Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản mạn về cuộc sống
Chủ đề: Cái Tôi
Tác giả: Nhà sư Huệ Quang (Ngô nhựt
Tân),
cựu SVSQ QLVNCH Khóa 4-71/An Lộc/SQTB-TĐ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Một độc giả đã gửi thư hỏi tôi, thứ nhất, “Tu tập
làm sao để hạ
ngã
và trở thành
bất nhị.” Câu thứ hai, chị hỏi “Những
nghịch cảnh xảy ra trong đời một người, theo đạo Phật được giải
thích là do nghiệp tạo ra từ quá khứ, vậy làm sao để hóa giải?
Nếu không hóa giải được, vậy cứ phải chấp nhận để trả quả báo?”
Chị tiếp, chị có một người bạn, lúc nào cũng có vấn đề sức khỏe,
luôn đau bệnh, trong cuộc sống hôn nhân thì bị chồng ngược đãi,
lừa đảo, chị phải làm sao để giúp đỡ người đàn bà thiếu may mắn
ấy.
Trước
tiên, tôi không phải là một nhà tâm lý học hay một chuyên gia cố
vấn hôn nhân. Vì thế, tôi thiếu kiến thức chuyên môn và cụ thể để
trả lời câu hỏi của chị. Tuy vậy, hơn 55 năm trời ngụp lặn trong
cuộc sống vừa thế tục vừa tâm linh, tôi cũng có ít nhiều kinh
nghiệm cá nhân để chia sẻ những điều chị hỏi. Chia sẻ của tôi có
hợp nhĩ với chị hay không lại là một chuyện khác. Tôi nhớ, thầy
tôi có dặn trước khi rời Miến Điện để trở lại Canada, rằng cuộc
đời là một trường học, vì thế chúng ta sẽ phải học hoài đến khi
nào chúng ta nhắm mắt lìa đời.
Tu tập làm sao để hạ ngã? Đây là một
câu hỏi rất hay. Tôi không nhớ rõ là ai, nhưng một nhà văn hay
một triết gia người Pháp đã nói rằng “Le moi est haïsable,” có
nghĩa là cái ngã thật là đáng ghét. Trong lịch sử của đạo Phật,
khi Thái tử Tất Đạt Đa vừa lọt lòng, theo truyền thuyết, ngài vừa
bước đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở ra một đóa sen, vừa một
tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ,
duy ngã độc tôn,” có nghĩa là trên trời và trong thiên hạ, chỉ có
ta là tôn quý. Nhiều người cho rằng thái tử cao ngạo quá, khi nói
rằng chỉ có thái tử mới là đấng đáng tôn quý. Tôi hiểu khác. Cái
hiểu của tôi không xuất phát từ suy luận hay từ kiến thức, học
thức nào cả. Ý nghĩa của câu nói đã đến khi tôi đang ngồi thiền
định, quán chiếu về cái ngã của chính mình. Các bạn hãy trở về
với chính mình sẽ thấy. Tất cả mọi sinh hoạt, mọi tiếp xúc với
tha nhân, với xã hội, đều không nhằm phục vụ cho cái bản ngã của
mình. Ngay cả hành động bố thí hay từ bi với tha nhân cũng đều
phục vụ cho cái bản ngã của mình. Mình sợ người thân của mình
chết, có phải mình thương họ không? Hay vì mình sợ khi họ chết
mình bị đau khổ, vì đặc tính của cái ngã, theo tâm lý học, là “a
pleasure seeking animal,” một con vật thích đi tìm lạc thú và
ghét khổ đau (Freud, Beyond the Pleasure Principle, Norton,
1989). Giai thoại thái tử Tất Đạt Đa bước đi bảy bước nhắc nhở
chúng ta, là khi có mặt trên thế gian này, bản ngã luôn khống chế
chúng ta, chúng ta sẽ một đời phục vụ cái ngã ấy, tôn quý cái bản
ngã ấy. Để tu tập được thành công, chúng ta cần hiểu về bản ngã
qua hai lăng kính, một của tâm lý học và một theo đạo Phật.
Theo tâm lý học, con người ý thức về
bản ngã của mình lúc còn rất bé. Không như những sinh vật khác,
ví dụ con mèo, khi đứng trước gương, nó không thể nhận diện được
chú mèo trong gương chính là nó, nên lúc thì nó quào cấu hình ảnh
của nó trong gương, hay đôi khi nó chạy ra phía sau tấm gương để
tìm hình ảnh con mèo nó vừa thấy trong gương. Loài chimpanzee,
một giống khỉ ở Phi châu chúng ta thường gọi là loài tinh tinh,
có thể nhận diện được chúng khi đứng trước gương. Con người tinh
vi hơn, ngoài việc nhận diện được bề ngoài của chính mình khi
đứng trước gương, con người còn nhận diện được bên trong của
chính mình nữa. Ví dụ, con người có thể đứng trước gương cười một
mình một cách đoan trang để thể hiện nét đoan trang trong lòng,
hay đóng vai bác sĩ đang khám bệnh nhân, để thể hiện lòng nhân từ
bên trong của chính mình (Cloninger, Personality, New York, 1966,
p. 302). Không phải “cái tôi” đã có sẵn khi đứa bé vừa mới chào
đời. Bản ngã của trẻ con phát triển rất sớm, khi đứa bé tiếp xúc
với những sinh vật xung quanh, người mẹ là một thí dụ (Mead,
1934, p. 436). Mặc dù biết sự hiện hữu của cái ngã trong mỗi con
người, tâm lý học vẫn khựng lại nơi đó chứ không đào sâu hơn được
“cái ngã” mà Sigmund Freud gọi là “the id and the ego.” Vì thế,
trong tâm lý học, có rất nhiều lý thuyết về “cái ngã” và một định
nghĩa thống nhất về cái ngã đến nay vẫn chưa thực sự có được. Lý
do khó khăn để có một định nghĩa chung cho “bản ngã” vì bản ngã
rõ ràng không phải là một khái niệm mang tính khoa học (nếu cho
rằng thí nghiệm là đặc tính của khoa học, và kết quả khi thí
nghiệm một yếu tố có tính khoa học phải mang lại kết quả giống
nhau, không thay đổi cho dù thí nghiệm được lập đi lập lại nhiều
lần; ví dụ khi đun sôi nước, không thành vấn đề lập lại bao nhiêu
lần, cứ nước sôi lên ùng ục, khi đo phải là 100º C).
Vì thế có rất nhiều lý thuyết về cái
ngã trong ngành tâm lý. Có thể tạm liệt kê những lý thuyết về
“bản ngã tâm linh” của William James, “bản ngã trong gương” của
Charles Cooley, “bản ngã lý tưởng và bản ngã thực” của Carl
Rogers, v.v. Trong khuôn khổ của bài viết này, tôi sẽ tạm dùng
hai định nghĩa về “cái tôi” dễ hiểu nhất.
Định nghĩa thứ nhất cho rằng “bản ngã
của một người chính là những thể hiện về tâm linh của cá nhân đó”
(Sedikides, 1992, p. 273).
Định nghĩa thứ hai mà tôi thấy dễ chấp
nhận hơn là “bản ngã là sự tổng hợp về những đặc tính thể chất và
tâm lý riêng của cá nhân đó” (Shaffer, Wood, Willoughby, 2002, p.
435).
Trong
lãnh vực tâm lý học, khi một bệnh nhân có vấn đề tâm lý và cần
bác sĩ giúp đỡ, vị bác sĩ này chỉ ngồi nghe bệnh nhân nói chuyện.
Nhiệm vụ của vị bác sĩ là đưa cho bệnh nhân chiếc chìa khóa, có
nghĩa là giúp bệnh nhân nói chuyện, thổ lộ những tư tưởng thầm
kín chất chứa trong vô thức. Các bác sĩ tâm lý tin rằng bệnh nhân
nói ra được càng nhiều càng tốt, vì khi thổ lộ được tâm tư thầm
kín, trong lòng bệnh nhân sẽ trút đi được những khổ đau đang hành
hạ họ, càng nói được, bệnh nhân càng cảm thấy nhẹ nhõm và cuối
cùng sẽ thoát được những khổ đau chất chứa từ quá khứ.
Sự thật không phải và không dễ dàng như
thế.
Tôi xin
kể một câu chuyện của chính tôi.
Hai chị em tôi ra đời tại rừng lá, một
chiến khu chống pháp, nơi bố mẹ tôi đã gặp nhau. Năm tôi một
tuổi, bố tôi tập kết ra Bắc. Ba mẹ con tôi trở về sống với bà
ngoại và dì tại Phan thiết. Dì tôi có chồng bị Việt Minh ám sát.
Bà sống vậy nuôi hai người con của bà. Mẹ tôi mang hai chị em tôi
về sống chung. Mẹ tôi yêu chồng đến độ quên con để hoạt động cho
Việt cộng mặc dù lúc ấy bà đang làm việc trong chính quyền tại
thị xã Phan thiết. Một ngày nọ, như mọi buổi chiều, tôi đang đứng
trước nhà ngóng trông mẹ về, bỗng thấy nhà nhộn nhịp với nhiều
người đến, đi. Bà ngoại tôi đi ra đi vào trông rất hốt hoảng và
to nhỏ gì đó với dì tôi. Đến chiều tối, chị tôi kề tai tôi nói
nhỏ “mẹ không về nữa đâu em, mẹ bị ở tù.” Tôi chẳng biết ở tù là
gì nhưng trong lòng lo lắng và buồn.
Tối
hôm ấy lần đầu tiên tôi ngủ một mình. Đó là năm tôi 6 tuổi. Những
ngày tháng theo sau, tôi sống trong cơ cực. Chị tôi nói mẹ bị
nhốt ở ty hiến binh. Mỗi khi đi học ngang qua dãy nhà của ty hiến
binh, nhìn trên cao có hàng rào kẽm gai bao bọc, tôi nghĩ mẹ đang
bị nhốt trong đó. Tôi ngước nhìn lên cao kêu lớn, “mẹ ơi, mẹ ơi,
chừng nào mẹ về.” Không bao giờ mẹ tôi trả lời vì lúc ấy bà đã bị
đem đi nhốt vào lao xá.
Những tháng năm thiếu bóng mẹ, tôi sống
trong cùng cực khổ đau. Dì tôi hành hạ tôi đến không bút mực nào
kể xiết. Mới 6 tuổi, bà đã treo tôi lên cây mãng cầu sau nhà như
một con heo sắp bị cắt tiết, rồi đánh tôi đến tét những cây roi
mây, vừa đánh bà vừa điên tiết la “con thằng việt cộng...” Thân
thể tôi rướm máu, hàng xóm chỉ biết đứng nhìn, không ai dám vào
can. Mỗi lần bà bảo chị tôi đi ra chợ mua mấy cây roi mây, chị
tôi buồn lắm vì biết em mình sắp bị đánh. Nhiều lần chị đi chậm
lại để mong em chậm bị đòn, và rồi chính chị đã bị người dì đánh
đến bầm tím thân thể vì đã để cho bà chờ roi ở nhà quá lâu.
Mỗi tháng tôi phải sống trong cầu tiêu
dơ bẩn gần đủ 30 ngày. Nhiều ngày tôi bị bà bỏ đói. Có ngày chị
tôi tìm đâu ra những viên kẹo ú, chị sang nhà hàng xóm, liệng
những viên kẹo ú qua những lỗ thông hơi cầu tiêu. Những viên kẹo
theo nhau rớt xuống lỗ cầu, vậy mà tôi vẫn vớt lên để ăn. Ngồi
viết lại những dòng chữ này, tôi vẫn còn nhớ hương vị ngọt ngào
của chững chiếc kẹo ú, một hương vị mà đến nay tôi vẫn chưa bao
giờ được nếm lại. Có những đêm khát quá, tôi thì thào kêu chị,
nhưng từ nhà cầu đến phòng ngủ hơi xa mà tôi chỉ dám thều thào
kêu nên chị không nghe, tôi đành phải múc nước dội cầu để uống.
Vài lần thấy nhốt tôi quá lâu, sẵn dịp đổ bánh căn đãi khách, bà
thả tôi ra khỏi cầu tiêu cho vào ăn. Tôi đang ăn ngon miệng vì
đói quá, bà bảo tôi ngưng lại, rồi đánh tôi một trận tả tơi, vừa
đánh vừa nguyền rủa “mày đúng là con thằng việt cộng, ăn như đồ
chết đói...” Bao nhiêu bánh căn tôi vừa nuốt chưa xuống đến dạ
dày đã theo tiếng khóc nấc ngẹn trào ra ngoài. Những ngày tiếp
theo tôi lại phải vào ngủ trong cầu tiêu.
Có những đêm trời đang mưa tầm tã, bên
ngoài lạnh lắm, đang ngủ, dì kêu tôi dậy. Bà bắt tôi phải hứng
nước đầy hai cái thùng để đổ đầy mấy cái lu nước uống. Đến tạnh
mưa bà mới cho đi ngủ. Vào giường, trong bóng đêm, chị tôi đắp
mền cho tôi. Chị nói nho nhỏ “ngủ đi em.” Những lúc ấy, tôi nhớ
mẹ da diết, mong có mẹ một bên để rúc vào lòng. Tôi thường xuyên
bỏ học. Sáng đi học hai chị em tôi đói lắm, dì chẳng bao giờ cho
chị em tôi ăn. Trên đường đến trường, tôi hay ghé ngang chợ Phan
Thiết, đó là lần đầu tiên tôi biết ăn cắp đường, những thẻ đường
tán vàng đậm. Chưa bao giờ tôi ăn hết một mình vì lúc nào cũng
nhớ đến chị tôi. Chiều đi học về, hai chị em trốn trong giường
ngủ, ăn chung miếng đường thẻ.
Bảy tuổi, mẹ tôi được tha về. Tôi bớt
bị bà dì đánh đập. Mẹ tôi phải lao đao bận kế sinh nhai. Bà mở
lớp dạy tư. Năm sau bà cho tôi vào chùa tu học. Những năm trong
chùa, tôi sống rất hạnh phúc vì được các thầy và các bạn đồng tu
thương yêu. Thời gian sống với bà dì khắc nghiệt tuy chỉ hai năm
nhưng đủ để lại trong ký ức tôi những vết hằn của tháng năm,
tưởng chừng như không bao giờ chữa khỏi. Từ khi vào chùa, tôi
phải tự lo lấy thân mình. Cuộc sống của tôi, vì tuổi thơ không
được êm ả, nên rất bấp bênh, không ổn định.
Mười bảy tuổi tôi bỏ tu viện vào Sài
Gòn tiếp tục học. Sau khi rớt tú tài đôi, tôi gia nhập quân đội,
thụ huấn tại trường bộ binh Thủ Đức và phục vụ tại đơn vị Liên
Đoàn 81 Biệt Cách. Miền Nam rơi vào tay cộng sản tôi bị đi cải
tạo 3 năm. Tháng 4 năm 1978, tôi cướp ghe vượt biên và tháng 12
cùng năm, được định cư tại Canada. Tôi phải kể dài dòng vì để bạn
đọc thấy rõ sự bất bình thường trong cuộc đời của tôi.
Năm 1979 tôi lấy vợ và có hai con. Tôi
cố gắng trở lại đi học nhưng không thành công vì học ngành có
liên quan đến toán thì tôi học không nổi, ngành liên quan đến
viết lách thì tiếng anh của tôi không đủ để học. Tuy vậy chỉ vài
cours về computer, và ngay thời điểm computer đang phát triển như
vũ bão, tôi may mắn gặp được một người bạn tốt bản xứ đã đưa tôi
vào làm việc trong lãnh vực này. Sự nghiệp của tôi phất nhờ vào
mồm miệng. Tôi được cử đi khắp nơi trên thế giới để làm việc. Tôi
được đưa về làm việc với chánh phủ Hà Nội hai năm từ 1997 đến
1999. Trong khi đi làm tôi trở lại lấy cours để học vì nhận thấy
mình sẽ không kéo dài được trong lãnh vực kỹ thuật. Năm 2002, tôi
hoàn tất cử nhân tâm lý. Năm 2014, tôi lấy được mảnh bằng cao học
ngành tôn giáo và chính trị. Từ 2016, tôi được học bổng để theo
học PhD ngành chính trị tại một đại học tại thủ đô Ottawa.
Tóm lại, trong tôi, có những yếu tố tâm
lý rất tiêu cực sau đây, lúc nhỏ bị hành hạ, tuổi thơ rất sóng
gió, thiếu tình thương của cha và ngay cả của mẹ, nghèo. Lưu lạc
xứ người và tự lập thân, rất thành công trong sự nghiệp và thành
công trên con đường học vấn, vì thế cái ngã rất lớn, rất tự cao
cho dù ngầm không nói ra. Tuy nhiên trong tôi, khi màn đêm buông
xuống, và khi đối diện với chính mình, tôi cảm thấy có những việc
không tên làm cho tôi ngấm ngầm khổ đau, buồn, cô đơn, lúc nào
cũng bất mãn. Và khi mình khổ thì chắc chắn mình sẽ không bao giờ
làm cho những người thân yêu của mình hạnh phúc được, đừng nói
chi đến những người trong xã hội.
Tôi biết điều này rất sớm và đi tìm
cách chữa trị cho mình cũng rất sớm. Như đã nói ở trên, tôi đã
gặp những nhà tâm lý trị liệu rất giỏi nhờ đang học trong ngành
tâm lý, nhưng kết quả chẳng khả quan gì lắm. Tôi vẫn buồn một
mình, vẫn khổ một mình, vẫn giận một cái gì đó, không tên. Và tôi
đã cương quyết đi tìm cho bằng được một phương pháp trị liệu cho
chính mình. Chính cái ngã đã làm cho tôi mất hạnh phúc, lúc thì
tôi mang mặc cảm tự ti vì bố mẹ bỏ rơi, vì nghèo, sống trong
thiếu thốn, bị hành hạ đánh đập không ai che chở; lúc thì tôi
mang mặc cảm tự tôn, vì chính mình đã vươn lên là sĩ quan trong
quân đội VNCH, học dốt từ nhỏ mà bây giờ vẫn có thể nhận một học
bổng rất lớn để theo học PhD. Nhưng rồi mặc cảm tự ti hay mặc cảm
tự tôn cũng chỉ là mặc cảm. Cổ tôi có đeo chiếc kiềng bằng vàng
hay chiếc vòng bằng bạc thì cổ vẫn nặng. Sống hạnh phúc là phải
sống không mặc cảm. Sống an lạc là phải sống không dính mắc gì
đến quá khứ, cho dù quá khứ buồn hay vui. Sống tự tại là phải
sống không bị khống chế bởi cái ngã, không bị ràng buộc bởi cái
gọi là “tôi,” “của tôi.”
Tìm hiểu những lời Phật dạy, tôi nhận
thấy những điều trên đều có thể thực hiện được, vượt thoát khổ
đau không phải là một giấc mơ hay một việc không tưởng. Tôi không
đi gặp bác sĩ tâm lý trị liệu nữa. Tôi thấy họ dậm chân tại chỗ
sau nhiều phen gặp gỡ, vì cứ mỗi lần gặp khoảng một tiếng đồng
hồ, họ cứ lặp lại hoài những gì tôi và họ đã trải qua những phiên
trước, cũng “anh cứ tiếp tục nói về chuyện tuổi thơ của anh đi,”
cũng “anh thấy bà dì ấy nếu còn sống có thể hành hạ anh nữa
không?”, v.v. Tôi tiên đoán được những điều họ sắp nói. Thì ra
chính họ cũng không biết phải làm gì hơn.
Tôi biết tôi phải làm gì. Tôi có căn
bản về đạo Phật mà tôi đã là một chú tiểu ngày xưa. Phật đã chỉ
một tay lên trời và một tay xuống đất để đưa ra một tuyên ngôn
“... duy ngã độc tôn.” Chính tôi phải cần đi tìm, không ai có thể
giúp được tôi ngoài chính tôi. Khi ưu tư về sống chết và làm sao
thoát được sinh tử, thái tử Tất Đạt Đa đã đi tìm con đường giải
thoát sinh tử. Ngài đã không tìm được từ bất cứ vị thầy nào có
thể trả lời cho ngài câu hỏi ấy. Không tìm được từ bên ngoài,
thái tử Tất Đạt Đa quay lại với chính mình, ngài đi tìm câu trả
lời từ bên trong chính mình. Khám phá được chân lý và không bị
ràng buộc bởi sanh tử, đức Phật đã đi rao truyền trong suốt 49
năm về con đường thoát khỏi khổ đau do chính ngài thể nghiệm. Con
đường ngài chỉ dạy không thể là con đường phức tạp, nó phải là
con đường đơn giản, thực tế, không mơ hồ như chúng ta thường nghe
từ những tông phái hay các vị thầy mà chúng ta gặp nhan nhản
trong cuộc sống thực tại. Tất cả chúng ta đều có phật tánh, và
phật tánh này chỉ thể hiện, phơi bày khi chúng ta thắng được sự
ngã mạn, thắng được cái bản ngã của chính mình (Moacanin, Jung’s
Psychology and Tibetan Buddhism, 1986, p. 20, 26). Khi khống chế
được bản ngã thì Phật tánh thể hiện. Phật tánh chính là Niết bàn.
Niết bàn không phải là một nơi chốn. Niết bàn, cực lạc, tịnh độ
là trạng thái của tâm thức, rời bản thân, rời thế giới này để đi
tìm cực lạc hay tịnh độ sẽ không bao giờ tìm thấy được. Phải quay
về bên trong thân mình, quay về nhìn vào tâm thức mình. Tịnh độ,
niết bàn, là trạng thái của tâm thức, sẽ thể hiện khi phiền não
bị khống chế.
Đạo Phật nói gì về cái ngã? Từ căn bản của lý thuyết duyên khởi –
không có một nguyên nhân duy nhất cho sự hiện hữu của sự việc; ví
dụ, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không.
Mình có mặt ở thế gian này vì cha mẹ mình đã có mặt ở thế gian
này. Ngoài cha mẹ mình, còn hàng trăm yếu tố khác nữa giúp cho sự
có mặt của mình. Miền Nam mất vì sự hiện hữu của Việt cộng, vì
hàng trăm hàng vạn nguyên nhân khác có mặt, không thể có một
nguyên nhân nào duy nhất cả. Đó là lý thuyết duyên khởi trong đạo
Phật. Cái ngã cũng thế. Theo A tỳ Đạt Ma, một hệ thống tâm lý học
đạo Phật, ngã là sự biểu hiện của năm yếu tố, sắc,
thọ, tưởng, hành và thức.
Sắc là vật
chất, thân thể chúng ta, gan, phổi, ruột, bao tử, v.v. của chúng
ta. Khi tôi hỏi một học sinh người Tây phương cái ngã là gì, anh
ta trả lời, là “identity” của mình. Tuy anh trả lời chưa đủ hẳn,
nhưng không phải là sai. Ngã cũng là đặc tính, hay nét đặc thù
của một người. Khi anh nhìn tôi, anh biết ngay tôi là Huệ Quang
vì những nét đặc thù của tôi. Cũng có hàng trăm Huệ Quang khác,
nhưng khi gặp một Huệ Quang nào khác thì anh biết chắc không phải
là Huệ Quang đang sinh sống tại Ottawa, vì Huệ Quang ở Ottawa thì
tròn, trắng, cao, mũi tẹt, v.v.
Thọ, yếu tố
thứ hai có nghĩa là cảm giác. Ngày xưa tôi hay lầm lẫn giữa thọ
là “nhận” và thọ là cảm giác cho đến khi tôi bước vào lãnh vực
thiền định. Cảm giác tôi khác với cảm giác của bạn. Khi nhìn một
con rắn, bạn có một cảm giác bình thường trong khi tôi thì rởn
tóc gáy. Khi ngồi trên phi cơ nhìn xuống đất, vì sợ chiều cao,
xương sống của bạn lạnh buốt, trong khi tôi có cảm giác thích thú
như đang bay trên mây. Mỗi chúng ta khi tiếp xúc với vật bên
ngoài qua năm giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức,
chúng ta có được những cảm giác khác nhau và chúng ta cất lại
những cảm giác ấy trong vô thức của chúng ta. Mỗi người thu nhận
cảm giác khác nhau, nhưng nói chung có ba loại cảm giác, thích
thú, khổ, không vui cũng không khổ (trung tính). Khi đói chúng ta
có cảm giác khổ. Mẹ cho chúng ta cắn một miếng bánh, chúng ta có
cảm giác thích thú. No nê xong chúng ta đứng ở cửa sổ nhìn ra
ngoài sân vườn, nhìn lá rơi, chúng ta không thấy vui mà cũng
chẳng thấy khổ, một cảm giác trung tính.
Tưởng, yếu tố
thứ ba, là sự nhận thức. Chính sự nhận thức này khiến chúng ta có
cảm giác khổ hay sướng hay trung tính. Con tôi vì sanh bên này
nên nhìn một người da đen rất bình thường, không khổ cũng không
sướng. Nhưng tôi nhìn một người đa đen lại khác, vì yếu tố văn
hóa, kinh nghiệm bản thân, v.v. tôi nhận thức người da đen này có
thể làm nguy hại đến tôi nên tôi vội tránh sang đường khác. Cảm
giác tôi khi thấy người da đen là một cảm giác khổ, khó chịu.
Hành là những
hiện tượng về tâm lý, ví dụ, ghét, thương, hờn, giận, ghen, tham
lam, kiêu ngạo.... Hiện tượng tâm lý luôn thay đổi, lúc có lúc
không, chợt đến chợt đi.
Thức là sự
biết, nhận thức sự việc này, sự việc kia, biết một cách trực
giác. Thức là nền tảng cho tưởng (đã nói ở trên) nhận xét, phân
biệt.
Năm yếu
tố hợp lại để cái ngã thể hiện luôn thay đổi. Năm yếu tố này --
hình thù/màu sắc, cảm giác, nhận thức, hiện tượng tâm lý, ý thức
– không phải là những hằng số. Chúng là năm biến số. Vì thế hễ
một yếu tố thay đổi thì làm xáo trộn những yếu tố khác. Ví dụ,
trước khi được thay gan, vì tôi bị ung thư gan, tôi xem trời bằng
vung, tưởng rằng nếu có ung thư thì chắc là ai chứ không phải
mình. Rồi lại nghe nói người tuổi tỵ sẽ sống lâu. Nhận thức như
thế nên tâm lý rất cao ngạo. Bản ngã lúc ấy kiêu căng, tự mãn.
Rồi sau khi thay gan, thân xác có một bộ phận không phải của
mình, nhận thức thay đổi vì hiểu rằng chẳng gì có thể tồn tại lâu
được, lá gan có thể bị cơ thể từ chối bất cứ lúc nào, tâm lý ngạo
mạn giảm đi thay vào đó là sự hiền hòa, v.v. Cái ngã theo đó cũng
thay đổi, con người trở nên nhẹ nhàng hơn, khiêm nhường hơn (có
thể là sợ chết nên đổi thành hiền để lỡ chết người ta thương). Do
đó cái ngã không thể tồn tại một cách độc lập được, nó thay đổi
dựa vào những yếu tố làm nên nó. Nếu độc giả hay đi chùa, đọc
nhiều kinh kệ, và có biết về kinh Bát nhã, sẽ nhớ đến câu “Quán
Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã... thời chiếu kiến ngũ uẩn giai
không độ nhất thiết khổ ách.” Vị Bồ Tát này khi hiểu rằng năm yếu
tố đều không có thực thể, luôn thay đổi, tức thì không còn đau
khổ nữa. Nhưng phải nhớ rằng vị này “hành thâm” có nghĩa là thực
hành thâm sâu, chứ không phải chỉ đọc cho nhiều mà thoát được khổ
ách.
Quay về câu hỏi của chị, nếu chị muốn “làm sao để hạ
ngã” chị không thể làm gì khác hơn được là phải ngồi
xuống thiền định; và tùy theo sự kiên tâm, kiên trì, nhẫn nại mà
chị có thể làm nhỏ đi cái ngã của mình. Cái ngã giống như một
tảng băng đã qua nhiều tháng năm bị đông cứng lại, khi thiền định
và “hành thâm” tức là chị đang dùng mặt trời trí tuệ để chiếu vào
nó. Không thể một ngày, hai ngày, một tháng, hai tháng, đôi khi
phải cả năm này năm nọ, tùy theo tảng băng lớn hay nhỏ, cuối cùng
mặt trời trí tuệ cũng sẽ làm cho nó tan ra. Chị đừng bao giờ tin
một vị thầy nào đó nói rằng “cứ đến chùa, tụng kinh thì sẽ diệt
được ngã.” Bản ngã chỉ có thể bớt dần với công lực của chính chị,
phải “hành thâm” chứ không phải “tụng.”
Với người bạn của
chị, chị hãy đóng vai trò là người ngồi nghe chứ không thể làm gì
hơn được. Nghe là một nghệ thuật. Chị có thể giúp bằng cách hỏi
những câu hỏi gọi là “open ended questions” cho chị ấy nói. Đừng
hỏi những câu hỏi mà đối tượng có thể trả lời “có” hoặc “không”
rồi chấm dứt. Qua kinh nghiệm của tôi, có lúc mình chẳng cần phải
nói gì cả, sự im lặng có khi đóng một vai trò rất nặng ký. Trong
im lặng và với sự có mặt của mình, nhiều khi đối tượng tự tìm
được cho chính mình những câu trả lời.
Riêng câu hỏi “Những
nghịch cảnh xảy ra trong đời một người, theo đạo Phật được giải
thích là do nghiệp tạo ra từ quá khứ, vậy làm sao để hóa giải?
Nếu không hóa giải được, vậy cứ phải chấp nhận để trả quả báo?”
Tôi xin trả lời như sau. Nhân quả không ai có thể tránh được, đó
là một chân lý của vũ trụ. Tuy nhiên chị nên nhớ, đức Phật giác
ngộ đâu có nghĩa là ngài thoát được sanh tử. Ngài vẫn bệnh, vẫn
đau lưng đến độ đi không nổi, ngài vẫn chết như chúng ta. Nhưng
ngài tự tại và không có sự sợ hãi như chúng ta trước cái chết hay
trước sự bệnh chết của các đệ tử. Người thực tập theo đạo Phật
khi đối diện với khổ đau, nhìn khổ đau là vô thường, đến rồi đi,
không buốn khổ, nhờ thực tập được “bát chánh đạo’’, đó sự chánh
kiến, nhìn sự việc như nó đang là chứ không phải nhìn sự việc như
chúng ta muốn nó đang là. Bởi vì nhìn sự việc và muốn nó theo ý
chúng ta, chúng ta sẽ khổ.
Chúng ta đều có khả năng sống
tự tại nếu chúng ta biết và chịu ngồi xuống thực tập. Con đường
để sống vô ngã là thấy được thực chất của bản ngã không có thực
thể. Muốn thế, chúng ta phải ngồi xuống thể “hành thâm” và con
đường để hành thâm đã được đức Phật dạy rất rõ ràng, không có gì
để mơ hồ cả trong kinh “Tứ niệm xứ.” Hôm nay, quá khứ buồn đau
của tuổi thơ không còn khống chế được tôi nữa. Tôi chia sẻ với
chị bằng chính kinh nghiệm của bản thân tôi. Tôi an lạc từng giây
phút. Tôi thấy rõ bản ngã mình thay đổi từng giây phút, rất là vô
thường. Vô ngã chính là Niết bàn. Tất cả nằm trong tầm tay của
chúng ta. Đừng đi tìm đâu xa. Đừng cố đi đào xới hay vùi đầu vào
tam tạng kinh điển. Hãy thực tập “bát chánh đạo” mà một
con đường đáng phải chú ý nhất trong đó là “chánh tinh tấn,”
con đường mà chính đức Phật cũng không thể cho chúng ta được..
Tôi kính chúc độc giả thân tâm an lạc.
Huệ Quang (Ngô nhựt Tân)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những bài Liên hệ
Ngô Nhựt Tân: Hai hình ảnh tương phản trong một cuộc đời: Phần 1 và Phần 2
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đức Quan Thế Âm. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet Email by Nhà sư Huệ Quang chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, April 3, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang