Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược
dòng Thời gian
Chủ đề:
Lịch sử CTVN
Tác giả:
Lâm Vĩnh Thế
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bị
khai tử vào trưa ngày 30/4/1975. Điều này người Việt Nam ai cũng
biết rõ. Và người Việt Nam ai cũng biết rõ là VNCH đã thua trận
vì đã bị Hoa Kỳ bỏ rơi. Nhiều năm qua, không ít người Việt Nam đã
oán hận Tổng Thống Hoa Kỳ Richard M. Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc
Gia (sau là Bộ Trưởng Ngoại Giao) Henry A. Kissinger vì cho rằng
hai vị này đã bán đứng và đâm sau lưng VNCH qua Hiệp Định Paris
ký kết ngày 27/1/1973. Bài viết này cố gắng tìm hiểu cho thật
đúng việc Hoa Kỳ bỏ rơi VNCH để có thể quy rõ trách nhiệm thuộc
về ai.
Cuộc Chiến Giữa Hành Pháp và Lập Pháp Hoa Kỳ 1973-1975.
Sau cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội
ngày 7/11/1972, vào đầu năm 1973, sau khi Tổng Thống Richard M.
Nixon tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2 vào ngày 20/1/1973, tình
hình chính trị của Hoa Kỳ ở vào thế cực kỳ mâu thuẫn:
• Hành pháp: Tổng
Thống Nixon thuộc Đảng Cộng Hòa đã thắng rất lớn (a big
landslide), đánh bại đối thủ thuộc Đảng Dân Chủ là Thượng Nghị Sĩ
George McGovern của tiểu bang South Dakota như sau:
o Về phiếu bầu của dân chúng (Popular
vote): Nixon chiếm 47.1 triệu (60.7%); McGovern chỉ được 29.1
triệu phiếu (37.5%)
o Về phiếu cử tri đoàn (Electoral
vote): Nixon được 520 phiếu (Nixon thắng tại 49 tiểu bang, kể cả
tiểu bang quê nhà của McGovern là South Dakota); McGovern chỉ
được có 17 phiếu cử tri đoàn (McGovern chỉ thắng được một tiểu
bang duy nhất là Massachusetts và thủ đô Washington, D.C. mà thôi
[1]
• Lập pháp: trái ngược
lại, Quốc Hội Hoa Kỳ (Khóa 93, nhiệm kỳ từ ngày 3/1/1973 cho đến
ngày 3/1/1975) hoàn toàn nằm trong tay Đảng Dân Chủ với chi tiết
như sau:
o Tại
Hạ Viện: Đảng Dân Chủ chiếm đa số với 241 ghế trong khi Đảng Cộng
Hòa là thiểu số với 192 ghế
o Tại Thượng Viện: Đảng Dân Chủ chiếm
đa số với 56 ghế trong khi Đảng Cộng Hòa là thiểu số với 42 ghế
[2]
Trong bầu không khí chính trị căng
thẳng và chia rẽ trầm trọng tại Hoa Kỳ do cuộc Chiến Tranh Việt
Nam tạo ra, kết quả bầu cử của năm 1972 cho thấy rõ ràng là người
dân Mỹ mong muốn hai điều như sau được thực hiện:
• Chính phủ Cộng Hòa, với Tổng Thống
Nixon vừa được tái cử với một đa số tuyệt đối, sẽ thành công
trong việc thương thuyết để chấm đứt cuộc chiến
• Quốc Hội Dân Chủ, với đa số tuyệt đối
ở cả 2 viện, sẽ thành công trong việc bảo đảm không để cho Hoa Kỳ
bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tương tự.
Trong hoàn cảnh như thế, cả hai phía
hành pháp và lập pháp đều thấy rằng mình đã có được một căn bản
rất vững chắc để có thể tự cho rằng mình đã được dân chúng trao
cho sứ mạng (Mandate) để thực hiện cho được cái điều mà dân chúng
mong muốn. Đồng thời, cả hai phía cũng đều hiểu rất rõ sự hạn chế
của cái “sứ mạng” của mình vì phía bên kia cũng có “sứ mạng” của
họ.
Về phía
hành pháp, Tổng Thống Nixon, trong cuốn hồi ký của mình, đã nhận
định như sau, trong đêm 7/11/1972, khi các kết quả bầu cử đang
được báo cáo:
“In state after state we were winning big. Texas, for example,
was going to be ours by more than a million votes. But there was
also bad news: we were not picking up enough congressional seats
to provide the legislative support my own New Majority mandate
would need.”
[3]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Hết tiểu bang này đến tiểu
bang khác, chúng tôi đều thắng lớn. Thí dụ: chúng tôi cũng sẽ
giành được tiểu bang Texas, thắng đối phương hơn một triệu phiếu.
Nhưng cũng có tin xấu: chúng tôi không chiếm đủ ghế tại quốc hội
để có thể có được sự ủng hộ về lập pháp mà sứ mạng Tân Đa Số của
chính tôi sẽ cần đến).
Để thuyết phục Tổng Thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu đồng ý ký Hiệp Định Paris, Tổng Thống Nixon đã nhiều
lần cam kết trong các mật thư gửi cho ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ trả
đũa nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Lời cam kết đó đã được lập
lại trong mật thư của Tổng Thống Nixon gửi Tổng Thống Thiệu ngày
5/1/1973 như sau:
“... we will respond with full force
should the settlement be violated by North Vietnam.”
[4]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Chúng tôi sẽ dốc toàn lực
đối phó nếu Bắc Việt vi phạm thỏa ước này).
Các mật thư đó đều do Cố Vấn An Ninh
Quốc Gia Tiến sĩ Henry A. Kissinger soạn thảo cho Tổng Thống
Nixon ký. Tuy nhiên, ông Kissinger không bao giờ hở môi về các
mật thư này. Hơn nữa, vì biết rõ phía lập pháp sẽ chống đối việc
tái diễn Chiến Tranh Việt Nam, sau khi Hiệp Định Paris đã được ký
kết, ông luôn luôn tìm cách tránh né không trả lời thẳng khi được
các ký giả Mỹ hỏi liệu Hoa Kỳ sẽ gửi quân trở lại Việt Nam hay
không nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Tác giả Walter Isaacson,
trong tác phẩm “Kissinger: a biography,” đã ghi lại như sau:
“Asked at a news conference in early
1973 if the U.S. ‘would ever again send troops into Vietnam’ if
the accord was violated, he responded: ‘I don’t want to comment
on a hypothetical situation that we don’t expect to arise.’”
[5]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Khi được hỏi tại một cuộc
họp báo vào đầu năm 1973 là liệu Hoa Kỳ sẽ gửi quân trở lại Việt
Nam hay không nếu hiệp định [Paris] bị vi phạm, ông ta [chỉ
Kissingder] đã trả lời như sau: “tôi không muốn bình luận về một
tình huống giả định mà chúng tôi không nghĩ là sẽ xảy ra”).
Về phía Lập Pháp Hoa Kỳ, các Dân Biểu
và Thượng Nghị Sĩ Đảng Dân Chủ đã thấy rõ chủ trương của Nixon và
Kissinger qua chính sách “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”
(Vietnamization of the War, thường được giới truyền thông gọi tắt
gọn là Vietnamization), tiếp tục viện trợ, đồng thời chuyển giao
căn cứ quân sự và chiến cụ cho QLVNCH từ 1969 song song với việc
rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Việc tăng cường khả năng chiến đấu
cho QLVNCH này đạt đến cực điểm qua hai chương trình gọi là
Enhance (tháng 5/1972) và Enhance Plus (tháng 10/1972). Hai
chương trình này đã chuyển giao cho QLVNCH, trong một thời gian
thật ngắn, một số lượng vũ khí lớn chưa từng có như sau:
• Enhance chuyển giao:
o 69 phi cơ trực thăng
o 55 phản lực cơ chiến đấu
o 100 phi cơ
đủ loại khác
o 7 tàu tuần tiểu
o 2 tiểu đoàn pháo phòng không
o 3 tiểu
đoàn pháo 175ly
o 2 tiểu đoàn thiết giáp
M48-A3
o 141 súng phóng (launchers) hỏa
tiễn TOW.
•
Enhance Plus chuyển giao:
o 234 phản lực cơ chiến đấu (F-5A và
A-37)
o 32 vận tải cơ C-130
o 177 phi cơ trực thăng UH-1H
o 72 xe
thiết giáp
o 177 thiết vận xa
o 1,726 xe vận tải.
[6]
Sau hai đợt chuyển giao chiến cụ này,
Không Quân của QLVNCH đã trở thành không quân đứng hạng 4 trên
thế giới về số lượng phi cơ (sau Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung cộng).
Do đó Quốc Hội Hoa Kỳ, dưới sự kiểm
soát của Đảng Dân Chủ, đã tìm mọi cách ngăn chận trước, không để
cho khả năng tái diễn Chiến Tranh Việt Nam có thể xảy ra. Để có
thể thực hiện được điều này, các dân biểu và nghị sĩ Dân Chủ tin
rằng họ cần phải tạo ra một đạo luật để giới hạn quyền mang quân
ra nước ngoài của tổng thống. Đó là lý do ra đời của đạo luật War
Powers Act do Dân Biểu Clement J. Zablocki (Dân Chủ - Tiểu Bang
Wisconsin) đệ trình tại Hạ Viện ngày 3/5/1973. Đạo luật được Hạ
Viện thông qua ngày 10/7/1973 và Thượng Viện thông qua ngày
20/7/1973 nhưng sau đó đã bị Tổng Thống Nixon phủ quyết ngày
24/10/1973. Quốc Hội tái xét và đánh bại phủ quyết của Tổng Thống
Nixon vào ngày 7/11/1973 với đa số tuyệt đối là 284-135 tại Hạ
Viện và 75-18 tại Thương Viện.[7]
Đạo luật War Powers Act đòi hỏi Tổng Thống phải thông báo cho
Quốc Hội trong vòng 48 giờ việc gửi quân ra nước ngoài và cấm
không cho sử dụng quân lực hơn 60 ngày nếu không có sự cho phép
của Quốc Hội, trừ phi đã có sự tuyên chiến của Quốc Hội Hoa Kỳ.
Ý Nghĩa Và Vai Trò Của Hiệp
Định Paris
Hai phe đối đầu trong chính phủ Hoa Kỳ,
một bên là Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger
(về sau, kể từ ngày 22/9/1973, trở thành Bộ Trưởng Ngoại Giao),
một bên là các dân biểu và nghị sị thuộc Đảng Dân Chủ trong Quốc
Hội đã liên tục tranh chấp với nhau trong vấn đề chính sách đối
với VNCH sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/1/1973.
Hiệp Định Paris, thật ra, mang ý nghĩa gì?
Ngay từ khi bắt đầu cuộc đàm phán với
Bắc Việt, Nixon và Kissinger đã có chủ trương rất rõ rệt với 3
mục tiêu như sau:
1. Bằng mọi giá phải đạt được việc
ngưng bắn, nghĩa là giải quyết cuộc chiến thuần túy về mặt quân
sự để Hoa Kỳ có thể hoàn tất việc rút quân ra khỏi Việt Nam, và
mang được hết tất cả tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt giam giữ tại Hà
Nội về nước;
2. Việc giải quyết cuộc chiến về mặt chính trị sẽ để cho các phe
Việt Nam liên hệ giải quyết với nhau;
3. Tiếp tục viện trợ để VNCH có thể tồn
tại.
Chính vì
mục tiêu số 1 nói trên, Hoa Kỳ đã chấp nhận đồng ý ngay cả việc
quân Bắc Việt được phép ở lại Miền Nam trong khi Hoa Kỳ rút tất
cả quân về nước. Và cũng chính vì mục tiêu số 1 đó, Tổng Thống
Nixon, bất chấp việc Quốc Hội và dân chúng Mỹ kịch liệt phản đối,
đã ra lệnh oanh tạc Hà Nội trong thời gian Lễ Giáng Sinh năm 1972
để buộc Bắc Việt phải trở lại bàn hội nghị để ký Hiệp Định Paris.
Và cũng chính vì mục tiêu số 1 đó, Tổng Thống Nixon, trong mật
thư ngày 20/1/1973 gửi cho Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, đã
nói thẳng ra là ngay cả nếu VNCH không chịu ký, Hoa Kỳ vẫn sẽ đơn
phương ký Hiệp Định Paris, nguyên văn như sau:
“I must meet with key Congressional
leaders Sunday evening, January 21, to inform them in general
terms of our course. If you cannot give me a positive answer by
then, I shall inform them that I am authorizing Dr. Kissinger to
initial the Agreement even without the concurrence of your
Government. In that case, even if you should decide to join us
later, the possibility of continued Congressional assistance will
be severely reduced.”
[8]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Tôi phải họp với các vị lãnh
đạo Quốc Hội vào tối Chúa Nhật, 21 Tháng Giêng, để thông báo cho
họ một cách tổng quát về công việc của chúng ta. Nếu đến lúc đó
mà ông vẫn không thể trả lời thuận với tôi, tôi sẽ thông báo với
họ là tôi sẽ cho phép Tiến sĩ Kissinger ký tắt bản Thỏa Ước ngay
cả không có sự đồng thuận của Chánh phủ của ông. Trong trường hợp
này, ngay cả nếu sau này ông quyết định đi cùng chúng tôi, khả
năng của việc tiếp tục giúp đỡ của Quốc Hội sẽ bị cắt giảm một
cách nghiêm trọng).
Tại sao Nixon và Kissinger đã quá coi
nặng sự cần thiết phải ký Hiệp Định Paris như vậy? Đây là một
trọng điểm trong chiến lược giải quyết Chiến Tranh Việt Nam của
hai ông mà chúng ta cần tìm hiểu cho thật rõ ràng. Khi ra tranh
cử chức vụ tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1968, ông Nixon đã nhìn thấy
rõ là Chiến Tranh Việt Nam đã trở thành nguyên nhân tạo ra sự
chia rẽ vô cùng trầm trọng trong nội bộ dân chúng Mỹ và nó phải
được chấm dứt càng sớm càng tốt. Ông đã tranh cử với lời hứa là
sẽ thương thuyết để chấm dứt cuộc chiến đó, và ông đã thắng đối
phương, ứng cử viên của Đảng Dân Chủ là đương kim Phó Tổng Thống
Hubert H. Humphrey, nhưng thắng một cách chật vật, với một tỷ số
phiếu rất khít khao (Nixon: 31,783,783 phiếu hay 43.4%; Humphrey:
31,271,839 phiếu hay 42.7%)
[9]
Ông cũng nhận ra rằng người dân Mỹ đã chống Chiến Tranh Việt Nam
vì đó là một cuộc chiến không có một căn bản pháp lý nào cả.
Trong trận Thế Chiến II, kéo dài chỉ có 4 năm (1941-1945), Hoa Kỳ
đã có gần nửa triệu binh sĩ tử trận (416,800), nhưng được dân
chúng ủng hộ 100%, hoàn toàn không có chống đối gì cả. Tại sao
vậy? Vì đó là một cuộc chiến tranh đã được Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên
chiến vào ngày 8/12/1941 sau cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân
Châu Cảng vào một ngày trước đó. Cả 2 ông Nixon và Kissinger đều
không có một ảo tưởng nào cả về việc Bắc Việt sẽ tôn trọng và
tuân thủ Hiệp Định Paris. Cả hai ông đều nghĩ và tin chắc là Bắc
Việt sẽ vi phạm Hiệp Định, tấn công VNCH để hoàn thành mục tiêu
thống nhất Việt Nam của họ. Và chính vì tin như vậy, hai ông cần
có một căn bản pháp lý vững chắc để trả đũa các vi phạm đó mà
không sợ sẽ gặp sự chống đối. Hiệp Định Paris sẽ là căn bản pháp
lý vững chắc đó. Ông Kissinger đã nói rõ chiến lược này như sau
tại buổi họp vào đầu tháng 1/1973 với ông Bùi Diễm, Đại Sứ lưu
động của Tổng Thống Thiệu, và ông Trần Kim Phượng, Đại Sứ VNCH
tại Hoa Kỳ:
“We thought that if we could end the war honorably, with your
government in office and with clear obligations in the agreement,
that we would have so much authority afterwards that if we said
that North Vietnam was violating the agreement, we could bomb
them and no one would challenge us.... Who knows today about the
armistice was all about in Korea? If Korea is attacked, we would
defend it. Why should we do this in Korea and not in Vietnam?
There is no reason.... With an army of over a million and
controlling a large part of the territory, we think you can
handle a ceasefire, at least for a long enough period until there
are violations of the agreement.... We thought in that the name
of an agreement we would be better able to help than in the name
of war. That is our cold-blooded appraisal.... The only use of
provisions is to give us a pretext to act.... The agreement buys
time.”
[10]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Chúng tôi nghĩ rằng nếu
chúng ta có thể kết thúc cuộc chiến một cách danh dự, với chánh
phủ của quý vị vẫn tại chức và với những ràng buộc rõ ràng trong
thỏa ước, thì sau đó chúng tôi sẽ có được nhiều thẩm quyền đến
mức là nếu chúng tôi nói rằng Bắc Việt đã vi phạm thỏa ước, thì
chúng tôi có thể dội bom họ mà sẽ không có ai có thể thách đố
chúng tôi.... Hiện nay ai biết hiệp định đình chiến là cái gì đối
với Triều Tiên? Nếu Triều Tiên [chỉ Nam Triều Tiên, tức Nam Hàn]
bị tấn công, chúng ta sẽ bảo vệ họ. Tại sao chúng ta làm được
chuyện đó ở Triều Tiên mà không làm được tại Việt Nam? Không có
lý do nào cả.... Với một quân đội trên một triệu quân và với sự
kiểm soát một phần lớn lãnh thổ, chúng tôi nghĩ rằng quý vị có
thể giữ vững được một cuộc ngưng bắn, ít nhất cũng là đủ lâu
trước khi đối phương vi phạm thỏa ước.... Chúng tôi nghĩ rằng
nhân danh thỏa ước đó, chúng tôi sẽ có thể giúp đỡ quý vị rất dễ
dàng hơn là nhân danh một cuộc chiến. Đó là cách đánh giá lạnh
lùng của chúng tôi.... Việc sử dụng duy nhất các điều khoản [của
thỏa ước] là cho chúng ta một cái cớ để ra tay.... Thỏa ước là để
giúp chúng ta mua được thời gian).
Nhận định này hoàn toàn phù hợp với sự
cam kết của Tổng Thống Nixon trong mật thư gửi Tổng Thống Thiệu
ngày 5/1/1973 như đã trình bày bên trên.
Sau khi Hiệp Định Paris đã được ký kết
vào ngày 27/1/1973, Hoa Kỳ tiếp tục vận động để cộng đồng quốc tế
ủng hộ Hiệp Định. Kết quả là một hội nghị quốc tế đã được triệu
tập tại Paris vào ngày 2/3/1973, gồm 9 nước là Hoa Kỳ, Anh, Pháp,
Canada, Trung cộng, Liên Xô, Nam Dương, Hung Gia Lợi, Ba Lan, và
ba phe liên hệ tại Việt Nam là VNCH, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(tức Bắc Việt), và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (tức Việt Cộng hay
Mặt Trận Giải Phóng), với sự hiện diện của Ông Tổng Thư Ký Liên
Hiệp Quốc, đã ký kết một thông cáo chung công nhận Hiệp Định
Paris bảo đảm cho nền hòa bình tại Đông Dương.[11]
Để có thể thực hiện những lời cam kết
của Tổng Thống Nixon là sẽ trả đũa dữ dội nếu Bắc Việt vi phạm
Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ đã có nhiều sự chuẩn bị rất cụ thể. Vì
biết trước chắc chắn là việc gửi quân bộ chiến trở lại Việt Nam
là hoàn toàn vô khả thi, Nixon và Kissinger chỉ có thể trả đũa
các vụ vi phạm Hiệp Định Paris của Bắc Việt bằng Không Quân mà
thôi. Và bằng Không Quân có nghĩa là sẽ sử dụng phản lực cơ oanh
tạc chiến lược B-52 để giảm thiểu thiệt hại bởi hệ thống phòng
không của Bắc Việt. Trong các chuẩn bị đó, việc thiết lập một đơn
vị không quân đặc biệt sau đây tại Thái Lan là quan trọng nhất.
Đó là Bộ Tư Lệnh của Lực Lượng Yểm Trợ / Sư Đoàn 7 Không Quân
(United States Support Activities Group / Seventh Air Force, viết
tắt là USSAG/7AF) đặt tại Nakhon Phanom, Đông Bắc Thái Lan, với
sứ mạng như sau:
“USSAG/7AF, Thailand, will plan for
resumption of an effective air campaign in Laos, Cambodia, RVN
and NVN as directed by CINCPAC;...”
[12]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: USSAG/7AF, Thái Lan, sẽ lên
kế hoạch cho việc thực hiện trở lại một chiến dịch oanh tạc có
hiệu quả tại Lào, Cao Miên, VNCH, và Bắc Việt theo chỉ thị của
CINCPAC;...) [CINCPAC = Commander-In-Chief PACIFIC = Tổng Tư Lệnh
Lực Lượng Thái Bình Dương].
Một tài liệu khác của Phòng Quân Sử, Bộ
Tư Lệnh Không Quân Hoa Kỳ cũng xác nhận điều này như sau:
“... The U.S. Support Activities
Group/Seventh Air Force (USSAG/7AF) command allowed the United
States to retain a full military position, not in South Vietnam,
but in Thailand. Its considerable forces, in conjunction with
Strategic Air Command (SAC) forces and the U.S. Seventh Fleet,
were intended primarily as a deterrent and warning to North
Vietnam not to overrun South Vietnam. There is no doubt that
President Nixon believed he would be able to use American air
power in Thailand to keep his promises to protect South Vietnam
against North Vietnamese cease-fire violations.”
[13]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: ... Bộ Tư lệnh của USSAG/7AF
giúp Hoa Kỳ duy trì được toàn bộ vị thế quân sự, không phải ở Nam
Việt Nam mà ở Thái Lan. Lực lượng rất đáng kể của nó, trong sự
phối hợp với các lực lượng Không Quân Chiến Lược [ám chỉ các phi
đoàn oanh tạc cơ chiến lược B-52] và Đệ Thất Hạm Đội [ám chỉ các
hàng không mẫu hạm với hàng trăm phi cơ phản lực khu trục và oanh
tạc đủ loại], đã được thành lập với dụng ý chính là cảnh báo Bắc
Việt không nên đánh chiếm Nam Việt Nam. Không có một nghi ngờ nào
là Tổng Thống Nixon tin rằng ông có thể sử dụng sức mạnh của
không quân tại Thái Lan để giữ lời hứa của ông là sẽ bảo vệ Nam
Việt Nam chống lại các vi phạm ngưng bắn của Bắc Việt).
Trên thực tế, trước những vi phạm
nghiêm trọng của Bắc Việt, thí dụ như việc tiếp tục cho quân xâm
nhập vào Miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ đã có những
cảnh báo rất rõ ràng. Sau đây là chi tiết về cảnh báo đó được ghi
lại trong cùng tài liệu vừa kể trên:
“On April 1, on the Meet The Press
television program, Defense Secretary Richardson warned Hanoi
that failure to comply with the cease-fire agreement could result
in a resumption of US mining and bombing of North Vietnamese
heartland. A few days later, Deputy Secretary of Defense William
P. Clements said the President had asked for and received a list
of possible military actions to back up his warning. Clements
said he didn’t think the President has any intention of letting
this situation go down the drain.”
[14]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Vào ngày 1 Tháng Tư, trên
chương trình truyền hình Meet The Press, Bộ Trưởng Quốc Phòng
Richardson đã cảnh báo Hà Nội là việc họ không tuân thủ thỏa ước
ngưng bắn sẽ đưa đến việc Hoa Kỳ sẽ tái diễn việc gài mìn [ám chỉ
việc gài mìn phong tỏa cảng Hải Phòng] và oanh tạc nội địa Bắc
Việt [ám chỉ oanh tạc Hà Nội bằng máy bay B-52]. Một vài ngày
sau, Thứ Trưởng Quốc Phòng William P. Clements đã nói rằng Tổng
Thống [Nixon] đã yêu cầu và được cung cấp một danh sách những
hành động quân sự để bảo đảm cho cảnh báo của ông. Ông Clements
nói thêm là ông không nghĩ là “Tổng Thống có ý định bỏ trôi luôn
tình hình này”).
Tại hội nghị “The Paris Agreement on
Vietnam: twenty-five years later” họp tại The Nixon Center, ở
Washington, D.C., vào tháng 4/1998, ông Kissinger đã nói rõ như
sau:
“President Nixon had decided to resume bombing in March/73, when
the infiltration started. And he and I had a little debate
whether to do it while we still had prisoners there, or whether
to wait until all the prisoners were out, and he decided to do it
after the last prisoner was out, early in April.”
[15]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Tổng Thống Nixon đã quyết
định tái oanh tạc vào tháng Ba 1973 khi việc xâm nhập tái diễn.
Và ông ấy và tôi đã có một cuộc tranh cãi nhỏ về việc có nên làm
ngay trong khi vẫn còn tù binh ở đó hay là nên chờ cho đến khi
tất cả tù binh đã được trao trả, và ông ấy đã quyết định làm
chuyện đó sau khi người tù binh cuối cùng đã được trao trả, vào
đầu tháng Tư).
Không may, ngay tại thời điểm này,
tháng 4/1973, vụ Watergate
[16]
bùng nổ và Tổng Thống Nixon không còn có thì giờ và tinh thần để
thực hiện các cuộc oanh kích Bắc Việt như Hoa Kỳ đã cảnh báo nữa.
Tác giả Tiến sĩ Larry Berman, trong tác phẩm của ông, “No peace,
no honor: Nixon, Kissinger, and betrayal in Vietnam,” đã trích
dẫn một bài báo của ký giả William F. Buckley, Jr., đăng trong
The Wall Street Journal, số ra ngày 27/4/1975, với những thông
tin như sau:
“... that Watergate had derailed the president’s plan to
pulverize Hanoi... My own information is that it was planned,
sometime in April, to pulverize Hanoi and Haiphong.”
[17]
(Xin tạm dich sang Việt ngữ như sau: ... vụ Watergate đã làm hỏng
kế hoạch nghiền nát Hà Nội của tổng thống... Thông tin riêng của
tôi là việc đó đã được lên kế hoạch, thời gian nào đó trong tháng
Tư, để nghiền nát Hà Nội và Hải Phòng).
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chính
thức viếng thăm Hoa Kỳ từ ngày 2 đến ngày 4/4/1973. Tổng Thống
Nixon đã tiếp Tổng Thống Thiệu tại San Clemente, California
(Nixon quyết định không tiếp ông Thiệu tại Washington, D.C. vì lo
ngại các vụ biểu tình phản chiến lại bùng phát), và đã lập lại
những cam kết tiếp tục ủng hộ VNCH cũng như sẽ phản ứng mạnh nếu
Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris. Sau cuộc hội đàm, trong Thông
Cáo Chung (Joint Communique) ngày 3/4/1973, có một đoạn nói rõ
như sau:
“Both
Presidents, while acknowledging that progress was being made
toward military and political settlements in South Vietnam,
nevertheless viewed with great concern infiltrations of men and
weapons in sizable numbers from North Vietnam into South Vietnam
in violation of the agreement on ending the war, and considered
that actions which would threaten the basis of the agreement
would call for appropriate vigorous reactions.”
[18]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Cả hai vị Tổng Thồng, trong
khi cộng nhận rằng đã có tiến triển trong việc giải quyết các vấn
đề quân sự và chính trị tại Nam Việt Nam, vẫn rất lo ngại đối với
việc xâm nhập người và vũ khí với số lượng lớn từ Bắc Việt vào
Nam Việt Nam vi phạm thỏa ước chấm dứt chiến tranh, và cả hai vị
đều cho rằng những hoạt động đe dọa nền tảng của thỏa ước sẽ đưa
đến những phản ứng mãnh liệt cần phải có).
Kẻ Phản Bội VNCH: Quốc Hội Hoa
Kỳ Do Đảng Dân Chủ Kiểm Soát
Trong khi Tổng Thống Nixon và các cộng
sự viên của ông tích cực hoạt động để buộc Hà Nội phải tuân thủ
Hiệp Định Paris thì Quốc Hội Hoa Kỳ lại tích cực hoạt động theo
chiều hướng hoàn toàn ngược lại.
Việc đầu tiên, như đã trình bày bên
trên, là Quốc Hội Khóa 93, do Đảng Dân Chủ nắm đa số tại cả hai
viện, đã thông qua đạo luật War Powers Act nhằm trói tay Hành
Pháp là chính phủ Nixon trong việc sử dụng lực lượng quân sự.
Trong bối cảnh chính trị nội bộ như vậy, hai ông Nixon và
Kissinger lại phạm một lỗi lầm lớn là không đệ trình Hiệp Định
Paris cho Quốc Hội để phê chuẩn vì hai ông nghĩ là khó đạt được
sự phê chuẩn của Thượng Viện.
Tại hội nghị “The Paris Agreement on
Vietnam: twenty-five years later” đã đề cập đến bên trên, một
tham dự viên, Đại Tướng Không Quân hồi hưu Charles Graham Boyd
(Tướng Boyd là người duy nhất trong số phi công tù binh Hoa Kỳ bị
giam giữ tại Hỏa Lò Hà Nội sau đó đã lên đến cấp đại tướng 4 sao
của Không Quân Hoa Kỳ) đã phát biểu như sau:
“I believe that had the Paris Peace
Accords been brought back and presented to the Congress of the
United States for ratification that we would have been able to
sustain the support necessary to honor the commitment to the
government of South Vietnam.... it seems to me that it would have
been very difficult for the Congress of the United States to have
refused at that point to support a document knowing that it would
not lead to withdrawal of troops and a repatriation of the
prisoners if they did not do so. It would have made them
stakeholders in that process, making it impossible to pull the
rug out from under the Paris Peace Accords the following
year....”
[19]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Tôi tin rằng nếu Hiệp Định
Paris đã được mang về và đệ trình cho Quốc Hội phê chuẩn thì
chúng ta đã có thể có được sự hỗ trợ cần thiết để giữ được sự cam
kết của chúng ta đối với chính phủ Nam Việt Nam... theo tôi thấy
Quốc Hội Hoa Kỳ khó có thể từ chối lúc đó không ủng hộ một văn
kiện đã dẫn đến việc rút quân và mang về nước được tất cả tù
binh. Nó sẽ giúp cho Quốc Hội trở thành những thành viên trong
tiến trình đó, làm cho Quốc Hội không thể phá hoại Hiệp Định
Paris vào năm sau...)
Lời phát biểu trên của Tướng Boyd có
thể đúng. Thượng Viện Hoa Kỳ, mặc dù lúc đó do Đảng Dân Chủ chiếm
đa số (điều lo ngại của Nixon và Kissinger), vẫn có thể đã phê
chuẩn Hiệp Định Paris vì một cuộc thăm dò dư luận vào cuối
1/1973, ngay sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, cho thấy tỷ lệ
dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ Hiệp Định rất cao:
“Gallup polls in January 1973 showed
that 80 percent were satisfied with the Paris Agreement, 58
percent believed that it was indeed a ‘peace with honor,’”
[20]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Cuộc thăm dò dư luận Gallup
vào tháng Giêng 1973 cho thấy rằng 80 phần trăm thỏa mãn với Hiệp
Định Paris, 58 phần trăm tin rằng đây quả đúng là một “nền hòa
bình trong danh dự”).
Thấy rõ ý định của chính phủ Nixon sẽ
trả đũa các vi phạm Hiệp Định Paris của phe cộng sản bằng cách
tái oanh tạc Bắc Việt, và từ đó, có thể làm cho Chiến Tranh Việt
Nam tái phát, Quốc Hội Hoa Kỳ đã tìm cách ngăn chận trước bằng
cách cắt giảm ngân sách viện trợ cho VNCH.
Đúng ngay thời điểm này, vụ Watergate
bùng nổ. Các tờ báo lớn của Hoa Kỳ như Time, New York Times và
đặc biệt là tờ Washington Post, với hai kỳ giả Bob Woodward và
Carl Bernstein, bắt đầu phanh phui nội vụ, cho thấy vụ đột nhập
vào văn phòng của Ủy Ban Bầu Cử của Đảng Dân Chủ tại tòa nhà
Watergate, và sau đó là việc tìm cách che đậy vụ đó có dính líu
đến các giới chức cao cấp của Bộ Tư Pháp, các cơ quan an ninh như
CIA, FBI, và cả Tòa Bạch Ốc luôn. Uy tín của Tổng Thống Nixon bắt
đầu tuột dốc một cách thê thảm:
[21]
• Tháng 1/1973: sau khi tái đắc cử
nhiệm kỳ 2, và Hiệp Định Paris được ký kết, thăm dò dư luận
Gallup cho thấy ông được sự ủng hộ của 68% dân chúng
• Tháng 4/1973: chỉ còn 48%
• Tháng 8/1973: chỉ còn 31%
Từ giữa tháng 4/1973, trước việc Bắc
Việt tiếp tục cho quân xâm nhập vào Miền nam, một sự vi phạm rõ
rệt Hiệp Định Paris, Kissinger nhiều lần khuyến cáo Nixon tiến
hành việc trả đũa nhưng Nixon chỉ bàn cho qua chuyện nhưng không
ra lệnh tiến hành tái oanh tạc vì ông quá bận với việc đối phó
với vụ Watergate. Tác giả Kadura, trong tác phẩm The War after
the War, ghi lại rõ như sau:
“Kissinger reasoned, ‘Whatever the cost
may be, in my judgment it will be far less than the cost which we
will have to pay if, because of our inaction now, the Agreement
completely fails as a result of major North Vietnamese actions in
the coming months.’ Nixon, however, did not make the hard
decision, favored by Haig and Kissinger, to extensively bomb the
Ho Chi Minh Trail and (possibly) infiltration routes across the
Demilitarized Zone.... Confronted with the increasingly
unsettling domestic crisis, Nixon did not have the nerve to raise
the stakes in Indochina.”
[22]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Kissinger lý luận, “Dù cho
với giá nào đi nữa, theo sự đánh giá của tôi, thì nó cũng sẽ thấp
hơn rất nhiều so với cái giá mà chúng ta sẽ phải trả, nếu vì sự
bất động của chúng ta hiện nay, mà Thỏa Ước [ám chỉ Hiệp Định
Paris] thất bại hoàn toàn do những hành động lớn lao của Bắc Việt
trong những tháng sắp tới.” Tuy nhiên, Nixon đã không dám thực
hiện quyết định táo bạo đó, đã được cả Haig [Tướng Alexander
Haig, lúc đó là Phụ Tá của Kissinger] và Kissinger ủng hộ, là
oanh tạc dữ dội Đường Mòn Hồ Chí Minh và (cò lẽ luôn cả) những
đường xâm nhập xuyên qua Khu Phi Quân Sự.... Lúc đó đang phải
dương đầu với cuộc khủng hoảng quốc nội không lối thoát [ám chỉ
vụ Watergate], Nixon đã không có đủ nghị lực để làm mạnh tại Đông
Dương).
Thấy
rõ sự chùn bước của Nixon, Quốc Hội do Đảng Dân Chủ nắm đa số,
bắt đầu tiến hành mạnh chính sách chống chiến tranh của họ. Như
trên đã có nói, Dân Biểu Zablocki đệ trình dự luật War Powers Act
tại Hạ Viện ngày 3/5/1973. Kế tiếp, họ tìm cách giới hạn sự can
thiệp của Hoa Kỳ ở Cao Miên. Từ lâu, Cao Miên, dưới sự lãnh đạo
của Quốc Trưởng Thái Tử Norodom Sihanouk, đã để cho phe cộng sản
(Bắc Việt và Việt Cộng) đặt căn cứ trên lãnh thổ của họ. Tháng
3/1970, trong lúc Sihanouk công du tại Pháp, Thủ Tướng Lon Nol
đảo chánh thành công, loại bỏ Sihanouk. Cao Miên tái lập bang
giao với Hoa Kỳ. Tháng 4/1970, QLVNCH, có sự phối hợp với quân
đội Mỹ, vượt biên giới Cao Miên, tấn công và phá hủy các căn cứ
của Cộng quân. Chiến Tranh Việt Nam được mở rộng sang cả Cao
Miên. Sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, ngày 27/1/1973, Tướng
Lon Nol cũng tuyên bố đơn phương ngưng bắn tại Cao Miên. Phe
Khmer Đỏ (cộng sản Cao Miên) không thỏa thuận ngưng chiến, vẫn
tiếp tục đánh phá, và vào tháng 4/1973, lực lượng Khmer Đỏ đã
tiến sát và bao vây thủ đô Nam Vang. Nixon đã ra lệnh cho Sư Đoàn
7 Không Quân Hoa Kỳ oanh tạc dữ dội vào các vị trí của quân Khmer
Đỏ và phá vỡ cuộc bao vây Nam Vang đó. Ngày 25/6/1973, Hạ Viện
thông qua một đạo luật, xuất phát và đã được thông qua tại Thượng
Viện, cắt bỏ hết ngân sách dành cho việc Không Quân Hoa Kỳ oanh
tạc tại Cao Miên vào ngày 30/6/1973. Dĩ nhiên, Tổng Thống Nixon
đã lập tức phủ quyết đạo luật này. Ngay tại thời điểm này, với sự
khai báo của John Dean
[23]
trước Ủy Ban Điều Tra của Thượng Viện,[24]
cho thấy chính Nixon cũng có liên can tới vụ Watergat, uy tín của
Nixon càng sụt giảm thêm. Mặc dù không đủ số phiếu để đánh bại
phủ quyết của Tổng Thống Nixon, Quốc Hội vẫn tiếp tục đề nghị dự
luật, và Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Thủ Lãnh Phe Đa Số tại
Thương Viện tuyên bố sẽ tiếp tục mãi cho tới khi nào được thông
qua mới thôi. Nguyên văn lời tuyên bố của ông Mansfield như sau:
“again, again and again until the will
of the people prevails.”
[25]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: làm lại, làm nữa, làm hoài
cho đến khi nào ý muốn của dân chúng thắng mới thôi).
Tổng Thống Nixon nhận thấy không thể
nào thắng được nên đành phải nhượng bộ và chấp nhận một sự thỏa
hiệp với Quốc Hội: cho đạo luật thông qua, với hai sửa đổi:
1. Ngày chấm dứt oanh tạc ở Cao Miên là
ngày 15/8/1973 thay vì 30/6/1973 như trong dự luật;
2. Thêm vào sắc luật là áp dụng cho cả
Bắc và Nam Việt Nam luôn. Đạo luật này mang tên là Supplemental
Appropriations Act for FY (viết tắt cho Fiscal Year) 1973 (Luật
về Các Khoản Chi Phụ Thêm cho Tài Khóa 1973) có một điều khoản
ghi rõ như sau:
“None of the funds herein appropriated
under this act may be expended to support directly or indirectly
combat activities in or over Cambodia, Laos, North Vietnam, and
South Vietnam by United States forces, and after August 15, 1973,
no other funds heretofore appropriated under any other act may be
expended for such purpose.”
[26]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Không có bất cứ ngân khoản
nào đã được chuẩn chi trong đạo luật này được sử dụng để hỗ trợ
trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động tác chiến của quân lực Hoa
Kỳ trong hay trên lãnh thổ của Cao Miên, Lào, Bắc Việt, và Nam
Việt, và sau ngày 15 Tháng Tám 1973, không có bất cứ ngân khoản
nào đã được chuẩn chi trước đây trong bất cứ đạo luật nào có thể
được sử dụng cho các mục đích như thế).
Sau khi đạo luật này được Tổng Thống
Nixon ký ban hành, Ông Kissinger đã than thở như sau:
“It is getting impossible to do
anything in Indochina... That finishes us.”
[27]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Sẽ không thể nào làm được
cái gì nữa hết ở Đông Dương... Chúng ta coi như xong rồi).
Từ cuối tháng 6/1973 trở đi, đối với
các giới chức Mỹ tại thủ đô Washington, D.C., vấn đề sụp đổ của
VNCH được coi như chỉ còn là một vấn đề thời gian mà thôi. Rất có
thể từ lúc này trở đi, chính ông Kissinger cũng có suy nghĩ về
một một thời gian coi cho được (decent interval) như tác giả
Frank Snepp, chuyên gia phân tích tình báo (Intelligence Analyst)
của CIA tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, có mặt tại đây cho đến
ngày 29/4/1975, đề cập đến trong tác phẩm nổi tiếng của ông
Decent interval: an insider’s account of Saigon’s indecent end,
do nhà xuất bản Random House xuất bản năm 1977. Theo quan điểm
này, chính phủ Hoa Kỳ phải tìm cách để giúp cho VNCH có thể kéo
dài sự sống còn trong một khoảng thời gian nào đó, coi cho được,
có lẽ vào khoảng 2 hay 3 năm, để cho Hoa Kỳ khỏi bị mang tiếng là
bỏ rơi đồng minh VNCH. Điều này có thể đúng vì chính ông
Kissinger, trong một tác phẩm của ông, cũng đã có viết ra suy
nghĩ của ông như sau:
“As for Indochina, I observed it with
the melancholy shown toward a terminally ill relative, hoping for
a long respite and a miracle cure I was unable to describe.”
[28]
(Xin tam dịch sang Việt ngữ như sau: Về vấn đề Đông Dương, tôi đã
quan sát nó với nổi buồn đau như trước một thân nhân sắp chết, hy
vọng kéo dài được một thời gian và có một cách cứu chữa nào đó
như phép lạ mà tôi không thể diễn tả được).
Trong thời gian 1973-1974, về mặt quốc
nội của Hoa Kỳ, vụ Watergate càng ngày càng thêm trầm trọng, Tổng
Thống Nixon phải dành rất nhiều thời gian của ông để chống đỡ,
trong lúc đó, về mặt quốc ngoại, lại xảy ra rất nhiều biến cố
quốc tế quan trọng, như vụ đảo chánh Tổng Thống Salvador Allende
tại Chile (11/9/1973), vụ Chiến Tranh Trung Đông Yom Kippur (từ
ngày 6 đến ngày 25/10/1973, giữa Do Thái và 1 liên minh Á-Rập do
2 nước Ai-cập và Syria lãnh đạo), vụ khủng hoảng dầu hỏa hè 1973.
Trong bối cảnh đó, vấn đề Việt Nam có phần bị chìm đi. Trước kia,
trong nhiệm kỳ I, Tổng Thống Nixon luôn luôn xem nặng vấn đề
ngoại giao và hành xử như chính ông là Bộ Trưởng Ngoại Giao (vai
trò Ngoại Trưởng của ông William P. Rogers rất là lu mờ; gần như
mọi chuyện về đối ngoại Nixon đều chỉ thảo luận với Cố Vấn An
Ninh Quốc Gia Kissinger mà thôi). Bây giờ, trước tình hình cuộc
khủng hoảng quốc nội, do vụ Watergate gây nên, ngày càng trầm
trọng, Tổng Thống Nixon cảm thấy không còn có thể lo chuyện quốc
ngoại nhiều như trước được nữa, ông quyết định cử ông Kissinger
thay thế ông Rogers làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ ngày 22/9/1973.
Người xưa có
nói “họa vô đơn chí,” giữa lúc chính phủ Nixon đang điên đầu
trong việc chống đỡ các cơn bão táp do vụ Watergate gây ra, Phó
Tổng Thống Spiro Agnew, cựu Thống Đốc tiểu bang Maryland, bị báo
chí phanh phui về tội tham nhũng trong thời gian còn làm Thống
Đốc Maryland, bị đưa ra tòa và nhận tội, phải từ chức vào ngày
10/10/1973. Tổng Thống Nixon phải cử người thay thế, và đó là Dân
Biểu Gerald R. Ford, Thủ Lãnh Thiểu Số Cộng Hòa tại Hạ Viện. Đến
cuối tháng 10/1973, vụ Watergate bước sang một giai đoạn mới,
trầm trọng hơn rất nhiều khi Tổng Thống Nixon quyết định cách
chức Công Tố Viên Đặc Biệt (Special Prosecutor) Archibald Cox khi
ông này nhiều lần đòi hỏi Tòa Bạch Ốc phải giao ra cuốn băng ghi
âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và các cố vấn quan trọng của
ông trong văn phòng tổng thống. Nixon ra lệnh cho Bộ Trưởng Tư
Pháp Elliot Richardson cách chức Cox, nhưng Richardson từ chối
không chịu làm và sau đó từ chức. Nixon đích thân cách chức Cox
và giải tán Văn Phòng Công Tố Viên Đặc Biệt. Vụ này làm bùng nổ
ra một cơn bão phản đối Nixon dữ dội từ công chúng và Quốc Hội.
Nixon phải chịu lùi bước, bổ nhiệm một công tố viên mới và hứa sẽ
giao ra các băng ghi âm đó.
Trước sự sụp đổ uy tín chính trị của
Tổng Thống Nixon, Quốc Hội đề xuất trở lại dự luật War Powers
Act, trước đó đã bị Nixon phủ quyết vào ngày 24/10/1973, và lần
này Quốc Hội đã đánh bại phủ quyết của Tổng Thống Nixon vào ngày
7/11/1973 với đa số tuyệt đối ở cả hai viện: 284-135 tại Hạ Viện
và 75-18 tại Thương Viện. Chính phủ Nixon đã bị trói tay về vấn
đề trực tiếp sử dụng lực lượng không quân Hoa Kỳ USSAG/7AF (đã
thiết lập sẵn tại Thái Lan như đã trình bày bên trên) để trả đũa
những vi phạm Hiệp Định Paris của Bắc Việt. Tuy nhiên, Nixon và
Kissinger vẫn còn có cách khác để ngăn chận Bắc Việt tấn công
cưỡng chiếm Miền Nam.
Ngay từ khi khởi sự hòa đàm với
Bắc Việt, Nixon và Kissinger đã có chủ trương rất rõ rệt với 2 kế
hoạch như sau:
1. Kế hoạch A (Plan A) là làm mọi cách
tạo ra thế quân bình tại Việt Nam (Equilibrium strategy) bằng
cách hỗ trợ tối đa VNCH để có thể chống trả bất cứ cuộc tấn công
nào từ Miền Bắc, trên cơ sở đó sẽ tiến đến việc ngưng bắn, cho
phép Hoa Kỳ rút hết quân về cũng như mang được hết tất cả tù binh
về nước;
2. Kế
hoạch B (Plan B) là một hợp đồng bảo hiểm (Insurance policy) sẽ
sử dụng trong trường hợp không thể thực thi được Kế hoạch A,
nghĩa là không còn có thể hỗ trợ VNCH được nữa, sẽ gồm 2 phần:
2.1. Sử dụng mối quan hệ tay ba Hoa Kỳ
- Liên Xô - Trung cộng để cố gắng ngăn trở Miền Bắc trong quyết
tâm cưỡng chiếm Miền Nam;
2.2. Nếu vẫn không thực hiện được phần
1, nghĩa là không ngăn chận được sự sụp đổ của Miền Nam, thì cố
gắng giảm thiểu tối đa thiệt hại cho uy tín của Chính phủ Hoa Kỳ
trong cộng đồng quốc tế.
[29]
Ngay sau khi Quốc Hội thông qua đạo
luật Supplemental Appropriations Act for FY 1973, cắt bỏ toàn bộ
các ngân khoản đã được chuẩn chi cho Đông Dương, vào cuối tháng
6/1973, cho thấy Kế hoạch A không thể thực hiện được, Nixon và
Kissinger chuyển ngay sang việc thực hiện Phần 1 của Kế hoạch B.
Kissinger đã có một buổi họp với Đại Sứ Nga tại Hoa Kỳ là Anatoly
Dobrynin vào tháng 7/1973 để nhắc nhở về chủ trương “détente”
(giảm bớt căng thẳng để tránh đụng độ) giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, và
cho biết ý định của Hoa Kỳ là sẽ rút khỏi Cao Miên, với dụng ý
khuyến nhủ Liên Xô cũng nên gây ảnh hưởng đối với Bắc Việt theo
cùng chiều hướng “détente” đó. Tháng 11/1973, Kissinger lại đi
Bắc Kinh họp với Chu Ân Lai, Thủ Tướng của Trung cộng. Cả hai
công tác này nhằm sử dụng mối quan hệ tay ba Hoa Kỳ - Liên Xô -
Trung cộng đều không mang lại kết quả gì cả. Nixon và Kissinger
không còn lối thoát nào ngoài việc chuyển sang thực hiện Phần 2
của Kế Hoạch B, cố gắng cho thấy là Hoa Kỳ đã làm tất cả mọi
chuyện có thể làm để giúp VNCH. Từ cuối tháng 6/1973, Nixon đã
đồng ý khi Kissinger nói với ông như sau:
“I think if we have to go down, the
record must show that we did everything.”
[30]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Nếu chúng ta phải thua, hồ
sơ ghi lại phải cho thấy rằng chúng ta đã làm hết tất cả mọi việc
có thể làm).
Cố gắng thực hiện Phần 2 của Kế Hoạch B cũng có thêm một mục tiêu
thứ hai là cho cả thế giới thấy rằng trách nhiệm làm mất Miền Nam
Việt Nam vào tay cộng sản không thuộc về Hành Pháp Hoa Kỳ (tức là
Chính phủ Nixon, và sau đó là Chính phủ Ford) mà hoàn toàn là
trách nhiệm của Quốc Hội Hoa Kỳ.
Và lịch sử, sau đó, đã chứng minh đúng
như thế. Quốc Hội Hoa Kỳ đã không ngần ngại mà, trái lại, còn
tích cực đảm nhận vai trò làm kẻ phản bội, bỏ rơi VNCH bằng cách
cắt giảm và sau cùng chấm dứt quân viện cho VNCH trong khi Bắc
Việt ngang nhiên xé bỏ Hiệp Định Paris, tái diễn chiến tranh, tấn
công Miền Nam với sự viện trợ lớn lao của Liên Xô và Trung cộng,
đưa đến sự sụp đổ vô cùng nhanh chóng của VNCH, nhanh hơn cả dự
liệu của Bắc Việt. Quốc Hội Hoa Kỳ dưới sự điều khiển của Đảng
Dân Chủ đã cắt giảm ngân sách viện trợ cho VNCH như sau:
• Tài Khóa 1974 (1/7/1973 cho đến
30/6/1974): Chính phủ Nixon đề nghị một ngân khoản viện trợ cho
VNCH là 1.6 tỷ đô-la nhưng Quốc Hội cắt còn có 1.126 tỷ đô-la
[31]
• Tài Khóa 1975 (1/7/1974 cho đến
30/6/1975): Chính phủ Nixon đề nghị, vào ngày 24/4/1974, một ngân
khoản viện trợ cho VNCH là 1.45 tỷ đô-la nhưng Quốc Hội cắt còn
có 700 triệu đô-la
[32]
Trong khi Quốc Hội còn trong giai đoạn
thảo luận ngân sách Tài Khóa 1975, trong tháng 6 và 7/1974, Chính
phủ Nixon đã đệ trình cho Quốc Hội một báo cáo nghiên cứu tình
hình quân sự tại VNCH do một ủy ban hỗn hợp Việt-Mỹ thực hiện.
Báo cáo nói rõ nếu ngân khoản viện trợ giảm xuống dưới mức 1.126
tỷ đô-la của Tài Khóa 1974 sẽ ảnh nghiêm trọng đến tinh thần cũng
như khả năng chiến đấu của QLVNCH. Trong lúc điều trần trước Quốc
Hội, khi được hỏi là chuyện gì sẽ xảy ra nếu số đạn dược cung cấp
cho QLVNCH bị cắt giảm nhiều do quân viện cho VNCH bị cắt giảm,
Bộ Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger đã trả lời như sau:
“The ability of the [South Vietnamese]
government to survive would be severely compromised. As you
recall, at the time of the cutoff of the tactical air support
last summer, there was some question whether the government could
survive. It pulled itself together, but it is dependent upon its
own forces and the munitions that are supplied to these forces.
Without such munitions, it is hard to see how it could survive.”
[33]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Khả năng sống còn của chính
phủ [Nam Việt Nam] sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Như quý vị còn
nhớ, vào lúc việc không trợ chiến thuật bị cắt bỏ hồi hè năm rồi,
cũng đã có câu hỏi được đặt ra là liệu chính phủ [Nam Việt Nam]
có thể sống còn không. Họ đã cố gắng hết sức, nhưng việc đó tùy
thuộc vào chính lực lượng của họ và đạn được được tiếp tế cho các
lực lượng đó. Không có đạn dược như vậy, khó biết được làm sao họ
có thể sống còn).
Trong tác phẩm The Final collapse
[34]
của ông, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng của QLVNCH,
đã trình bày cho độc giả thấy rõ một cách không thể chối cãi được
việc cắt giảm ngân khoản viện trợ cho VNCH của Quốc Hội Hoa Kỳ đã
tạo ra những hậu quả nghiêm trong cho QLVNCH như sau:
• Tổng số ngân khoản chuẩn chi 700
triệu đô-la là gồm cả phần chi cho DAO
[35]
là 46 triệu đô-la; do đó, trên thực tế, quân viện cho QLVNCH chỉ
còn có 654 triệu đô-la, phân phối như sau:
Quân Chủng Nhu Cầu Tối Thiểu Chuẩn Chi
Tỷ Lệ,
Không
Quân 414 183 44%,
Lục Quân 841 458 54%,
Linh Tinh 30 13 43%,
Tổng cộng 1285 654
51%.
• Với
ngân sách chuẩn chi bị cắt giảm trầm trọng như vậy, Không Quân
VNCH đã phải:
o Ngưng hoạt động hơn 200 phi cơ đủ loại (trong đó có toàn bộ các
phi cơ khu trục A-1 Skyraider của các Phi Đoàn 514, 518 ở Biên
Hòa, và 530 ở Pleiku)
[36],
o Chấm dứt chương trình thay thế các
phi cơ khu trục phản lực F-5A bằng phi cơ F-5E,
o Gọi về nước tất cả 400 sinh viên sĩ
quan phi công đang học lái máy bay trực thăng và phản lực tại Hoa
Kỳ,
o Hủy bỏ
chương trình đào tạo khoảng 1000 chuyên viên cho Không Quân và
chuyển họ sang Bộ Binh,
o Giảm số giờ bay huấn luyện và yểm
trợ; Không Quân chỉ còn cung ứng được 50% các phi vụ yểm trợ hỏa
lực, và 58% các phi vụ quan sát, thám thính,
o Giảm đến 70% các phi vụ vận chuyển
bằng trực thăng khiến cho việc tản thương bị ảnh hưởng nghiêm
trọng,
o Giảm
đến 50% các phi vụ vận chuyển bằng các loại phi cơ cánh quạt;
trong số 32 chiếc máy bay vận tải 4 động cơ khổng lồ Lockheed
Hercules chỉ còn được 4-8 chiếc có thể sử dụng được hàng ngày.
• Hoạt động của Hải Quân cũng bị cắt
giảm đến 50%; riêng các Giang Đoàn chỉ còn hoạt động được 28% mà
thôi, khiến cho khả năng kiểm soát của Hải Quân về mặt sông ngòi,
nhất là ở Vùng 4, bị giảm sút rất nghiêm trọng.
• QLVNCH chỉ còn giữ được 33% khả năng
thay thế chiến cụ; việc bảo trì và sửa chữa chiến cụ và vũ khí
cũng gặp rất nhiều trở ngại:
Cần sửa chữa
o Thiết vận xa M-113: 80-85%
o Thiết giáp xa M-48: 75-80%
o Đại bác
105 và 155ly: 90-95%
o Đại bác 175ly:
60-75%
o Súng phóng lựu M-79: 80%
o Quân xa loại 2.5 tấn: 80-85%
o Xe cần
trục loại 5 tấn: 70-75%
o Máy truyền
tin: 90%
•
QLVNCH cũng bị thiếu hụt nhiên liệu và đạn dược rất nghiêm trọng:
o Nhiên liệu: ngay từ năm 1974, mức
tiêu thụ nhiên liệu đã bị sụt giảm 30% so với năm 1973; với đà
cắt giảm ngân sách này, QLVNCH sẽ không còn đủ nhiên liệu để sử
dụng từ tháng 5/1975,
o Đạn dược: trong số 458 triệu đô-la
dành cho Lục Quân, 239 triệu là để mua đạn dược, con số này chỉ
đáp ứng được 56% nhu cầu thật sự của Lục Quân về đạn được; theo
tính toán của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, đến tháng 2/1975, số đạn
dược tồn kho sẽ chỉ còn đủ dùng như sau:
o Đạn súng M-16: 31 ngày,
o Đạn phóng lựu 40ly: 29 ngày,
o Đạn
súng cối 60ly: 27 ngày,
o Đạn súng cối
81ly: 30 ngày,
o Đạn pháo 105ly: 34
ngày,
o Đạn pháo 105ly: 31 ngày,
o Lựu đạn: 25 ngày.
Trong thời gian 8 tháng tiếp theo đó,
Chính phủ Nixon đã đệ trình Quốc Hội một loạt đề nghị bổ sung
ngân sách quân viện cho VNCH nhưng tất cả đều bị Quốc Hội bác bỏ
hết. Ngày 9/8/1974, sau khi thấy không còn hy vọng gì thoát khỏi
bị truất phế (impeached), Tổng Thống Nixon đã từ chức và Phó Tổng
Thống Gerald Ford lên thay thế ông. Tình hình chính trị của Hoa
Kỳ, trong bối cảnh kình chống nhau giữa hành pháp và lập pháp,
càng tệ hại hơn cho phía hành pháp. Ông Ford là vị Tổng Thống Hoa
Kỳ đầu tiên trong lịch sử không do dân bầu ra nên không có một sứ
mệnh (mandate) nào cả. Thế lực của riêng bản thân ông lại quá yếu
vì ông chỉ là một Dân Biểu của Hạ Viện chớ không phải là một
Thượng Nghị Sĩ của Thượng Viện hay một Thống Đốc của một tiểu
bang. Do đó ông rất bị lép vế trước Quốc Hội. Hơn nữa, trong cuộc
bầu cử lại Quốc Hội vào Mùa Thu 1974, Đảng Dân Chủ lại thắng thêm
ghế, và tỷ lệ càng nghiêng thêm về phía họ như sau: 291/144 tại
Hạ Viện, và 61/39 tại Thượng Viện.[37]
Sau cuộc triệt thoái tai hại ở Vùng II,
và tình hình trở nên nghiêm trọng ở Vùng I, cuối tháng 3/1975,
Tổng Thống Ford cử Đại Tướng Frederick C. Weyand, Tham Mưu Trưởng
Lục Quân Hoa Kỳ, sang duyệt xét tình hình tại VNCH. Sau khi trở
về Hoa Kỳ, ngày 2/4/1975, Tướng Weyand đệ trình báo cáo lên Tổng
Thống Ford, với đề nghị tăng viện ngay cho VNCH 722 triệu đô-la
để cung cấp cho QLVNCH:
• 744 trọng pháo,
• 446 thiết giáp,
• 100,000 súng trường,
• 5,000 súng đại liên,
• 11,000 súng
phóng lựu,
• 120,000 tấn bom và đạn
dược,
• 12,000 xe vận tải.
Weyand tin rằng số chiến cụ này sẽ đủ
để tái trang bị 8 sư đoàn bộ binh và biệt động quân và 28 trung
đoàn biệt lập thành lập từ các lực lượng địa phương quân vẫn còn,
bù đắp lại cho những mất mát tại Vùng I và Vùng II.[38]
Tổng Thống Ford chuyển đề nghị này của Tướng Weyand đến Quốc Hội.
Ngày 17/4/1975, Ủy Ban Quân Lực của Thượng Viện (Senate Armed
Forces Committee) bỏ phiếu bác bỏ toàn bộ đề nghị này.[39]
Thay Lời Kết
Khoảng hai tuần lễ sau, ngày 30/4/1975,
QLVNCH phải đầu hàng và VNCH bị xóa sổ. Hoa Kỳ đã bị dằn vặt bởi
Triệu Chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome) trong mấy chục năm qua.
Quốc Hội Hoa Kỳ dưới sự kiểm soát tuyệt đối của Đảng Dân Chủ,
Khóa 93 (1973-75) và Khóa 94 (1975-77), phải chịu trách nhiệm
hoàn toàn về sự phản bội này đối với Đồng Minh VNCH. Các đảng
viên Đảng Dân Chủ trong hai khóa Quốc Hội đó đã hành động một
cách vô liêm sỉ, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến việc 58,000 binh
sĩ Hoa Kỳ và hơn 200,000 binh sĩ QLVNCH đã hy sinh trong cuộc
chiến. Tổng Thống Ford, trong một cuộc họp báo sau khi yêu cầu
Quốc Hội tăng viện khẩn cấp cho VNCH vào tháng 4/1975, đã nhắc
lại việc hy sinh của 58,000 binh sĩ Hoa Kỳ, và ông kết luận:
“I think it is up to the American
people to pass judgment on who was at fault and where the blame
may rest.”
[40]
(Xin tạm dịch sang Viêt ngữ như sau: Tôi nghĩ là xin để cho nhân
dân Hoa Kỳ phán xét ai làm sai và trách nhiệm là ở đâu).
Lâm Vĩnh Thế
Ghi chú:
1.
1972 United States presidential electionn, tài liệu trực tuyến,
có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/1972_United_States_presidential_election
2. 93rd
United Stated Congress, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn
tại địa chỉ Internet sau đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/93rd_United_States_Congress
3. Nixon,
Richard M. The Memoirs of Richard Nixon. New York: Grosset &
Dunlap, 1978. Tr. 715.
4. Nguyễn
Tiến Hưng. Khi Đồng Minh tháo chạy. San Jose, Calif.: Cơ sở xuất
bản Hứa Chấn minh, 2005. Tr. 548.
5. Isaacson,
Walter. Kissinger: a biography. New York: Simon & Schuster, 1992.
Tr. 487.
6.
Operations Enhance and Enhance Plus, tài liệu trực tuyến, có thể
đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/Operations_Enhance_and_Enhance_Plus
7.
War Powers Resolution, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn
tại địa chỉ Internet sau đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/War_Powers_Resolution
8. Nguyễn Phú
Đức. The Viet-Nam peace negotiations: Saigon’s side of the story
/ edited by Arthur J. Dommen. Christianburg, Va.: Dalley Book
Service, 2005, tr. 373.
9. 1968
United States presidential election, tài liệu trực tuyến, có thể
đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/1968_United_States_presidential_election
10. Kadura,
Johannes. The War after the War: the struggle for credibility
during America’s exit from Vietnam. Ithaca, N.Y.: Cornell
University Press, 2016. Tr, 16-17.
11. Text of
Declaration by Paris Conference on Vietnam, March 3, 1973, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây:
https://www.nytimes.com/1973/03/03/archives/text-of-declaration-by-paris-conference-on-vietnam.html
12. USSAC/7AF
in Thailand (1973-1975): policy changes and the military role,
tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây:
https://apps.dtic.mil/dtic/tr/fulltext/u2/a586318.pdf.
Tr. 28.
13.
Hartsook, E.H. The Air Force in South East Asia: the end of the
U.S. involvement in Vietnam, 1973-1975. Washington, D.C.: Office
of Air Force History, Headquarters, USAF, 1980. Tài liệu trực
tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://media.defense.gov/2011/Mar/23/2001330102/-1/-1/0/AFD-110323-032.pdf.
Tr. 16.
14.
Hartsook, tài liệu vừa dẫn bên trên.
15. The Paris
Agreement on Vietnam: twenty-five years later; Conference
transcript, The Nixon Center, Washington, D.C., April 1998, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây:
https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/paris.htm
16. Watergate
là vụ án đã đưa đến sự kiện ông Richard M. Nixon phải từ chức
Tổng Thống Hoa Kỳ vào ngày 8/8/1974. Mọi việc khởi sự vào ngày
17/6/1972 khi cảnh sát bắt giữ một nhóm 5 người đột nhập bất hợp
pháp vào văn phòng của Ủy Ban Vận Động Bầu Cử của Đảng Dân Chủ
trong khách sạn Watergate ở thủ đô Washington, D.C., với mục tiêu
là đặt máy nghe lén các cuộc điện đàm của Ùy Ban này. Tổng Thống
Nixon và các cộng sự viên thân cận của ông tìm mọi cách che dấu
sự thật (cover up) nên nội vụ càng ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Sau cùng, trước nguy cơ có thể bị Quốc Hội truất phế
(impeached), Tổng Thống Nixon đành phải từ chức. Phó Tổng Thống
Gerald Ford lên kế nhiệm đã ân xá cho ông Nixon. Chi tiết đầy đủ
về vụ án quan trọng này được trình bày trong tài liệu trực tuyến
Watergate scandal tại địa chỉ Internet sau đây:
https://en.wikipedia.org/wiki/Watergate_scandal
17. Berman,
Larry. No peace, no honor: Nixon, Kissinger, and betrayal in
Vietnam. New York: Free Press, 2001. Tr. 261-262. Tác giả Berman
đã ghi ngày của bài báo là 27/4/1975, chi tiết này không đúng,
rất có thể là một lỗi của nhà xuất bản, mà phải là một ngày nào
khác của tháng 4/1975, vì báo The Wall Street Journal không có ra
ngày 27/4/1975.
18. Text of
Joint Communique issued after Nixon-Thieu talks, tài liệu trực
tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://www.nytimes.com/1973/04/04/archives/text-of-joint-communique-issued-after-nixonthieu-talks-full.html
19. The Paris
Agreement on Vietnam... tài liệu đã dẫn bên trên.
20. Kadura,
Johannes, sđd, tr. 60.
21. Kohut,
Andrew. From the archives: how the Watergate crisis eroded public
support for Richard Nixon, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn
văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://www.pewresearch.org/fact-tank/2019/09/25/how-the-watergate-crisis-eroded-public-support-for-richard-nixon
22. Kadura,
Johannes, sđd, tr. 65.
23. Ông John
Wesley Dean, III, là luật sư cố vấn pháp luật của phủ tổng thống
(White House Counsel) dưới thời Tổng Thống Nixon từ năm 1970. Ông
có đóng góp một phần vào việc che dấu sự thật trong vụ Watergate.
Cuối tháng 4/1973, ông bị Tổng Thống Nixon giải nhiệm, cùng lúc
với hai cố vấn thân cận của Nixon là John D. Ehrlichman, Phụ Tá
Tổng Thống Đặc Trách Nội Vụ (Assistant to the President for
Domestic Affairs) và Harry Robbins “Bob” Halderman, Bộ Trưởng Phủ
Tổng Thống (White House Chief of Staff). Ông Richard G.
Kleindienst, Bộ Trưởng Tư Pháp (Attorney General) cũng từ chức
trong cùng ngày này. Cuối tháng 6/1973, khi ra điều trần trước Ủy
Ban Điều Tra của Thương Viện, ông Dean đã nói rõ việc cản trở
công lý (obstruction of justice) nhằm che dấu việc liên can đến
vụ Watergate của các viên chức cao cấp tại Tòa Bạch Ốc, trong đó
có bản thân ông, và cả Tổng Thống Nixon. Ông Dean đã đọc bản tự
thú dài 245 trang của ông trong gần 7 tiếng đồng hồ. Ông bị kết
án 4 tháng tù về tội cản trở công lý. Về sau, ông có viết 2 cuốn
sách kể lại những việc ông đã làm trong vụ Watergate, Blind
ambition: The White House years (do nhà xuất bản Simon & Schuster
xuất bản năm 1976) và Lost honor (do nhà xuất bản Stratford Press
xuất bản năm 1982). Hai ông John Ehrlichman và Bob Halderman đều
bị xử 18 tháng tù.
24. Ủy Ban
Điều Tra của Thượng Viện này về vụ Watergate có tên chính thức là
Select Committee on Presidential Campaign Activities, được Thượng
Viện Hoa Kỳ thành lập vào ngày 7/2/1973, do Thượng Nghị Sĩ Sam
Ervin (Đảng Dân Chủ, tiểu bang North Carolina) làm Chủ Tịch. Ủy
Ban này giải tán ngày 27/6/1974 sau khi nộp báo cáo cho Thượng
Viện.
25.
Kadura, Johannes, sđd, tr. 77.
26. Kadura,
Johannes, sđd, tr. 78.
27. Kudura,
Johannes, sđd, cùng tr. 78.
28.
Kissinger, Henry. Ending the Vietnam War: a history of America’s
involvement in and extrication from the Vietnam War. New York:
Simon & Schuster, 2003. Tr. 493.
29. Kadura,
Johannes, sđd, tr. 3-4.
30. Kadura,
Johannes, sđd, tr. 90.
31.
Willbanks, James H. Abandoning Vietnam: how America left and
South Vietnam lost its war. Lawrence: University Press of Kansas,
2004. Tr. 196.
32.
Willbanks, James H., sđd, tr. 215-216.
33.
Willbanks, James H., sđd, tr. 215.
34. Cao Văn
Viên. The Final collapse. Washington, D.C.: U.S. Army Center for
Military History, 1985. (Indochina Monographs). Chương 4, tr.
[42]-57. Cuốn sách này đã được tác giả Nguyễn Kỳ Phong dịch sang
Việt ngữ với nhan đề Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa và
được nhà xuất bản VietnamBibliography tại Centreville, Virginia,
Hoa Kỳ, xuất bản năm 2003. Chương 4, tr. [75]-98.
35. DAO là
chữ viết tắt cho cơ quan Defense Attache Office (Văn Phòng Tùy
Viên Quân Sự) của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, được thiết lập
với nhiệm vụ phối hợp mọi hoạt động yểm trợ quân sự cho VNCH sau
khi Hiệp Định Paris đã được ký kết. Nó gần như là thay thế cho
MACV (United States Military Assistance Command, Vietnam = Bộ Tư
Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam). Văn phòng chính
của DAO đặt tại căn cứ Tân Sơn nhất với rất nhiều văn phòng phụ ở
khắp 4 Vùng Chiến Thuật của VNCH. Đây là văn phòng tùy viên quân
sự lớn nhất trên thế giới của Hoa Kỳ, nhân viên lên đến hàng ngàn
người. Chỉ huy trưởng cuối cùng là Thiếu Tướng (Major-General)
Homer D. Smith, một tướng lãnh chuyên về tiếp vận (Logistics).
36. Nguyễn
Hữu Thiện. Ngành khu trục trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây:
https://hoiquanphidung.com/showthread.php?23742-Ng%C3%A0nh-Khu-Tr%E1%BB%A5c-trong-Kh%C3%B4ng-L%E1%BB%B1c-Vi%E1%BB%87t-Nam-C%E1%BB%99ng-H%C3%B2a.
Trong tài liệu này, tác giả đã viết rõ như sau: “Về phi cơ, do
tình trạng thiếu bom đạn, thiếu nhiên liệu, thiếu phụ tùng thay
thế, vào tháng 9/1974, KQVN đã phải cho đình động (đình chỉ hoạt
động) 224 phi cơ, trong số này có toàn bộ lực lượng khu trục cánh
quạt, gồm 61 chiếc A-1 Skyraider của PĐ-514, PĐ-518 ở Biên Hòa,
và PĐ-530 ở Pleiku.”
37.
Willbanks, James H., sđd, tr. 218.
38.
Willbanks, James H., sđd, tr. 260.
39.
Willbanks, James H., sđd, tr. 267.
40.
Willbanks, James H., sđd, tr. 260-261.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trần Hồng Minh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
October 21, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang