kiêm thầy tuồng, kiêm đạo diễn
luôn. Ông ta có vẻ tham lam và ôm đồm nhiều quá. Tuy nhiên, làm
sao hơn với một gánh hát nghèo, hát đình hát chợ. Chuyện phiền
nhất cho ông ta là có gánh hát mà lại không có một cô đào, một
anh kép, chỉ có một vài người phụ với ông ta để dọn décor.
Không có thì chạy mượn cho có, chuyện giản dị như thế mà thắc
mắc làm gì. Đại tá Nghĩa tự nhủ. Ông ta không có phương tiện cơ
hữu nhưng sau hành quân này, ông ta học được một bài học quý giá:
“Phương tiện ở trong đầu”.
Sau đây là diễn tiến
bốn giai đoạn hành quân.
THANH TUYỀN 1:
Mục đích cuộc hành quân này nhằm đưa đến tay tướng CS Chu Huy
Mân cuốn mật mã mà các toán Biệt Kích Dù sử dụng để liên lạc với
bộ chỉ huy của Đại tá Hai. Hẳn nhiên là cuốn mật mã giả nhưng làm
sao cho nó như thật. Đây là màn kịch.
Một Trung úy của
Liên Đoàn Biệt Kích Dù của Đại tá Hai và ba hạ sĩ quan trong toán
nhảy xuống một khu rừng núi do quân BV kiểm soát. Người sĩ quan
bất hạnh này, vì dù không mở, chết liền khi chạm đất. Các nhân
viên trong toán thấy chỉ huy đã chết và hình như địch sắp đi tới
nên lo chạy thoát thân, không kịp cuốn dù lại và chôn như qui
định an ninh. Họ cũng không lục được túi áo của chỉ huy vì dù của
họ rớt hơi xa dù của chỉ huy, mò đến chỗ chỉ huy rớt là một
chuyện quá khó khăn trong rừng già. Họ chỉ nhìn thấy chỉ huy là
một chấm đen từ lúc rời phi cơ và mất hút trong rừng vì dù không
mở nên không rớt lại gần các chiếc dù khác của toán.
Trong
túi áo trên của viên Trung úy được đặt tên là Tự (gần chữ Tử) có
một cuốn lịch mật mã, tên gọi là hệ thống mật mã của các toán
tình báo, biệt kích xài. Tiếng Mỹ gọi là “One Time Path”. Mật mã
này giống như cuốn lịch có 365 tờ, mỗi tờ xài một ngày. Ví dụ
ngày n, trong tờ lịch ngày đó chữ a được thay thế bằng số 03, chữ
b thế bằng số 07, v.v. Qua ngày hôm sau, bản mật mã ngày trước
được đốt bỏ. Trong ngày đó chữ a được thế bằng số 15, chữ b bằng
số 03, v.v. Làm như thế nếu địch thám mã được ngày n, mà đây là
chuyện hết sức khó khăn và lâu dài, địch chỉ có thể đọc được các
điện ngày n. Ngày n+1 hay n–1 địch không đọc được.
Hành
quân này đòi hỏi một Trung úy biệt kích chết. Trong thực tế không
có người nào hy sinh hết. Người hy sinh là một xác chết của một
anh hùng vô danh trong quân đội. Sở dĩ Đại tá Nghĩa sử dụng một
xác chết trong công tác này vì ông ta nhớ trước đó độ 10 năm, có
xem tại rạp REX một phim nói tiếng Pháp tựa “L’homme qui n’a
jamais existé” (Người không bao giờ có thật). Cuốn phim dàn cảnh
lại một cuộc hành quân lừa địch có thật của tình báo Anh. Năm
1943, quân Mỹ và Anh sau khi thắng trận Bắc Phi, đạo quân Africa
Corp của tướng Rommel bị tiêu diệt, chuẩn bị đổ bộ lên đảo Sicile
để giải phóng nước Ý. Cơ quan C&D của Anh dàn cảnh để cho quân
Đức lầm tưởng điểm đổ bộ là Hy Lạp và tập trung đại quân về đó.
Một người chết vô danh được sử dụng đóng vai một thiếu tá trong
bộ tham mưu Hoàng Gia Anh. Viên thiếu tá giả này mang trong túi,
ngoài giấy tờ thường lệ, một thơ tay của Lord Gort tổng tham mưu
trưởng gởi cho Tướng Eisenhower tư lệnh lực lượng đổ bộ. Lời lẽ
trong thơ làm cho người đọc tin chắc không thể lầm được điểm đổ
bộ tương laị là Hy Lạp mặc dầu trong thơ không nói rõ điểm này.
Xác chết được đặt trong một cái hộp chứa tuyết các–bon (neige
carbonique) để xác còn tươi. Ngoài quân phục, trong túi nạn nhân
còn có một vài món cần dùng xác nhận là y đã từng sống ở Luân
Đôn. Trong những món đó có hai vé xem chớp bóng tại một rạp hát ở
Luân Đôn chứng tỏ mới gần đây y đã đi xem chớp bóng với cô bạn
gái. Xác chết được tiềm thủy đỉnh mang đến Địa Trung Hải ngoài
khơi Tây Ban Nha. Tình báo Anh biết rằng, Tây Ban Nha dưới quyền
tướng Franco lúc đó, tuy giữ trung lập nhưng nhắm mắt làm ngơ cho
một số tình báo viên Đức Quốc Xã hoạt động trên lãnh thổ Tây Ban
Nha để thu thập tin tức về Đồng Minh. Đặc biệt trên bờ biển mà
xác chết sẽ tấp vào, lúc nào cũng có người Tây Ban Nha làm tình
báo viên cho Đức. Xác chết được bố trí cho đứng với một người đi
phi cơ bị tai nạn rớt xuống biển, chui ra được phi cơ rồi chết
sau đó.
Đúng như kế hoạch C&D dự liệu, xác tấp vào bờ biển
đã bị người nào đó lục soát giấy tờ trước và lấy đi bức thơ. Sau
đó, nhà chức trách Tây Ban Nha báo cho tổng lãnh sự Anh ở một
thành phố gần đó đến lãnh xác để mang về chôn bên Anh với tất cả
giấy tờ còn lại.
Hành quân lừa địch lần ấy đã thành công
hoàn toàn.
Chuyện phim đó đã gợi hứng cho Đại tá Nghĩa dàn
cảnh hành quân Thanh Tuyền 1. Chuyện đầu tiên là phải tìm cho ra
một xác mới chết còn nguyên không có thương tích, tuổi khoảng từ
25 đến 30. Nghe thì dễ nhưng lại khó kiếm vô cùng vì đâu có phải
là món hàng bán ngoài chợ. Đại tá Nghĩa nhớ lại có một người cháu
rể tên Phát là thiếu tá quân y (sau lên trung tá) phục vụ tại
Quân y viện Nguyễn Tri Phương tại Huế. Chỉ huy trưởng Quân y viện
này là Trung tá Cơ.
Đại tá Nghĩa đến gặp Thiếu tá Phát,
nói sơ qua nhu cầu hành quân cần một xác chết còn mới và nhờ dẫn
đến giới thiệu với Trung tá Cơ.
Đây là văn phòng Trung tá
Cơ.
Sau khi được Thiếu tá Phát giới thiệu, Đại tá Nghĩa đi
ngay vào đề:
– Thưa Trung tá, Bộ Tư Lệnh hành quân cần một
xác chết còn trẻ, mới chết, cơ thể còn nguyên. Chúng tôi biết nhu
cầu này rất khó thoả mãn nhưng sau khi được Thiếu tá Phát giới
thiệu, tôi tin Trung tá là người duy nhất tại QK1 có thể thoả mãn
yêu cầu này của Bộ Tư Lệnh. Tôi xin thêm đây là một công tác tối
mật chỉ có Trung tá và Thiếu tá Phát biết mà thôi.
Trung
tá Cơ nhìn người khách lạ với đôi mắt hơi ngỡ ngàng mà chưa vội
trả lời. Có lẽ ông ta bị méo mó nghề nghiệp nên nhìn viên Đại tá
Này coi có phải là một bệnh nhân tâm thần, mà Thiếu tá gặp ở đâu
đó nên lôi về đây nhờ chữa giùm.
Một lúc sau Trung tá Cơ
mới trả lời:
– Các điều kiện về xác chết của Đại tá thật
là khó. Trẻ thì hầu hết những quân nhân chết tại đây đều trẻ. Có
điều họ chết vì thương tích, không có người nào còn cơ thể lành
lặn. May ra hay bất hạnh cho người đó là chết bệnh. Trường hợp
này rất ít. Đại tá thấy điều kiện đưa ra quá khó với chúng tôi
mặc dù tôi không do dự chút nào khi phải thi hành lệnh của Trung
tướng Trưởng.
Đại tá Nghĩa cũng nhận thấy lời Trung tá Cơ
hữu lý nhưng ông ta vẫn cố xin cho được:
– Nếu có một quân
nhân chết bệnh đúng nhu cầu, xin Trung tá gọi điện thoại lập tức
cho tôi hay tốt hơn bảo Thiếu tá Phát gặp tôi.
Trung tá Cơ
lại nêu lên một khó khăn khác:
– Còn một chuyện khó khác
mà tôi không thể nào giải quyết được. Trong quân đội ta, người
chết bất kỳ cấp bậc nào cũng phải được quân y viện thông báo cho
gia đình đến lãnh xác về chôn cất. Nếu gia đình ở xa thì đơn vị
quân đội, đại đội chung sự, lãnh việc ma chay. Sau đó còn lập thủ
tục giấy tờ để cho thân nhân lãnh tiền tử tuất. Nếu tôi giao xác
đó cho Đại tá thì làm sao giải quyết vấn đề thủ tục?
Đại
tá Nghĩa thấy đây là phút quyết liệt đẩy Trung tá Cơ vào thái độ
dứt khoát. Ông ta nghiêm giọng:
– Thưa Trung tá, tôi biết
thủ tục dành cho anh em quân nhân chết, những anh hùng của quân
đội ta. Tôi thành kính nghiêng mình trước mọi chiến sĩ hy sinh.
Tuy nhiên khi sống đã hy sinh cho đất nước, nay chết rồi mà có cơ
hội hy sinh, tôi nghĩ rằng lý do đó cao quý hơn lý do nào khác kể
cả thủ tục giấy tờ. Đây là lệnh của Trung tướng Trưởng. Trung tá
phải xoay sở thế nào để thanh thoả vấn đề thủ tục bởi vì đây là
một công tác quan trọng góp phần vào thắng lợi tương lai của quân
ta.
Trung tá Cơ đành đồng ý, chắc chắn là miễn cưỡng, để
cho người khách không mời mà đến mau đi khuất mắt ông ta.
Đại tá Nghĩa bắt tay từ biệt Trung tá Cơ với lời nhắn chót: “Xin
Trung tá nhớ đây là công tác tối mật!”
Bước khó khăn nhất
trong hành quân Thanh Tuyền 1 được tạm giải quyết vì đã tìm được
diễn viên chính. Bây giờ đi tìm người phụ tá cho Đại tá Nghĩa để
thi hành kế hoạch.
Đại tá Nghĩa đến gặp Đại tá Hai, cho
ông này biết nội dung kế hoạch, mục tiêu, diễn biến hành quân mà
khung cảnh chính là những cuộc hành quân biệt kích của Đại tá
Hai. Ông Hai rất thông cảm và biệt phái cho Đại tá Nghĩa một sĩ
quan xuất sắc trong đơn vị của ông ta để điều khiển hành quân hay
là làm nhiệm vụ phụ tá hành quân cho Đại tá Nghĩa.
Thật là
may mắn cho ông Đại tá Này. Ông ta có hai sĩ quan tận tụy lo giải
quyết vấn đề tham mưu là Đại úy Vệ và Thiếu úy Trúc. Nay ông ta
vớ được một phụ tá quý giá là Trung tá Sinh. Tất cả những sĩ quan
này đều là những cộng tác viên tuyệt vời. Ở ngoài không ai hay
biết nhưng chính họ là những người biến tư tưởng của Đại tá Nghĩa
thành hành động, những người có công rất lớn trong cuộc chiến bí
mật này.
Suốt mấy ngày sau, Đại tá Nghĩa và Trung tá Sinh
chúi mũi vào địa đồ xem khu vực nào thuận lợi nhất cho cuộc hành
quân, nghiên cứu không ảnh để tìm khu vực định thả dù gọi tắt là
DZ (dropping zone). Đây là một khu vực rừng già có đường mòn Hồ
Chí Minh chạy ngang phía Tây Bắc Huế. Sau khi lựa chọn kỹ, cả hai
đã lựa điểm DZ, gần một căn cứ hậu cần của BV. Có những đường mòn
cho ta thấy đó là dấu vết của các toán quân tuần thám xuất phát
từ căn cứ đó. Điểm DZ được lựa để chậm lắm trong vòng 48 tiếng
đồng hồ thế nào cũng có lính BV tuần thám đi ngang.
Đồng
thời với sự lựa chọn địa điểm, Đại tá Nghĩa và Trung tá Sinh
chuẩn bị những món cần thiết khác để khi có xác chết là có thể
tung cuộc hành quân trong vòng 24 tiếng. Trong những món đó có
hai phi cơ C119 của riêng Nha Nghiên Cứu dùng để thả dù những
công tác đặc biệt.
Một ngày đẹp trời, Thiếu tá Phát đến
báo cáo cho Đại tá Nghĩa biết có “hàng” rồi, hiện đang trong hộp
lạnh. Đại tá Nghĩa liền đến gặp Trung tá Sinh để xem lại đồ chuẩn
bị: quần áo Dù cho Trung úy Tự, trong các túi của bộ đồ Dù có đủ
đồ cần dùng mà một chiến binh biệt kích mang theo. Ở túi trên
ngực trái, có quyển lịch mật mã được chế biến riêng. Các trang
trước ngày N của Thanh Tuyền 1 (ngày Trung úy Tự xuống đất) bị
lột bỏ. Quyển này hình dáng cũng giống như quyển mà các toán biệt
kích đang xài trong rừng nhưng những con số hoàn toàn khác biệt.
Đó là mật mã giả chỉ có Trung úy Tự và bộ chỉ huy liên lạc với
nhau. Một công điện từ bộ chỉ huy cho lịnh các toán trong rừng
ngưng liên lạc, giữ im lặng truyền tin một tuần lễ kể từ ngày N.
Biện pháp này phòng ngừa trường hợp tình báo kỹ thuật địch bắt
được mật điện trao đổi giữa các toán và bộ chỉ huy mà không giải
mã được với cuốn lịch trong túi Trung úy Tự nên nghi mật mã họ
nắm được là giả.
Trung úy Tự còn có một bức thơ mới nhận
của cô bạn gái do Đại tá Nghĩa nhờ một sĩ quan khác, không biết
gì về chuyện này, mượn một cô gái quên viết. Đại khái thơ kể lại
những buổi đi chơi thơ mộng ở Lăng Tự Đức trong khi BV tấn công
và “hy vọng hết giặc hai đứa mình sẽ như đôi chim liền cánh, lá
liền cành.”
Ngoài ra, đồng xuống dù với Trung úy Tự có ba
cây nước đá thay cho ba toán viên, chở lương thực, vũ khí, đạn
dược, thuốc men và địa đồ đúng như thực.
Ngày N của Thanh
Tuyền 1 diễn ra hai ngày sau khi Thiếu tá báo tin có hàng. Ngày
đó diễn ra gần một tháng trước ngày N của hành quân Lam Sơn 72.
Một buổi chiều, hai phi cơ C119 cất cánh ở phi trường Phú
Bài. Trước khi cất cánh, các phi công được cung cấp các yếu tố
tốc độ gió, độ thấy, mây để khi phi công ra lệnh “Drop” (thả) dù
rớt xuống đúng địa điểm ấn định. Giờ cất cách được tính toán làm
sao cho khi phi cơ đến không phận DZ thì trời vừa sụp tối để
tránh quân dưới đất thấy dù chạy lại phát giác những cây nước đá,
nhưng cũng đủ sáng cho phi công thấy được DZ.
Đại tá
Nghĩa, Đại tá Hai đi trên phi cơ thứ nhất dùng làm bộ chỉ huy
hành quân. Phi cơ thứ nhì chở Trung tá Sinh, hai phụ tá và các
kiện hàng lỉnh kỉnh của ông ta. Chính tay ông Sinh với sự trợ
giúp của phụ tá thi hành thả hàng.
Khi phi cơ cất cánh,
Đại tá Nghĩa thở phào nhẹ nhõm. Thế là màn đầu của hành quân kể
như diễn tiến tốt đẹp. Ông ta khoái trá nhớ đến trong từ ngữ tình
báo Pháp có chữ “intoxication” tương đương với từ ngữ Dương Đông
Kích Tây của Đông Phương. Intoxication nghĩa đen là “đánh thuốc
độc”. Đại tá Nghĩa nghĩ lan man:
– Xét ra nhiệm vụ của
mình trong hành quân Lam Sơn 72 đúng là đưa chén thuốc độc cho
địch nhấm. Hành quân Thanh Tuyền 1 này chỉ đưa cho chúng nhấm sơ
độ 1/4 chén thuốc độc thôi.
Đang lúc thích thú suy nghĩ
thì phi cơ đã vào khu vực địch lúc nào không hay. Ở dưới đất loé
lên một chấm đỏ giữa đám lá rừng, một khẩu phòng không nhả đạn.
Rồi các chấm đỏ loé lên càng lúc càng nhiều. Đại tá Nghĩa nhìn
đồng hồ, chỉ khoảng 10 phút nữa là đến không phận DZ. Bỗng nhiên
Đại úy phi công trưởng, vẻ mặt căng thẳng, báo cáo làm đứt ngang
giây phút khoan khoái của ông ta. Phi cơ bị hư một máy không biết
do trục trặc máy móc hay do phòng không địch. Đại úy phi công xin
phép trở lại Phú Bài. Tình trạng phi cơ có hai máy mà hư hết một
thật là nguy hiểm. Đại tá Nghĩa hỏi phi công coi phi cơ còn đủ
sức “lết” về Phú Bài không. Phi công trả lời: “May ra”. Đại tá
Nghĩa lấy quyết định liền: “Cho phi cơ quay trở lại Phú Bài” và
liên lạc với phi cơ Trung tá Sinh ra lịnh tiếp tục thi hành nhiệm
vu.
Trên đường về, Đại tá Nghĩa ân hận lúc đi, tính toán
dự trù đủ mọi chuyện chỉ không dự trù trường hợp xấu nhất: bản
thân bị địch bắt. Trước khi lên phi cơ, mỗi người đều mang dù vì
công tác trong vùng địch hậu. Nếu nguy cấp lắm thì nhảy nhưng
trong khu vực rừng núi do địch kiểm soát, có nhiều khả năng bị
địch bắt nếu nhảy xuống mà không đem theo một viên cyanure de
potassium để “nhậu” khi sắp sửa bị địch bắt có phải khoẻ thân
không! Mà nếu không bị địch bắt thì dễ gì về đến tuyến của mình
khi không có trang bị dụng cụ, lương thực để mưu sinh thoát hiểm.
Còn một chuyện nữa, mình chết hay bị bắt thì toàn bộ hành quân
Thanh Tuyền 1, 2, 3, 4 đều kể như vất đi. Một công trình sáng tạo
với bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của mình và bao nhiêu người khác
mà vứt vào sọt rác, rồi hình ảnh các chiến sĩ Dù và TQLC hàng
hàng lớp lớp ngã gục trước hoả lực dầy đặc cuả địch... Những tư
tuởng hắc ám đó cứ dày vò Đại tá Nghĩa đến khi phi cơ chạm đất
tại Phú Bài. Ở đây phải dở nón bái phục tài lái phi cơ của hai
viên phi công.
Không lâu sau, Trung tá Sinh báo về bằng
mật ngữ: “Tất cả diễn tiến tốt đẹp”. Thật hú vía. Đúng như thầy
bói nói: trước dữ sau lành!
Hai ngày sau, từ bộ chỉ huy
của Đại tá Hai một công điện di chuyển một toán giả gọi là toán
Metro đến gần quốc lộ 9 để quan sát và báo cáo số lượng quân địch
di chuyển từ Khe Sanh về Đông Hà. Ngày kế tiếp, hai công điện
khác di chuyển hai toán giả khác Tango và Nina về quan sát di
chuyển của địch trên quốc lộ 1 từ Vĩnh Linh về Đông Hà. Ngày sau
nữa, hai toán giả Coca và Tétra được điều động về một cao điểm có
rừng rậm gần Đông Hà ở đó đợi lệnh. Tất cả lệnh này sử dụng mật
mã của Trung úy Tự. Hai ngày sau một công điện chót sử dụng mật
mã của Trung úy Tự cho tất cả các toán biết Trung úy Tự của toán
Lola đã mất liên lạc với bộ chỉ huy từ khi nhảy toán. Có thể ông
ta bị địch bắt với cuốn mật mã. Kể từ hôm nay, vì lý do an ninh,
các toán xài cuốn mật mã Beta thay thế cuốn Alpha. Mật mã Beta là
cuốn dự trữ, mỗi toán khi nhảy mang theo hai cuốn.
Sự thật
Alpha và Beta là chuyện phịa. Mỗi toán khi nhảy chỉ mang theo một
cuốn mật mã. Họ đã giữ gìn im lặng truyền tin suốt bảy ngày. Đến
ngày thứ tám thì liên lạc bình thường trở lại.
Với hành
quân Thanh Tuyền 1, Đại tá Nghĩa hy vọng dâng cho tướng CS Chu
Huy Mân 1/4 chén thuốc độc với địa danh Đông Hà. Cái gì sẽ xảy ra
tại Đông Hà nằm trong hành quân Thanh Tuyền 2.
THANH TUYỀN 2:
Đại tá Tiếp đúng như lời yêu cầu
đã giới thiệu cho Đại tá Nghĩa một Đại úy, sĩ quan ngành an ninh
tên là Trung. Đây là một anh chàng bảnh trai, có vẻ hào hoa phong
nhã, một tay sành sõi các hộp đêm. Anh ta mang bộ râu Clark Gable
trong thật là ngỗ. Thật là một con chim lạ ít có. Đại úy Trung có
một tửu lượng phi thường. Bắt ông ta đóng vai người say nói bạy
trước mặt người đẹp chắc không ai hơn.
Đại tá Nghĩa đã bố
trí cho Đại úy Trung tiếp xúc với người đẹp hai lần. Lần đầu để
biết nhau, lần thứ hai để họ trở thành đôi bạn tâm tình.
Lần thứ ba là màn chính của kịch bản. Trước ngày gặp đó Đại tá
Nghĩa đã hội thảo (briefing) với Đại úy Trung thật kỹ từng câu
nói, từng cử chỉ khi gặp người đẹp. Hội thảo là danh từ tình báo
chỉ giai đoạn hướng dẫn tình báo viên lần chót trước khi tung
người đó đi công tác.
Một đêm đẹp trời trên sông Hương
trước ngày N của hành quân Lam Sơn 72 độ nửa tháng. Vầng trăng
sáng vằng vặc trải dài trên sông Hương như giải lụa bạc. Gió thổi
nhẹ mơn trớn tà áo các cô gái chèo đò. Trời đẹp quá, một cái đẹp
huyền diệu trong câu chuyện Liêu Trai. Cảnh như thế này mà không
xuống đò sánh vai người đẹp uống cho đến khi đất quay trời quay
như thi sĩ Tản Đà thì phí đi cuộc đời.
Đã có hẹn trước,
hôm nay Đại úy Trung với bộ ria mép tỉa rất kỹ, bộ đồ rằn ri
thẳng nếp, đã đến đúng giờ hẹn, 8 giờ tối. Người đẹp đã chờ sẵn
dưới đò. Người đẹp dưới ánh trăng đêm nay lại đẹp hơn, quyến rũ
hơn những lần trước. Thật là đôi trai tài gái sắc. Chỉ tiếc là
Ông Tạo trớ trêu bắt họ ở hai bên chiến tuyến và lãnh những nhiệm
vụ quỷ quái trong đó con tim không có đất đứng. Nếu không có
những khắc nghiệt của chiến tranh, cặp này làm vợ chồng ở ngoài
đời hay đóng một phim tình cảm thì đẹp biết mấy, thơ mộng biết
mấy!
Một bữa tiệc không thịnh soạn nhưng cũng đủ các món
nhậu nổi tiếng của đất Thần Kinh như món gỏi cầu kỳ có tên Dấm
Ruốt. Một chai Johnny Walker từ một câu lạc bộ Mỹ nào đó chễm chệ
trên bàn ăn.
Người đẹp gắp thức ăn vào chén cho Đại úy
Trung đầy tình tứ không thua một người vợ yêu đương nào khác.
Thức ăn ngon, rượu ngon, người đẹp chiều chuộng, chẳng mấy chốc
chai rượu vơi đi gần nửa trong lúc đó người lái đò cho thuyền
chầm chậm trôi về thượng nguồn hướng chùa Thiên Mụ.
Giọng
Đại úy Trung hỏi lè nhè vì rượu:
– Ngọc, người đẹp của
lòng anh! Bữa rượu này làm anh nhớ hoài. Anh ước gì trong cuộc
đời cô đơn của anh sẽ có em chen vào để mang lại chút ấm áp gia
đình, ước mơ lớn nhất của anh.
– Thôi đi – Ngọc nũng nịu
trả lời – ông tướng Sài Gòn đừng hứa nhăng hứa cuội nữa. Ông nào
cũng có một lô bà ở Sài Gòn. Ra đây ông nào cũng nói với chúng em
là mồ côi vợ. Khổ một nỗi là chúng em lại dễ tin mới chết chứ!
– Họ khác, anh khác, không lẽ anh phải thề với em. Mà thôi
dẹp chuyện đó đi. Ngày nào em thành bà Đại úy Trung, anh sẽ cắn
em về lời buộc tội tối nay, chịu không cưng?
Đại úy Trung
nốc gần hết ly rưọu, lấy khăn tay quẹt môi, rồi bỗng nhiên tắc
lưỡi có vẻ hơi buồn.
Người đẹp hỏi:
– Sao đang vui,
anh lại tỏ vẻ buồn như thế, em hổng chịu đâu.
– Anh không
giấu gì em, từ ngày biết nhau đến nay, xa em một ngày anh thấy
thời gian dài quá, dài bằng một năm lận. Sau bữa nay, anh phải xa
em về Sài Gòn công tác độ nửa tháng. Buồn quá, thời gian dài xa
em như vậy anh chịu hết nổi. Em là con quỷ yêu đương của anh.
Ngày xưa, chưa biết em, anh như con bướm trong tình trường, khi
vui nó đậu khi buồn nó bay. Bây giờ xa em một ngày chịu không
nổi, có lẽ là quả báo đấy.
Người đẹp rót thêm một ly rượu
mới, châm soda, bỏ vào vài cụm nước đá, lắc lắc rồi âu yếm đưa
cho Đại úy Trung.
– Uống đi anh. Chuyện gì phải về Sài Gòn
lâu vậy. Lần này anh đừng hòng gạt được em nữa. Em không tin đâu.
Đây là mặt trận, lính Dù mấy anh đánh ở đây chớ công tác gì mà về
Sài Gòn cả nửa tháng. Anh về với người đẹp Sài Gòn nào đó bộ em
không biết sao!
Đại úy Trung hớp một hớp rượu sau khi nhai
một đũa dấm ruốt.
– Khổ quá! Chưa gì đã dở trò ghen tuông.
Đáng lẽ anh không được quyền nói gì đến công tác với người khác.
Quy luật an ninh cấm. Nhưng em có phải người khác đâu, em với anh
là một chớ gì nữa.
Đại úy Trung vừa nói vừa ra bộ làm cho
người đẹp đỏ mặt, ông ta tiếp:
– Thôi tôi phải nói sự thật
cho người đẹp hay ghen biết. Anh về Sài Gòn để thúc đẩy các quan
bàn giấy ở Bộ Tư Lệnh Tiếp Vận cung cấp số dù đầy đủ cho toàn thể
Sư đoàn trong thời gian ngắn nhất. Anh sợ nửa tháng còn không
kịp.
Người đẹp hình như sáng mắt lên. Nàng mở miệng muốn
hỏi nhưng nghĩ sao lại thôi. Nàng tiếp tục châm rượu cho Đại úy
Trung. Chai rượu đã gần cạn. Đại úy Trung lè nhè hai câu thơ
Đường trong bài Lương Châu Từ:
Túy ngoạ sa trường quân mạc
tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Thêm một ly nữa,
Đại úy Trung gục đầu bên vai người đẹp. Ông ta hình như quá say.
Bỗng nhiên ông ta ụa ra một tiếng lớn rồi phun vọt đồ trong bụng
ra, cũng may là không trúng người đẹp. Đây là giai đoạn dân nhậu
gọi là “phun kiếm” hay là cho “chó ăn chè”.
Ngọc dìu Đại
úy Trung, bây giờ hết biết gì nữa, xuống chiếu hoa, lấy khăn lau
miệng ông ta và kê lên đầu gối như người vợ hiền.
Đêm đó
trong cơn bão ái tình, nếu có đệ tam nhân rình, sẽ nghe ngoài
những câu không đầu, không đuôi, một câu có vẻ có đầu có đuôi
“tụi anh, nguyên cả Sư đoàn sẽ nhảy xuống Đông Hà. Tụi anh sẽ bắt
tay với mấy thằng thủy quân làm biếng từ Cửa Việt đi lên. Tụi anh
sẽ giần thằng Cộng nát như tương tàu. Em tin đi, sắp hết chiến
tranh rồi. Anh yêu em, anh cưới em, anh sẽ....”
Đến đây
chỉ còn nghe tiếng hổn hển của đôi tình nhân yêu nhau...
Ngày hôm sau, khi nghe Đại úy Trung báo cáo công tác hoàn tất,
Đại tá Nghĩa bỗng dưng thấy lòng mình se lại, thấy mình quá tàn
nhẫn với người sĩ quan này. Ông ta có quyền hưởng lạc thú ở đời.
Thế mà mình nỡ lợi dụng ông ta trong trò yêu đương! Xét cho cùng
ai cũng có tội, nhưng người tội lỗi nhất là kẻ đã mang chiến
tranh vào lãnh thổ miền Nam, kẻ đã đẩy người Việt giết người Việt
không gớm tay!
Sau khi Đại úy Trung báo cáo, Đại tá Nghĩa
đã điện thoại cho chỉ huy trưởng của ông ta, yêu cầu cấp cho ông
ta một sự vụ lệnh đi Sài Gòn công tác nửa tháng cho đúng như
thực. Đây là để đề phòng đồng bọn của người đẹp phối kiểm lời ông
ta nói lúc say. Hai địa danh Đông Hà, Cửa Việt đã được gởi đi cho
cấp chỉ huy BV ở bên kia kèm theo một vài chi tiết để cho họ
không lầm lẫn được ý định tương lai của vị Tư Lệnh chiến trường
miền Nam.
Sau đó Đại tá Nghĩa bắt tay vào màn hát Thanh
Tuyền 3 và 4.
THANH TUYỀN 3:
Thanh
Tuyền 3 là một cuộc hành quân nhảy dù giả xuống Đông Hà.
Một loạt công điện giả trao đổi giữa Bộ Tư Lệnh Tiếp Vận Vùng 1
và Bộ Tư Lệnh Tiếp Vận Trung Ương về chuyện di chuyển số dù và
quân trang, quân dụng khác cần thiết cho một cuộc hành quân nhảy
dù đại qui mô. Đại tá Nghĩa hy vọng tai mắt của địch ở nhiều cơ
quan trong quân lực VNCH sẽ đánh hơi được chuyện này. Ngoài ra
còn quân trang, quân dụng cần thiết cho một hành quân đổ bộ cho
một Sư đoàn TQLC.
Về phía Mỹ, Đại tá Nghĩa đã được Hạm Đội
7 gởi cho một Đại tá liên lạc để tiếp nhận nhu cầu của Đại tá
Nghĩa về Hải Quân và Không Quân mà bên Việt Nam không đủ sức đảm
nhận. Sự yểm trợ của Mỹ cho Đại tá Nghĩa trong Thanh Tuyền 3 và 4
hết sức quý giá. Thông thường muốn mở một cuộc hành quân nhảy dù
hay đổ bộ từ biển, Không Quân và Hải Quân đã oanh kích trước
nhiều ngày các đường di chuyển vào mục tiêu, các công sự phòng
thủ trong khu vực mục tiêu, cách ly khu mục tiêu với khu vực
chung quanh mục tiêu là tạo sự an toàn tối đa cho quân nhảy dù
khi hạ xuống đất hay cho TQLC khi đổ bộ lên bãi biển. Trong Thế
Chiến II, những cuộc oanh kích và hải pháo khu vực Normandie để
cho quân từ dưới biển đổ bộ lên và không quân oanh kích khu vực
Bastogne ở Bỉ dọn đường cho một cuộc hành quân nhảy dù lớn nhất
của Mỹ khi trận chiến sắp kết thúc là mẫu yểm trợ của Không Quân
và Hải Quân vào loại hành quân đặc biệt đó. Đối với một chuyên
viên quân báo, khi nghiên cứu kỹ các khu vực bị oanh kích hay
pháo kích, người ta có thể ước tính được phần nào khu vực mục
tiêu.
Tại chiến trường Quảng Trị, tuy không được qui mô
yểm trợ như trong Đệ Nhị Thế Chiến, Không Quân và Hải Quân VNCH
đã cho phe bên kia thấy có một cái gì đó tại Đông Hà và Cửa Việt
trong tương lai.
Mặt khác sự chuẩn bị ráo riết của Sư Đoàn
Dù và TQLC để tham dự trận tấn công tương lai đã giúp cho chuyện
riêng của Đại tá Nghĩa phần lớn. Sự chuẩn bị này không thể nào
qua mắt quan sát của tình báo CS trong các hàng quán xung quanh
đơn vị đóng quân cũng trong nội bộ đơn vị. Người ta đừng quên đây
là nội chiến, người của hai phe có mặt khắp nơi.
Lần này
Đại tá Nghĩa lại giở miếng đòn cũ là tuyên truyền xám. Ông ta
được các cơ quan tình báo và an ninh bạn tổ chức một số “cò mồi”
trong hai đơn vị Dù và TQLC. Những tay cò mồi này làm ra vẻ thông
thạo tin tức, rỉ tai với bạn đồng đội sự chuẩn bị trong Sư Đoàn
Dù là chuẩn bị nhảy lớn, mặc dầu không biết ở đâu. Trong Sư Đoàn
TQLC cũng trò rỉ tai nói về một cuộc đổ bộ của toàn Sư đoàn, cũng
không biết ở đâu. Thông thường một người biết chuyện bí mật không
dằn được ý muốn cho một người khác biết để tỏ ra ta đây là người
biết nhiều chuyện. Dĩ nhiên khi rỉ tai, y không quên thêm vào
câu: “Đây là tối mật, chỉ có anh là người tôi tin cậy nên mới nói
cho biết thôi.” Loại bí mật này, tiếng Pháp gọi là secret de
polichinelle lan rộng một cách tự nhiên. Đại tá Nghĩa lấy làm
hứng thú mà cho địch nếm mùi hư hư thực thực, một tình trạng mà
họ không hề lâm vào nhờ gài tình báo ở mọi cấp. Ví dụ trong hành
quân Lam Sơn 719 năm 1971, kế hoạch hành quân của ta đã lọt vào
tay bộ chỉ huy địch khi quân ta chưa đến trận địa! Biết bao nhiêu
xương máu của các chiến sĩ anh hùng đã được tiết kiệm nếu lúc đó
người ta biết áp dụng nguyên tắc sơ đẳng trong hành quân tấn công
là hư thực hay lừa địch.
Để thực hiện Thanh Tuyền 3, một
ngày nào đó trong tháng 7 trước ngày N của Lam Sơn 72 độ hơn một
tuần, Đại tá Nghĩa đến gặp Đại tá Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn
Dù. Nhờ có nhiều bạn quen trong giới Mũ đỏ, Đại tá Nghĩa gặp được
nhiều dễ dàng trong công tác “mượn đầu heo nấu cháo” trong Sư
đoàn này.
Sau khi thuyết trình sơ lược về Thanh Tuyền 3,
Đại tá Nghĩa xin Đại tá Bảo cho mượn một Tiểu Đoàn Dù trong vòng
một ngày và trước ngày N của Lam Sơn 72 bốn hôm. Đại tá Bảo rất
có cảm tình với Đại tá Nghĩa nhưng ông ta cho biết kế hoạch hành
quân tấn công là một bộ máy đồng hồ nhịp nhàng. Nay rứt ra một
bánh xe, mặc dầu trong thời gian ngắn 24 tiếng là một chuyện rắc
rối cho công tác tham mưu. Sau cùng ông ta cho mượn một Đại Đội
Dù trang bị đồ nhảy dù đầy đủ trong 24 tiếng. Đại đội này sẽ
trình diện Đại tá Nghĩa chiều ngày N–4 tại sân bay Phú Bài. Đại
tá Nghĩa đã xin Sư Đoàn 1 Không Quân của Đại tá Khánh bốn phi cơ
vận tải đủ chở một đại đội nhảy dù đầy đủ quân trang, quân dụng.
Phi cơ có mặt tại Phú Bài sáng sớm ngày N–3.
Y hẹn, Đại
Đội Dù đã đến sân bay Phú Bài buổi chiều ngày N–4. Toàn thể quân
nhân đại đội đều bị cấm trại. Tuy nhiên, sự di chuyển một đại đội
Dù với quân phục tác chiến, đeo dù ở lưng từ căn cứ đại đội đến
Phú Bài chắc chắn khó thoát khỏi con mắt tình báo địch.
Đêm đó Đại úy đại đội trưởng và thiếu tá chỉ huy phi đội đã được
Đại tá Nghĩa thuyết trình cho biết đây là một nhiệm vụ đặc biệt
tối mật của Tư Lệnh Quân Đoàn, chỉ có hai người biết trong đơn
vị. Mọi sự sơ xuất để lộ mật thì hai người sẽ chịu trách nhiệm
với Trung tướng Trưởng.
Phần đại đội trưởng thuyết trình
cho trung đội trưởng biết đại đội có nhiệm vụ tiền phong nhảy
xuống một khu vực gần Đông Hà. Đại đội sẽ thiết lập một bãi đáp
an toàn để cho đại bộ phận Sư Đoàn nhảy xuống sau khi an toàn bãi
đáp có rồi. Mỗi trung đội được phát địa đồ bãi đáp và nhận nhiệm
vụ riêng cho từng trung đội. Sau buổi thuyết trình này đại đội
trưởng sẽ thuyết trình lại với các trung đội trưởng. Phần trung
đội trưởng trước khi lên phi cơ sẽ nói sơ lại nhiệm vụ của trung
đội với đội viên.
Đường bay của phi cơ được ấn định cho
Thiếu tá phi đội trưởng như sau:
– Phi cơ cất cánh 7 giờ
sáng hướng mũi về Bắc. Bay đến gần chạm tuyến, phi cơ đổi hướng
về Đông ra biển, sau đó bay trong khu vực bạn kiểm soát để có an
toàn. Thời gian ở trên không bằng thời gian bay Phú Bài – Đông Hà
đi và về. Khi bay được phân nửa thời gian, nếu bay thực thì ở
trên không phận Đông Hà, đại đội trưởng nhờ phi đội trưởng đánh
về căn cứ một công điện do Đại tá Nghĩa soạn sẵn trao cho đại đội
trưởng: “Đã đến không phận mục tiêu gió quá lớn không nhảy được
xin cho trở về tạm nghỉ đợi thời tiết tốt”. Căn cứ sẽ trả lời
chấp thuận và phi cơ bay về.
Sau khi đáp xuống Phú Bài,
đại đội trưởng tập họp trung đội trưởng cho biết hôm nay trời xấu
không nhảy được. Tạm về căn cứ. Ra lệnh cho binh sĩ trong mỗi đơn
vị tuyệt đối giữ kín nhiệm vụ được trung đội trưởng phổ biến
trước khi bay.
Lần này lậy Trời cho họ ÍT kín miệng hơn!
THANH TUYỀN 4:
Trước ngày Đại Đội Dù
lên phi cơ năm hôm, Đại tá Nghĩa đến gặp Đại tá Chung, Tham Mưu
trưởng Sư Đoàn TQLC để mượn một tiểu đoàn trong hai ngày và trả
lại 48 giờ trước ngày N. Đại tá Nghĩa đã trình bày như đã trình
bày với Đại tá Bảo bên Sư Đoàn Dù. Có lẽ hôm nay ông ta thuyết
trình dở nên đưa lý do gì ra cũng bị Đại tá Chung bác cùng một lý
do như Đại tá Bảo đã nói. Hết thuyết trình rồi năn nỉ nhưng chẳng
ăn thua gì. Cuối cùng Đại tá Nghĩa đứng dậy từ giã chủ nhà với bộ
mặt thiểu não của kẻ đi mượn tiền bị ông chủ từ chối mặc dù đã
nói đến khô cổ. Dọc đường, Đại tá Nghĩa lầm bầm: “thật khổ cho
thân bầu gánh của mình. Muốn hát mà không có một anh kép, một cô
đào, toàn là đi mượn, phiền toái làm sao!” Ông ta trách Đại tá
Chung ích kỷ, nhưng sau cùng ông ta thấy “Đại tá Chung có lý,
mình ở địa vị ông ta chắc mình cũng làm như vậy.”
Đang
than thở một mình trên xe, đột nhiên Đại tá Nghĩa vỗ đùi cái bốp
làm chú tài xế giật mình. Một ý nghĩ hay hay vừa thoáng qua trong
óc. Ông ta tự nói với mình: “Sao mình ngu thế, để mất thì giờ năn
nỉ Đại tá Chung. TQLC cũng rằn ri, BĐQ cũng rằn ri, cả hai đều
đội mũ sắt ra trận. Đây là đóng kịch, cần gì TQLC thật. Mình cứ
mượn một tiểu đoàn BĐQ rồi phao ra tiểu đoàn này là TQLC bận đồ
BĐQ để đánh lạc hướng địch, hư hư thực thực mà!”
Sở dĩ Đại
tá Nghĩa nghĩ đến mượn BĐQ vì chỉ huy trưởng BĐQ/QĐ1, Đại tá
Khoái là bạn cùng khóa Thủ Đức với ông ta. Trong loại chiến tranh
ngoại lệ này, trong tay không có một tấc sắt trừ khẩu súng lục
bên hông, ông ta phải đánh giặc bằng bộ óc và cái mồm. Phương
tiện gì cũng mượn của người thành ra ông ta lại kiêm luôn nghề
ngoại giao. Nơi nào cần nói cứng thì nói cứng, nơi nào sử dụng sự
quen biết thì sử dụng. Ông ta tự nhủ mình lo chuyện chung chớ đâu
phải lo riêng chuyện nhà mình đâu mà ngại.
Đại tá Nghĩa
chạy thẳng đến BCH của Đại tá Khoái. May quá ông Khoái ở nhà.
“Cơn gió nào đưa cậu đến đây? Mọi người làm việc hộc máu mồm
để chuẩn bị cho màn hát tới. Chỉ có cậu là có vẻ nhàn nhã. Một
thằng đệ tử của tớ đã nói thấy cậu sáng nào cũng ngồi nhẩm cà–phê
ở nhà Thủy Tạ, có khi cậu hẹn đào ở đó. Sung sướng nhỉ!” – Đại tá
Khoái thân mật hỏi.
Đại tá Nghĩa làm mặt nghiêm trả lời:
“Đào kép ở đâu mà hẹn! Này cho biết, ‘moi’ được ông Tướng gởi
đến gặp ‘toi’ có chút chuyện đấy.”
Ở QĐ1, tất cả sĩ quan
đều ngán sự nghiêm khắc, kỷ luật của Trung tướng Trưởng. Khi nghe
ông hỏi thăm, ai cũng ngán. Đại tá Khoái đã đau khổ với ông ta vì
một số BĐQ từ Quảng Trị chạy về Huế cướp bóc phá phách. Lần này,
ông ta nghi lại một vụ kỷ luật nữa trong BĐQ. Vẻ mặt hơi bối rối,
Đại tá Khoái hỏi có vẻ dồn dập:
– Chuyện lành hay dữ?
Đại tá Nghĩa nghe giọng hỏi đã biết tâm trạng ông bạn đồng
khoá. Với giọng nghiêm nghị từ đầu:
– Trung tướng Trưởng
bảo “toi” cho “moi” mượn một tiểu đoàn để thi hành một công tác
đặc biệt của ông ta. Sau 48 tiếng “moi” sẽ hoàn trả lại “toi”,
cam kết không một thằng mũ nâu nào mất một sợi lông chân. Chuyện
chỉ giản dị vậy thôi. “Toi” nên nhớ ổng chiếu cố đến “toi” nên
bảo “moi” đến vay mượn “toi”. Ở quân đoàn này khối thằng muốn
“moi” mượn mà “moi” đâu thèm mượn!
Đại tá Nghĩa nhủ thầm:
“mới có vài tháng chiến tranh ngoại lệ mà bây giờ mình nói láo
trơn tru như Vẹm!”
Đại tá Khoái cũng ở trong tình trạng
như Đại tá Bảo, Đại tá Chung nên ngồi thừ ra có vẻ khó nghĩ.
Thừa thế xông lên, Đại tá Nghĩa cầm mũ đứng lên nói:
–
Thôi, để “moi” về báo cáo với ông Tướng là “toi” verry sorry,
không thể chiều ý ông ta được.
Đại tá Khoái bước đến đè
vai Đại tá Nghĩa ngồi xuống:
– Thôi thằng ông mãnh. Tớ
thừa biết không có ông Tướng nào mượn hết, chỉ có cậu vẽ chuyện.
Nhưng không cho cậu mượn thì sau này biết chuyện, anh em khoá 2
Thủ Đức sẽ chửi tớ. Cho biết mượn ngày nào, đi đâu, ai lo chuyên
chở, ai lo ăn và ngày trở lại.
Đại tá Nghĩa thuyết cho Đại
tá Khoái biết sơ về mục tiêu và diễn biến Thanh Tuyền 4. Sau đó
ông thêm:
– “Toi” bảo tiểu đoàn trưởng đến gặp “moi” gấp
tại Bộ Tư Lệnh/TP. “Moi” sẽ thuyết trình thêm nhiệm vụ chi tiết
cho hắn. Chuyên chở, ăn uống “moi” lo hết. Ngày N–4 đại đội quân
vận của Quân Đoàn đến trại bốc mấy đứa con của “toi”. Nhớ đến giờ
bốc, tụi nó sẵn sàng ở trong tư thế tác chiến từ quần áo đến súng
đạn. Trước khi chia tay, cho phép “moi” cám ơn lòng hào hiệp của
“toi” đối với anh em. “Moi” căn dặn “toi” đây là công tác tối
mật, “toi” và đàn em phải triệt để thi hành. Thằng nào bép xép bị
cắt lưỡi ráng chịu.
Một hành quân đổ bộ, thực hay giả, đòi
hỏi nhiều phương tiện và một công tác thiết kế tỉ mỉ. Đó là tàu
chuyên chở, tàu đổ bộ, yểm trợ hải pháo và không quân. Những thứ
này Hải Quân Vùng 1 của Đại tá Thoại không có khả năng cung cấp,
nhất là trong thời gian ngắn. Cũng may cho Đại tá Nghĩa là Hải
Quân Mỹ, có lẽ là do lệnh từ Hoa Thịnh Đốn, sẵn sàng cung cấp
những gì ông ta đòi hỏi.
Sau một buổi hội với vị Đại tá
đại diện Đệ Thất Hạm Đội, Đại tá Nghĩa và phía Mỹ thoả thuận như
sau:
Cuộc hành quân sẽ do Mỹ điều khiển từ A đến Z với
phương tiện của Hạm Đội Mỹ. Tiểu đoàn đổ bộ sẽ lên tàu Mỹ ở bến
Tàu Mỹ Thủy phía đông của Huế độ 10 cây số vào buổi chiểu ngày
N–4. Trước khi lên tàu, Tiểu đoàn sẽ dàn binh tại cầu tàu cho Đại
tá Nghĩa và một ông tướng Mỹ duyệt binh.
Cuộc duyệt binh
này sẽ được nhiều phóng viên truyền hình Mỹ và Tây Phương quay
phim. Tiểu hạm đội gồm có các tàu chuyên chở và một số Khu Trục
Hạm di chuyển đến ngoài khơi Cửa Việt và dừng lại cách bờ độ 5
cây số, ở đấy đợi trời sáng tức là sáng ngày N–3. Sáng hôm nay
cũng là ngày Đại Đội Dù cất cánh ở Phú Bài. Thời gian ba ngày
trước tấn công là thời gian được tính toán đủ cho tình báo viên
BV trà trộn bên khu vực ta thông báo tin tức về đến tướng CS Chu
Huy Mân và đủ cho viên tướng này rút bớt quân ở tiền tuyến Quảng
Trị nếu ông ta chịu nhấp chén thuốc độc mà bao nhiêu người ở MN
góp công dâng cho ông ta. Tiểu đoàn sẽ xuống các xuồng đổ bộ từng
trung đội từ trong bụng các thuyền mẹ chạy ra ngoài phía lái chớ
không leo lên thang dây xuống xuồng đổ bộ như xưa. Trước đó trên
mười Khu Trục Hạm sẽ pháo lên các đường tiến sát dẫn đến bãi đổ
bộ và các công sự phòng thủ trên bờ. Khi hải pháo ngưng thì phi
cơ khu trục oanh tạc tiếp theo. Các xuồng đổ bộ chạy vào bờ dưới
sự yểm trợ của trực thăng võ trang. Còn cách bờ 200 mét các xuồng
sẽ quay mũi trở về tàu mẹ. Tiểu đoàn trưởng khi lên tàu sẽ được
thuyết trình chi tiết về những phần vụ Tiểu đoàn trưởng phải làm.
Phía Mỹ sẽ cung cấp bữa ăn chiều khi Tiểu đoàn lên tàu ở Mỹ Thủy
và các bữa ăn kế tiếp cho đến khi tàu trở về lại Mỹ Thủy.
Đại tá Nghĩa hẹn gặp Thiếu tá Khoa, Tiểu Đoàn trưởng BĐQ. Khi gặp
Đại tá Nghĩa nói liền:
– Đây là một cuộc thực tập rút kinh
nghiệm để vài hôm sau sẽ có một cuộc đổ bộ lớn. Thiếu tá đã biết
từ ngữ plastron khi đi tập tác chiến ở quân trường. Đơn vị của
Thiếu tá làm plastron trong trận diễn tập này.
Sau đó ông
ta thuyết trình về diễn tiến cuộc hành quân. Sau cùng ông ta lưu
ý Thiếu tá Khoa về những điểm sau:
– Thứ nhất, không bao
giờ nói cho thuộc cấp trong Tiểu đoàn biết đây là diễn tập. Nếu
nói trước binh sĩ sẽ lơ là, đóng vai plastron không đúng. Chỉ nói
ý nghĩa cuộc thực tập sau khi Tiểu đoàn trở lại tàu mẹ.
–
Thứ nhì, tuyệt đối giữ kỷ luật và vệ sinh trên tàu Mỹ. Nên nhớ
cho rằng tư cách binh sĩ nói lên giá trị của quân đội ta trước
mặt ngoại quốc.
– Thứ ba, phải thi hành đúng đắn lệnh của
chỉ huy trưởng hành quân là một sĩ quan Mỹ.
Sau hết ông ta
hỏi Thiếu tá Khoa có gì thắc mắc không?
Thiếu tá Khoa nói
liền:
– Thưa Đại tá, tuy là thực tập, nhưng đây là một
cuộc hành quân đổ bộ. Đơn vị tôi chưa bao giờ được huấn luyện đổ
bộ, tôi sợ sẽ có sai sót ở điểm này.
Đại tá Nghĩa trả lời:
– Khi xưa trong một cuộc hành quân đổ bộ, nội chuyện từ tàu
mẹ xuống xuồng đổ bộ là một vấn đề lớn, nhất là khi biển không
êm. Phải xuống bằng thang dây trong cái rập rình giữa thuyền mẹ
và thuyền con. Lực lượng đổ bộ dầu đã được huấn luyện kỹ thế nào
cũng bị thiệt hại: một số người bị gẫy tay, gẫy chân. Ở đây không
có vấn đề đó vì các anh lên xuống xuồng đổ bộ theo thứ tự từng
trung đội trong lòng tàu mẹ. Sau đó, nó hả đít ra cho thuyền con
chạy ra. Ngoài chuyện đó ra không đòi hỏi gì khác ở các anh. Mấy
anh chỉ là khán giả ở hàng ghế đầu xem một màn chớp bóng thú vị
thế thôi.
Chiều ngày N–4, tại bến tàu Mỹ Thủy, màn đầu
duyệt binh diễn ra hoàn hảo. Các phóng viên báo chí, đài phát
thanh, đài truyền hình thi nhau chụp hình và quay phim. Viên Đại
tá Mỹ bày ra trò diễn binh này thật là tinh quái. Là sĩ quan
trong quân đội một nước dân chủ như Mỹ, ông ta nhiều lúc khốn khổ
với đám phóng viên chiến trường. Hôm nay ông ta mượn đám này
chuyển tin miễn phí đến tướng Chu Huy Mân, tư lệnh lực lượng phía
bên kia.
Đại tá Nghĩa lên một chiếc Dương Vận Hạm của HQ
Việt Nam, trên đó có Đại tá Thoại – Tư Lệnh HQ Vùng 1, Đại tá
Xuân – Tham Mưu trưởng của ông ta.
Sau gần một tháng mất
ăn mất ngủ, thần kinh căng thẳng, chuyến đi này thực là một
chuyến du ngoạn trên biển vô cùng thú vị. Đại tá Nghĩa bây giờ là
một khán giả thư nhàn, nhìn đào kép diễn màn chót vở tuồng mà ông
ta khổ công viết ra và làm đạo diễn. Đây là 1/4 của chén thuốc
độc mà ông hy vọng thân tặng tướng Chu Huy Mân.
Sáng hôm
nay, ở ngoài khơi Cửa Việt, trời đẹp quá. Trời trong, gió nhẹ,
sóng nhẹ thật là lý tưởng cho một cuộc đổ bộ. Ông ta đang thưởng
thức tách cà–phê của Hải Quân trong phòng sĩ quan bỗng nghe tiếng
đại bác nổ, bay vèo trên đầu. Ông ta lật đật chạy lên phòng chỉ
huy nơi đây đã có mặt Hạm Trưởng, Đại tá Thoại, Đại tá Xuân. Đại
tá Thoại đưa cho ông ta một ống nhòm và chỉ vào bờ. Trên mười
chiếc Khu Trục Hạm đã đồng loạt nhả đạn vào các điểm đã ấn định
trước. Phải nhìn nhận về mặt hành quân đổ bộ, người Mỹ là bậc
thầy. Các quân binh chủng phối hợp hết sức nhịp nhàng như một dàn
nhạc hoà tấu dưới chiếc đũa điêu luyện của một nhạc trưởng. Khi
hải pháo vừa im tiếng thì các chiến đấu cơ không biết từ đâu ra
rít lên âm thanh ghê rợn của bộ máy mang sự chết chóc, chúi mũi
xuống đất rồi cất đầu vọt lên kéo theo một tiếng ầm vang dội với
một cột khói. Không biết tất cả là mấy chục chiếc. Ở phía xa hơn
hình như có thêm B52 tham dự vào trò chơi chết người này với
tiếng nổ kéo thành một dây dài. Cuộc nhào lộn hết sức ngoạn mục
và thú vị gấp mười coi truyền hình hay chớp bóng vì đây là máy
bay thật, đánh bom thật. Chỉ oái oăm là những cái thật đó để phục
vụ cho một câu chuyện giả tưởng.
Lậy Trời cho không có
người thường dân vô tội nào dưới cơn lửa đạn kinh khủng ấy!
Các phi cơ trút hết bom bay vụt ra biển.
Lúc đó mấy
chiếc tàu mẹ mở đít ra, từ đó các xuồng đổ bộ đầy nhóc các TQLC
giả chạy ra. Chắc các bạn Mũ nâu lúc này căng thẳng thần kinh ghê
gớm. Có quân nhân nào không căng thần kinh trong giờ phút một
chiếc xuồng đổ bộ sắp cặp vào bờ địch trên đó đủ thứ chết đang
chờ đợi. Lần này, thật kỳ diệu, lại xuất hiện đúng lúc một lô
trực thăng võ trang từ ngoài khơi bay vào. Một phần trực thăng
bay quần trên đầu lực lượng đổ bộ trong khi phần khác bay vào bờ
bắn hoả tiễn vào các mục tiêu sát bờ biển. Ngoài hoả tiễn, lại có
tiếng đại liên phụ vào dàn hoà tấu.
Đúng theo kế hoạch,
còn 200 mét cách bờ, các xuồng đổ bộ quay về. Trong màn kịch chót
tuy ngắn ngủi nhưng đầy trò chơi chết chóc này, không một tai
nạn, không một người chết. Phải chấm một điểm son cho Hải Quân và
Không Quân Mỹ!
Trên đường về bến Mỹ Thủy, đầu óc Đại tá
Nghĩa không còn thanh thản như lúc đi. Một câu hỏi lúc nào cũng
lởn vởn trong đầu ông ta:
– Mình đã phí bao nhiêu tâm lực,
bao nhiêu con người tài giỏi, bao nhiêu phương tiện tham gia hành
quân lừa địch mà chúng có bị lừa không?
Tàu cập bến Mỹ
Thủy buổi chiều. Ông ta đến ngay Bộ Tư Lệnh báo cáo diễn tiến hai
cuộc hành quân Thanh Tuyền 3 và 4 với Trung tướng Trưởng.
Sáng hôm sau, tức là ngày N–2, trong buổi thuyết trình tình hình
địch trong 24 giờ qua của Phòng 2 BTL/TP, Đại tá Nghĩa hình như
nghe mang máng một câu: “Không ảnh và không thám cho thấy địch
rút bớt lực lượng ở tiền tuyến Quảng Trị, lực lượng rút đi ước
lượng một Sư đoàn.”
NGÀY
N MỞ MÀN
Chưa
bao giờ trên đất nước Việt Nam, suốt 50 năm chiến tranh trên một
chiến trường nhỏ hẹp mà có một trận chiến dữ dội như thế. Với số
lượng hoả lực của đại bác dưới đất, dưới tàu bắn lên, số bom từ
phi cơ rót vào một khu vực nhỏ hẹp như tỉnh lỵ Quảng Trị, tính
chất ác liệt của trận đánh không thua một trận ác liệt nào trong
Thế Chiến II, chỉ có qui mô nhỏ hơn.
Nhiều đêm trong giấc
mơ, Đại tá Nghĩa không biết chuyện mình làm có giảm bớt sự thiệt
hại cho bạn không? Tội nghiệp cho thắc mắc của một người lương
thiện. Tuy nhiên một bản điện báo của một thông tín viên chiến
trường Tây Phương, không nhớ tên và quốc tịch, đánh đi sau khi
quân ta tái chiếm Quảng Trị, có một câu làm cho Đại tá Nghĩa bớt
thắc mắc: “Đây là lần đầu tiên một viên tướng Việt Nam (chỉ Trung
tướng Trưởng) biết sử dụng đòn C&D trong cuộc chiến tại Việt Nam
và đòn đó tỏ ra có hiệu quả.”
Sau khi quân ta tái chiếm
Quảng Trị, một ngày tháng 9, một buổi lễ nhỏ gắn huy chương cho
một người sắp rời Bộ Tư Lệnh/TP diễn ra tại phòng hành quân của
Bộ Tư Lệnh. Khách tham dự rất ít. Chỉ có Tư Lệnh, Phó Tư Lệnh,
Tham Mưu trưởng, các Trưởng phòng Bộ Tham Mưu.
Có buổi lễ
này vì Đại tá Nghĩa sẽ rời BTL/TP để lãnh một nhiệm vụ khác trong
QK1. Chiến tranh ngoại lệ với lối đánh nghệ sĩ của viên Đại tá
Này không còn cần thiết sau khi mặt trận đã ổn định tại tuyến
Thạch Hãn.
Một sĩ quan Phòng Tổng Quản Trị đọc bản tuyên
dương công trạng trước Quân Đoàn số 201 do Trung tướng Ngô Quang
Trưởng, thừa lệnh Đại tướng Cao Văn Viên – Tổng Tham Mưu Trưởng
QLVNCH, ký ngày 15/9/1972. Trong bản tuyên dương có câu:
“... Sĩ quan cấp tá ưu hạng, giầu kinh nghiệm chuyên môn và
chiến trường. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 72 tại Quảng Trị với
chức vụ phụ tá đặc biệt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1/Tiền Phương,
Đại tá Nghĩa luôn luôn biểu dương tinh thần phục vụ cao để khắc
phục mọi gian lao để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó một cách
tốt đẹp”
(1)
Sau đó Trung tướng Trưởng gắn vào ngực Đại tá Nghĩa một Anh
Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng, bắt tay ông ta và ngỏ lời cám ơn
sự đóng góp của ông ta vào hành quân Lam Sơn 72.
Trước khi
rời Bộ Tư Lệnh Tiền Phưong, một viên tướng Mỹ, hình như mãn nhiệm
kỳ cố vấn cho tư lệnh Quân Đoàn 1, sắp về Mỹ, đến gặp Đại tá
Nghĩa lúc ông này giữ một nhiệm vụ mới tại Đà Nẵng... Viên tướng
bắt tay Đại tá Nghĩa với lời chúc tụng nồng nhiệt về hành quân
Thanh Tuyền. Ông ta xin Đại tá Nghĩa vui lòng cho một bản sao Phụ
bản G của hành quân Lam Sơn 72 tức là bản sao hành quân Thanh
Tuyền để đem về Mỹ cho các quân trường nghiên cứu.
o O o
Trên
đây là câu chuyện của một người say kể cho người say khác nghe
trong một căn phòng nhỏ ấm cúng vào một đêm mùa Đông ngoài trời
tuyết phủ trắng xoá vạn vật tại một tiểu bang Đông Bắc nước Mỹ.
Tôi là bạn thâm giao với Đại tá Nghĩa từ lúc biết nhau ở quân
trường. Chúng tôi không gặp nhau từ lúc Đại tá Nghĩa đổi ra Vùng
1 Chiến Thuật năm 1972. Đến nay, gần một phần tư thế kỷ, chúng
tôi tình cờ gặp lại nhau tại hải ngoại. Một bữa cơm thân mật là
một truyền thống của đôi bạn xa xưa. Trong bữa cơm tay đôi này,
tôi đã chứng kiến lần đầu tiên Đại tá Nghĩa phá lệ xưa:
–
Phá lệ thứ nhất là ông ta chịu uống rượu mạnh mà lại uống nhiều,
nói rằng để chiều tôi. Ngày xưa ông không hề uống rượu mạnh bao
giờ. Ông ta không biết chữ Nho nhiều nhưng lại có cái tật thích
ngâm nga thơ Đường. Lần này thấy tôi đem chai Cognac Hennessy để
trên bàn, với giọng châm biếm quen thuộc, ông ta cất lên: “tửu
phùng tri kỷ tam bôi thiểu”.
– Phá lệ thứ nhì là ông ta
nói nhiều suốt buổi cơm. Ngày xưa ông ta là một người ít nói.
Cũng con người này, nét mặt, vóc dáng gần như cũ chỉ già hơn
đôi chút với nếp nhăn trên trán và mái tóc bạc. Tuy nhiên trong
ánh mắt của con người yêu đời ngày xưa, ẩn chứa một nỗi buồn khó
tả. Cũng giọng pha trò vui nhộn khi có tiệc giữa bạn thân, những
câu pha trò ngày nay nhuốm một hơi hướng cay đắng thế nào!
Trước mắt tôi là một con người mà đời binh nghiệp đã trải qua
nhiều sóng gió và chắc là cũng đã nếm quá nhiều mùi đau khổ vật
chất và tinh thần trong hai mươi năm nay.
Khi nghe Đại tá
Nghĩa dứt câu chuyện, tôi không dằn được câu hỏi có lẽ làm phật
lòng ông ta:
– Câu chuyện anh kể nghe thú vị lắm, ly kỳ
lắm. Nhưng này ông bạn già của tôi ơi, tôi có cảm giác nghe một
câu chuyện trong tiểu thuyết loại Z28 tại Sài Gòn trước năm 1975.
Giữa chúng mình, anh cứ nói thật, đây là câu chuyện phịa cho buổi
nhậu có ý nhị hơn hay là chuyện có thật?
Đại tá Nghĩa trầm
ngâm một chút, như có vẻ tìm ý hay tìm chữ, sau đó mới trả lời:
– Trước khi trả lời trực tiếp câu hỏi của anh, tôi xin nói
một vấn đề riêng của tôi. Tôi là một người biết suy nghĩ nhưng
không có khả năng viết lách. Sẵn bữa nay gặp anh, tôi nhờ ngòi
bút của anh, một nhà văn, nói lên sự tri ân của tôi với tất cả
chiến sĩ VNCH, quân hay dân đã cộng tác với tôi để hoàn thành tốt
đẹp kịch bản này. Đây chỉ là một màn kịch không hơn không kém.
Tôi cũng nhờ anh tri ân tất cả các bạn Mỹ trong Hải Quân và
Không Quân đã triệt để giúp tôi. Dù hậu ý của chính phủ họ có thế
nào chăng nữa, đây là sự sát cánh chiến đấu lần chót của những
chiến hữu Mỹ–Việt trong trận chiến bất hạnh này.
Tôi cũng
muốn nhờ anh nói lên sự ăn năn và cầu xin sự tha thứ của tôi đối
với gia đình người anh hùng vô danh trong QLVNCH. Gia đình đau
khổ này đã không có được nấm mồ của người thân để ra thắp nén
hương tưởng niệm.
Tôi hỏi lại:
– Thế còn trả lời
câu hỏi của tôi?
– Có thực hay không chỉ có người trong
cuộc biết vì đây là cuộc chiến tranh bí mật. Ngay như Đại tá
Dương phụ trách viết quân sử của QLVNCH tại Bộ TTM, ông ta cũng
chưa bao giờ nghe nói đến một cuộc hành quân nào mang tên Thanh
Tuyền trong chiến dịch tái chiếm Quảng Trị năm 1972.
Tôi
là người viết kịch bản nên tôi biết toàn bộ. Những người khác chỉ
biết một phần. Anh đã nghe rồi, kịch bản này có bốn màn riêng
biệt với các diễn viên riêng biệt nhưng nhắm vào một mục tiêu
chung.
Theo chỗ tôi biết trong màn 1, người bác sĩ giúp
tôi xin xác chết tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, y sĩ Trung tá
Phát hiện đang định cư ở Connecticut. Người phụ tá quý báu của
tôi, người đã tự tay đẩy xác chết xuống khu vực địch, Trung tá
Phan Trọng Sinh không biết trôi dạt vào đâu. Ông này là em ruột
Trung tướng Phan Trọng Chinh.
Trong màn 2, thật là đau
lòng mà tôi được biết hai vai chính đều chết cả. Đại tá Dương
Quang Tiếp chết trong một trại cải tạo ở BV. Đại úy Trung bị bắn
chết trong một cuộc vượt ngục.
Trong màn 3, Đại tá Bảo đã
chết vì trực thăng rớt tại mặt trận Quảng Trị. Vị sĩ quan Đại đội
trưởng Dù không biết sống chết.
Trong màn 4, nhân chứng
rất nhiều. Đại tá Khoái và Thiếu tá tiểu đoàn trưởng BĐQ không
biết thất lạc nơi đâu. Hai vị sĩ quan Hải Quân đứng cạnh bên tôi
nhìn lại diễn biến cuộc đổ bộ giả hiện đang còn sống. Phó đề đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại hiện đang định cư ở một tiểu bang miền Đông nước
Mỹ. Đại tá Xuân định cư tại Nam Cali.
Ngoài ra trong văn
khố của Đệ Thất Hạm Đội thế nào cũng có lệnh hành quân vào Cửa
Việt ngày hôm đó. Nhiều sĩ quan thuộc Hải Quân và Không Quân tham
gia hành quân, cũng như viên tướng xin tôi lệnh hành quân Thanh
Tuyền chắc còn sống và đang sống cuộc đời êm đềm của quân nhân
hưu trí ở đâu đó trong các tiểu bang Mỹ.
Ngoài những nhân
vật kể trên, hai sĩ quan cộng tác viên trong bộ tham mưu nhỏ của
tôi, những người có công rất lớn trong hành quân Thanh Tuyền là
Đại úy Vệ và Trung úy Trúc hiện đang định cư ở Nam Cali. Trung úy
Trúc là người tự tay đánh lệnh hành quân Thanh Tuyền, đã tuyệt
đối tôn trọng lệnh bảo mật cho đến ngày hôm nay.
Anh cứ
tìm những nhân chứng tôi vừa kể tên thì biết câu chuyện trong bữa
rượu hôm nay có thực hay giả.
Tôi liên tưởng đến các bí
mật trong Đệ Nhị Thế Chiến được phanh phui khi chiến tranh chấm
dứt lâu, các hồ sơ mật được giải toả nên hỏi thêm:
– Có
khi nào anh nghe phía BV đề cập đến vụ này?
Nở nụ cười
châm biếm, Đại tá Nghĩa trả lời:
– Nếu hỏi như thế có khác
nào anh hỏi một tay thảy bài ba lá ở đường Hàm Nghi Sài Gòn một
câu như sau: “Này người anh em, hình như ngày hôm qua, người anh
em đã thua tức tối trong canh phé bịp ở Cầu Ông Lãnh phải không?”
Người CS nếu bị cú này, thế nào họ cũng giữ kín đời nào xì ra
sự thực. Chắc chắn, những tài liệu về vụ này, nếu có, đã bị thủ
tiêu từ khuya. Đỉnh cao trí tuệ loài người mà lị!
Câu hỏi
của anh làm tôi liên tưởng đến một câu hỏi tương tự mới xảy ra
gần đây làm hao tốn giấy mực của báo chí trên thế giới. Một vị
tai to mắt lớn trong nội các của Tổng Thống Johnson, người đã
lãnh đạo và điều khiển luôn cuộc chiến tranh Việt Nam trong một
thời gian khá dài, đã khổ công tìm gặp cho được đại tướng Võ
Nguyên Giáp tại Hà Nội để chỉ hỏi một câu: “Này, trong đêm oan
nghiệt tháng 8 năm 1964 đó, tàu chiến các hạ có bắn vào tàu của
tại hạ không? Phe tại hạ quả quyết các hạ cho lệnh bắn nên vị
chưởng môn của tại hạ đã nổi trận lôi đình cho phi cơ oanh tạc
lia chia gây thành chiến tranh Việt–Mỹ. Bây giờ trước khi về theo
ông bà, tại hạ còn ấm ức nếu không nghe được câu trả lời đích xác
từ cửa miệng của các hạ.”
Sẵn đây, trong hơi men tối nay,
tôi bàn thêm vài câu theo thông lệ của Mao Tôn Cương.
Hình
chụp ngài Mac Namara tươi cười bắt tay ngài Võ Nguyên Giáp, lon
lá đầy ngực, cũng tươi cười không kém tại Hà Nội ngày 9 tháng 11
năm 1995. Nhìn tấm hình tôi tự hỏi sao tướng nhà mình đã trên 80
tuổi rồi, đáng lẽ phải có dáng dấp phúc hậu mới phải vì người già
nào cũng có vẻ phúc hậu nhiều ít, đàng này ngài đại tướng vẫn còn
nguyên đôi mắt xảo trá, gian ác của ông tổng trưởng nội vụ của
bác Hồ năm 1946, lúc ngài lạnh lùng cho lệnh đàn em trói nhà văn
Khái Hưng liệng xuống sông và làm cỏ sạch bách bọn quốc gia phản
động. Đi hỏi sự thực với một người như thế có vẻ giống như một
nhà báo Mỹ, nhờ một phép lạ nào đó, tìm gặp ngài Hitler đang vui
thú cảnh già tại một nông trại hẻo lánh ở Á Căn Đình. Nhà báo Mỹ
mừng húm chỉ hỏi một câu cho đáng đồng tiền bát gạo: “này ông bạn
vàng Hitler ơi, trong cái đêm mùa thu năm 1939, trên biên giới
Đức – Ba Lan, lính Ba Lan thực hay là bọn mật vụ của ông bạn giả
làm lính Ba Lan kéo qua biên giới tấn công đài phát thanh Đức ở
sát biên giới vài cây số. Cuộc tấn công đó đã làm cho ông bạn nổi
trận lôi đình cho rằng đám Ba Lan hỗn láo đám vuốt râu hùm nên
xua quân đánh Ba Lan gây thành Thế Chiến II.” (2)
Thông
thường các nhà khoa bảng hoặc chính khứa hay ngây thơ nhưng khi
người ta đẩy sự ngây thơ đến mức lố bịch thì thối đếch chịu nổi,
giống như một tuồng diễu vô duyên đến nỗi khán giả phải bịt mũi
kêu lên: “Thối quá!” thay vì cười thoải mái.
Ở trên cõi
đời ô trọc này, tôi thấy con người chỉ có hai giai cấp. Ở đây,
xin cụ Marx thứ lỗi cho tôi chen vào bảo vật giai cấp của cụ.
Phải, chỉ có hai giai cấp thôi! Giai cấp thứ nhất gồm có những
người phi thường trong tư cách sống. Những hạng người này rất ít
nhưng họ đã giúp cho loài người tiến bộ. Giai cấp thứ nhì gồm đa
số phần còn lại của nhân loại. Những người này có tư cách tầm
thường, ích kỷ, tham lam và nịnh bợ. Ông Tàu ngày xưa đã phê cho
hai giai cấp đó những nhãn hiệu hơi nặng. Người phi thường Tàu
gọi là trượng phu. Những người tầm thường là thất phu.
Trên đời này, anh thất phu nào cũng phù thịnh chớ không phù suy.
Khi chúng ta thua trận, đám tầm thường nói trên, khoa bảng danh
nhân có khi học giả nữa không tiếc lời sỉ vả chế độ, chính phủ,
nhân dân và quân đội Miền Nam. Đối với quân đội, họ không ngần
ngại tặng cho những danh từ đẹp đẽ như “nhát như thỏ”, “không
đánh đã chạy”, “không dám đánh giặc chỉ lo đớp hít”, v.v. Đã đành
quân đội nào trên thế giới cũng có một vài phần tử xấu, đào binh,
nhát gan, bán nước. Nhưng từ những trường hợp lẻ tẻ của một thiểu
số xấu để đại thể hoá gán cho một quân đội đã hy sinh trên dưới
30 vạn người, hơn nửa triệu bị thương thì đúng là... thối đếch
chịu được.
Nếu Mỹ và VNCH đã thắng trận, tôi đoan chắc với
anh, thì câu chuyện tôi kể anh nghe đây, người ta cũng cho là
thật nếu tôi phịa ra. Người ta sẽ năn nỉ tác giả viết thành sách,
chắc chắn là sẽ được biến thành bestseller, làm phim cho màn ảnh
lớn, màn ảnh nhỏ hốt bạc. Quân Lực VNCH rủi ro ở trong cảnh thua
trận, tôi xin nhất mạnh TẠM THUA, thì những gì xuất phát từ một
tên quân nhân của đạo quân thua trận đó đều được đánh giá là bá
láp. Đây là quy luật sống của thế giới văn minh, anh nhớ cho.
Tôi bật mí chuyện bí mật này không là để thanh minh thanh nga
với đám người tầm thường nói trên. Chúng mình thua trận, mất tất
cả, nhưng có một cái chưa hề mất từ ngày dân ta lập quốc là HÃNH
DIỆN DÂN TỘC. Sự hãnh diện đó không cho phép tôi đi tranh cãi với
đám người phù thịnh không phù suy.
Tôi chỉ muốn cho thế hệ
trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước, những người sẽ nắm
vận mạng Việt Nam trong tương lai biết rằng thế hệ cha anh của họ
đã chiến đấu thế nào cho tự do của dân tộc. Họ chiến đấu không
phải vì những danh từ trừu tượng đao to búa lớn như “tổ quốc”,
“yêu nước”, “độc lập”, “tự do”, “hạnh phúc”, “dân chủ đa nguyên”,
v.v. Họ chiến đấu cho những gì thiết thực hơn, thấy được trước
mắt. Đó là làm sao cho con người Việt Nam được sống xứng đáng với
thân phận con người chớ không phải kiếp sống con thú nhốt trong
chuồng, dầu chuồng bằng vàng ròng, mất hết tự do. Đó là làm sao
trên đất nước Việt Nam thân yêu không còn cảnh thằng mạnh hiếp
thằng yếu, thằng giầu hiếp thằng nghèo, thằng làm hộc máu mồm mà
không đủ cơm ăn no, làm sao không còn cảnh một con người quảy đôi
gióng gánh trên vai với đôi mắt tuyệt vọng đi thất thểu không
biết về đâu dẫn theo những đứa trẻ, đôi mắt nai vàng ngơ ngác,
không hiểu tại sao người lớn lại hung dữ quá, ác quá như thế này!
Tôi muốn cho loài người gọi là văn minh biết rằng, dân tộc
Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hoà bình nhất thế giới vì chưa có
dân tộc nào chịu đau khổ vì chiến tranh bằng dân tộc này. Tuy
nhiên đừng đem thảm hoạ chiến tranh tròng lên đầu họ. Khi bị bắt
buộc chiến đấu, dân Việt Nam dám chiến đấu và biết chiến đấu.
Mong các ông phù thịnh mà không phù suy nhớ cho câu này.
Tiệc rượu chấm dứt ở đây.
NGŨ LANG
(1)
Tôi đã được Đại tá Nghĩa đưa xem bản
tuyên dương công trạng vài ngày sau đó. Sau bao nhiêu biến cố, không
hiểu làm sao ông ta giữ được những giấy tờ này.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Di tích Lịch sử CTVN – Cổ Thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị–VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
November 1, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang