Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký Chiến trường
Chủ đề:
Trận chiến Đồi Charlie, Kontum–VN
Tác giả:
Trần Trung Tín
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Đầu tháng 7, 2022, Chiến tranh Việt Nam lại một
lần nữa trở lại với truyền thông, báo chí Mỹ qua việc Tổng Thống
Hoa Kỳ Joe Biden trao thưởng Medal Of Honor cho Thiếu tá John
Duffy, sĩ quan cố vấn cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù trong trận chiến
tại Căn cứ Hỏa lực Charlie trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Qua Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam,
người đọc có thể tìm hiểu về cuộc tử chiến giữa Tiểu Đoàn 11 Dù
chống trả lại một địch quân được ước tính là đông gấp 10 lần. Và
Thiếu tá John Duffy cũng “có mặt” trong Mùa Hè Đỏ Lửa.
Nhưng phải đợi đến The Battle for
“Charlie” của nhà thơ John Duffy, độc giả nói tiếng Anh mới biết
được cuộc tử chiến tại căn cứ Charlie, mà trong đó
Amazon giới
thiệu Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù là: “Một tiểu đoàn Nhảy Dù của Nam
Việt Nam đã giữ vững một vị trí làm nhắc nhớ đến các dũng sĩ
Spartans tại Thermopylae vào năm 480 trước Công nguyên.” – “A
battalion of South Vietnamese paratroopers made a stand
reminiscent of the Spartans at Thermopylae in 480 BC.”
Theo sử
Tây phương, năm 480 trước Công
nguyên, Vua Leonidas, đem 7,000 quân Hy Lạp, trong đó có 300 dũng
sĩ Spartans, ra bảo vệ Thermopylae trước khoảng từ 120,000 đến
300,000 quân xâm lăng của Ba Tư. Trong trận đánh này, ngoài các
thương vong khác, Vua Leonidas và 300 dũng sĩ Spartans đều tử
trận.
Sau ngày
Lễ Độc Lập Hoa Kỳ vừa qua, vào ngày 5 tháng 7, 2022, Tổng Thống
Joe Biden trao tặng Medal Of Honor cho Thiếu tá John Duffy là
người đã thể hiện những hành động dũng cảm phi thường trong chiến
tranh Việt Nam.
Medal Of Honor là huân chương cao quý
nhất của Hoa Kỳ được Tổng Thống trao tặng cho người quân nhân của
Hoa Kỳ “xuất sắc nổi bật qua sự dũng cảm và can trường vượt lên
trên tiếng gọi của nhiệm vụ trước sự rủi ro cho tính mạng của
họ.” [1]
Trong
cuộc đời binh nghiệp, ông John J. Duffy đã đi từ trung sĩ lên
thiếu tá trong Lực lượng Đặc biệt (Special Forces) của Lục quân
Hoa Kỳ. Ông phục vụ tại Việt Nam bốn lần vào những năm 1967,
1968, 1971, và 1973.
Ông Duffy đã được vinh danh với 64 phần
thưởng và huân chương (64 awards and decorations), trong đó có 29
huân chương cho hành động anh dũng (for valor), gồm cả
Distinguished Service Cross (giá trị đứng thứ hai sau Medal Of
Honor).
Lục
quân Hoa Kỳ dành riêng
trang web để trang trọng giới
thiệu người được ân thưởng MEDAL OF HONOR:
Thiếu tá John J. Duffy đặc biệt nổi bật
qua những hành động chiến đấu dũng cảm và can trường vượt lên
trên tiếng gọi của nhiệm vụ, trong khi được phân nhiệm sang Nhóm
Lực lượng Đặc biệt 5 và làm cố vấn cao cấp cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy
Dù, thuộc Lữ đoàn 2, Sư Đoàn Nhảy Dù, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
vào ngày 14–15 tháng Tư, 1972.
Maj. John J. Duffy distinguished
himself by acts of gallantry and intrepidity above and beyond the
call of duty, while assigned to the 5th Special Forces Group and
serving as a senior advisor to the 11th Airborne Battalion, 2nd
Brigade, Airborne Division, Army of the Republic of Vietnam in
the Republic of Vietnam, on April 14–15, 1972.
Sự anh hùng và lòng vị tha phi thường
của ông Duffy vượt lên trên tiếng gọi của nhiệm vụ đã xứng đáng
với những truyền thống tốt nhất của quân đội và chứng tỏ được giá
trị lớn lao nơi bản thân của ông, đơn vị của ông và Lục quân Hoa
Kỳ.
Duffy’s
extraordinary heroism and selflessness beyond the call of duty
were in keeping with the highest traditions of military service
and reflect great credit upon himself, his unit and the United
States Army.
Tuy nhiên,
bên cạnh con người chiến binh xuất sắc, với những thành tích hiếm
có của một Thiếu tá Lực lượng Đặc biệt Mũ xanh, ông John Duffy
còn là một thi sĩ.
Ông là người đã được đề cử cho nhận
giải Pulitzer, đã xuất bản sáu tập thơ, và có nhiều bài thơ xuất
hiện trong rất nhiều ấn phẩm và tuyển tập
[2].
Hai trong số những bài thơ của ông là
“The Forward Air Controller” và “Forward Air Controller’s
Requiem” đã được chọn để khắc trên bia đá hoa cương tưởng niệm
những thành viên đã hy sinh của Đơn vị Tiền phương Không thám
(The Forward Air Controller) của Không quân Hoa Kỳ tại Colorado
Springs, Colorado [3].
Tác phẩm gần đây nhất của ông là quyển
sách thơ The Battle for “Charlie”
[4], xuất bản năm 2014
[5].
Hôm Chủ Nhật ngày 17/7/2022, đài truyền
hình CBS News đã phỏng vấn Thiếu tá Duffy, nhân dịp ông được ân
thưởng Medal Of Honor vào đầu tháng 7/2022.
Những Bài Thơ Cho “Charlie”
Trong quyển The Battle for “Charlie”,
đầu tiên, ông Duffy đã dành ra trang Lời Dâng Tặng (Dedication
[8]) để bày tỏ sự tri ân của ông đến với những đồng đội, những
cấp chỉ huy của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù và những đơn vị không quân
Hoa Kỳ đã yểm trợ trong những ngày máu lửa tại “Charlie”.
Lời Dâng Tặng
Đến các quân nhân và sĩ quan của Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù Việt Nam, những người giữ vững vị trí tại
“Charlie” và vị Chỉ huy của họ,
Đại tá Nguyễn Đình Bảo, đã tử
trận trong khi chỉ huy những người lính dù thân yêu của ông.
Đến các phi công trực thăng can trường
đã gan dạ bay lượn trong chiến trận và tất cả đều là anh hùng.
Đến các Đơn vị Tiền phương Không thám
(FAC– Forward Air Controller) đã điều động những oanh tạc cơ
chiến đấu và các hộp B–52. [*]
Đến những người sống sót sau trận đánh
cho “Charlie,” những người lính dù gan lì nhất (toughest) mà tôi
đã có vinh dự được cùng chiến đấu nơi chiến trường.
Đến Trung tá Lê Văn Mễ, vị sĩ quan dũng
cảm nhất mà tôi biết và vị Sĩ quan Ban Ba của ông cũng anh dũng
như vậy, Thiếu tá Đoàn Phương Hải.
[*]
Ghi chú: Một “hộp B–52” là ba chiếc
B–52 (phi tuần) cùng lúc thả 108 quả bom mỗi chiếc (1 quả bom
nặng 500 pound, gắn bên trong máy bay, và 1,000 pound, gắn bên
ngoài) với tầm sát hại của hộp trong phạm vi khoảng 1/2 đến
1/3km.
***
The Commander’s Burial
(Colonel Nguyen Dinh Bao)
We wrap him in a poncho,
Even his dismembered legs.
He knew that
he was dying,
And he spoke his last
words.
“Tell
my wife I loved her true.
Tell my
children to remember me.
Tell my
paratroopers to never surrender.
You, my
officers, one final salute.”
Mồ Chôn Vị Chỉ Huy
(Trung tá Nguyễn Đình Bảo)
Cuộn ông trong tấm poncho,
Chúng tôi cuộn cả đôi chân đứt lìa.
Ông
tự biết mình đang hấp hối,
Lời trăn trối
của ông để lại.
“Nhắn giúp tôi lời yêu thương cho vợ.
Nhắn con tôi hãy luôn luôn nhớ bố.
Nhắn
những người lính dù của tôi không bao giờ đầu hàng.
Các bạn, sĩ quan của tôi, chào vĩnh biệt.”
He lays in a shallow grave alone;
No bugles, no farewell rifle salute,
Only a few shovels of red earth.
His
grave is marked with his helmet.
He fought bravely until the end.
He fought against heavy odds.
He has
fought his last battle.
With his glory,
we leave him.
Ông nằm đó một mình trong mồ chôn thấp
cạn;
Không kèn đồng, không chào súng
tiễn đưa,
Phủ lên ông chỉ vài khoanh đất
đỏ.
Trên mộ ông, nón sắt vẫn không rời.
Ông chiến đấu can trường cho đến chết.
Ông chiến đấu chống định mệnh nghiệt ngã.
Ông chiến đấu trong trận đánh sau cùng.
Ông ở lại, để vinh quang cùng chúng tôi cất bước.
*
The New Commander
(Colonel Le Van Me)
He lost his friend and Commander.
The Executive Officer takes command.
His
burden is great, his duties heavy,
But
he is strong, fearless and experienced.
His staff and commanders receive
orders:
We will hold “Charlie”, it is
critical.
If the NVA break through,
Kontum will fall.
There are no Reserves
left, only us paratroopers.
“Duffy, can you take out the NVA guns?”
“If I have air support and someone covering me,
I will eliminate every gun that shoots.
That is what I can do. I will not fail you.”
“Major Hai, see that Duffy is covered.
Pick the best man we have, no failures.”
All agreed that “Charlie” must be held.
This will be a battle to the last man.
Vị Tân Chỉ Huy
(Trung tá Lê Văn Mễ)
Ông mất người bạn và cũng là Chỉ huy.
Lên nắm quyền chỉ huy là Chỉ huy phó.
Gánh nặng lớn lao, nhiệm vụ nặng nề,
Nhưng ông cứng cỏi, gan dạ và nhiều kinh nghiệm.
Bộ chỉ huy tiểu đoàn của ông nhận được
lệnh:
Chúng ta sẽ giữ “Charlie”, đây là
cứ điểm trọng yếu.
Nếu Bắc quân phá
thủng, Kontum sẽ thất thủ.
Không còn
quân Dự bị, chỉ còn lính Nhảy Dù chúng ta.
“Duffy, liệu anh có thể bứng đi các
họng súng của Bắc quân không?”
“Nếu tôi
có được không yểm và có người che chở cho tôi,
Tôi sẽ triệt hạ mọi khẩu đang bắn.
Đó là
điều tôi có thể làm. Tôi sẽ không làm anh thất vọng.”
“Thiếu Tá Hải, anh lo việc che chở cho
Duffy.
Chọn người giỏi nhất của mình,
không thể thất bại.”
Tất cả đều đồng ý
phải giữ “Charlie.”
Đây sẽ là trận đánh
cho tới người cuối cùng.
*
It Will Kill Us
Located twenty kilometers to our west,
The 130mm artillery piece is firing on Charlie.
I see a muzzle blast high up on the mountain side.
I know the location of the gun, I must destroy it.
I need to kill that gun or it will kill
us.
The NVA keep their 130 guns on rail
tracks
To be rolled out only to shoot
missions.
A routine air strike will not
destroy this weapon.
With a B–52 Arc–light strike, I target
the gun.
The bombs will either destroy
or bury the gun.
The aircraft drop their
loads of explosive destruction.
“On
Target! Report: 130 gun and crew destroyed.”
NOTE: The 130mm Long Range Artillery
did not fire again.
Nó Sẽ Giết Chúng Tôi
Từ hai mươi
km về phía tây của chúng tôi,
Là khẩu
đại pháo 130ly đang tới tấp nã đạn vào Charlie.
Tôi thấy họng súng khạc ra lửa trên sườn núi.
Biết vị trí của khẩu đại pháo đó, tôi phải diệt nó.
Tôi cần giết khẩu pháo đó hoặc nó sẽ
giết chúng tôi.
Bắc quân đặt đại pháo
130ly trên đường ray
Kéo ra ngoài chỉ
khi cần nã đạn.
Không kích thông thường
không triệt được vũ khí này.
Gọi phi tuần B–52 tới, tôi nhắm vào
khẩu pháo.
Những bom này hoặc sẽ hủy
diệt hoặc chôn luôn khẩu pháo.
Máy bay
trút xuống nguyên giàn bom công phá.
“Trúng Mục tiêu! Báo cáo: Khẩu 130ly và toán lính pháo binh bị
diệt trọn.”
Ghi chú: Khẩu Pháo Tầm xa 130ly không bắn nữa.
*
Hell’s Moment
It’s an inferno:
Smoke, dust and flame,
Shattering
explosions–
Shred a moment’s stillness.
Soldiers running fast,
Away from the flashes,
Trying to escape:
Afraid of death.
The smell of battle,
Choking smoke and dust,
Life’s last
moments
Caught in an explosion.
Night’s darkness will come,
In but a short time.
Perhaps some will
live,
Fleeing into the shadows.
Khoảnh Khắc Địa Ngục
Đó là nơi hỏa
ngục:
Khói, lửa, và bụi mù,
Tiếng nổ long trời đất–
Cắt vụn khoảnh
tĩnh lặng.
Những người lính phóng chạy,
Nhanh xa
khỏi lửa chớp,
Gắng sức vùng thoát khỏi:
Cái chết đang ập vào.
Khét mùi của chiến trường,
Đặc khói và bụi mù,
Chút khoảnh khắc
cuối đời
Lún sâu trong vụ nổ.
Đêm đen sẽ tìm đến.
Chỉ trong chút ngắn ngủi.
Vài người may
còn sống,
Mất hút sau màn đêm.
*
Rời bỏ Hỏa ngục “Charlie”
Withdrawal Order
The troopers are out of ammunition.
The NVA will soon overrun “Charlie”.
Only the “Cobra” gunships are stopping them.
We must break–out and escape.
The troopers can disengage
And withdraw before it’s too late.
I’ll
work the gun runs closer
And hold the
enemy at bay.
It’s our only chance to escape.
No time
to waste, give the orders.
The commander
orders a withdrawal
And insists on
staying with me to the end.
A rear guard of two, Me Le and me,
To stop NVA battalions in the attack.
This fight will need precision,
Cobra’s
in the attack and luck.
Notes: Le Van Me the new Commanding
Officer post
Colonel Bao being killed in
battle.
Lệnh
Rút Lui
Lính
dù đã hết đạn.
Phút chốc, địch sẽ tràn
ngập “Charlie.”
Chỉ trực thăng tấn công
“Cobra” là đang chặn đứng chúng.
Chúng
ta phải phá vòng vây và tẩu thoát.
Lính dù có thể lùi
Và rút lui trước khi quá muộn.
Tôi sẽ
gọi súng bắn gần thêm nữa
Và cầm chân kẻ
thù.
Đó là cơ
may duy nhất để tẩu thoát.
Không còn giờ
để phí, phải xuống lệnh.
Vị chỉ huy hạ
lệnh rút lui
Và nhất quyết sát cánh cùng
tôi cho đến cuối.
Toán đoạn hậu có hai, Lê Mễ và tôi,
Để chặn các tiểu đoàn đang truy kích.
Trận này cần chính xác,
Trực thăng Cobra
lên tấn công và may mắn.
Ghi chú: Lê Văn Mễ lên giữ chức vụ Tiểu
Đoàn Trưởng sau khi Trung tá Bảo tử trận.
*
We are a team, we have fought together
And if need be, we will die together.
Cùng đơn vị, cùng chiến đấu bên nhau
Và nếu cần, chúng ta sẽ cùng chết.
*
The Rear Guard; John Duffy
Đi đoạn hậu để bắn che cho cuộc rút lui
của cả một “tiểu đoàn” trong khi bị địch truy đuổi gắt gao chỉ là
hai khinh binh: “Me Van Le and John Duffy.”
Hãy cùng đọc bài thơ The Rear Guard
dưới dạng thức lượng định tình hình và chia sẻ “tâm tình” giữa
Thiếu tá Lê Văn Mễ và Thiếu tá John Duffy – hai “khinh binh” đứng
đầu đơn vị, rất thấu hiểu thực trạng nguy ngập và thê thảm của
tiểu đoàn.
The
Rear Guard
(Me Van Le and John Duffy)
The
paratroopers are pulling back,
Major Hai
Doan is leading them.
They are spent,
out of ammunition,
Many wounded, all
hungry and thirsty.
“I’ll cover the withdrawal with air.
The Cobra gunships are flying above us.
I’ll use them to disrupt the enemy.
I’ll
work them close to cover the break–out.”
The men have fought and died in the
trenches.
They have stopped the NVA for
two weeks.
No one could’ve expected more
from them.
Nothing more can be done,
except to save them.
“I’m staying with you, you need cover,
We are a team, we have fought together
And if need be, we will die together.
That may be the cost of saving our troopers.”
Toán Khinh Binh Đoạn Hậu
(Lê Văn Mễ và John Duffy)
Những người lính dù đang lùi lại,
Thiếu tá Hải Đoàn dẫn đầu.
Họ hoàn toàn
kiệt quệ, cạn hết đạn dược,
Nhiều người
bị thương, tất cả đều đói, khát.
“Tôi sẽ che chở cho cuộc rút lui này
bằng máy bay.
Đang bay trên đầu chúng
ta là trực thăng tấn công Cobra.
Tôi sẽ
dùng chúng làm rối loạn kẻ thù.
Tôi sẽ
sát cánh làm việc với họ để che chở cho việc phá vòng vây.”
Những người lính đã chiến đấu và chết
trong chiến hào.
Họ đã chặn đứng Bắc
quân được hai tuần.
Không ai có thể mong
đợi được gì nhiều hơn nữa từ những người này.
Không còn có thể làm được gì nhiều hơn nữa, ngoại trừ cứu lấy họ.
“Tôi ở lại với anh, anh cần che chở,
Cùng đơn vị, cùng chiến đấu bên nhau
Và
nếu cần, chúng ta sẽ cùng chết.
Đó có
thể là cái giá phải trả để cứu lấy những người lính của chúng
ta.”
Trong giờ
phút lâm nguy, những lời “tâm tình” của khinh binh đi đoạn hậu –
Thiếu tá Duffy – trong The Rear Guard cho thấy ông đã có những
“tính toán” rất giản dị trong một thể cách lạnh lùng và tỉnh táo
khi phải đối diện với “chọn lựa sau cùng.”
Những “tính toán giản dị” đó đã “vẽ”
được bức tranh mô tả tình trạng tuyệt vọng của Tiểu Đoàn 11 Dù
khi bị tấn công vùi giập trong hai tuần bởi một địch quân quyết
tâm tiêu diệt họ bằng hỏa lực và quân số vượt trội hơn gấp nhiều
lần.
Trong một
trận chiến đẫm máu và với một quyết tâm tiêu diệt, và “xóa sổ”
toàn bộ Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, thì Bắc quân không bao giờ khoan
nhượng.
*
Command Change
Colonel Le Me is coughing up blood.
The Doctor is trying to patch his chest wound.
“Duffy, You must take command of the battalion.
You must save the remaining paratroopers.”
“I’ll get us off the mountain, you’ll
be O.K.
We’ll be back in Saigon in a few
days.
The NVA are dead, they cannot
follow us.
We’ll be drinking cognac at
the Paradise Lounge.”
Major Duffy, the Advisor and senior
officer
Assumes command of the 11th
Battalion.
He will lead the night march
thru the jungle.
He gives the orders,
everyone falls in behind him.
Note: Of the 471 paratroopers in the
battalion, 151 are in this night withdrawal.
Thay Đổi Chỉ Huy
Trung tá Lê Mễ đang ho ra máu.
Vị Bác sĩ băng vết thương nơi ngực cho ông.
“Duffy, Anh phải nắm quyền chỉ huy tiểu đoàn.
Anh phải cứu những người lính dù còn lại.”
“Tôi sẽ đem chúng ta xuống núi, rồi anh
sẽ bình thường.
Vài ngày nữa chúng ta sẽ
về lại Sài Gòn.
Bắc quân đã chết, họ
không thể theo chân chúng ta.
Bọn mình
sẽ uống cognac tại Paradise Lounge.”
Thiếu tá Duffy, Cố vấn và sĩ quan cao
cấp
Đảm nhận quyền chỉ huy của Tiểu Đoàn
11.
Anh ta sẽ dẫn đầu cuộc di hành băng
rừng trong đêm.
Anh ta ra lệnh, mọi
người theo sau trong đội hình tác chiến.
Ghi chú: Trong số 471 người lính dù
trong tiểu đoàn, chỉ còn 151 người trong cuộc rút lui đêm này.
*
Destroy or Capture
(Colonel Khuat, 64th NVA Regiment
radio
order to Major Ky 4th NVA Battalion)
“Major Ky, this is Khuat, commander of
Charlie battle.
We have defeated the
paratroopers on Charlie,
Some have
escaped and are moving toward you.
Ambush them, kill or capture all of them.”
“Affirmative, how many paratroopers
escaped?”
“I estimate 100 to 150, many
are wounded,
They have no food and very
little of ammunition.
They are marching
down the mountain now.”
“There is one thing else that you
should know.
They have advisor ‘Dusty
Cyanide’, he is dangerous.
We have not
been able to kill him, he controls airplanes.
He is good at communicating. Kill him and his radio!”
“I will be ready, we will surprise the
paratroopers.
We shall kill them all
unless they surrender.”
“Do not fail me
Ky, many of our men have died.”
“I’ll
report when the devils are all eliminated.”
Tiêu Diệt hay Bắt Sống
(Đại tá Khuất, Trung đoàn 64 Bắc quân ra lệnh qua máy truyền tin
cho Thiếu tá Kỳ, Tiểu đoàn 4 Bắc quân)
“Thiếu tá Kỳ, Khuất đây, chỉ huy trận
Charlie.
Chúng ta đã đánh bại quân dù
trên Charlie,
Một số đã chạy thoát và
đang hướng về phía anh.
Phục kích, giết
hoặc bắt sống tất cả.”
“Nhận rõ, có bao nhiêu quân dù trốn
thoát được?”
“Tôi ước độ từ 100 đến 150,
nhiều đứa bị thương,
Chúng không có thức
ăn và còn rất ít đạn dược.
Bây giờ cả
bọn đang kéo nhau đi xuống núi.”
“Còn một điều khác nữa mà anh nên biết.
Địch có cố vấn ‘Dusty Cyanide’, hắn rất nguy hiểm.
Chúng ta đã chưa giết được hắn, đây là kẻ điều khiển máy bay.
Hắn giỏi liên lạc vô tuyến. Giết hắn và cái đài của hắn!”
“Tôi sẽ sẵn sàng, chúng tôi sẽ gây bất
ngờ cho quân dù.
Chúng ta sẽ giết hết
trừ khi chúng đầu hàng.”
“Đừng làm tôi
thất vọng, Kỳ, quân ta rất nhiều người đã chết.”
“Tôi sẽ báo cáo khi lũ quỷ bị tiêu diệt hết cả.”
*
Ambush
The swosh of the mortar,
The rat–a–tat–tat of the machine gun,
Fear dominates the green soldiers.
Panic
herds them into the killing zone.
Lord, how easily they die,
Their lips silently moving.
Appeals of
the young to mother and God:
Blood
bubbles from between their lips.
Phục Kích
Đạn súng cối rít lên đòi nạp mạng,
Tạch–tạch–tạch súng máy liên thanh nổ,
Nỗi hãi hùng chôn chân người lính trẻ.
Cơn hoảng loạn lùa họ vào chỗ chết.
Trời ơi, sao họ dễ chết như vậy,
Môi mấp máy, phập phều như định nói.
Người trẻ tuổi gọi mẹ và xin Chúa:
Máu
ọc ra từ đôi môi tái nhợt.
*
Escape
The young green troopers panic;
Running away from the sound of fire.
Down toward the stream and death,
Where
the killing guns draw blood.
I chamber a round and click my safety
off.
My radio is dead, hit by AK–47
gunfire.
At least that will lighten my
load on the run.
I gather the
paratroopers nearby: “Follow me!”
Break away! The path of least
resistance.
Move fast! Don’t get caught
in the panic.
Move quick! Go, go, keep
moving!
The veterans are still with you.
I takes time to kill the bunched herd;
Time needed to break–out,
Shooting when
necessary,
But always moving quickly.
Snipers on the hilltops,
Trying to channelize movement.
Disregard! Disregard!
Their aim is high.
Far enough now, quiet!
Stop! Everyone must be quiet!
Security:
Set a perimeter, but hold fire!
My
survival radio operating... contact.
“Covey, this is Dusty, I require a lift
package,
Thirty seven with some wounded.
Over.”
“Roger Dusty, 4 ships for thirty
seven.
Stand–by Dusty, I’ll try to
rustle them up. Out.”
Tẩu Thoát
Những lính mới trong cơn hoảng hốt;
Vùng chạy khỏi tiếng gào của lửa.
Xuống
khe suối và rồi sững chết,
Nơi súng máy
thi nhau nã đạn.
Tôi nạp đạn và mở khóa an toàn.
Máy truyền tin của tôi trúng đạn AK–47, đã chết.
Nhờ vậy nhẹ gánh cho tôi trên đường bôn tẩu.
Tôi tập hợp những người lính nhảy dù gần đó: “Theo tôi!”
Bung ra! Chọn đường ít gặp địch nhất.
Di chuyển nhanh! Không được rối loạn.
Di
chuyển lẹ! Đi, đi, tiếp tục di chuyển!
Những chiến binh kinh nghiệm vẫn sát bên bạn.
Tôi chậm lại để giết đám đỉa đói;
Cần thời gian để phá vỡ vòng vây,
Bắn
khi cần,
Nhưng luôn di chuyển lẹ.
Những thiện xạ bắn tỉa trên đỉnh đồi,
Đang điều chỉnh đường nhắm.
Không sao!
Không sao!
Đích họ nhắm nằm ở chỗ cao.
Bây giờ ra đủ xa rồi đó, im lặng!
Ngưng lại! Mọi người phải im lặng!
An
ninh: Lập vòng đai, nhưng không được nổ súng!
Máy vô tuyến mưu sinh của tôi đang hoạt động... liên lạc.
“Covey, đây là Dusty, tôi cần một
chuyến bốc hàng,
Ba mươi bảy mạng với
một vài bị thương. Xong.”
“Nhận rõ
Dusty, 4 chiếc cho 37 mạng.
Ráng chờ
Dusty, tôi sẽ gắng lo cho nhanh. Ngưng.”
Extinction is the rule. Survival is the
exception.
*
Hot Extraction
“Dusty, this is Covey, lift package,
five minutes out.
There are four lift
ships and a pair of Cobras.
I’m low on
fuel and I must return to base. Over.”
“Roger, four lift ships and guns, Thanks Covey.”
I advised Me Le, five minutes out, get
ready,
Seriously wounded out first, four
lifts.
Our band of thirty seven is
divided up,
Four sticks, ready for lift
off and rescue.
The Cobra gunships come in on the radio
first.
I brief them on the situation,
they circle us.
Huey lead comes up on
the radio and is briefed:
“Dusty, we’re
directed to have you on the first lift out.”
“Huey Lead, be advised I will be the
last man out.”
“Dusty Cyanide, Huey Lead
acknowledge, last man out.”
I pop a red
smoke when I have him in view.
He spots
the red smoke, I confirm red is a go.
I vector Huey Leads approach. Touch
Down!
The wounded loaded and the rest
scramble aboard.
First Load heads out:
NVA machine–gun fire erupts.
The enemy
gunner is to the south, forty meters.
The Cobras roll in, each in turn fire
on the gun,
Their mini guns and rockets
blast the enemy.
Lift Two in,
touch–down, troopers load and gone.
Lift
Three is right behind, load and out.
Me Le, Hai, two troopers and myself as
tail gunner.
On final approach, Lift
Four comes in under heavy fire.
He
aborts his approach and does a fly–around.
The Cobras roll in, expending on the gunners.
Lift Four comes in from a different
direction.
Touch down! We scrambled
aboard his aircraft.
I am the last on
and I ride the strut, signaling go!
The
pilot lifts off, enemy fire riddles the ship.
PING! PING! PING!, Hai is hit and
falling.
On the strut, I reach out,
grabbing his web gear.
I throw him back
into the aircraft, Me Le helps.
I crawl
into the helicopter, Me Le is treating Hai.
The Crew Chief, tettered, is twisting
in the wind,
I haul him in and patch the
chest entry wound.
The exit wound is
much bigger and is bubbling.
I am quick
patching the wound; the bubbles stop.
We are clear, we are out, but one man
dead,
And Hai, his foot shattered by
enemy gunfire.
We touch down at the
Kontum medical station
And drop off the
wounded Hai and the dead Crew Chief.
Note: The Crew Chief and the
door–gunner wear a tetter rope to keep them from getting totally
shot out of the aircraft when they take a hit.
“Bốc” Trong Lửa
“Dusty, đây
là Covey, chuyến bốc hàng, năm phút nữa sẽ tới.
Có bốn chiếc tới bốc và một cặp trực thăng tấn công Cobras.
Tôi gần hết nhiên liệu và phải quay về căn cứ. Xong.”
“Nhận rõ, bốn chiếc tới bốc và súng, Cảm ơn Covey.”
Tôi báo cho Lê Mễ, năm phút nữa là đi,
phải sẵn sàng,
Bị thương nặng lên trước,
bốn chuyến.
Nhóm chúng tôi 37 được chia
ra,
Bốn đợt, sẵn sàng chờ bốc lên và
được giải cứu.
Trực thăng tấn công Cobras có mặt đầu
tiên trên tần số.
Tôi tóm tắt cho họ
biết tình hình, họ bay vòng quanh chúng tôi.
Trưởng toán trực thăng Huey xuất hiện trên tần số và ngắn gọn:
“Dusty, chúng tôi nhận chỉ thị lo bốc bạn lên chuyến đầu tiên.”
“Trưởng toán Huey, báo tin cho bạn biết
tôi sẽ là người cuối cùng ra đi.”
“Dusty
Cyanide là người cuối cùng ra đi,” Trưởng toán Huey nhắc lại.
Tôi bung trái khói đỏ khi thấy anh ta trong tầm mắt.
Anh ta thấy điểm khói đỏ, tôi xác nhận màu đỏ là đi.
Tôi hướng dẫn Trưởng toán Huey đáp
xuống. Trúng Như Để!
Người bị thương
được đem lên và còn lại thì chen chúc trên máy bay.
Chuyến Thứ Nhất bay ra: súng máy của Bắc quân nổ rền.
Xạ thủ của địch ở phía nam, bốn mươi mét.
Hai chiếc Cobras nhào tới, thay phiên
nhả đạn vào súng địch,
Súng mini (đại
liên 7.62mm, 6 nòng) và hỏa tiễn của họ bắn tung kẻ địch
Chuyến Hai vô tới, đáp xuống, lính dù lên hết và mất dạng.
Chuyến Ba theo sau, lên hết và bay ra.
Lê Mễ, Hải, hai lính dù và tôi là xạ
thủ đoạn hậu.
Trong lần xuống cuối cùng
này, Chuyến Bốn bị nhắm bắn dữ dội.
Phi
công bỏ cách đáp cũ và đảo theo đường vòng.
Trực thăng Cobras lăn vô, nhả đạn xuống các xạ thủ của địch.
Chuyến Bốn đáp xuống bãi từ hướng khác.
Đụng đất! Chúng tôi chen chúc lên máy bay.
Tôi là người cuối cùng leo lên và cỡi trên càng trực thăng, ra
dấu cho bay!
Phi công cất cánh, đạn địch
lỗ chỗ bắn trúng con tàu.
BỤP! BỤP! BỤP!, Hải bị trúng đạn và
đang rớt.
Trên càng trực thăng, tôi
nhoài ra, nắm lấy dây ba chạc của anh ta.
Tôi ném anh ngược trở lại máy bay, Lê Mễ giúp.
Tôi bò vô trong trực thăng, Lê Mễ đang săn sóc Hải.
Trưởng toán Cơ phi, nát ngướu, đang oằn
người trong gió,
Tôi lôi anh ta vô và
băng bó vết thương nơi ngực.
Miệng vết
thương quá lớn và máu nổi bong bóng.
Tôi
nhanh tay băng lại vết thương; không còn bong bóng.
Chúng tôi lên được hết, ra được hết,
nhưng chết một người,
Và Hải, bàn chân
của anh ta bị vỡ vì đạn thù.
Chúng tôi
đáp xuống trạm y tế Kontum
Và thả xuống
Hải bị thương và người Trưởng toán Cơ phi đã chết.
Ghi chú: Trưởng toán Cơ phi và xạ thủ
đại liên đeo dây đai an toàn cho nên họ không bị văng hoàn toàn
ra khỏi máy bay khi trúng đạn.
Kiểm Điểm Quân Số
Trở lại những ngày đầu tiên khi vừa
được điều động đến căn cứ hỏa lực Charlie, lúc đó quân số tham
chiến của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù là 470 người sĩ quan và binh sĩ,
và 1 người cố vấn.
Tuy nhiên trong gần 2 tuần trấn giữ căn
cứ Charlie, và sau khi phải rút lui, quân số tham chiến của Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù chỉ còn lại 36 người sĩ quan và binh sĩ, và 1
người cố vấn.
Nghĩa là trong trận đánh tại căn cứ Charlie, hơn 90% quân số của
Tiểu Đoàn 11 bị thương vong với 434 người bị tử trận, trong đó có
vị Tiểu Đoàn Trưởng: Trung tá Nguyễn Đình Bảo.
Đổi lại với sự hy sinh và mất mát to
lớn như vậy, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã cầm chân được Sư đoàn 320
trong gần hai tuần. Và do vậy, đã làm hỏng kế hoạch tiến quân của
họ. Vì thế Sư đoàn 320 không tiến chiếm được Kontum.
Theo sự ước tính của Hoa Kỳ, về phía
quân cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 đã bị tổn thất với con số
thương vong lên đến hơn 1,250 quân.
Khi Thiếu tá Lê Văn Mễ được Hoa Kỳ
tưởng thưởng Silver Star Medal (huân chương đứng hàng thứ ba của
Quân đội Hoa Kỳ), trong phần tuyên dương công trạng (Silver Star
Citation) của ông, có ghi nhận những sự kiện trên:
Thiếu tá Lê Văn Mễ, từ ngày 4 đến 15
tháng 4 năm 1972, với tư cách là Sĩ quan Chỉ huy phó, đã chỉ huy
nhiều cuộc phản công chống lại một kẻ thù rất quyết tâm.
Với tư cách là Tiểu Đoàn Trưởng, ông đã
chỉ huy một Tiểu đoàn Nhảy Dù có quân số bị vượt trội gấp bội
(với tỉ lệ 10: 1) và vũ khi cũng bị vượt trội trong một cuộc
phòng thủ anh hùng cho “Căn cứ Hỏa lực Charlie” do vậy đã làm rối
loạn thời biểu tấn công của địch quân và trừng phạt hai Trung
đoàn của Sư đoàn 320 Bắc quân bằng cách gây tổn thất cho hơn
1,250 (ước tính) quân của các đơn vị đó. Điều này đã ngăn cản Bắc
quân không để họ tiến qua được Kontum và liên kết với các đơn vị
cộng quân ở vùng duyên hải, và như vậy sẽ cắt quốc gia này (Việt
Nam Cộng Hòa) làm đôi và là một đòn nặng nề làm mất tinh thần
chiến đấu cho tự do của miền Nam Việt Nam.
Sự can đảm, khả năng lãnh đạo, và sự
dũng cảm phi thường của ông đã quyết định sự sống còn của Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù.
Silver Star Citation
[9]:
Major Me Van Le, 4–15 April 1972 as
Executive Officer, led multiple counter–attacks against a
determined enemy.
As Battalion Commander, led a heavily
out numbered (10 to 1) and out gunned paratrooper battalion in a
heroic defense of “Firebase Charlie”, thereby disrupting the
enemy attack time table and punishing two Regiments of NVA 320th
Division by inflicting more than 1250 KIA (estimate) on those
units. This prevented NVA from pushing through Kontum and linking
up with NVA coastal units which would have cut the country in two
and been a severe demorilizing blow to South Vietnam’s fight for
freedom.
His
courage, leadership, and extroadinary bravery determined the
survival of the 11th Airborne Battalion.
*
Người Ở Lại Charlie
The Commander’s Family
(Colonel Nguyen
Dinh Bao Memorial Service)
Can you picture the scene:
Incense burning, banners hung, casket draped.
The moans and the weeping blend,
Sorrow
hangs in the atmosphere.
The Commander’s comrades gathered,
To offer their last salute.
The young
widow strong at first,
But soon sorrow
overcomes her.
It is not the smoke which tears my
eyes,
Although I have lit seven joss
sticks.
The words are spoken for all to
hear.
Now, it is I who must say the last
I will say the truth, and how he died:
“He died leading the paratroopers he loved.”
“He died fighting for the freedom he cherished.”
“He died a hero of his country!”
Note: Colonel Bao was decorated and
promoted after the battle for Charlie.
At his funeral, attended by his
officers, to include this Advisor, his casket was empty, he
remained on the battlefield, where he fell.
Gia Đình Của Vị Chỉ huy
(Lễ Tưởng Niệm Đại tá Nguyễn Đình Bảo)
Bạn có thể hình dung ra cảnh tượng:
Khói nhang, trướng tang, quan tài phủ cờ.
Quyện lẫn tiếng khóc than và nức nở,
Một
nỗi buồn lắng đọng khắp tâm tư.
Đồng đội vị Chỉ huy đều hiện diện,
Để hô nghiêm, cùng chào tay lần cuối.
Người góa phụ trẻ ban đầu vững chãi,
Nhưng đau khổ đến quật bà qụy ngã.
Không phải khói làm tôi chảy nước mắt,
Mặc dù tôi đã thắp bảy cây nhang.
Lời
chia buồn được chuyển cho tất cả,
Giờ
đây, chính tôi phải nói lời cuối
Tôi sẽ nói sự thật, và cách ông chết:
“Ông đã chết dẫn đầu những người lính Nhảy Dù mà ông thương yêu.”
“Ông đã chết chiến đấu cho tự do mà ông hằng ấp ủ.”
“Ông đã chết như một anh hùng cho đất nước!”
Ghi chú: Đại tá Bảo được tặng huân
chương và truy thăng sau trận đánh Charlie. Tại đám tang của ông,
có sự tham dự của các sĩ quan của ông, kể cả người Cố vấn này,
quan tài của ông trống rỗng, ông vẫn nằm lại trên chiến trường,
nơi ông đã ngã xuống.
Nghĩa Cử Cao Đẹp
Vào năm 1998, ngày 7, tháng Bảy, vị Tư
lệnh cuối cùng của Quân đội Mỹ tại Việt Nam, từ 1972 đến 1973, là
Đại tướng Frederick C. Weyand đã gửi thư lên Thượng nghị sĩ
Daniel Inouye, Tiểu bang Hawaii, để yêu cầu Thượng nghị sĩ Inouye
đề nghị việc ân thưởng Medal Of Honor cho Thiếu tá John Duffy. Và
sau đó Thượng nghị sĩ Inouye đã chuyển hồ sơ sang Bộ Lục quân Hoa
Kỳ.
Tuy nhiên,
sau các thủ tục điều tra và xác nhận giá trị của các bằng chứng
cũng như các chứng từ của nhân chứng, mãi cho đến ngày 5 tháng 7,
2022 Thiếu tá Duffy mới được ân thưởng Medal Of Honor. Tổng cộng
thời gian xét duyệt là 24 năm.
Cũng nên biết, ngoài Đại tướng Weyland,
còn có 11 người khác [10], trong đó có ba sĩ quan Việt Nam là
Trung tá Lê Văn Mễ (eyewitness), Thiếu tá Đoàn Phương Hải
(eyewitness) và Đại úy Phan Nhật Nam, làm nhân chứng cho Thiếu tá
Duffy.
Những
vị này đã đệ nạp các chứng từ (statements), và có cả băng thu âm
các cuộc liên lạc vô tuyến giữa Thiếu tá Duffy ở dưới đất và các
đơn vị máy bay trực thăng yểm trợ trong lần rút lui cuối cùng ra
khỏi căn cứ Charlie vào năm 1972.
It was apparent to all of those flying
in support of Major Duffy that we were witnessing heroic acts by
one of the Army’s finest.
Statement; Daniel E. Jones, Chief
Warrant Officer [4]
Trong số các chứng từ đệ nạp, bản văn
của phi công phụ Dennis Watson có đoạn, mà theo cảm quan riêng
của người viết bài này, rất ý nghĩa và cảm động:
... Chiếc trực thăng Huey đầu tiên đáp
xuống và cất cánh mang theo những người lính trên đó nhưng Thiếu
tá Duffy đã không lên. Ý định của ông hiện ra rõ ràng ngay lập
tức. Tôi biết chắc là ông biết bãi đáp rồi sẽ rất “nóng.” Là một
người Mỹ duy nhất, ông sợ rằng các phi công Mỹ sẽ ít dám liều
lĩnh đáp xuống một bãi đáp nóng để ‘bốc’ người Việt Nam lên thay
vì một người Mỹ. Ông biết rằng khi những chiếc trực thăng Huey
tiếp tục đáp xuống, kẻ thù sẽ biết được đường bay ra và vào và họ
sẽ có thể tự điều chỉnh để bắn cho trúng. Chọn ở lại dưới đất, có
nghĩa là trên thực tế, Thiếu tá Duffy đã đem mạng sống của ông ra
để đánh đổi lấy mạng sống cho đồng đội của mình. Một khi chiếc
Huey có khả năng bị bắn rớt càng lên cao, thì khả năng sống còn
của chính ông lại càng xuống thấp [11].
Trong lúc đang phải nỗ lực chạy đua với
đạn thù đang vây khổn mà sự sống còn được đo bằng từng phút, và
dù có được ưu tiên để thoát ra khỏi chỗ chết, Thiếu tá Duffy vẫn
đã nhường ưu tiên đó lại cho những người chiến binh cùng đơn vị!
Và Dennis Watson đã kết thúc bản chứng
từ của ông bằng những lời nhận xét nói lên được những gì hết sức
cao quý nơi con người của Thiếu tá Lực lượng Đặc biệt Mũ xanh
John Duffy:
Từ
giây phút đầu tiên khi tôi nghe được giọng ông nói cho đến lúc
cuối, Thiếu tá Duffy cho thấy ông là một người chỉ huy có tài,
gan dạ và vị tha đến tận cùng. Nhưng, ngoài khả năng chiến đấu và
tài chỉ huy nổi bật của ông, thì việc ông sẵn sàng đem mạng sống
của mình ra để đánh đổi cho mạng sống của đồng đội là điều mà tôi
xem là không còn gì có thể cao đẹp hơn hành động tối hậu đó của
ông.
From the
first moment I heard his voice until the last, Maj. Duffy was a
skilled, fearless leader who was selfless to the end. But, beyond
his obvious skills and leadership, I consider none greater than
his ultimate act, that of willingly offering his life for the
lives of his men.
Còn có thể nói được gì thêm về hành
động can trường, hào hùng và cao đẹp đó của ông Duffy dành cho
những người đồng đội – dù họ không cùng màu da và tổ quốc?
John Duffy: Nhà Thơ Thời Kỳ Hậu Chiến
Tranh Việt Nam
Chiến tranh Việt Nam chống cộng sản,
như người Mỹ vẫn gọi là Vietnam War, đã chấm dứt sau ngày
30/4/1975 tại Việt Nam.
Tuy thế, “Vietnam War” vẫn còn tiếp
diễn tại Hoa Kỳ. Nhưng trên một “chiến trường” khác, với các loại
“vũ khí” truyền thông, sách vở và ngôn ngữ (Anh văn).
Trong “chiến trường” này, những thành
kiến sai lạc và sự thật bị bóp méo về tinh thần và khả năng chiến
đấu của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn chiếm ưu thế
trong kỹ nghệ phim ảnh, kỹ nghệ truyền thông, hoặc trong các
khuôn viên đại học và các trung tâm nghiên cứu sử học hay chính
trị học.
Và
người Việt tự do chúng ta không được “trang bị” đúng mức và phải
nói là còn quá yếu kém nơi những lãnh vực này. Trong gần 50 năm
qua, chúng ta bị rơi vào một tư thế tứ bề thọ địch và bị vây hãm
bởi những giới truyền thông và học thuật thiên tả. Cũng gần như
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù bị vây hãm, phải “chịu trận” trước những tấn
công liên tục của Bắc quân, tại căn cứ hỏa lực Charlie năm 1972.
Với một quá trình chiến đấu tại Việt
Nam, Thiếu tá John Duffy là người có thể nói hoặc viết khá chính
xác về khả năng chiến đấu và tinh thần phục vụ của người lính
Việt Nam Cộng Hòa, hay ít ra thì cũng là người lính của Tiểu Đoàn
11 Nhảy Dù.
Mặt khác, về phương diện cầm bút, nhà thơ John Duffy cũng đã góp
mặt vào “dòng chính” của thơ văn Hoa Kỳ bằng những tác phẩm thơ
đã xuất bản. Và nhất là sau khi nhà thơ Thiếu tá Duffy được Hoa
Kỳ ân thưởng Medal Of Honor, thì tiếng nói của thơ ông về Vietnam
War chắc chắn sẽ có thêm nhiều “trọng lượng.”
Con người và Tác phẩm của ông sẽ là một
trong những “reference points” (nguồn tham khảo) có giá trị tại
các thư viện, các đại học và có thể ngay cả trong kỹ nghệ phim
ảnh, cho những nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam.
Và trong những tác phẩm về Vietnam War
của John Duffy, người chiến binh Nam Việt Nam đã được ông “vẽ”
lại một cách chân thực.
Những đóng góp bằng ngòi bút đó của nhà
thơ John Duffy là một trong những “phản luận” hữu hiệu trước
những bóp méo của giới truyền thông và học thuật thiên tả về sự
chiến đấu của miền Nam Việt Nam trong Vietnam War.
Dù vẫn còn giới hạn, “phản luận” này
vẫn mang một giá trị rất đáng kể vì đó là những sự thật đến từ “A
recipient of the Medal Of Honor: Thiếu tá John Duffy”.
Sự đóng góp về mặt chữ nghĩa của nhà
thơ John Duffy – trong dài hạn – rất quan trọng cho sự thật của
“Vietnam War.”
Và những đóng góp đó cũng quan trọng
như những đóng góp của Thiếu tá John Duffy cho miền Nam tự do vào
nửa thế kỷ trước.
Xin được đứng nghiêm chào kính
Thiếu tá John Duffy
Và cũng xin được
trân trọng cảm tạ Nhà Thơ John Duffy.
Trần Trung Tín
Ngày 30,
tháng 7, 2022
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên quan
Lễ trao Huy chương Danh dự cho 4 cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Nam/VN...
Người Khinh Binh Cuối cùng
Trang nhà
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trịnh Tường Vân chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, August 13,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang