Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn ẩm thực
Chủ đề:
ĐƯỜNG
Tác giả:
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trong
ẩm thực hàng ngày của loài người đều có các vị ngọt, mặn, đắng,
cay, béo, bùi, chua, chát. Vị ngọt do đường mang lại. Vị mặn thì
có muối, nước mắm. Vị đắng thì có khổ qua, cà phê đen. Vị cay thì
có ớt, hồ tiêu. Vị chua thì có giấm, chanh, khế. Vị béo thì có
dầu thực vật, mỡ động vật. Vị bùi thì có các loại hột, đậu, hột
dẻ. Vị chát thì có trái chuối chát, trái chuối non, đọt lá cây
non, v.v.
Sự
tiêu thụ đường đo lường mức sống cao thấp của một người, một gia
đình và một dân tộc. Đường, muối có vai trò quan trọng thường
xuyên trong nhà bếp. Câu: “Hết đường, tương chao” phản ảnh cảnh
nghèo cạn cùng đến nỗi thiếu các thức ăn căn bản trong nhà.
Ba loại đường trên thế giới là:
1. Đường mía.
2. Đường thốt nốt và đường chà là.
3.
Đường củ cải đường.
Trong quá khứ mức sản xuất đường mía
cao hơn đường củ cải (đường mía & thốt nốt, chà là: 60%; đường củ
cải: 40%).
Mía
là thảo mộc vùng khí hậu đại dương, nhiệt đới hay bán nhiệt đới.
Thốt nốt và chà là là thảo mộc của vùng
khí hậu nhiệt đới và sa mạc. Cả hai loại cây cọ này (palms) đều
cung cấp cho loài người ở Trung Đông, Ấn Độ, Sri Lanka, Mã Lai,
Indonesia, Cambodia, v.v. một nguồn đường và si–rô quan trọng.
Củ cải đường (sugar beet) là loại củ
vùng khí hậu ôn đới. Người Việt Nam biết đến đường củ cải St.
Louis sau khi tiếp xúc với người Pháp.
Thảo mộc dùng để sản xuất đường và
si–rô trên thế giới gồm có: cây mía, cây thốt nốt, cây chà là, củ
cải đường, cây phong mật (cây thích mật – sugar maple), cây cao
lương ngọt (Sweet sorghum). Các loại thảo mộc có vị ngọt của
đường (sucrose C12 H22 O11) hay vị ngọt của trái cây (fructose C6
H12 O6) đều có thể cất rượu hay làm giấm.
***
CÂY MÍA
Saccharum officinarum
Gia đình:
Poaceae/Gramineae
Cây mía, hoa và công dụng
Cây mía có vóc dáng của cây tre, cây
bắp, cao lương và cây sậy. Cây mía có nhiều lông. Lá mía dài, có
lông và rất bén. Đó là một loại cây kỹ nghệ và thương mại quan
trọng trên thế giới được trồng thành đồn điền để sản xuất đường.
Mức sản xuất đường mía trên thế giới hiện nay cao gấp 6 lần mức
sản xuất đường củ cải.
Tên khoa học của cây mía là Saccharum
officinarum, gia đình Poaceae. Tên gọi thông thường:
Cây mía
xuất phát từ đảo New Guinea, nơi mía được trồng từ 8,000 [tám
ngàn] năm trước đây. Ấn Độ trồng mía cách đây 5,000 năm. Người Á
Rập đem mía về trồng ở Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia), Ai Cập và Tây
Ban Nha vào thế kỷ VIII sau Tây Lịch. Christopher Columbus đem
mía trồng trên đảo Santo Domingo (Hispaniola) vào cuối thế kỷ XV.
Đó là tổ tiên của những cây mía trồng trên hải đảo trong biển
Caribbean như Cuba, Jamaica và Trung Mỹ, Nam Mỹ vào thế kỷ XVI
sau này. Người Bồ Đào Nha đem mía về trồng ở Brazil. Hiện nay
Brazil sản xuất 39% tổng sản lượng mía và đường trên thế giới.
Đến thế kỷ
XVIII mía mới được trồng ở Louisiana. Ngày nay mía được trồng
khắp nơi trên thế giới. Miền bắc Úc Đại Lợi là vùng khí hậu nhiệt
đới nên có nhiều đồn điền mía.
Mía được trồng bằng mầm. Mía trồng lối
12 tháng thì có thu hoạch. Ở Việt Nam một đám mía có thể thu
hoạch ba, bốn năm liên tục. Nhưng năm thứ hai, ba và tư mức năng
suất mía giảm đi nên phải cày đất, bứng gốc mía cũ để trồng mía
mới. Mía cần đất mầu mỡ và nước. Mía lau, cây nhỏ nhưng mật đường
cao, được trồng trên những vùng đất gò ít nước. Ở Việt Nam có các
loại mía sau đây: mía vàng; mía Java, cây ốm và trắng; mía cò ke
cây đỏ và cứng; mía sơn điệu vỏ đỏ, cây to; mía bắp, mía bầu, mía
tây, mía voi, v.v.
Cây mía có công dụng đa dạng:
– Mía ép lấy mật nấu đường. Nước mía ép
(sugar cane juice) hòa với nước đá làm nước giải khát ở các quốc
gia nhiệt đới.
– Lá mía là thức ăn ưa thích của trâu,
bò.
– Mía dùng
để cất rượu Rum.
– Mía dùng để chế ethanol để chạy máy,
làm chất nổ, cao su tổng hợp, v.v.
– Bã mía dùng để làm bột giấy hay chất
đốt thay cho than củi.
Năm 2019 toàn thể thế giới sản xuất 1.9
tỷ tấn mía. Riêng Brazil chiếm 39% tổng sản xuất vừa nói. Kế đó
là Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan. Brazil là quốc gia sản xuất
nhiều ethanol nhất thế giới. Mía có 11% đường. Trung bình 10kg
mía cho 1.11kg đường hay 1 tấn mía cho 111kg đường.
Nước mía có: nước, nhiều ca–lô–ri,
carbohydrate, Ca, Fe, Mn, Mg, beta carotene (sinh tố A– C40 H56),
ascorbic acid (sinh tố C– C6 H8 O6), v.v. Lá cũng có những thành
phần hóa học như nước mía và đường.
Mía được xem là nhuận tiểu, nhuận
trường, bổ tim, bổ phổi, mát cơ thể và kháng khuẩn.
Rễ cây mía được dùng để trị ho gà
(Whooping cough – bách nhật khái). Y học cổ truyền Ấn Độ dùng
nước mía để điều hòa máu và mật (bile), thanh lọc gan, chữa hoàng
đản, hưng phấn cơ thể vì có nhiều chất sắt và carbohydrates, kích
dục, gia tăng tinh dịch, tăng cường khả năng sinh lý, trị ho, tẩy
độc trong thận (kidneys).
Voi rất thích ăn mía. Trong cây mía có
hydrocyanic acid (hydrogen cyanid–HCN) rất độc đối với loài ngựa.
Ca dao và khúc hát ru con của người
Việt Nam đề cập đến mía như sau:
Mía sâu có đốt,
Nhà dột có nơi.
*
Mẹ già như
chuối ba hương
Như xôi nếp ngọt như
đường mía lau.
*
Đi ngang lò
mía thơm đường,
Muốn vô kết nghĩa cang
thường với anh.
*
Chiều chiều
vịt lội, cò bay,
Ông voi bẻ mía chạy
ngay vô rừng.
Vô rừng bứt một sợi mây,
Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn,
Đi
buôn đi bán không lỗ thì lời,
Đi ra cho
thấy mặt trời mặt trăng.
Các cụm từ liên quan đến mía trong ngôn
ngữ Việt Nam đại để gồm có:
– Theo đuôi voi hít bã mía
– Ngọt mật chết ruồi
– Mật ít ruồi
nhiều, v.v.
Năm 1774 Quốc Hội Anh thông qua đạo luật Sugar Act nhằm tăng thuế
đường nhập cảng vào thuộc địa. Đạo luật này tạo cho dân chúng Hoa
Kỳ mang thêm một gánh nặng thuế vụ. Lúc ấy Hoa Kỳ chưa lập quốc
mà còn đặt dưới sự cai trị của người Anh.
Ở Rio de Janeiro, thủ đô xứ Brazil, có
núi Sugarloaf Mountain nằm trên Vịnh Guanabara.
CÂY THỐT NỐT
Borassus flabellifer
Gia đình:
Arecaceae/Palmae
Cây, trái và hoa thốt nốt
Tên gọi thông thường của cây thốt nốt
là:
Qua tên gọi thông thường của người Anh
và các dân tộc Âu Châu khác, chúng ta thấy nguồn gốc của cây thốt
nốt là vùng Trung Đông (qua tên gọi Palmyra palm) hay lục địa Phi
Châu (qua tên gọi African palm). Palmira là một thành phố ở Syria
gần thủ đô Damacus bây giờ. Trong Thánh Kinh thành Palmyra được
biết dưới tên Tadmor. Từ đó cây thốt nốt được đưa sang Ấn Độ,
xuống Sri Lanka và các nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan,
Cambodia (gồm cả Thủy Chân Lạp – Water Chenla), Lào, Mã Lai,
Indonesia.
Cây
thốt nốt tựa như cây dừa, lá có hình cái quạt. Cây cao từ 20–25m.
Trái thốt nốt nhỏ hơn trái dừa rất nhiều. Khi còn non nó có hình
ba cánh vì mỗi trái có ba hột bên trong. Khi lớn trái thốt nốt có
hình bầu dục. Cơm và hột thốt nốt đều ăn được.
Khác với dừa, cây thốt nốt chịu hạn rất
tốt.
Công
dụng:
– Gỗ
thốt nốt màu đen–đỏ rất cứng, được dùng làm nhà hay hàng rào.
Miến Điện là quốc gia xuất cảng gỗ thốt nốt nổi tiếng.
– Lá thốt nốt dùng để lợp nhà, đan
thúng rổ, nón, quạt, dù hay áo mưa. Ngày xưa người Khmer và
Indonesia dùng lá thốt nốt làm giấy để khắc chữ viết. Tàu lá phơi
khô dùng làm củi đốt. Tàu lá tươi có nhiều sợi dùng làm dây hay
bện thành dây thừng to và bền chắc.
– Nhựa và mật hoa thốt nốt dùng làm
đường thốt nốt hay cho lên men làm ra rượu arrack hay làm giấm.
Phải dùng 100kg nhựa thốt nốt mới có 7–8kg đường thốt nốt (palm
sugar) và lối 8kg mật đường (molass).
Mỗi cây thốt nốt ở Ấn Độ và Sri Lanka
trung bình có 350 trái. Mỗi cây cho từ 4–5lít (litre) nhựa mỗi
ngày suốt 200 ngày liên tiếp trong năm. Trong 200 ngày trong năm
mỗi cây thốt nốt cho tối thiểu:
200 x 4: 800kg nhựa.
100kg nhựa cho 7kg đường.
800kg nhựa thốt nốt cho: 800: 100 x 7 =
56kg đường và 64kg mật đường trong 200 ngày/năm.
Đường thốt nốt bổ hơn đường mía vì có
nhiều glucose, sucrose, chất béo, chất sắt, chất vôi, phosphorus
và sinh tố.
Về
y học trị liệu cổ truyền người ta dùng cây thốt nốt non để trị
bệnh kiết lỵ, tiêu chảy, lâm lậu. Rễ thốt nốt nhuận tiểu, lợi phế
và có khả năng diệt lãi. Người ta đốt cuống hoa lấy tro dùng để
chữa bịnh sưng gan, sưng lá lách. Vỏ cây thốt nốt dùng làm thuốc
súc miệng. Nhựa lấy từ hoa thốt nốt rất bổ, nhuận tiểu, kháng
khuẩn, tiêu đàm.
Đường thốt nốt giải độc và trị các
chứng rối loạn của gan. Trái thốt nốt dùng để chữa viêm da.
CÂY CHÀ LÀ
Phoenix dactylifera
Gia đình:
Arecaceae/Palmae
Cây, hoa và trái chà là
Cây chà là là thân thuộc sang trọng của
cây dừa ở vùng khô hạn. Cây chà là còn được gọi là nữ hoàng ốc
đảo (Queen of the oasis) vì hương vị ngon ngọt và vì lợi ích kinh
tế của trái chà là trong vùng khí hậu sa mạc.
Tên gọi thông thường của cây chà là là:
Dựa vào tên khoa học Phoenix
dactylifera chúng ta thấy người Hy Lạp tin rằng Phoenicians tức
người Canaanites sống trong vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu thời cổ, tức
vùng Syria–Lebanon–Do Thái bây giờ, là những người đem cây chà là
du nhập vào các quốc gia ven bờ Địa Trung Hải. Như vậy xuất xứ
của cây chà là là Bắc Phi và Trung Đông. Cũng có tài liệu cho
rằng cây chà là gốc trong vùng Vịnh Ba Tư (Persian Gulf).
Cây chà là là loại cây ăn trái vùng khí
hậu sa mạc hay bán sa mạc có dạng giống cây dừa và cùng gia đình
Arecaceae của cây cau và cây dừa. Chà là sớm được trồng trong
vùng Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia) giữa hai sông Euphrates và
Tigris và dọc theo thung lũng sông Nile ở Ai Cập. Cây chà là mọc
giữa vĩ tuyến 15 và 35 Bắc Bán Cầu và Nam Bán Cầu. Vùng có nhiều
chà là trên thế giới là Trung Đông, tức những quốc gia theo đạo
Hồi. Người Á Rập gọi cây chà là là Sinh Mộc khi họ kể ra 700 công
dụng của cây chà là.
Cây chà là cao từ 20–30m. Cây đực và
cái riêng rẽ nhau. Hoa màu trắng rất thơm. Chà là trồng 3 năm thì
bắt đầu ra trái. Trái hình bầu dục, to như trái cau. Trái non màu
xanh. Khi chín trái chuyển sang màu vàng–đỏ rất đẹp. Trung bình
mỗi cây chà là cho lối 70kg trái. Cây già và được chăm sóc kỹ
lưỡng có thể cho từ 80–120kg trái/năm.
Các quốc gia sản xuất nhiều chà là trên
thế giới là:
1. Ai Cập, 2. Saudi Arabia, 3. Iran, 4. Iraq, 5. Pakistan.
Cả năm quốc gia trên đều là những quốc
gia Hồi Giáo ở Bắc Phi, Trung Đông, Trung Á và Nam Á.
Trái chà là rất ngọt và có nhiều Ca,
Fe, carbohydrates, sợi, ascorbic acid, silicon, chlorine, sulfur,
Mn, K, Na và Al. Tín đồ Hồi Giáo ăn chà là, yogurt và uống sữa
khi mặt trời lặn trong lễ Ramadan.
Nhựa cây chà là dùng làm đường như nhựa
cây thốt nốt. Trung bình 100kg nhựa chà là cho 7–8kg đường và 8kg
mật đường. Ngoài ra nó còn được dùng để làm rượu Arrack hay làm
một loại giấm ngon.
Phấn hoa chà là có nhiều cholesterol
C27 H46 O và rutin C27 H30 O16.
Dầu lấy từ hột chà là có lauric,
myristic, palmitic, stearic, oleic, linoleic acids. Hột chà là có
cholesterol estrones, polysaccharides A, polysaccharides B và
xylose C5 H10 O5. Hột chà là xay nhuyễn dùng làm thức ăn cho súc
vật. Hột chà là rất cứng nên còn được dùng làm xâu chuỗi nữa.
Thân cây chà là dùng làm nhà, làm cửa,
làm kèo nhà, làm bè.
Sợi để bện dây thừng cho ghe thuyền.
Các dân tộc ven Địa Trung Hải và sa mạc
tin vào dược tính phong phú của chà là.
Nhựa cây chà là dùng làm thuốc trị tiêu
chảy, kiết lỵ, rối loạn đường tiểu.
Trái chà là được xem là thông phổi,
ngừa bịnh scorbutus do thiếu sinh tố C, gây tẩy xổ, kích dục, ho,
suyễn, đau ngực, lâm lậu. Người ta còn đi xa hơn khi nhấn mạnh
đến tính năng trị ung thư, u bướu, vô tự, khát nước vì tiểu
đường, ho lao, sốt, mệt mỏi, đau gan, sưng lá lách, đau âm hộ,
đau ngoại thận, tử cung. Người ta chữa chứng vô tự bằng cách uống
nước + phấn hoa cây chà là.
Trong thời gian 1963–1965 người ta khai
quật cung điện của vua Herod (72–4 trước Tây Lịch, vua: 37–4
trước Tây Lịch) thời Chúa Jesus trên cao nguyên Masada và tìm
thấy một cái hũ đựng hột chà là. Bốn chục năm sau người ta thử
dùng hột chà là trên 2,000 tuổi này để trồng trong một Kibbutz
trong sa mạc Arabah ở miền nam nước Do Thái. Cây mọc lên nhưng
toàn là cây chà là đực nên không có trái. Người Do Thái gọi đó là
cây chà là Methuselath, tên của người trường thọ nhất trong Thánh
Kinh. Người ta nghĩ đến việc tháp giống chà là Methuselath với
chà là Ai Cập với hy vọng chà là sẽ có trái vào năm 2022!
–––––––––––
(1)
Người Do Thái trân quí cây chà là. Đó là biểu tượng của sự
kiều diễm và ân phúc của người phụ nữ. Chà là được gọi là tamar.
Tamar là tên của một công chúa của vua David (vua: 1010–970 trước
Tây lịch).
CỦ
CẢI ĐƯỜNG
Beta vulgaris
Gia đình: Chenopodiaceae
Củ cải đường
Củ cải đường là thảo mộc của vùng khí
hậu ôn đới được dùng để sản xuất đường như mía trong vùng khí hậu
nhiệt đới, đại dương và bán nhiệt đới.
Tên khoa học của củ cải đường là Beta
vulgaris, gia đình Chenopodiaceae. Tên gọi thông thường là:
Tổ tiên của củ cải đường là củ cải
đường biển (sea beet) Beta maritima mọc ở ven biển Địa Trung Hải.
Người Ai Cập, Hy Lạp và Babylonians biết trồng củ cải đường từ
lâu.
Củ cải
đường có rễ chân ngỗng, lá giống như các loại củ cải khác, hoa
màu vàng nhạt. Củ to như củ hành, màu trắng, tím, đỏ, vàng. Củ
cải đường được trồng bằng hột vào mùa xuân ở vùng khí hậu ôn đới,
lối 6–7 tháng sau mới thu hoạch được. Trước khi loài người biết
dùng củ cải đường để làm ra đường, củ cải đường được dùng như rau
cải. Người ta thái củ cải đường và cho vào chai ngâm giấm, đường
để ăn. Củ cải đường có Fe, Ca, sinh tố A. Lá có Fe, Ca, sinh tố A
và oxalic acid C2 H2 O4.
Vào thế kỷ XVI nhà nông học Pháp
Olivier de Serres (1539–1619) dùng củ cải đường để làm si–rô. Năm
1744 một nhà khoa học Đức tên Andreas Sigismund Marggraf tìm thấy
chất ngọt của đường trong củ cải này. Đến năm 1799 môn đệ của ông
là Franz Achad đưa ra phương pháp lấy đường từ củ cải đường. Từ
đó khắp Âu Châu người ta đua nhau trồng củ cải đường để sản xuất
đường vì mía không trồng được ở Âu Châu. Napoléon Bonaparte rất
quan tâm đến việc sản xuất đường từ củ cải đường. Ông muốn chấm
dứt sự lệ thuộc vào đường mía nhập cảng từ các nước Trung Mỹ,
nhất là từ các hải đảo trong biển Caribbean. Pháp và Anh bất thân
thiện nhau trong khi Anh kiểm soát đường biển nhờ có hạm đội hùng
mạnh.
Hiện nay
đường củ cải chiếm 40% tổng số đường thương mại trên thế giới.
Các nước sản xuất nhiều đường củ cải là: Nga, Pháp, Hoa Kỳ, Đức,
Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Ukraine, Trung Quốc. Năm 2018 thế giới sản
xuất 275 triệu tấn củ cải đường và 45 triệu tấn đường (beet
sugar). Trung bình phải dùng trên 6 tấn củ cải đường mới sản xuất
được 1 tấn đường. Mật đường củ cải lên men cho citric acid C6 H8
O7, glycolic acid C2 H4 O3 và fumaric acid C4 H4 O4.
Chất betanins C24 H26 N2 O13 trong củ
cải đường được dùng để nhuộm mầu thức ăn như mứt, bánh, kẹo, kem,
thạch, v.v.
Lá
và cọng non của củ cải đường ăn như rau cải thường. Lá và củ cải
đường được xem như bảo vệ gan, kể cả gan của người bị tiểu đường.
Củ dùng để sản xuất đường hay làm rượu
Bet Vodka được sản xuất ở Minnesota, Hoa Kỳ. Uống rượu này, nước
tiểu của người uống chuyển sang màu đỏ nhưng vô hại. Người ta gọi
nước tiểu “lành mạnh” này beeturia (nước tiểu củ cải đường). Màu
nước tiểu đỏ không phải vì bị huyết tiện (hematuria) mà ra.
Ngày xưa người La Mã dùng củ cải đường
để trị sốt rét và táo bón. Y sư Hippocrate chủ trương dùng lá củ
cải đường để trị các vết thương. Nước ép của củ cải đường hạ
huyết áp. Người La Mã cũng xem đó là thuốc kích dục. Trong nhiều
thế kỷ qua ở Âu Châu người ta tin rằng củ cải đường kháng ung
thư, kháng bướu dẫu biết rằng toàn thể củ cải đường đều có oxalic
acid C2 H2 O4 không tốt cho thận (kidneys).
CÂY PHONG MẬT
Sugar Maple
Acer saccharum
Gia đình: Aceraceae/Sapindaceae
Cây phong mật, lá, hoa và trái
Nhựa cây phong mật dùng làm si–rô. Tên
khoa học của cây phong mật là Acer saccharum thuộc gia đình
Aceraceae/ Sapindaceae. Tên gọi thông thường là:
Cây phong mật là thảo mộc miền ôn đới
lạnh. Cây cao từ 20–35m. Cây cao nhất đo được 45m. Cây trồng 5
năm cao lối 5m. Lá chẻ và chia ra làm nhiều thùy. Lá phong chuyển
sang màu đỏ hay vàng cam vào mùa thu. Đó là hình ảnh và mầu cờ
của Canada.
Cây phong mật được tìm thấy nhiều ở Québec, miền nam tỉnh
Ontario, Canada, xuống miền đông bắc Hoa Kỳ xuống Georgia, Texas,
v.v. Hoa cây phong mật màu vàng–xanh. Hoa không có cánh hoa rõ
rệt. Trái có hai hột có cánh.
Người ta thường lẫn lộn cây phong mật
với cây phong Na Uy. Sự phân biệt này dựa vào nhựa của cuống lá.
Gỗ cây phong mật rất cứng chắc nên có
công dụng lớn trong ngành mộc, gỗ sàn nhà, dụng cụ thể thao,
ghi–ta điện, đàn piano (dương cầm), v.v.
Nhựa cây phong mật dùng để làm si–rô
(syrup). Sự sản xuất si–rô từ cây phong mật theo tỷ lệ trung bình
như sau: 40 lít nhựa cây phong mật làm ra 1 lít si–rô.
Việc cạo nhựa tiến hành ban ngày. Nhựa
nhiều hay ít tùy theo mùa và thời tiết. Nhựa ít vào mùa lạnh với
nhiệt độ thấp. Cây phong mật cho nhiều nhựa thường ở tuổi 30–40.
Mỗi cây cho trung bình từ 35–50 lít nhựa cho mỗi mùa. Cũng có cây
cho 12 lít nhựa mỗi ngày!
Vùng sản xuất nhiều si–rô nhất từ cây
phong mật là vùng đông bắc Bắc Mỹ. Năm 2016 riêng Québec sản xuất
30 triệu lít si–rô cây phong mật. Ở Hoa Kỳ, tiểu bang Vermont là
tiểu bang sản xuất nhiều si–rô từ cây phong mật. Các tiểu bang
Maine, New York, Connecticut, Ohio, Michigan, Wisconsin, Georgia,
v.v. đều có sản xuất si–rô từ cây phong mật.
Dùng nhựa cây phong mật để làm si–rô đã
được thổ dân ở Bắc Mỹ thực hiện trước khi người Âu Châu đến Mỹ
Châu.
Bộ lạc
Mohegan dùng vỏ trong của cây phong mật để trị ho và dùng nhựa để
làm si–rô.
CAO LƯƠNG NGỌT
Sweet
sorghum–Sorgos
Great millet
Sorghum bicolor (1)
Gia đình: Poaceae
Cao lương ngọt, hoa và hạt
Cao lương ngọt gốc ở Phi Châu. Đó là
một nguồn lương thực như bắp, lúa mì. Cây cao lương ngọt chịu
nắng hạn rất tốt.
Gọi là cao lương ngọt vì hột của loài
thảo mộc này dùng để làm dextrose, si–rô.
Tên khoa học của cao lương ngọt
là Sorghum bicolor, gia đình Poaceae. Tên gọi thông thường là:
Cây cao lương ngọt cao từ 1–2.5m. Lá
dài và bén như lá bắp. Hoa kết thành chùm chứa từ 800–3,000 hột.
Hột cao lương ngọt nhỏ hơn hột lúa mì. Nó có: 10% protein, 3.4%
chất béo, Ca, Fe, sinh tố B, niacin tức sinh tố B3.
Hột cây cao
lương ngọt là thức ăn như bắp, gạo, lúa mì. Thân cây và hột được
dùng để cất dầu, làm si–rô (dextrose C6 H12 O6 rất cần cho người
bịnh tiểu đường nhưng thiếu đường trong máu <hypoglycemia>). 10
lít nước ép màu xanh của thân cây cao lương ngọt cho 1 lít si–rô.
Dưới triều nhà Ming (nhà Minh,
1368–1644) người Trung Hoa dùng hột cao lương ngọt để cất một
loại rượu trắng có mùi thơm dịu gọi là Baijiu (Bạch Tửu).
Dưới triều nhà Qing (Thanh, 1644–1911)
có rượu Maotai (Mao Đài) cất từ hột cao lương ngọt. Maotai (Mao
Đài) là tên thành phố sản xuất loại rượu cao lương này trước
tiên. Thành phố Maotai (Mao Đài) nằm trong tỉnh Guizhou (Quế
Châu).
Đảo
Taiwan (Đài Loan) có rượu Kinmen Kaoliang Jiu (Kinh Môn Cao Lương
Tửu) và Matsu Kaoliang Jiu (Mã Tổ Cao Lương Tửu)
(2).
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
(Bài viết
tổng hợp dựa vào Thế Giới Thảo Mộc Tự Điển do tác giả Phạm Đình
Lân biên soạn)
Chú thích:
(1)
Bicolor: Lưỡng sắc
(2)
Kinmen (Kim Môn) và Matsu (Mã Tổ) là hai đảo thuộc Taiwan nằm sát
lục địa Trung Hoa.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Danh sách những bài viết trong trang nhà GĐMĐVM/DMV
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 19,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang