Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Lịch sử
Chủ đề:
Mùa Quốc Hận 46
Tác giả:
BKT
Mục Lục
Mùa QH46 - Tưởng niệm Chiến Sĩ
Trận Vong QLVNCH
Tiểu sử các vị ANH HÙNG
QLVNCH
đã tuẫn tiết vào Ngày 30/4/1075
01.
Nguyễn Khoa Nam
02.
Phạm Văn Phú
03.
Lê Văn Hưng
04.
Trần Văn Hai
05.
Lê Nguyên Vỹ
06.
Hồ Ngọc Cẩn
07.
Nguyễn Văn Long
Nhạc Chiêu Hồn TỬ SĨ
Thiếu
tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh
Quân Đoàn IV/Quân Khu IV, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1927 tại Đà
Nẵng trong một gia đình nền nếp, khoa bảng. Ông là cựu học sinh
trường Khải Định, tốt nghiệp Khóa Hành Chánh ở Huế, giữ chức Chủ
Sự Tài Chánh từ năm 1951 đến năm 1953 thì nhập ngũ Khóa 3 Thủ
Đức. Khi ra trường, ông tình nguyện phục vụ trong Binh Chủng Nhảy
Dù và thuyên chuyển ra chiến đấu ở ngoài Bắc.
Sau Hiệp
Định Genève 20/7/1954, đơn vị của ông được đưa về Miền Nam, lúc
đó ông đang mang cấp bậc trung úy. Đến năm 1955, ông giữ chức Đại
đội trưởng thuộc TĐ7ND, về tham dự cuộc hành quân tảo thanh nhóm
Bình Xuyên của Bảy Viễn ở Sài Gòn. Sau đó ông được thăng cấp đại
úy rồi đi du học chuyên nghiệp tại Pau, ở Pháp. Ông mang cấp bậc
đại úy từ năm 1955 đến năm 1964 thì lên thiếu tá, giữ chức Tiểu
đoàn trưởng TĐ5ND. Qua năm 1967, ông được thăng trung tá với chức
Lữ đoàn trưởng LĐ3ND, nổi danh ở trận đánh Đồi Ngok Van, Kontum.
Cuối năm 1967 lại được vinh thăng đại tá với Đệ tam đẳng Bảo Quốc
Huân Chương. Trong trận Mậu Thân 1968, Bộ Tổng Tham Mưu điều động
đơn vị ông về Sài Gòn để tảo thanh Việt Cộng ở vùng ven đô, gây
nhiều thiệt hại cho chúng. Qua năm 1969, ông nắm chức Tư Lệnh
SĐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11/1969, ông
lại được vinh thăng chuẩn tướng nhiệm chức tại mặt trận cho đến
tháng 11/1971 thì thăng chuẩn tướng thực thụ. Tới năm 1972, Chuẩn
tướng Nguyễn Khoa Nam được thăng thiếu tướng nhiệm chức rồi mang
thiếu tướng thực thụ vào tháng 10/1973, đến tháng 11/1974 được bổ
nhiệm giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân Khu IV.
Tướng
Nguyễn Khoa Nam sống một cuộc sống rất giản dị, không vợ con,
không xa hoa, không nhu cầu vật chất. Ông cũng mang tâm hồn nghệ
sĩ, say mê hội họa và âm nhạc, giỏi về nhạc lý. Ông còn là một
Phật tử thuần thành, ăn chay mỗi tháng 15 ngày, thường nghiền
ngẫm kinh Phật và sách Nho giáo. Ông là người trầm lặng, ít nói,
sống nhiều về nội tâm, được tiếng phúc hậu, đạo đức, lấy Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín làm phương châm ở đời. Trong quân đội, ông là
một vị tướng mẫu mực, một cấp chỉ huy tài giỏi, thương lính yêu
dân nên được binh sĩ dưới quyền cũng như đồng bào kính mến.
Là Tư Lệnh Vùng, mỗi lần đi thanh tra hay thăm viếng các Tiểu
Khu hoặc các đơn vị, Tướng Nam không bao giờ để cho các Tiểu khu
trưởng, các đơn vị trưởng tiếp đón ông bằng tiệc tùng. Mỗi lần đi
như vậy, ông chỉ mang theo khúc bánh mì thịt hay món ăn đơn giản,
thanh đạm. Còn nếu gặp ngày ăn chay thì ông mang theo mấy trái
bắp nấu hoặc vài củ khoai luộc. Nói đến Tướng Nguyễn Khoa Nam là
phải nói đến “cái nón sắt”. Đầu ông luôn đội nón sắt và ông luôn
luôn nhắc nhở các sĩ quan, binh sĩ phải đội nón sắt cho an toàn.
Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền có nhiều giai thoại về “cái nón
sắt” với Tướng Nam. Nhắc đến chuyện thương lính, trước khi tuẫn
tiết, Tướng Nam đã một mình tự lái xe Jeep vào Quân Y Viện Phan
Thanh Giản để thăm các chiến hữu của ông bị thương đang điều trị
tại đây. Lần thăm viếng này nói lên sự vĩnh biệt thầm kín của ông
với thuộc cấp. Khi lệnh buông súng đầu hàng được ban ra vào lúc
10:00g sáng ngày 30/4/1975 thì rạng sáng ngày 01/05/1975, Tướng
Nguyễn Khoa Nam đã dùng khẩu Browning bắn vào màng tang tuẫn tiết
tại dinh Tư Lệnh nằm trên bờ sông Cái Khế ở Cần Thơ. Tướng Nam đã
hào hùng chọn cái chết chứ không chịu đầu hàng nhục nhã. Khi tuẫn
tiết, ông mặc lễ phục trắng với đầy đủ Dây Biểu Chương và Huân
Chương các loại mà ông được ban thưởng, trên bàn viết còn để lại
một vài vật dụng cá nhân và một món tiền $40,000.00, nhờ vị sĩ
quan tùy viên đem về trao lại cho gia đình ông. Bốn mươi ngàn
đồng vào thời điểm 30/4/1975 là món tiền quá nhỏ, nói lên đức
tính liêm khiết của viên Tướng Tư Lệnh Vùng thuộc tập thể Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chính vì vậy mà Tướng Nguyễn Khoa Nam được
tiếng là người thanh liêm, chưa hề bị tai tiếng về tham nhũng hay
bè phái. Trung tá Bác sĩ Hoàng Như Tùng, Giám đốc Quân Y Viện
Phan Thanh Giản cùng một số sĩ quan, binh sĩ của Quân Đoàn IV đã
đứng ra mai táng Tướng Nam tại Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ.
Vào năm 1984, gia đình Tướng Nam bốc mộ, hỏa thiêu hài cốt
ông rồi đem về thờ tại Chùa Già Lam ở Gia Định. Trên đường về,
khi qua bắc Cần Thơ và bắc Mỹ Thuận, thân nhân đã rắc một phần
tro cốt của ông xuống sông Tiền Giang cùng sông Hậu Giang, nơi mà
ông đã chiến đấu và chết cho đồng bằng Sông Cửu Long. Tro cốt của
Tướng Nguyễn Khoa Nam đã hòa với làn nước phù sa Cửu Long Giang
để bón từng bụi lúa, từng cọng rau tấc đất của quê hương cho thêm
mầu mỡ.
Phần tro cốt còn lại được đem về thờ tại Chùa Già
Lam ở Bình Hòa, Gia Định. Hòa Thượng Thích Trí Thủ, trụ trì Chùa
Già Lam đã đứng ra làm lễ cầu siêu cho Tướng Nguyễn Khoa Nam vào
ngày 18/03/1984. Buổi lễ cầu siêu được tổ chức rất trọng thể,
nghiêm trang, mặc dù gia đình giữ kín để tránh phiền phức với
công an Việt Cộng nhưng bà con và thân hữu, đặc biệt là nhiều sĩ
quan, binh sĩ VNCH đến tham dự đông đảo ngoài sự tưởng tượng của
gia đình và nhà chùa. Sài Gòn Tưởng Niệm Tướng Quân NGUYỄN KHOA
NAM tại chùa Già Lam.
Thiếu
tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh
Quân Đoàn II/Quân Khu II, sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt,
xuất thân từ Khóa 8 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Sau khi tốt
nghiệp, ông tình nguyện phục vụ trong Binh Chủng Nhảy Dù. Khoảng
tháng 3/1954, tình hình mặt trận Điện Biên Phủ đang ở cường độ
sôi động cho nên TĐ5ND mà Trung úy Phú giữ chức Đại đội trưởng
được huy động nhảy dù vào tiếp ứng cho mặt trận này. Vừa vào
vùng, Trung úy Phú đã chỉ huy binh sĩ dưới quyền mở các cuộc phản
công đẫm máu trước các đợt xung phong điên cuồng bằng biển người
của địch. Mặt trận tiếp diễn ngày một thêm khốc liệt thì qua ngày
15/4/1954, Đại tá De Castries, Chỉ huy trưởng cứ điểm Điện Biên
Phủ được thăng thiếu tướng, hai Trung tá Langlais và Ladande
thăng lên đại tá cùng 10 sĩ quan khác, mỗi người được thăng một
cấp, trong đó có Trung úy Phạm Văn Phú. Đến ngày 26/4/1954, Đại
úy Phú được cử giữ chức Tiểu đoàn phó TĐ5ND, qua những trận đánh
ác liệt, chẳng may ông bị thương và bị Việt Minh bắt khi Điện
Biên Phủ thất thủ vào ngày 7 tháng 5, năm 1954. Sau Hiệp Định
Genève, ông được trao trả về Miền Nam và tiếp tục phục vụ trong
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1960, Đại úy Phạm Văn Phú
được tuyển chọn phục vụ trong Lực Lượng Đặc Biệt do Đại tá Lê
Quang Tung làm Tư Lệnh. Cuối năm 1962, ông lên thiếu tá, đảm nhận
chức Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 của LLĐB. Vào giữa
năm 1964, ông chỉ huy Liên Đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 của
cộng sản Bắc Việt ở Suối Đá thuộc tỉnh Tây Ninh. Sau trận này,
ông được đặc cách thăng trung tá với chức vụ Tham mưu trưởng
LLĐB, một năm sau ông lại được thăng đại tá nhiệm chức. Qua đầu
năm 1966, giữ chức Phụ tá Tư Lệnh SĐ2BB cho đến giữa năm 1966
được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Phó và Xử Lý Thường Vụ Sư đoàn này vì
Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh sư đoàn được bổ nhiệm vào
chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. Cuối năm 1966, ông được
bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó SĐ1BB cho đến giữa năm 1968 lại được cử
vào chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44, trách nhiệm về các tỉnh biên
giới Miền Tây Nam Phần thuộc Quân Khu IV. Năm 1969 được vinh
thăng chuẩn tướng tại mặt trận cho đến đầu năm 1970, Chuẩn tướng
Phú được cử thay thế Thiếu tướng Đào Văn Quảng trong chức vụ Tư
Lệnh LLĐB.
Cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh SĐ1BB thay thế
Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng đảm nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
Tháng 3/1971, Chuẩn tướng Phú được vinh thăng thiếu tướng tại mặt
trận sau cuộc Hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào. Trong mùa hè đỏ lửa
1972, khi cộng sản Bắc Việt phóng ra các trận đánh lớn, Tướng Phú
đã điều động, phối trí các trung đoàn của SĐ1BB một cách tài ba
cho nên các phòng tuyến của ta ở Tây Nam Huế không bị chọc thủng
bởi các cuộc tiến công của địch. Phải nói, SĐ1BB là một Sư đoàn
mà khả năng tác chiến có thể xếp ngang hàng Sư Đoàn Nhảy Dù và Sư
Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, có trách nhiệm bảo vệ vùng địa đầu giới
tuyến gồm Quảng Trị, Thừa Thiên và cố đô Huế, từng được chỉ huy
bởi các vị Tư lệnh Sư đoàn tài giỏi như Tướng Đỗ Cao Trí, Tướng
Ngô Quang Trưởng, Tướng Phạm Văn Phú, Tướng Lê Văn Thân. Đến
tháng 9/1972, Tướng Phú được điều động về Quân Đoàn III, làm Chỉ
huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, một quân trường lớn
nhất ở Việt Nam.
Vào tháng 11/1974, thể theo đề nghị của
Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh bổ nhiệm Thiếu tướng Phạm
Văn Phú vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II, thay thế
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn về làm Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng
Thiết Giáp. Đến ngày 10/3/1975, CSBV huy động 3 sư đoàn, gồm
SĐ10, SĐ320 và SĐ316 tấn công vào tỉnh lỵ Ban Mê Thuột và Ban Mê
Thuột bị thất thủ trước sức tấn công của 3 sư đoàn cộng quân.
Trong khi Tướng Phú đang lập kế hoạch phản công tái chiếm Ban Mê
Thuột thì Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú rút bỏ cao
nguyên về tái phối trí vùng đồng bằng Bình Định, Nha Trang. Tướng
Phú đã nhiều lần yêu cầu Tổng thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu để
ông tử thủ cao nguyên nhưng không được chấp thuận khiến ông thất
vọng, chán nản. Rồi cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên thất bại,
gây hỗn loạn, kéo theo sự sụp đổ cả Miền Nam đã làm cho Tướng Phú
khổ tâm hơn nên ngã bệnh phải vào điều trị ở Tổng Y Viện Cộng
Hòa.
Đến ngày 30/4/1975, Tướng Biên Khu Phạm Văn Phú đã
dùng độc dược tuẫn tiết nêu cao tiết tháo “tướng chết theo
thành”. Lại một vì sao sáng đã tắt trên bầu trời Miền Nam trong
ngày u buồn của trang Hùng Sử!
Chuẩn
tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó
Quân Đoàn IV/Quân Khu IV, sinh năm 1933, xuất thân từ Khóa 5 Sĩ
Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ông phục vụ tại SĐ21BB từ Đại đội trưởng đến
Trung đoàn trưởng, đã từng đảm nhiệm chức Tiểu khu trưởng Phong
Dinh. Ông là một sĩ quan can trường, khả năng tác chiến cao, giỏi
về lãnh đạo chỉ huy và rất thương yêu binh sĩ dưới quyền. Các cấp
bậc của ông từ đại úy trở lên đều được đặc cách vinh thăng tại
mặt trận. Từ Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 thuộc SĐ21BB,
ông được cử giữ chức Tư Lệnh SĐ5BB ở Quân Khu III. Sau đó được
vinh thăng chuẩn tướng chỉ vài tháng trước khi cộng quân mở cuộc
bao vây và công hãm thị xã An Lộc vào mùa hè đỏ lửa 1972. Trong
suốt thời gian vây hãm, 4 sư đoàn địch đã mở những cuộc tấn công
hung hãn bằng bộ binh, xe tăng và những cuộc mưa pháo khốc liệt,
như ngày 11/5/1972, thành phố nhỏ bé An Lộc đã gồng mình hứng
khoảng 8,000 quả pháo binh đủ loại của Bắc quân.
Trong
trận An Lộc lịch sử này, Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh SĐ5BB, chỉ
huy toàn bộ các lực lượng tử thủ, đầu đội nón sắt, mặc áo thun
bên trong, áo giáp bên ngoài, quần đùi, tay cầm M16, tay cầm ống
liên hợp, lựu đạn cài quanh mình, chiến đấu gần như 24/24 giờ nêu
cao truyền thống anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua câu:
“Ngày nào tôi còn, An Lộc còn”. Trong suốt thời gian bị vây hãm,
Tướng Hưng và những người lính tử thủ của ông có bao đêm ngủ được
những giấc ngủ bình an trên những chiếc giường ngay ngắn như
những người bình thường ở hậu phương? Sau 68 ngày bị vây hãm
trong hỏa ngục máu và lửa, An Lộc vẫn đứng vững nhờ sự chiến đấu
oanh liệt, dũng cảm của lực lượng tử thủ. Khi An Lộc được giải
tỏa, Tướng Lê Văn Hưng được báo chí cũng như đồng bào Miền Nam
tặng cho danh hiệu “Anh Hùng An Lộc”.
Tính đến 7:30g sáng
ngày 30/4/1975, tình hình 16 tỉnh thuộc Quân Đoàn IV vẫn yên
tĩnh, VC chỉ cắt một đoạn quốc lộ 4 từ Sài Gòn xuống Long An và
Chuẩn tướng Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh SĐ9BB đang bay trực thăng chỉ
huy cuộc giải tỏa đoạn quốc lộ này. Ngoài ra, VC cũng chỉ mở được
cuộc tấn công vào tỉnh lỵ Chương Thiện mà Đại tá Hồ Ngọc Cẩn,
Tiểu khu trưởng đang cố thủ, chỉ huy các cuộc phản công (chính vì
sự anh dũng cố thủ này mà sau ngày 30/4/1975, VC đã đem Đại tá Hồ
Ngọc Cẩn ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ).
Đến 10:00g
sáng ngày 30/4/1975, lệnh buông súng đầu hàng được ban ra trên
đài phát thanh khiến mọi người từ quan cho đến lính ai nấy cũng
đều sững sờ. Một vị đại tá thuộc Quân Đoàn IV, khi nghe lệnh đầu
hàng đã khóc sướt mướt, vừa khóc, vừa nói với thuộc cấp: “Đầu
hàng rồi tụi bây ơi! Nhục ơi là nhục!”. Ở một nơi xa khác, Chuẩn
tướng Hồ Trung Hậu đang theo dõi bản đồ hành quân, khi nghe ông
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Tướng Hậu đã ném tung tấm bản
đồ, tức tối thốt nên mấy tiếng: “Đồ chó đẻ!” Riêng tại văn phòng
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, khi nghe lệnh đầu hàng, gương mặt Tướng
Hưng mang đầy vẻ thất vọng, mắt ông chùng xuống.... Đến 8:45g tối
ngày 30/4/1975, Tướng Lê Văn Hưng đã dùng khẩu Colt 45 bắn vào
ngực tuẫn tiết, viên đạn xuyên qua tim, máu thấm ướt cả bộ quân
phục. Tướng Hưng đã trút hơi thở cuối cùng nhưng đôi mắt vẫn còn
mở dường như biểu lộ sự uất hận. Phu nhân Tướng Hưng, bà Phạm Thị
Kim Hoàng, đã vuốt mắt cho chồng, thay quần áo cho ông, một số sĩ
quan và binh sĩ phụ bà lo việc tẩn liệm. Khi tẩn liệm, bà Hưng đã
cẩn thận xếp ngay ngắn lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ đặt lên ngực
ông, lá cờ biểu tượng Miền Nam Tự Do mà chồng bà và những người
lính Cộng Hòa đã đổ nhiều xương máu để bảo vệ biểu tượng thiêng
liêng này. Trong khi đang tẩn liệm thì Thiếu tá Lành, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 3/33 nghe tin Tướng Hưng tuẫn tiết đã tông cửa
chạy ùa vào, ôm quan tài Tướng Hưng gào khóc thảm thiết: “Trời
ơi!... ông thầy... ơi!” khiến ai nấy cũng đều bùi ngùi rơi lệ.
Sau khi tẩn liệm, mọi người hối hả, vội vã lo chôn cất Tướng
Hưng vì sợ VC vào gây nhiều khó khăn, rắc rối. Sau đó, do sự sắp
xếp của vài vị sĩ quan và binh sĩ, phu nhân Tướng Hưng được đưa
vào tá túc tại một ngôi chùa để tránh phiền phức với VC. Về sau,
cũng chính các vị sư của ngôi chùa này đã giúp xây mộ cho Tướng
Lê Văn Hưng đàng hoàng.
Chuẩn
tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh
SĐ7BB, sinh năm 1929 tại Cần Thơ, theo học Khóa 7 Trường Võ Bị
Quốc Gia Đà Lạt, sau khi tốt nghiệp ông tình nguyện ra chiến đấu
ở các chiến trường Bắc Việt. Đến năm 1954, khi đất nước bị chia
đôi, đơn vị của ông được đưa về Miền Nam và ông được thăng cấp
đại úy, giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 Địa Phương ở Phan
Thiết.
Năm 1961, sau khi tốt nghiệp Khóa Chỉ Huy Và Tham
Mưu Cao Cấp ở Hoa Kỳ về thì được bổ nhiệm làm huấn luyện viên
Trường Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Ông là người đề xướng ra
các khóa huấn luyện Rừng Núi Sình Lầy và Mưu Sinh Thoát Hiểm. Năm
1963, ông được vinh thăng thiếu tá, đảm nhận chức Chỉ huy trưởng
Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ ở Nha Trang. Qua năm 1965, ông giữ
chức Tiểu khu trưởng Phú Yên, sau đó về làm Chỉ huy trưởng Biệt
Động Quân. Trong trận Mậu Thân 1968, ông chỉ huy các đơn vị Biệt
Động Quân dưới quyền phản công Việt Cộng ngay từ giờ phút đầu tại
Thị Nghè, Hàng Xanh, Phú Thọ và ở Chợ Lớn. Trong các trận đánh
này, Biệt Động Quân đã dùng chiến thuật “đục tường” đánh với VC
gây cho chúng nhiều thiệt hại và đẩy lui chúng ra khỏi thành phố.
Tháng 5/1968, ông được bổ nhiệm giữ chức Tổng giám đốc Cảnh
Sát Quốc Gia. Qua năm 1970 được vinh thăng chuẩn tướng với chức
vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Quân Khu IV. Đến năm 1971 ông trở về
nắm chức vụ Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân cho đến năm 1972 được
bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Hành quân của Quân Khu II, sau đó giữ
chức Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ huy
trưởng Huấn khu Lam Sơn ở Dục Mỹ. Đến tháng 11/1974, ông được bổ
nhiệm làm Tư Lệnh SĐ7BB kiêm Chỉ huy trưởng căn cứ Đồng Tâm khi
Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam về đảm nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn
IV.
Chuẩn tướng Trần Văn Hai cũng là một vị tướng rất
thanh liêm, không tham, sân, si... chỉ hết lòng phụng sự tổ quốc.
Khi rời chức vụ Tiểu khu trưởng Phú Yên để đáo nhậm nhiệm sở mới,
hành trang của ông chỉ vỏn vẹn trong một cái túi vải nhỏ và ông
đã nói lời từ biệt với thuộc cấp như sau: “Tôi cám ơn các anh chị
đã tận tình làm việc với tôi trong thời gian qua, có thể người ta
cho rằng mình là những đứa dại, chỉ biết làm việc mà không biết
đục khoét. Nhưng tôi tin là mình đã làm đúng...”. Còn khi về làm
Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, người ta không thấy ông dùng xe
dân sự lộng lẫy mang số ẩn tế mà ông chỉ dùng chiếc xe Jeep nhà
binh cũ kỹ ông mang theo khi còn làm Chỉ huy trưởng Biệt Động
Quân. Ngoài liêm khiết, Tướng Hai còn là con người thẳng thắn,
bộc trực, không luồn cúi. Có thể nói ông thuộc mẫu người “Phú quý
bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Tướng Trần Văn Hai đã dùng độc dược tuẫn tiết vào khoảng
6:00g chiều ngày 30/4/1975 tại văn phòng Tư Lệnh SĐ7BB trong căn
cứ Đồng Tâm. Trước khi tuẫn tiết, Tướng Hai có trao cho vị sĩ
quan tùy viên một gói đồ trong đó gồm bảy mươi ngàn đồng tiền
Việt Nam được gói trong một tờ giấy báo cũ nhờ trao lại cho mẹ
ông, nói rằng quà của ông tặng cho mẹ và nói với bà đừng lo lắng
gì cho ông cả!
Những tướng tá bỏ chạy ra hải ngoại chưa
chắc đã là hèn nhưng 5 vị tướng can trường quyết tâm ở lại với
các chiến hữu cho đến giờ phút lịch sử sang trang và chọn sự tuẫn
tiết để biểu lộ cung cách mã thượng của những người trượng phu
quân tử chắc chắn là những đấng anh hùng. Cái chết cao cả, đáng
kính của họ là niềm hãnh diện cho QLVNCH nói riêng, cho nhân dân
Miền Nam nói chung. Những sự tuẫn tiết anh dũng này đã khiến cho
một viên cán bộ cao cấp của CSBV phải thốt nên lời thán phục bằng
câu: “Làm tướng như vậy mới xứng đáng làm tướng!”.
Khi còn
sinh tiền, các tuẫn tướng đã chiến đấu dũng cảm, gót chân chiến
binh của họ đã giẵm lên khắp nẻo đường đất nước từ Lạng Sơn, Cao
Bằng, Điện Biên hay Ashau, A Lưới, Dakto, Tân Cảnh, Khe Sanh, Tam
Biên, Hạ Lào của cao nguyên Trường Sơn ngút ngàn cho đến Đồng
Tháp Mười, Thất Sơn Bảy Núi, U Minh, Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt của vùng
sình lầy Miền Tây Nam Phần. Đời chiến binh của họ ngày đêm cọ sát
với tử thần trong các chiến trường bốc lửa khắp 4 Vùng Chiến
Thuật để ngăn chận làn sóng xâm lăng của CSBV hầu chu toàn trách
nhiệm bảo quốc, an dân. Nói làm sao cho hết các chiến công hiển
hách, những nét kiêu hùng mà ngũ hổ tướng Miền Nam đã góp công tô
điểm cho Pho Quân Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thêm sáng ngời!
Chuẩn
tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh
SĐ5BB, sinh năm 1933 tại Sơn Tây, Bắc Việt trong một gia đình Nho
học. Ông gia nhập quân đội và theo học Khóa 1951 Trường Sĩ Quan
Đập Đá ở Huế, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy, được thuyên chuyển
về Tiểu đoàn 19 do Đại úy Đỗ Cao Trí (Sau này lên trung tướng và
bị tử nạn phi cơ trực thăng trong một cuộc hành quân) làm Tiểu
đoàn trưởng. Lúc mang cấp bậc đại úy, ông đuợc cử giữ chức Quận
trưởng Bến Cát thuộc tỉnh Bình Dương rồi lên dần cho đến chức
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 thuộc SĐ5BB do Thiếu tướng Nguyễn
Văn Hiếu làm Tư Lệnh Sư Đoàn. Ông đã nổi tiếng là một Trung đoàn
trưởng có khả năng tác chiến cao và đánh giăc rất gan dạ cho nên
ông được các binh sĩ tặng cho danh hiệu “Nhất Vỹ, Nhì Gia”, “Nhì
Gia” là Trung tá Hà Văn Gia, cũng khét tiếng gan dạ. Đồng bào ở
quanh vùng Lái Thiêu, Bến Cát, Lai Khê, Bình Dương, Bình Long,
Phước Long đều biết tiếng Tướng Lê Nguyên Vỹ.
Vào mùa hè
đỏ lửa năm 1972, khi VC bao vây và tấn công An Lộc, Đại tá Lê
Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó SĐ5BB cùng với Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư
Lệnh Sư Đoàn đã điều động các đơn vị tử thủ đẩy lui nhiều đợt tấn
công vũ bão của địch. Ở vào cao điểm khốc liệt nhất, địch mở
những trận mưa pháo cực kỳ khủng khiếp, đồng thời tung chiến xa
và quân bộ chiến mở những cuộc tấn công dứt điểm An Lộc, chính
Đại tá Vỹ đã nhào ra chiến hào, ôm M72 bắn hạ chiến xa địch. Ông
là người đầu tiên lập thành tích bắn hạ chiến xa cộng quân tại
mặt trận An Lộc khiến các chiến sĩ ta lên tinh thần bắn hạ thêm
nhiều chiếc khác, xác nằm ngổn ngang trên đường phố. Ông đã bị
thương vì tai nạn trực thăng trong một cuộc hành quân khi còn là
Tư Lệnh Phó SĐ21BB, chân đi khập khiễng, phải chống gậy. Sau khi
học xong Khóa Chỉ huy Và Tham mưu cao cấp ở Hoa Kỳ về, ông được
bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh SĐ5BB vào tháng 6/1973. Tướng Vỹ cũng
là một vị tướng thanh liêm, rất tích cực trong việc bài trừ tham
nhũng. Ông đánh giặc gan dạ, chỉ huy tài giỏi, làm việc không kể
giờ giấc, thanh liêm, hết lòng phụng sự tổ quốc nhưng có tật nóng
tính. Tính ông nóng như Trương Phi trong truyện Tàu.
Khi
lệnh đầu hàng được ban ra, Tướng Vỹ đã triệu tập một phiên họp
tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, trong phiên họp ông đã nói: “Lệnh bắt
chúng ta buông súng để bàn giao cho địch, nói thẳng ra là lệnh
bắt chúng ta đầu hàng. Vì tôi là một vị tướng chỉ huy mặt trận
tôi không thể thi hành lệnh này. Tôi nghĩ thân làm tướng là phần
nào đã hưởng danh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em nên
tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi...”. Sau phiên họp,
ông cho thuộc cấp trở về nhà, còn riêng ông, ông ra trước kỳ đài
Bộ Tư Lệnh, nghiêm trang chào lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ lần
cuối rồi dùng khẩu súng lục tự bắn từ dưới cằm, viên đạn trổ lên
đỉnh đầu. Ông đã tuẫn tiết bằng chính khẩu súng chỉ huy của mình.
Con đường mà Tướng Vỹ chọn ngày hôm nay đã có Hoàng Diệu, Nguyễn
Tri Phương, Phan Thanh Giản và nhiều vị anh hùng khác đã lựa chọn
ngày trước.
Một số sĩ quan và binh sĩ trong Bộ Tư Lệnh
SĐ5BB đã lo chôn cất ông vào ngày 30/4/1975. Nhìn chiếc quan tài
đơn sơ của dũng tướng Lê Nguyên Vỹ nằm sâu trong lòng đất lạnh
mọi người đều ngậm ngùi, nuối tiếc! Nhưng hề gì, đã có hồn thiêng
sông núi ấp ủ ông trong lòng Đất Mẹ.
Đại
tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24
tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ
và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh.
Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân
xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ
quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc
đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân
và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể.
Suốt một đời chinh chiến từ Trung đội trưởng lên đến Trung đoàn
trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm
1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể Sư Đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp
tay cho Quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm
1 Trung đoàn của Sư Đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với
ông Lạc Sư Đoàn 9 đưa 1 Trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ
ngọc Cẩn dẫn Trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp
cùng Nhảy Dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh Đại úy Đại
đội trưởng của Trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước
phòng tuyến của Tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được.
Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn
phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của Trung đoàn 15 nằm chịu
trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của
ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông sếp từ thiết
vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông
Trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân
tiến vào. Cùng với tiền đạo của Nhảy Dù, Trung đoàn 15 bắt tay
với lính phòng thủ An Lộc.
Sau khi Bình Long trở thành
Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mỗi người lên 1 cấp. Trung
tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh
quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm Tiểu khu
trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa.
Cho đến 30 tháng 4/1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện
chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng.
Chiều 29 sang 30 tháng 4, Tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng
chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị
bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan
hàng, Đại tá Tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây
quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy
đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được
người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi
thảm.
Trung
tá Nguyễn Văn Long, ... Bà
Tâm, người con gái thứ ba bắt đầu kể về những ngày cuối cùng. Lúc
đó vào cuối tháng 3/1975 ở Đà Nẵng. Ba vẫn làm việc trong trại,
không về nhà. Hai cậu em không quân, một ở Đà Nẵng, một ở Biên
Hòa. Một cậu đưa cả nhà vào sân bay Đà Nẵng chờ di tản. Nhưng rồi
cũng không đi được. Vào ngày cuối người cha về nhà không thấy gia
đình. Ông nghĩ rằng vợ con có thể đã đi thoát trong phi trường.
Ông xuống bãi và ra đi bằng tàu. Vào đến Sài Gòn đã có cô con gái
lớn đón cha về ở tạm. Lúc đó mới biết vợ con còn kẹt ở Đà Nẵng.
Ông Long lại vào trình diện Tổng nha Cảnh sát để làm việc. Trưa
30 tháng 4/1975 khi radio phát thanh lời tổng thống đầu hàng thì
1 phát súng đơn độc nổ ngay thái dương, Trung tá Long ngã xuống.
Ông buông cây súng nhỏ theo lệnh tổng thống. Cây súng tùy thân
Trung tá vẫn mang theo từ Huế, Đà Nẵng vào đến Sài Gòn.
Một lần nữa, xin ghi lại. Có thể đây chính là người đầu tiên thi
hành lệnh đầu hàng của vị tổng thống sau cùng. Lẫm liệt và công
khai.
Hình ảnh trên youtube do người vô danh đưa lên có
cảnh những người dân khiêng xác vị anh hùng lên xe. Đó là hình
ảnh cuối cùng. Không một tin tức nào loan báo trên báo chí cộng
sản trong nước. Dân Việt từ Huế vào Sài Gòn không ai biết tin.
Nhưng cả thế giới đều biết qua hình ảnh.
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: BKT sưu tầm, trình bày & ấn loát
Đăng ngày Chúa Nhật, April 18, 2021
bkt Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang